1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Thượng Đế thi?? cươ??i - Nguyê?fn Kha??i

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi duong_chieu_la_rung, 19/09/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Thượng Đế thi? cươ?i - Nguyêfn Kha?i

    THƯỢNG ĐẾ THI? CƯƠ?I
    Nguyễn Khải

    tự truyện



    Con người suy nghĩ còn Thượng đế thì cười (Ngạn ngữ Do Thái, theo lời dẫn của Milan Kundera trong Diễn văn Zérusalem - Nguyên Ngọc dịch)​



    1.

    Hắn không thể tin được đã sang tuổi bảy mươi lại phải đối mặt Với những câu hỏi hết sức vô lý, buồn cười, chỉ có thể hét lên vì giận dữ chứ không thể trả lời. Tại sao hắn phải trả lời, người hỏi đã không có cái quyền được hỏi thì việc gì hắn phải trả lời. Nhưng hắn vẫn không thể không trả lời vì người hỏi là vợ hắn, là người bạn đời từ năm hắn mới ngoài hai chục tuổi, đã ăn ở với nhau gần hết một đời người, đã có con chết con sống, con sống đứa lớn đã ngoài bốn chục tuổi, đứa nhỏ đã ba mươi tuổi, lớn hơn năm hắn làm bạn với mẹ nó những ba tuổi. Năm mới về tạp chí hắn mới hăm nhăm tuổi, anh Thanh Tịnh khoảng ngoài bốn mươi, anh Văn Phác, chủ nhiệm tạp chí cũng mới ba mươi, anh Chính Hữu trẻ hơn một tuổi mới hai mươi chín. Nếu thằng con đầu của hắn còn sống thì nó đã bốn mươi tư tuổi. Nói thế, tức là vợ chồng hắn đã ăn ở với nhau lâu lắm, cùng sống hết một thời, gần hết một kiếp lại chưa đủ để hiểu nhau ư? Chả lẽ từng ấy năm tháng sống bên nhau mà chưa thể là một sao? Hắn và vợ còn là một cặp vợ chồng may mắn, chưa từng phải xa nhau lâu, ngay trong những năm có chiến tranh hắn vẫn đi đi về về, chưa hề ở một chiến trường nào dài quá hai tháng. Còn thời đó nhiều cặp vợ chồng phải xa nhau năm, bảy năm, cả chục năm cũng là chuyện thường. Có một sĩ quan của quân chủng hải quân, từ năm 1960 đã nhận nhiệm vụ chuyển vũ khí vào Nam bằng đường biển trên những con tầu không số, đi về vài chuyến rồi mất tích. Ðã có giấy báo tử, vợ đã đi lấy chồng khác, đã có một con với người chồng mới thì người chồng cũ đột ngột hiện ra ở khuôn cửa căn hộ tập thể, tóc bạc, da nhăn, chân tay lòng khòng giống hệt ông bố chồng lúc con trai vào chiến trường. Mười lăm năm đã trôi qua, một đời người đã trôi qua. Với người chồng cũ, người vợ cùng sống mới có dăm năm, còn với người chồng mới họ đã sống với nhau gần mười năm. Vậy mà người đàn ông đến sau sẵn sàng từ bỏ hạnh phúc đang có, tự nguyện ra đi để người ở chiến trường về được bù đắp mọi mất mát. Cặp vợ chồng tái hồi ấy đã sống rất yên ấm bên nhau cho đến tận bây giờ. Cái đạo làm người của một thời cũng đẹp nhỉ, rất đẹp. Còn vợ chồng hắn suốt bốn mươi lăm năm chưa một lần ăn tết lẻ loi, năm ăn tết ở Hà Nội, năm ăn tết ở nơi sơ tán, trong chiến tranh mà lúc nào cũng cặp kè bên nhau nhìn bà con trong xóm cũng ngượng. Ðã vui lẻ là không thể vui hoàn toàn, vẫn cứ phải lén lút thế nào, chả lẽ giữa cảnh chia ly của nhiều nhà lại trưng ra cái cảnh đoàn tụ, cứ như những kẻ đã tách khỏi cộng đồng. Vậy mà tới tuổi già, cả vợ lẫn chồng đã biến hoá thành hai cái túi xương thịt dăn deo, dúm dó, người vợ còn hỏi chồng: "Anh có còn yêu tôi không? Anh có định ruồng bỏ tôi không?" Câu hỏi thì vô lý và buồn cười nhưng người hỏi thì đau đớn, nghiêm trang, mắt nhìn tuyệt vọng như kẻ vừa bị tuyên án tử hình. Lần đầu hắn nghe câu hỏi ấy liền trả lời nửa đùa nửa thật: "Bà nghĩ tôi với bà còn ở tuổi đôi mươi à? Bà đã lẫn rồi à?" - "Anh đừng nói thế, tôi chưa lẫn, tôi hỏi thật đấy". Mặt hắn đã cứng lại: "Sao lúc trẻ không hỏi, nay đã sắp xuống lỗ mới hỏi. Tôi có chung thuỷ với bà hay không thì bà cũng biết, gần nửa thế kỷ sống với nhau lại còn chưa đủ để biết sao?" Người vợ vẫn nhìn hắn bằng lòng mắt đã đục bạc, cặp môi nhăn nhúm tím lợt run khe khẽ: "Thuở trẻ anh không thế, về già đốc chứng nên mới thế, tôi không nói vu cho anh đâu". Chồng bảy chục, vợ sáu mươi lăm, thời trẻ sống với nhau chả ai phải nghi ngờ lòng chung thuỷ của ai, bây giờ sắp chết lại giở trò ghen tuông bóng gió! Cứ như một chuyện hài, một trò hề, không dè lại có ngày là chuyện đau đầu của chính hắn! Hắn vốn thích cười, thích nói đùa, thích thầm thì vào tai bạn bè nhiều nhận xét ngộ nghĩnh về những hành vi buồn cười, những cảnh ngộ dễ bật cười của người này người kia, cũng là những cái cười hiền lành, thư giãn chứ không có ác ý, nếu đương sự có nghe được cũng đành cười rồi bỏ qua. Nhưng cái thằng hay gây cười rồi cũng có lúc trở thành trò cười của thiên hạ, bạn bè đã đe thế, nhưng hắn vẫn cười vì tự nghĩ mình là người biết cách lui tới đời nào chịu làm bung xung để ngươì khác có dịp chọc cười. Mà hoá ra đã từng là một nhân vật gây cười, khi diễn trò thì không tự biết, năm tháng qua đi nghĩ lại mới thấy tức cười. Vậy mà bạn bè lại không nỡ cười, chỉ trách nhẹ, thì ra các vị ấy còn thương hắn thật. Ấy là hai lần xuất chính của một thằng nhà văn vốn được khen là không hám danh. Cả hai lần hắn đều thất bại, mặt mũi lem luốc vì từ chỗ quyền lực chui ra làm sao còn giữ được gương mặt sạch. Người khác bôi lem mặt mình, tự mình cũng vẽ bậy vẽ bạ lên mặt mình, như thằng hề, lại còn nghĩ không ai biết mình đã là hề nên mới dám lên mặt thuyết lý về tâm hồn, về đạo đức, cả về lý tưởng để có được những tác phẩm văn chương để đời! Nó buồn cười là ở chỗ ấy. Nhưng cái buồn cười ở chốn ba quân, nói gì thì nói, mình chỉ là một vai diễn cùng với nhiều vai diễn khác, dẫu là buồn cười thì vẫn có nhiều tiếng vỗ tay, có cả tiếng la hét nên có cái say, cái xuất thần khoảnh khắc của vai diễn, nên mới nói được nhiều câu rất tâm huyết, rất chân thành, nếu ngồi vài người mà thốt lên những lời lẽ đó thì xấu hổ chết được. Ðó là cái buồn cười không tự biết, vì tự mình cũng chưa lần nào dám nhìn thẳng vào cái nghịch lý ấy để thấy hết được tính hài hước của nó. Có lẽ vì hắn là người đã từng làm trò cười trong vai diễn hào hứng của mình, tự thấy mình là người rất quan trọng nên vui lắm, nói nhiều hơn, cười nhiều hơn, da thịt như nở ra vì sự mãn nguyện nên không chỉ đóng vai một lần, còn tiếp tục tình nguyện đóng vai những hai lần, lần sau còn ê chề hơn lần trước, tất nhiên lúc hết vai cũng hơi buồn, cũng hơi xấu hổ, mà nói cho cùng cũng chả có gì đáng xấu hổ, có phải chỉ có một mình hắn tự ra sân khấu, tự múa may mà bảo phải xấu hổ. Riêng lần này thì ngay từ lúc bắt đầu đã thấy nực cười rồi, vì cái trái nghịch, cái vô lý đã được bày ra một cách trơ trẽn, chả có một cái nhân danh đẹp đẽ nào che đậy cả. Chả lẽ nhân danh cái tình yêu vĩnh cửu, già rồi, sắp chết rồi vẫn không trốn khỏi những trói buộc của mình yêu. ở người già hắn chỉ chấp nhận những mối tình ân nghĩa, sự hàn nối, sự bù đắp những cơ hội bị trượt đi thời họ còn rất trẻ. Như mối tình bị trượt đi của bà chị hắn với ông anh rể muộn mằn. Có cái gì rất lặng lẽ, rất ngậm ngùi làm nên cái ý vị riêng trong chút hạnh phúc vớt vát lúc cuối đời. Vợ hắn vừa mếu máo vừa nói: "Lúc nào tôi cũng yêu anh, lúc nào tôi cũng sợ mất anh!" Giọng nói đã thiểu não, cái nhìn càng thiểu não, là cái nhìn tuyệt vọng của một người đã gần mất cả chỗ bám víu cuối cùng. Nhưng sao lại có thể nghĩ được thế nhỉ? Tuổi ba mươi có thể lo sợ sẽ mất hết nếu bị chồng ruồng bỏ. Còn ở tuổi bảy mươi người chồng đã gần như vô nghĩa nếu như họ muốn ra đi. Vì ở tuổi già người đàn bà chỉ cần biết có con với cháu thôi. Mà cái thằng đàn ông là hắn cũng chỉ tha thiết có con với cháu. Nếu như con trai hắn lại nói: "Con rất yêu bố, con rất sợ bị mất bố", thì hắn phải xúc động cả nhiều ngày sau. Vì con cái với tuổi già là tất cả, nó bỏ mình tức là cả cuộc đời của mình đã rời bỏ mình. Ở nó mình đã nuôi trồng chăm bón bằng tất cả máu huyết của mình, tất cả hãnh diện và hy vọng một đời, chúng nó quay lưng lại thì mình chỉ còn là cái túi rỗng rách chứ còn gì nữa. Cũng như tình yêu với tuổi trẻ là tất cả. Tuổi trẻ có thể chết vì sự tan vỡ của một cuộc tình. Ấy là nói cái thời sự lãng mạn còn chi phối toàn xã hội. Còn ở thời này tất cả đã là sự tính toán rất tỉnh táo, thì mất một mối tình chàng trai hay cô gái chỉ buồn nhiều lắm khoảng một tháng, có bao nhiêu trò chơi rất công nghiệp sẽ bù đắp nhanh chóng khoảng trống ấy. Tiếng kêu rất não nuột của người vợ chỉ làm hắn kinh ngạc và thương hại. Nghĩ lại một chút còn hơi buồn cười. Cái buồn cười bao giờ cũng nảy sinh từ sự trái nghịch. Người đã già lại thốt ra những lời yêu đương của bọn trẻ là dễ buồn cười vì nó không thuận tai. Người đã già lại cố có những biểu hiện của tuổi thanh niên, bước đi nhảy nhót, mắt mũi đong đưa, nói năng ỏn ẻn lại càng dễ gây cười vì nó vừa nghịch tai vừa nghịch mắt. Trong cái trò chơi ghen tuông lạc điệu nếu một người bật cười phảy tay đứng lên thì trò chơi lập tức chấm dứt. Mọi màn hài kịch sẽ sớm chấm dứt nếu một người trong cuộc chợt nhận ra cái buồn cười của thân phận phảy tay bước ra. Nhưng hắn đã không bật cười, không phảy tay đứng lên mà lại tự trói mình bằng những lời thanh minh dài dòng, càng nói càng mất bình tĩnh, càng giống một người có tội thật đang cố gắng tự biện hộ. Và tấn hài kịch gia đình không những không thể chấm dứt ngay mà còn kéo dài tới hai năm sau, tới tận bây giờ.

    2.

    Người bảy mươi tuổi lại phải đối mặt với một nghịch cảnh, thoạt nghĩ là chuyện buồn cười, chuyện trẻ con, muốn chấm dứt lúc nào cũng được, không dè cứ phải dấn sâu vào mãi, mỗi ngày một trầm trọng thêm, mỗi ngày càng tự làm mình hao mòn đi, tự đánh mất mình đi, và có lúc đã nghĩ chỉ có cái chết mới tự giải thoát được. Một đời người lại được kết thúc bằng cách ấy thì buồn cười lắm, oan uổng lắm. Với hắn vẫn tự xem là người biết lui tới, luôn luôn tìm được lối thoát trong mọi thế kẹt thì cái tình huống hiện tại còn là một đòn trừng phạt rất cay nghiệt, rất đáng đời, một tiếng cười dài trong những trò chơi bất tận của thượng đế. Bởi vì hắn là một thằng đàn ông rất lãnh đạm, rất nhạt nhẽo trong địa hạt tình yêu những năm còn trẻ thì lại bị vu là có ngoại tình lúc đã về già; là người thích lý lẽ, lý lẽ trong văn chương, lý lẽ trong ứng xử thì lại va đầu vào sự câm lặng và điếc đặc trước mọi lý lẽ; là người thích sống bằng sự tỉnh táo thì lại bị bọc chặt bởi sự phi lý khiến hắn dần dần cũng trỏ nên ngu muội. Như người bị nhấc khỏi môi trường sống quen thuộc quăng vào một môi trường sống rất khác lạ, trong đó hắn bị tước đoạt mọi kinh nghiệm, mọi thói quen, mọi phán đoán, kể cả cái lợi khí vẫn giúp hắn vượt qua mọi trở ngại là ngôn ngữ cũng hoá ra bất lực. Tức là hắn đã rơi vào một hoàn cảnh mà tất cả đều đối nghịch với hắn, đều trở thành khắc tính, thậm chí một nửa của hắn cũng thù ghét với cái nửa còn lại. Cứ như đang bị đuổi bắt trong một giấc mơ mà kẻ đuổi bắt mình không rõ hình thù là người hay là vật, là người sơ hay kẻ thân, là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ. Chỉ là một cái khối luôn thay đổi hình dạng dồn đuổi mình, và hắn do bản năng tự vệ cứ thế chạy, cũng chả hiểu sao lại phải chạy nhưng nếu không chạy thì hắn sẽ bị tan biến trong nó, thành chính nó, trở thành một phần tử của cái khối khủng khiếp ấy. Nhưng dẫu sao thì hắn vẫn cứ chạy được, dưới mặt đất cùng đường thì hắn vọt bay lên, bao giờ cũng bay cao hơn, bay xa hơn cái khối sát nhân một quãng. Trong nhiều giấc mơ dài ngắn từ trẻ đến già hắn hay bị vây bủa trong những tình huống bị mất danh dự đến tột cùng. Chẳng hạn như ăn nằm với một người đàn bà xa lạ và bị bắt quả tang. Hoặc lấy cắp tiền và cũng bị bắt quả tang. Trong đời một người đàn ông hắn chưa từng ân ái với một người đàn bà nào ngoài vợ hắn. Nhưng phản bội vợ trong tưởng tượng, trong thèm muốn thì luôn luôn có, gặp một người đàn bà đẹp lớn tuổi hơn hoặc nhỏ tuổi hơn là hắn lập tức nghĩ ngay tới những mối quan hệ bất chính dẫu biết chắc rằng sẽ không bao giờ có thể có. Những ẩn ức của đời thường đã tìm được lối thoát bằng những giấc mơ chăng? Nhưng cả đời hắn chỉ phạm tội ăn cắp có một lần, lấy một cuốn truyện tại nhà thầy giáo năm còn học tiểu học. Còn khi đã trưởng thành hắn chưa từng lấy cắp công của ai, lấy cắp danh của ai, lấy cắp tiền của ai. Riêng trong nghề văn, nói cho thật, cũng có lấy cắp một cách nghĩ, một cách nhìn, một cách viết không chỉ của một vài vị tiền bối mà còn của mấy bạn văn mới bước vào nghề. Lấy cắp của người khác chưa từng là một ám ảnh trong hắn tại sao nó lại biến hoá vào những giấc mơ của hắn. Chắc là cái ám ảnh phạm tội thời còn thơ ấu. Những người gây nên nỗi ám ảnh dai dẳng này lại là bố hắn, mẹ già của hắn, các chị hắn và ông anh rể của hắn. Một đời người chưa lúc nào hắn quên được toà án gia đình ngồi quây quanh cái bàn ăn trong ngôi nhà cổ của phố Hàng Nâu, Nam Ðịnh, và cái giọng lên án lạnh lùng của ông bố: "Tại sao mày lại lấy tiền của các chị mày..." Và bà mẹ già nói nhẻ nhót trong cái nhếch mép như hơi cười: "Con thiếu tiền sao không nói với mợ? Hay là đẻ con cần tiền?" Những lời nói lạnh buốt ấy khiến hắn, một thằng trẻ con mới lớn, vỡ ra thành những mảnh băng nhỏ, và cái nhúm băng nát vụn ấy ngay lập tức đã tan thành nước. Trong mấy chục giây hay lâu hơn hắn không rõ, hắn đã mất biến trên cõi thế gian này, đã chưa từng tồn tại, cho tới lúc bà gắt to với các cô con gái: "Có làm gì thì làm đi! Từ nay có tiền thì phải giữ!" Vì từ nay trong gia đình đã xuất hiện một thằng ăn cắp! Hắn bàng hoàng mất mấy ngày nhưng rồi hắn cũng vượt qua được, vì hắn đã nhận ra cái tội của hắn không phải tội ăn cắp mà là cái tội khó nói hơn, cái tội là con thêm con thừa, đứa con không mong đợi của một ông bố vì chót mê say thêm một người đàn bà mà có đứa con thêm này. Ðó là lầm lỗi của người lớn, hắn chả có tội gì trong cái lỗi của họ. Nửa năm sau hắn lại bị vu là thằng ăn cắp ở nhà ông anh rể. Anh là ông chủ của một cụm cửa hàng bách hoá ở một đường phố lớn của Hải Phòng. Anh kéo hắn vào căn phòng làm việc của anh vào một buổi sáng, nói thẳng với hắn là hắn đã mở cửa dắt người quen vào lấy đi một cúp-pông len ở quầy bán len dạ. Cũng vẫn cái lý lẽ, ở nhà này trước đây chưa hề mất mất bất cứ cái gì, từ ngày hắn đến ở mới... Rồi anh giúi vào túi áo hắn một tờ bạc một trăm, tiền Ðông Dương, bảo hắn về Hà Nội ở với mẹ chữa cho khỏi cái bệnh lở rồi anh chị sẽ gọi là ra Phòng. Trên chuyến tàu trở lại Hà Nội hắn chả buồn một tí nào, chả xấu hổ một tí nào, vì hắn tự biết cái tội của hắn không thuộc về hắn, chỉ là mưu mô của những người lớn tìm cớ đuổi hắn đi để họ khỏi gai mắt, mà mẹ hắn cũng chả có cớ gì để trách oán họ cả. Nó hư thế thì anh chị nào dám giúp, chứ không phải không muốn giúp.
  2. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Nỗi kinh hoàng bị vỡ ra, bị tan ra thành những mảnh băng nhỏ trong những giây đầu của một người lương thiện bỗng dưng bị vu là phạm tội mãi mãi hằn sâu trong tiềm thức của hắn, mãi mãi hắn hãi sợ mọi yếu tố có thể cấu thành tội phạm. Hắn sợ đã vô tình đắc tội với Nhà nước, với Ðảng, với tổ chức, với cả bạn bè. Nhưng với vợ con thì không, vợ con là của riêng hắn, sống cho hắn, vì hắn, và hắn cũng đã tự nguyện hy sinh một đời mình cho họ. Có đúng thật thế không? Hình như không hoàn toàn là thế. Vợ hắn đã nói trong một lần giận dữ (giận dữ vì hắn cứ khăng khăng nói rằng hắn không hề có ngoại tình, hắn chỉ biết có vợ với con, hắn phản đối mọi sự vu khống!): "Nếu anh ruồng bỏ tôi để sống với một người đàn bà khác lúc cuối đời thì tôi sẽ viết thư cho tổ chức Ðảng yêu cầu khai trừ anh ra khỏi Ðảng, tôi sẽ viết thư gửi các tờ báo lớn tố cáo cái bộ mặt đạo đức giả của anh cho bạn đọc cả nước biết anh là một thằng chồng phản bội, một ông bố khốn nạn, một người đáng khinh bỉ, không xứng đáng cầm bút". Thì ra vợ hắn vẫn còn một chỗ dựa khác vững chắc hơn nếu bà ấy muốn loại bỏ hắn, đó là tổ chức Ðảng, là dư luận bạn đọc qua báo chí. Bà vẫn còn đủ sức mạnh để kết tội hắn, dẫu bà chẳng có chứng cớ gì để xác minh là hắn đã phạm tội. Vợ hắn nói: "Tôi cần gì phải có chứng cớ, tự tôi là một chứng cớ. Ai chả biết năm còn trẻ tôi rất khoẻ mạnh rất xinh đẹp, sau mấy chục năm hầu chồng hầu con tôi mới ra nông nỗi này, không còn là người nữa, là một con vật xấu xí, bệnh tật, bẩn thỉu như nắm giẻ. Nên anh mới phụ tôi, mới chê tôi..." Hắn vẫn còn khoẻ mạnh, vẫn là một ông già đẹp lão ngồi cạnh một bà vợ còm cõi, hai tay run rẩy, tóc bạc quá nửa, mắt luôn nhìn xuống, quả thật bố con hắn hết sức có tội, chả cần chứng cớ gì thêm, chỉ thế thôi cũng đủ là người có tội, dẫu là một cái tội chưa bao giờ hắn có, tội ngoại tình. Nhưng cũng chả nên trách vợ hắn, vì muốn tự cứu bà phải tách khỏi hắn ra, để tự do lên án cái nửa kia vốn vẫn là của riêng bà. Còn hắn thì sao? Ðã có nhiều trường hợp tự hắn cũng phải nói ngược lại niềm tin của mình, tự kết tội mình, dẫu hắn chả có tội gì cả để cứu lấy cái nghề mà hắn không thể rời bỏ. Nếu hắn không có tội vậy tổ chức nói sai ư? Dư luận xã hội nói sai ư? Có thể trước đó cái tội của hắn còn mơ hồ, đe nẹt phòng ngừa trước chứ chưa hẳn đã là tội, nhưng vì hắn cố cãi rằng hắn không có tội, vậy cái tổ chức kết án hắn có tội hay sao? Chính là sự tự biện hộ, tự bào chữa một cách ngang bướng đã khiến cái tội mơ hồ thành một tội cụ thể, tội chống đối lại tổ chức! Nên hắn thường tự nhận tội trước khi tổ chức chính thức kết tội. Vả lại chính hắn cũng tự thấy mình là có tội, cái tội đã làm tổ chức phải phiền lòng, phải khó nói vì mình, chả lẽ như thế lại không phải là một tội sao?
    3.
    Tới đây hắn muốn được rẽ ngang câu chuyện đang kể để nói rõ thêm vì nguyên do nào một người viết văn vốn sợ đụng chạm tới "quyền vua phép nước", vốn thích sống "an phận thủ thường" lại hay tự gây những tai hoạ vặt. Ấy là do hắn đã kiên quyết từ chối mọi trói buộc của nhiều quan niệm văn chương đã lỗi thời sau hai lần để lỡ trượt những cơ hội có thể viết được những tác phẩm hay. Một lần vào năm 1952, thời kháng chiến chống Pháp và một lần vào năm 1955, khi cuộc sống hoà bình ở miền Bắc vừa mới bắt đầu. Năm 1952, miền nam Nam Ðịnh được giải phóng sau hai năm bốn tháng sống trong máu me, tù đầy của một tỉnh công giáo tự trị dưới sự giám hộ của quân đội chiếm đóng Pháp. Hắn là người viết báo đầu tiên của quân khu có mặt ngay tại chỗ và ở liền đó cả tháng. Trong một tháng hắn đã đến rất nhiều xã, nghe cả ngàn câu chuyện, chuyện nào cũng lạ, cũng hay, có cả trăm tình huống không một nhà văn nào có thể bịa đặt nổi, và cũng có cả trăm nhân vật hắn được tiếp xúc không giống với bất cứ ai hắn đã từng gặp. Có thể viết cả ngàn trang sách về những choáng váng của hắn trước cuộc sống ngổn ngang những trái ngược, chỉ cần gọt giũa một chút là có hy vọng thành một pho sách để đời rồi. Nếu theo chân mà đóng giày không chừng còn sáng tạo được một loại tiểu thuyết mà cách kết cấu sẽ rất lạ rất mới. Rút cuộc thằng viết báo tồi chỉ viết được có mươi mẩu chuyện ngắn, vài bài phóng sự, vật liệu bền vững thì quăng đi thay vào là một thứ văn chương học trò và những tưởng tượng hết sức trẻ con. Trưởng ban Tuyên huấn, một người có bằng tú tài triết thời Pháp, bảo hắn: "Cậu kể chuyện về chuyến đi rất hay, rất lạ, có bao nhiêu là cái lạ mà viết thì dở quá. Tại sao thế?" Tạo sao ư? Tại vì hắn đã trót đọc quá nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn của các nhà văn trước cách mạng, cái thứ văn chương ao tù, ngòi cạn của một thời làm dân thuộc địa với những hy vọng, lo lắng vặt vãnh, tủn mủn của cuộc sống tẻ nhạt, không thay đổi thường ngày. Tìm ra cái đẹp để sống, để hy vọng trong cái nhạt nhẽo thường ngày là công lao không thể chối bỏ của các vị ấy, nhưng không thể dùng cái hành lang quá nghèo nàn ấy để bước vào một xã hội bắt đầu có sóng to gió lón làm đảo lộn tất cả, cuộc sống đầy dẫy những bất ngờ, những trái ngược, khung cảnh thay đổi, lòng người thay đổi, những tiêu chí làm người của một thời giông bão cũng hoàn toàn thay đổi. Lấy cái ngắn hẹp để mặc vào cái rộng lớn làm sao vừa! Không vừa thì gọt bớt cái rộng lớn để có thể nhét gọn vào cái ngắn hẹp, vì cái ngắn hẹp là di sản văn chương duy nhất thế hệ bọn hắn được thừa hưởng! Năm 1955, hắn về thôn Long Ðộng, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương để viết về nữ anh hùng liệt sĩ Mạc Thị Bưởi. Mọi dấu vết của một làng tề thời kháng chiến hầu như còn nguyên vẹn. Còn nguyên vẹn cả cái yêu cái ghét, các mối quan hệ, các nhân vật chính và phụ, cả lời ăn tiếng nói lưỡng lự, nước đôi của một thời đêm ta ngày địch cũng chưa kịp thay đổi. Ði dọc các ngõ xóm gần như hắn còn ngửi thấy cả mùi tanh của máu người đã khô và mùi khét của các đám cháy vừa tàn. Ðược gặp một nhà báo ai cũng thích kể lại chuyện, chuyện còn tươi rói như chỉ vừa mới xảy ra, một kho tư liệu còn tươi nguyên, còn sống nguyên, còn cả cái ấm cái nóng của hơi thở mà chỉ viết được một truyện ký Người con gái quang vinh, văn của mình mà không dám đọc lại, nhìn lại cũng không dám, toàn là những chữ nghĩa mòn mỏi của một cậu học trò dốt văn! Lại tại sao thế? Là do hắn muốn biến một cô gái Việt có tên là Mạc Thị Bưởi thành một bản sao của người con gái Nga Zoia. Mỗi dân tộc đều có cái tôn nghiêm, cái hùng vĩ của mình, có cách chiến đấu riêng và cả cách chọn lấy cái chết rất riêng. Cái rất riêng ấy mới làm nên tư tưởng, nên văn chương của một dân tộc. Cái bắt chước, cái nhái lại, cái tình nguyện làm bản sao tồi trước sau cũng sẽ bị sức sống tiềm ẩn của dân tộc loại bỏ.
    Tới năm 1957, sau gần chục năm viết nháp viết thật đều thất bại, hắn quyết định tìm cho mình một cách viết khác, tức là gạt loại mọi ý tưởng có sẵn sang một bên, quên nó đi, thâm nhập vào cái bề bộn, ngổn ngang của người và việc đang diễn ra tại một xã công giáo, cũng không có tình ý riêng, thiện cảm riêng với một loại người nào, ghi lại thật trung thành những gì mắt nhìn thấy, tai nghe thấy, cảm nhận một cách hồn nhiên những cái sai đúng, trái phải, cứ theo sự phát triển tự nhiên của mấy nhân vật chính mà viết, họ có thể phong phú hơn mà cũng có thể nghèo nàn đi, có thể họ gợi thêm nhiều suy nghĩ mới, mà cũng có thể họ đã hoà tan trong đám đông chả để lại dấu tích gì. Nhà văn chỉ là người quan sát và ghi chép chứ không còn là người giật dây những con rối của mình sau tấm màn che. Viết chương đầu hắn vẫn chưa biết sự phát triển ở những chương giữa và nhất là ở những chương cuối, ai còn ai mất, cũng không thể và cũng không muốn đoán trước, chính tác giả cũng hồi hộp theo dõi mọi hành vi của các nhân vật thân thiết của mình, như bạn đọc, tất nhiên có lo lắng hơn bạn đọc. Vì là một cách viết thử còn nửa tin nửa ngờ nên khi đưa in trên tạp chí Văn nghệ quân đội số tháng 3 năm 1957, hắn chỉ gọi là ghi chép và chương đầu gọi là tập I. Mãi tới năm 1959 khi in thành sách hắn mới dám đề ngoài là tiểu thuyết. Tất nhiên nhiều bậc đàn anh trong nghề đã giễu hắn gọi lầm thể loại, tiểu thuyết gì mà kỳ cục thế, không có cốt truyện rõ ràng, tuyến nhân vật chính cũng không rõ ràng, chỉ thấy một đám người ồn ào, nhốn nháo. Viết về đám người ồn ào quả tình là chủ đích của hắn khi đặt bút viết, rồi từ trong đám người hỗn độn ấy mà những gương mặt quan trọng sẽ dần dần tách ra để có những số phận riêng, nhưng là cả bạn đọc và tác giả sẽ dần dần nhận ra họ chứ không phải đã biết chắc ngay từ những trang đầu. Tiểu thuyết Xung đột được bạn đọc hoan nghênh vì tính chân thật của nó nhưng trong dư luận chính thức chỉ được công nhận là thành công có quyển I, viết về cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai hệ tư tưởng đối nghịch nhau. Còn quyển II viết về cuộc chiến rất đáng buồn giữa những người anh hùng của một thời thì bị chê là viết sai sự thật, bôi nhọ cán bộ, có cách nhìn không đúng đắn về hiện thực của một vùng nông thôn Thiên Chúa giáo. Trong các bài báo khi điểm lại những cuốn sách viết tốt trong mấy năm đều có nhắc tới Xung đột nhưng thêm cái đóng ngoặc (cuốn 1). Và một bài nói chuyện miệng tỏ ý không tán thành Xung đột (cuốn 2) của bí thư tỉnh uỷ Nam Ðịnh những năm ấy. Ngoài ra không có sự phê phán công khai nào, răn đe thêm nào.
    Những năm ấy, lứa tuổi bọn hắn mới chỉ trong ngoài ba mươi, là những đảng viên cầm bút rất có tính kỷ luật. Là đảng viên thì phải chấp hành nghị quyết của Ðảng nhưng còn là nhà văn lại không thể bỏ qua những đòi hỏi của nghề. Ngay từ những năm ấy hắn đã nhận ra cách tiếp nhận sự thật của người cầm quyền và người cầm bút có những điểm khác nhau. Người cầm quyền xem xét thực tế là để khẳng định một chủ trương một cách làm. Còn người viết văn thì chỉ quan tâm tới những diễn biến muôn hình vạn trạng của một chủ trương, một cách làm khi đã trở thành hành động và lo nghĩ thường ngày của quần chúng. Ví như trường hợp bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú bị kỷ luật, bị cách chức vì muốn có một cách quản lý ruộng đất và lao động nông nghiệp hợp lý hơn, vẫn là làm ăn tập thể nhưng sáng kiến, kinh nghiệm và cả sự hăng say làm việc của người nông dân không bị trói buộc mà còn có cơ hội phát huy đến triệt để. Một chủ trương rất hợp lòng dân, được dân ủng hộ mà một Ðảng vì dân lại bảo người lãnh đạo có cái chủ trương đó, có đủ tài thuyết phục một đảng bộ tin theo cái chủ trương đó, lại có đủ bản lĩnh để thực hiện thắng lợi cái chủ trương đó ở địa phương mình, một người có tài có tâm như thế lại bảo là người không trung thành với lý tưởng, là người đáng phải cách chức, phải loại bỏ là nghĩa làm sao?
  3. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    4.
    Những người cầm bút dễ dàng nhận lỗi, dễ dàng nhận sự phê bình của cấp trên vì việc làm của họ là việc công khai, vua biết mà người dân thường cũng biết. Vua có ý kiến của vua, dân cũng có ý kiến của dân, vua chê nhưng dân khen thì sao? Dân nhiều khi cũng hùa theo tư tưởng chính thống mà chê, vua chê còn có chừng mực vì nghĩ tới sự tôn nghiêm của mình, còn dân đã chê thì chê hết mức, chê tàn tệ, trong lời chê như có cả sát khí của gươm đao. Dầu họ bị oan lại không có cả cái quyền kêu oan nhưng họ vẫn không quá lo lắng, lòng ngay dạ thẳng việc gì phải lo lắng. Hơn nữa họ còn có thời gian kia mà. Chữ nghĩa vẫn còn đấy, vài chục năm sau nó vẫn còn nguyên đấy, thời gian sẽ là người xét xử công bằng nhất, vô tư nhất cái công cái tội của một thời. Chưa hết! Với riêng hắn còn một lý do hết sức quan trọng khác khiến hắn mau mắn nhận lỗi, vui vẻ mà nhận lỗi, nhận lỗi rồi mặt mũi vẫn hơn hớn, chả có tí buồn rầu nào. Là vì cách mạng, nói cho rõ hơn là Ðảng Cộng sản, vốn có ơn sâu nghĩa nặng với riêng hắn. Từ một thằng bé chữ nghĩa một vốc tay, trí khôn dưới mức trung bình, lại có tính nhút nhát bẩm sinh, bị khinh rẻ, bị làm nhục từ trong gia đình, cái ngữ ấy thì làm gì cho nên nếu thời thế không thay đổi. Năm còn ở với mẹ, bố hắn còn nói: "Cái thằng này đầu óc nó làm sao ấy nhỉ?" Mẹ hắn nói buồn rầu: "Nó ngây ngô như thế sợ sau này nuôi thân cũng không nổi nói gì nuôi mẹ". Họ nói trước mặt hắn chứ không phải nói vắng mặt. Hắn còn nhớ như in câu chuyện thoáng qua giữa bố mẹ năm hắn mười hai tuổi, mới từ Hải Phòng lên Hà Nội và thuê một căn gác nhỏ của ngôi nhà 4 bis phố Résident Miribel (Trần Nhân Tông bây giờ). Ba mươi ba năm sau, hắn gặp lại bố và mẹ già tại Sài Gòn vừa được giải phóng khoảng một tuần, bố hắn nghe hắn nói chuyện, nhìn ngắm hắn cả giờ rồi bất thần bảo: "Anh khác thật đấy, khác hoàn toàn, không còn một nét gì giống ngày xưa!" Vài ngày sau có một cuộc gặp mặt một số người trong họ với hắn để nghe hắn nói một số chính sách của các nhà cầm quyền mới. Trong đó có một ông anh con cô con cậu (nhân vật Chương trong Gặp gỡ cuối năm), là bộ trưởng Bộ Quốc phòng của chính quyền Dương Văn Minh, một ông thứ trưởng cũng Bộ Quốc phòng, vốn là đại tá của đội quân vừa bại trận, một ông nguyên là đại sứ của chính quyền cũ, bạn lâu năm của gia đình, một ông anh nguyên là giáo sư trường Quốc gia Hành chánh, có cả bố hắn và vài người khác nữa. Gặp nhau để nhận họ chỉ là cái cớ dễ nói, còn thật bụng họ muốn được xem mặt và tiếp xúc thử với một thằng nhà báo được đào tạo từ một thể chế độc quyền về chính trị và tư tưởng, xem nó nói năng ra sao, lý lẽ ra sao về việc nước, về việc đời để còn liệu cách ứng xử với các đồng đội, đồng chí của nó. Hắn biết ngay cái ý tứ đó từ cái nắm tay lỏng lẻo và cái cười xã giao và hắn cũng sẵn sàng đối trận. Hắn tin là hắn nhập cuộc được, nhập cuộc cũng rất ngọt ngào. Trò chuyện với các giáo sĩ của các niềm tin hắn còn chả ngại huống hồ với mấy ông làm chính trị vốn chả có một niềm tin đích thực nào. Hắn ngồi nghe các vị ấy ca ngợi quân giải phóng cả giờ, nào là nhân từ, nào là độ lượng, là một đội quân có kỷ luật đến kinh ngạc v.v... Hắn chỉ nói các vị khen chúng tôi vừa vừa thôi để sau này khỏi phải chê chúng tôi quá nhiều. Rồi thì trong những tiếp xúc cụ thể người thua vẫn còn nhiều cái để sợ nên dễ hèn, người thắng vì chóng thoả mãn nên dễ kiêu, cái kiêu gặp cái hèn sẽ khó cùng tìm ra một cách làm việc cho nghiêm minh, cho công bằng. Nhiều chuyện không vui sẽ từ đó mà sinh ra. Lúc chia tay ông anh họ nói với hắn: "Nghe các cụ bên ấy bảo thuở nhỏ cậu học hành dang dở, sau này cậu có được ra nước ngoài học thêm không?" Hắn trả lời: "Tôi vẫn học, học trong nước thôi nhưng là học theo cách của tôi". Trong suốt mấy chục năm là nhân viên của các cơ quan tuyên huấn hắn đã được sống với rất nhiều người tài giỏi, và họ đã dạy hắn học, học lại văn hoá, học lại tiếng Pháp, học cả cách đọc và cách viết. Sau này hắn cũng hay bị các ông làm tuyên huấn làm tư tưởng bẻ hành bẻ tỏi truyện này truyện kia của hắn nhưng hắn không hề cãi, cũng chả giận, họ vốn là thầy hắn cả. Nhưng trò thì mỗi năm đi một xa, còn các thầy vẫn đứng nguyên một chỗ, người đã được nhìn xa làm sao thuyết phục được người chỉ quen nhìn gần, nên chỉ còn biết cười và nói: "Tôi sẽ chú ý khi viết những truyện sau". Cũng có ông anh mỉm cười tinh quái bảo hắn: "Tao biết mày không thèm tranh cãi với tao nhưng cái việc phải nói thì tao đã nói rồi. Còn là tuỳ mày...". Nếu ông anh cho hắn được tự do lựa chọn thì hắn xin biết ơn lắm lắm. Lại nói tới tự do trong cái nghề rất cần tự do của bọn hắn. Xưa nay khi ngồi trước trang giấy hắn chưa hề băn khoăn về sự tự do trong lựa chọn đề tài và ý tưởng. Vùng cấm có ít lắm, vả lại mon men quanh vùng cấm cũng có cái thú của nó. Bỏ nó sang một bên thì vẫn còn vô vàn đề tài để mình khai thác, còn vô số vùng đất để mình tự do tung hoành, cái cần nói vẫn cứ nói được, thiếu gì cách nói, càng nhiều trói buộc câu văn càng lắm ý tứ, càng lung linh, càng hay. Hắn tìm được cho riêng mình một vùng trời tự do là do hắn luôn tỉnh táo, biết tự kiểm chế trong cái chừng mực cả cách nghĩ lẫn cách sống, câu chữ dùng cũng chặt chẽ, đắn đo theo kiểu văn tuyên huấn (là nghề ruột của hắn mà) nên mới dành được cho mình sự yên tĩnh cần thiết để làm nghề. Nhưng ngẫm cho kỹ thì được cái hôm nay lại mất cái mai sau. Là một nghệ sĩ đích thực còn phải biết mê muội trong niềm tin của mình, biết đi tới cùng cái yêu và cái ghét, là thứ văn chương rất khó chịu, đôi khi còn rất khó hiểu với người đương thời, và cả một cách sống cũng khó chấp nhận với những người xung quanh. Ngồi nói chuyện với các bậc đàn anh Hữu Loan, Hoàng Cầm, tuy hắn rất ngưỡng mộ tài thơ của các anh ấy nhưng vẫn hơi khó chịu khi tiếp xúc. Ở hắn có cái sạch sẽ, cái chừng mực của một viên chức. Ở các anh ấy có mùi khét nồng, có cả mùi chua gắt của những đời người có lắm nỗi gian truân. Hình như từ nhiều chục năm nay các anh chỉ còn sống trong những mộng tưởng của một tác phẩm mãi mãi chưa hoàn thành, quên hẳn cái đời thời với những luật lệ, những quy tắc cần phải có. Ðúng là quên thật nên người của luật lệ, của quy tắc mới ngỡ ngàng trước những người chỉ còn nhớ những gì mình tưởng tượng mãi mãi còn nguyên vẹn. Họ sống bằng tiềm thức, bằng bản năng nên chữ nghĩa của họ cũng trong suốt, thơ ngây, có sức quyến rũ của cái thế giới mình đã đánh mất. Hắn ngưỡng mộ họ nhưng hắn không thích kết bạn với họ mà họ cũng không thích đánh bạn với hắn, rượu không biết uống, đàn bà không biết yêu, chuyện tục không biết kể, chỉ thích nói chuyện chính trị là cái họ chúa ghét, thế mà là người cầm bút viết văn! Ngay như cụ Nguyễn Tuân là ông thầy trong tâm tưởng của hắn, hắn cũng chỉ đứng xa nhìn ngắm cụ, ngưỡng mộ tài văn của cụ, chứ cũng không muốn làm thư đồng hầu cụ trong một chuyến đi dài. Ở các nhân vật đỉnh cao người thường rất khó nhận ra diện mạo thật của họ, cứ như họ đang sắm vai của một cái "tôi khác", đang làm các giai thoại vặt cho mọi lời nói và hành vi của mình để lưu lại cho hậu thế. Ngay với những người có cùng một dòng máu công chức với hắn, hắn cũng không khoái được gần gũi họ. Những cử chỉ, những lời nói đắn đo, mực thước ở họ khiến hắn chỉ muốn bật cười, chả lẽ hắn lại là người như thế, là nghệ sĩ mà có thể sống nhạt nhẽo đến thế. Nhất là các vị ấy không bao giờ quên họ là đàn anh của hắn trong văn chương, là cấp trên của hắn trong các cấp chức họ đã từng làm hoặc đang làm nếu như hắn trong một khoảnh khắc nào đó muốn làm kẻ ngang hàng. Vậy hắn thuộc loại người nào, là một viên chức đang muốn biến hoá thành một nghệ sĩ tự do, nhưng lắc lư mãi cũng chỉ biến được từng bộ phận, cái đuôi viên chức thỉnh thoảng lại lấp ló lòi ra nếu như bạn bè luận bàn về chính trị tự do quá, luận bàn về đàn bà lỗ mãng quá, cười hét to quá, nói năng tục tĩu quá...
    Tức là hắn rất biết hắn, cả cái hay lẫn cái dở, cái gì có thể với tới và những gì mãi mãi chỉ nên đứng xa mà nhìn để giữ được cái thanh thản trong lòng lúc cuối đời. Vậy mà lúc cuối đời hắn lại là một lão già khốn khổ khốn nạn nhất, bao nhiêu vũ khí phút chốc bị tước sạch, chỉ còn lại con người trần trụi, mất mọi niềm vui, mất mọi hy vọng, tự than vãn từ sáng đến tối cho cái số phận không may của mình. Cứ như là chuyện bịa! Nhưng cái tài của hắn làm sao mà bịa được một cảnh ngộ dở khác dở cười lạ lùng đến thế, lại nhận ra một cách cay đắng cái trớ trêu, cái nghịch cảnh của một kiếp nhân sinh. Ðã nghĩ sẽ được nhấm nháp một hoàng hôn yên tĩnh bằng sự chuẩn bị khôn ngoan từ nhiều năm của mình, nào ngờ...
    5.
    Những năm kháng chiến chống Pháp đối với hắn là quãng thời gian rất đẹp và rất vui, tám năm trôi qua chỉ trong một chớp mắt. Ðang sống như thằng đầy tớ, bưng bát cơm ăn cũng không dám và miếng to, không dám nhai mạnh, buông cái bát không xuống nhìn nồi cơm còn đầy, thức ăn trên bàn trên mâm mới vơi già nửa là tiếc lắm, bỗng chốc thành người tự do, thành một chiến sĩ nhỏ tuổi, ăn tha hồ, cười nói thoả thích, chả ai ghét cả, chả ai lườm nguýt cả, lại còn được khen là ngoan, chấp hành kỷ luật tốt, chỉ như thế cũng đã được vui từ sáng tới tối rồi. Sau này đọc văn Nam Cao, hắn cứ nhớ mãi một truyện ngắn viết về một bà lão đi thăm cháu gái đang bế con cho một bà nhà giầu ở xã khác, nhớ cháu có một phần, cái chính là sẽ được ăn một bữa cơm no nên phải đến đúng lúc người ta dọn cơm. Cái cách bà lão nhìn mâm cơm dọn ra, cách cầm đũa, cách và, nhìn người khác ăn rồi lại nhìn vào nồi cơm đang vơi dần, nó thật quá, nhục nhã cho một kiếp người quá, nhục nhã là cái miếng ăn, các cụ xưa đã nói thế. Cứ y như hắn tự viết về hắn. Khi hắn đã già viết truyện Mẹ và các con, cái cảnh bà mẹ ngồi ăn nắm cháy trước mặt khách của con trai, viết như xuất thần, như viết về chính mình cái thời còn nhỏ. Cũng như khi hắn viết về ông lão thư ký của trạm máy kéo trong Hai ông già ở Ðồng Tháp Mười, trong một bữa ăn mà hắn là khách, mắt hắn cứ mờ dần đi vì nước mắt tự cái năm nào còn lưu lại và đang chắt ứa ra. Miếng ăn là miếng nhục nhưng cũng là nỗi mong đợi một ngày của người luôn luôn đói, đang phải sống nhờ, ăn nhờ, bưng bát cơm mỗi ngày ở nhà người khác. Mà ông lão vốn là một giáo sư dạy văn chương Pháp của một trường trung học, là cựu sinh viên trường đại học danh tiếng Sorbonne. Trí thức và dân nghèo, già cũng như trẻ đã phải bưng bát cơm ăn nhờ trong ngôi nhà mình sống nhờ đều có một gương mặt giống hệt nhau: nhẫn nhục, sợ hãi và thèm thuồng. Chính là cái nhìn thèm thuồng muốn vồ lấy, muốn nuốt lấy mà mặt người biến dạng. Năm 1987, nhân lễ kỷ niệm 70 năm ngày sinh của nhà văn Nam Cao tổ chức ở thành phố Nam Ðịnh, hắn có hỏi đùa chị Nam Cao: "Chị nuôi anh thế nào mà để anh đói thế?" Chị ấy cười: "Ông ấy mà đói thì còn ai no, nhà tôi đâu phải là nhà thiếu ăn!" Người không đói mà viết về cái đói hay đến thế thì sự cảm thông của nhà văn quả là hoàn toàn.
    Năm 1947, trung đội Tự vệ chiến đấu của hắn đóng quân ở làng An Tảo bám dọc con đường 39 nối với đường 5, một buổi chiều, hắn từ ngoài mặt đường chạy như thằng rồ về xóm, chả có chuyện quan trọng gì để phải chạy cả, tự nhiên thấy vui thì chạy, vừa chạy vừa nhảy. Trung đội trưởng đang ngồi ở sân đứng bật dậy, hỏi: "Có Tây à?" Hắn nhìn mọi người ngơ ngác, nói: "Không, không có gì cả!" - "Sao lại chạy như ma đuổi thế!" - "Dạ, dạ...". Bữa ấy hắn bị đồng đội xúm lại mắng một trận nên thân. Chả lẽ hắn lại nói thật, vì bỗng dưng thấy vui quá nên em chạy! Hắn có một tuổi thơ nhạt và buồn, sau này đi kháng chiến được nhìn thấy núi cao sông rộng, được đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, đôi lúc ngoái nhìn lại về cái thời chỉ vừa mới trôi qua mà đã xa xôi thăm thẳm, chả có một khoảng sáng nào để mình phải nhớ, phải tiếc, chỉ có mỗi mầu xám nhờ lặng lẽ, bất động như một ngôi nhà hoang lâu ngày không có người ở. Năm Tổng khởi nghĩa là năm Hà Nội vui nhất, nhìn vào đâu cũng thấy cờ và hoa và rất nhiều báo, báo hàng ngày và hàng tuần. Cả thành phố như chợt thức giấc, ồ ạt lao vào những công việc mới mẻ trong một niềm vui mênh mang. Ấy là hắn vẫn chưa được nhập cuộc, vẫn là kẻ đứng ngoài vì tuổi còn quá nhỏ, một lũ trẻ con lộc ngộc đã bỏ học từ ngày Nhật đảo chính Pháp, kéo nhau đi chơi từ sáng đến đêm, nói với nhau bao nhiêu là chuyện trên trời dưới đất, rồi mơ mộng, rồi hy vọng. Cuối năm 1949, hắn được tỉnh đội Hưng Yên cử về Mặt trận 5 để làm số báo đặc biệt cho Hội nghị Rèn Cán Chỉnh Quân của năm tỉnh tả ngạn sông Hồng, cũng là những ngày hết sức vui. Ðang là một anh viết báo litô của bộ đội địa phương được bước vào quân doanh của bộ đội chủ lực cũng để làm báo niềm vui lớn ấy khiến hắn muốn nghẹt thở. Xung quanh hắn ngờm ngợp những bộ quân phục bằng vải kaki màu vàng sáng, mũ ca lô với những ngôi sao vành vàng, rồi súng ngắn, túi bản đồ, giầy ghệt, sang trọng, hào nhoáng rất giống với cái thứ văn thơ huênh hoang, hò hét của một thời. Ðội quân công tử ấy cũng phải mất nhiều xương máu mới thành đội quân thiện chiến của Việt Nam. Còn cái thứ văn của hắn mà cụ Tuân đã chê một cách tế nhị là pittoresque [*] quá thì hắn phải hì hụi tẩy rửa gần mười năm mới thành câu văn của chính mình. Nghĩ lại những năm đầu của kháng chiến hắn chả tiếc cái gì chỉ tiếc đã mất đi mãi mãi cái niềm vui ngây ngô, hồn nhiên của đứa trẻ lần đầu được sống thoả thuê trong tự do.
    [*] Pittoresque: quá đẹp (nên thiếu cái thật)
    Được duong_chieu_la_rung sửa chữa / chuyển vào 22:01 ngày 19/09/2004
  4. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Cũng vào dịp các phóng viên của 5 tỉnh lần đầu về phục vụ cho tờ báo của mặt trận, người phụ trách báo liền tổ chức một bữa ăn gặp mặt tại một quán cơm ở thị trấn Quỳnh Côi. Thị trấn kháng chiến, một bữa ăn kháng chiến mà có khăn trải bàn, dao nĩa, cốc tách sáng choang. Sau bữa ăn có cà phê đá với thuốc lá thơm Cotab. Suốt mười lăm năm ở Hà Nội hắn chưa được mẹ dắt vào một hiệu ăn nào cả, chỉ biết mùi vị các món xào nấu ở các bữa giỗ và mấy ngày Tết, còn chỉ là những bữa cơm xoàng xĩnh ngày thường. Nhưng vẫn được ăn no, ngay như năm đói anh em hắn vẫn được ăn đầy đủ, nhưng cơm xới thì phải qui định, có bữa ăn hai bát, có bữa ăn một bát đầy, vì là ăn theo gạo sổ, mỗi bữa vẫn phải dành ra mấy lẻ gạo phòng khi Hà Nội không còn gạo. Không còn gạo thì ăn cỏ, một tờ báo đã bày cách chế biến cỏ cho người ăn. Nhưng cỏ thì mua ở đâu, nếu ăn cỏ cũng sống được thì làm sao lại có cả ngàn người, cả vạn người ở các vùng quê là nơi có rất lắm cỏ, lũ lượt kéo về Hà Nội để nằm chết ở các vỉa hè, các gốc cây, các góc phố, các gậm cầu. Hắn sẽ còn nhớ mãi vài hình ảnh ghê rợn của cái năm đói. Vào khoảng cuối tháng 4 của năm 1945, hắn và mấy thằng bạn rủ nhau đi học lớp vỡ lòng tiếng Nhật vì người Nhật đã thay Pháp cai trị xứ này. Lớp học buổi chiều mở ở một trường tiểu học của phố Hàng Cót. Trong vuông sân của trường đã có mấy trăm người ngồi từng nhóm như để đợi phát chẩn hay đợi đưa đi đâu đó. Có một anh thanh niên khoảng ngoài đôi mươi, mặt mũi đẹp đẽ, da thịt còn tươi, như người ở tỉnh chứ không phải ở quê, trên người anh ta không có một mảnh vải nào, trần truồng với nạm lông đen nhánh ở bụng. Anh ta cứ đi nhồng nhỗng từ góc sân này tới góc sân khác như đang tìm một ai đó, trần truồng mà đi chả xấu hổ một tí nào, và ngay cả đám người ngồi đen đặc ở sân cũng không một ai buồn ngước nhìn anh ta, cũng không ai cất lời hoặc than hoặc mắng một câu. Thì ra cái đói đã thay đổi con người thành con vật rồi, những con vật đã quên mọi thói quen trong các mối quan hệ cái thuở còn là con người. Dẫu thế nào người mẹ cũng không bao giờ quên được thương con, quên sự hy sinh tất cả cho con. Ðầu năm đói, gia đình hắn dọn từ phố Miribel về phố Duvigneau (phố Bùi Thị Xuân bây giờ), bên hông nhà thương chữa mắt. Một buổi chiều có một bà mẹ khoảng ngoài ba chục tuổi tay cắp chiếu, tay cắp con đến trải chiếu ngồi ngay ở trước cửa nhà. Một lúc sau hắn bước ra đã thấy bà ta đang mớm cháo hay cơm hắn không rõ, cũng chỉ có một chút ở mảnh gáo dừa, chỉ thấy đứa bé ngọ nguậy rồi trớ ra tất cả. Bà mẹ rên lên: "Không cố ăn một chút thì chết mất, con ơi!" Khoảng nửa đêm hắn chợt tỉnh giấc vì chợt nghe có tiếng khóc hờn con của người mẹ, tiếng khóc khàn khàn, yếu ớt, thê lương đến đứt ruột. Khoảng gần sáng thì tiếng khóc im bặt, chắc người mẹ cũng đã ngủ. Sáng rõ mặt người từ lâu hắn mới bước ra đường đã thấy mấy người phu nhặt xác đang cuộn chiếu bó chặt xác cả mẹ lẫn con vứt lên xe bò. Hơn nửa năm trời đi lại trên đường phố Hà Nội ngửi đâu cũng phảng phất cái mùi hôi khắm của các xác chết đã khô lại đen lại ở mọi ngóc ngách còn chưa lượm kịp đem chôn. Cứ đi một quãng lại va phải một xe bò chở xác người, các bó chiếu cuộn người xếp chồng lên nhau, mặt thì kín nhưng chân thì hở, những cẳng chân đen khô với những bàn chân có những ngón toè ra, nhìn xa như từng chùm rễ cây của các cây-xác-người. Từ trong đám xác chết đói bước ra, từ cái thân phận bị khinh rẻ bị làm nhục bước ra, nên những gian nan thiếu thốn của kháng chiến hắn chả coi vào đâu, lúc nào cũng vui, bị anh em trong cơ quan bỏ lại tại cái lán trống giữa rừng, dứt cơn sốt ngồi chồm dậy ngơ ngác một lúc lâu mới tỉnh lại dần, thấy bụi mọt đã phủ đầy người, phủ đầy những tấm giát nứa đã bỏ trống, tức là nằm chết ở đây đã lâu lắm, không chừng phải một hai ngày rồi vì hắn rất đói, đói cồn cào, lại dốc gạo trong bao ra, bắc nồi lên, nhìn ngọn lửa bốc cao lại thấy vui, một niềm vui bất tận, vui không duyên cớ gì, cũng không hy vọng vào bất cứ cái gì, được sống, được cất bước cùng với bạn bè là vui, kháng chiến bao năm cũng được, kháng chiến đến bạc đầu vẫn được, có bao giờ phải sống một mình đâu mà buồn, có bao giờ bị làm nhục bị bỏ đói đâu mà buồn.
    6.
    Trong hai năm 1954 và 1955, không có ngày nào, tháng nào rơi vào quên lãng vì mỗi ngày đều có cái hồi hộp, cái căng thẳng riêng và những niềm vui rất bất ngờ, không dám hy vọng cứ theo chân nhau ùa đến. Một năm các cơ quan chính trị, tham mưu của quân khu cứ hoạt động đều đặn theo các mùa, hạ thu thì nhốn nháo xúm quanh các hội nghị quân chính lớn nhỏ, các lớp tập huấn. Còn đông xuân là mùa tác chiến, cán bộ các ban phòng lại thay nhau đi xuống các đơn vị theo dõi các hoạt động phối hợp với các chiến trường chính. Tháng mưa tháng nắng, mùa nóng mùa lạnh, thời gian cứ nhịp nhàng trôi đi dưới những tán cây, trong các dãy lán, sáng có chuyện sáng, tối có chuyện tối, ngày ngày giống nhau, thi thoảng lại rộ lên một chuyện vui, vợ anh này, mẹ anh kia từ trong vùng "tề", cả từ trong Hà Nội và Nam Ðịnh vừa ra hiện đang có mặt ở nhà khách. Có anh ở Ban Tuyên huấn vừa nhận được tin vợ ra mang theo cả thằng con lớn liền kêu lên thảm thiết: "Người đâu mà liều thế, đường sá xa xôi nguy hiểm lại còn đem theo cả trẻ con đi!" Ăn ở với nhau được mươi ngày vợ con lại trở về Thành, một nửa năm vắng bặt mọi tin tức, nhìn ông anh mà thương hại, cứ như người đã nhận án tử hình chỉ còn chờ ngày thi hành án. Ðầu tháng 7 năm 1954, thành phố Nam Ðịnh được giải phóng, anh đeo ba lô lao về hướng đó ngay, làng của anh thuộc vùng ngoại vi của thành phố.
    Tháng 3 năm 1954, phòng Chính trị phân công hắn thêm một việc mới, sáng sáng sang phòng Tham mưu tới chỗ cơ yếu nhận tin mới nhất từ mặt trận Ðiện Biên về thuật lại cho anh em ở cơ quan, sau đó viết bản tin rồi đưa xuống nhà in, sáng hôm sau gửi nhanh xuống các đơn vị. Ngày 7 tháng 5, chiến dịch Ðiện Biên Phủ toàn thắng, cả cơ quan làm bữa ăn tươi vào ngày hôm sau để ăn mừng. Ngày 21 tháng 7 Hiệp định đình chiến ở Việt Nam, Miên, Lào được ký kết. Lần đầu tiên hắn đi đại tiện trên một mỏm đồi còn sót lại những gốc chè, lắng nghe tiếng máy bay Dakota từ xa, rồi nó bay ngang qua đầu, trong lòng vẫn yên tĩnh lạ thường, khoan khoái lạ thường, vì chiến tranh đã thuộc về ngày hôm qua. Cuối tháng 11 hắn vào Hà Nội bằng xe taxi tư nhân từ thị xã Phủ Lý để tìm mẹ và em. Mẹ hắn già hẳn, đang quẩy hai cái xảo to bầy trầu cau và những khúc vỏ đi tới thì gặp hắn. Cứ nghĩ hai mẹ con đều phải oà khóc sau năm năm xa nhau trong chiến tranh mà rồi chả ai khóc cả, chân hắn tự nhiên nhũn ra và mẹ hắn cũng chỉ nói: "Anh đã về đấy à?", rồi bà cúi mặt xuống đứng nguyên tại chỗ một lúc mới lại bước tiếp. Hắn cũng gặp lại em trai, nó đã cao bằng hắn, người gày mỏng như cây sậy, mặc quần áo nâu, chít khăn chữ bát làm sư bác ở chùa Hoè Nhai. Tháng 8 năm 1955, hắn được Cục Tuyên huấn triệu tập về Hà Nội để viết truyện anh hùng. Cách đấy năm năm hắn đang là lính ngoài biên chế của một trung đoàn giải thể thì được điều động về báo quân khu cũng không ăn không ngủ được vì quá vui. Lần này cũng thế, người cứ bồn chồn nửa vui nửa buồn nhưng vui nhiều hơn vì những dây rợ để níu kéo hắn ở lại không nhiều, chỉ có một cô gái đang làm cấp dưỡng của đội văn công quân khu còn khiến hắn dùng dằng đôi chút. Nhưng ở Hà Nội thiếu gì người đẹp để hắn lựa chọn, vả lại "anh bộ đội" đang là một hình tượng có giá để phái đẹp săn lùng. Mỗi lần ăn cơm đều gặp nhau nhưng hắn vẫn không hé môi nói lời từ biệt với cô bạn mới quen biết. Hắn cũng chưa từng gặp riêng cô, cũng không mời cô sang thị xã Phủ Lý cùng mua sắm cái gì đó mỗi sáng chủ nhật, hình như hắn cũng chưa nói với cô gái một lời nào ngoài cái câu tẻ nhạt: "Cho xin một cái tăm". Rồi cô theo đội văn công đi công tác, hắn chuẩn bị về Hà Nội. Với cô hắn vẫn chưa thể tự dứt khoát, hoặc là giữ lại bằng một lời hứa, hoặc buông bỏ để được tự do hoàn toàn trong hoàn cảnh mới. Trước ngày về Hà Nội, anh Lê Mai, phóng viên duy nhất còn lại của toà báo đã gần như không hoạt động, gặp hắn và có lời khuyên hắn nên gắn bó với cô gái nông dân vừa xinh đẹp vừa hơi ngốc nghếch nhưng chắc chắn là người rất tháo vát, có đủ tài để gánh vác một gia đình trong mọi cảnh ngộ nếu như hắn còn muốn theo đuổi nghề văn. Anh nói: "Máu của cậu là máu loãng, máu bạc nhược, máu ăn bám của một dòng họ quan lại lâu đời. Cái loại máu ấy không được pha trộn với loại máu sạch, có sức chảy mạnh mẽ của người nông dân thì con cháu cậu sau này chả là cái giống gì!" Năm ấy hắn 25 tuổi, cô gái 19, kém hắn sáu tuổi, đẹp, dáng người đẹp, gương mặt đẹp, không ra người ở nông thôn, chỉ phải tội hai bàn tay dầy và hơi to, ngón tay cũng to, cũng là người lao động vất vả từ nhỏ, mẹ chết sớm, lúc ở với dì (là bà hai do bà cả cưới cho chồng vì bà chỉ có ba người con gái) lúc ở với các chị, phải làm mới có ăn chứ chả ai nuôi không. Ông cụ là đội khố xanh, các anh chị đều là người kháng chiến. Năm ấy lấy vợ là phải chọn người có lý lịch tốt, nếu vợ có liên quan tới tề nguỵ là hết sức rắc rối sau này. Cô ấy được cả người lẫn lý lịch, không nhanh tay thì người khác sẽ vồ mất, lúc ấy lại tiếc. Chỉ hiềm một nỗi cô ấy không được học hành gì, nói năng quá thật thà gần như ngây ngô nên hay gây cười trong bữa ăn vì những câu trả lời thiếu ý tứ. Nhưng ở xa thì nhớ lại sợ mất nữa, già kén lỡ chọn phải một cô vợ không hiền thì tan cửa nát nhà. Trong kháng chiến hắn đã được chứng kiến nhiều cô cán bộ đã lớn tuổi lại xấu gái, lại hay nói chuyện chính trị, cười nói đùa giỡn như đàn ông mà vẫn lấy được những ông chồng vừa đẹp trai, vừa là cấp chỉ huy. Là do bị mắc bẫy mà phải lấy. Một ông đại đội trưởng đóng quân liền nhà văn phòng của huyện hội phụ nữ. Cả xóm chỉ có một cái ao sạch và mát bên nhà huyện hội, nên trưa nào ông đại đội trưởng cũng mặc quần đùi sang tắm nhờ. Lúc thay quần lại nghĩ giữa trưa vắng vẻ nên cứ trần truồng bước lên bậc ao, đứng cạnh cái bể nước giội thêm vài gáo cho sạch, vừa giội vừa vỗ đùi vỗ mông như người khoe. Trong nhà vẫn có một thường vụ huyện hội tuổi ngót nghét ba mươi, mỗi lần thấy ông hàng xóm sang là chồm dậy đứng trong mành ngó ra. Con gái lỡ thì nhìn đàn ông còn trẻ tắm truồng dẫu là nữ tu cũng phát cuồng. Một lần tắm xong ông ta lại cả gan bước lên hè, gọi vào: "Chị có báo Cứu quốc số mới cho tôi mượn với". Chả ai trả lời cả, ông ta vén mành bước vào, cô cán bộ nằm ngủ, quần kéo đến trên đùi, chân co chân ruỗi, tờ báo muốn mượn đang phủ lên mặt. Thế là cái việc không nên xảy ra đã xảy ra. Ngày hôm sau, cô gái già bị cưỡng hiếp liền báo cáo với cấp trên của mình, và một tập thể các bà lên thẳng trung đoàn bộ gặp chính uỷ để kể lể về cái nhục đã phải chịu của một cô gái còn nguyên vẹn trinh tiết. Chính uỷ bảo: "Thế thì cái thằng ấy sẽ phải chịu trách nhiệm với chị suốt đời rồi, chị bằng lòng chứ?" Ðám cưới được tổ chức liền mấy ngày sau đó. Cô dâu tuy thấp mập, nước da hơi đen nhưng nét mặt đều đặn, nói năng lại hoạt bát có duyên, thôi thế cũng là được, lấy vợ cái sắc không quan trọng bằng cái nết. Nhiều chục năm sau, trong một lần dự một Hội nghị Nông nghiệp toàn quốc, hắn đứng trước quầy sách báo thì có người đụng nhẹ vào khuỷu tay và một giọng nói rất sang: "Xin chào nhà văn lớn!" Hắn quay người lại, ngỡ ngàng trước một bà thấp mập, tóc uốn cao đã bạc nhiều, đeo kính trắng, mặc áo dài gấm mầu xanh đen, sang trọng, quí phái không thể tả, làm sao bà ấy lại có thể biết hắn, có thể đùa cợt với hắn, ai nhỉ? Bà nào nhỉ? - "Còn nhớ Huyện hội phụ nữ Phù Cừ không?" Nhớ hết rồi! Hoàn toàn nhớ rồi! Bà nói hiện nay là là phó chủ tịch phụ trách nông nghiệp một tỉnh, ông chồng đã về hưu, mới đi thăm con đang làm ăn bên Liên Xô chắc phải vài tháng mới về, có một con gái đang ở Mỹ, nó làm bên ngoại giao. Ông bà có ba trai, hai gái, sáu cháu vừa nội vừa ngoại, cháu đích tôn mới sang học đại học ở bên Úc, khéo chừng chúng tôi được làm ông cố bà cố sớm hơn anh đấy nhá. Còn anh thế nào? Thế nào ư? Năm mươi tuổi đầu còn nuôi con lên năm là thua bà chị nhiều lắm rồi. Thì ra con người ta làm gì cũng có số thật. Cặp vợ chồng này nghĩ là ép nhau mà nên hoá ra cũng vẫn là có duyên số.
  5. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Năm 1957 cô cấp dưỡng của Ðội văn công quân khu được tuyển về Ðoàn ca múa Tổng cục Chính trị vì có dáng người đẹp, gương mặt đẹp và giọng nói rất ấm. Ðoàn muốn huấn luyện một người đẹp thuần tuý đồng ruộng thành người giới thiệu chương trình của Ðoàn tại Liên hoan Thanh niên và Sinh viên thế giới được tổ chức ở Matxcơva vào cuối năm. Người thì đẹp nhưng ít học nên không học thuộc được những lời giới thiệu rất dài dòng, lại không nói được đúng giọng tiếng nước ngoài nhiều bài ca đã được dịch lời sang tiếng Việt. Không làm người giới thiệu được, cũng không hát được, múa càng không được, chả lẽ lại trở về làm nghề cấp dưỡng thì tội nghiệp nên đành phải đưa về Ðoàn kịch nói của quân đội. Ngày từ quân khu lên Tổng cục cô sang gặp hắn ngay, vào khoảng tối. Thoạt nhìn cô sau hơn một năm không gặp lại, hắn cũng ngạc nhiên, vì trong bộ quân phục mới cô như đẹp hơn, thành thị hơn trước nhiều. Hắn giới thiệu cô với Phùng Quán: "Ðây là bạn gái của mình". Cách nhìn đánh giá của Phùng Quán cũng làm hắn mát lòng, tức là Quán không ngờ hắn có cô bạn gái xinh đến thế. Nhưng khi hắn hỏi: "Em có được khoẻ không?" thì câu trả lời của cô khiến hắn sững sờ: "Mấy ngày nay chả hiểu ăn gì em toàn đi ỉa lỏng thôi, người mệt lắm". Phùng Quán quay mặt đi giấu một thoáng cười, còn hắn thì đã giận lắm. Thiếu gì câu nói hay hơn, kín đáo hơn khi lần đầu được trò chuyện với người yêu, ví như: "mấy hôm nay em không được khoẻ", hoặc "mấy hôm nay em bị đau bụng", hoặc "mấy hôm nay bụng dạ không được tốt". Việc gì phải nói rành rọt cái từ rất khiếm nhã, rất không nên nói. Trong hai người, người con gái yêu hắn vô tư, không vụ lợi, yêu là yêu, yêu cả từ cái hướng nhà hắn ở, cả những lối hắn đi, chỉ mong chóng tối để được vào thành gặp hắn. Còn hắn là yêu trong tính toán, trong lưỡng lự, có lúc muốn gắn bó, có lúc lại muốn buông bỏ, là vợ thì có thể được vì cái đức hy sinh cho chồng cho con đã thuộc về bản chất của các cô gái nông dân. Còn là người tình thì chán lắm, chán và nhạt đến kinh người. Cô đã phải từ bỏ chính mình để sống với môi trường mới, nói cười theo người khác, vui buồn theo người khác vì cô đã nghĩ những gì thuộc về cô nó "nhà quê" thế nào, buồn cười thế nào, thành ra một người sống giả, giả từ trẻ đến già. Cô chỉ sống thật khi có chị em, họ hàng từ quê lên thăm vợ chồng hắn. Những ngày ấy cô là một người khác hẳn, hồn nhiên, vui tươi, mọi câu nói đều tự nhiên, đều ấm áp, có cái duyên riêng, có sức quyến rũ riêng. Họ cưới nhau tại nhà Hợp Thiện ở đường Phùng Hưng (nay là nhà tang lễ của Hà Nội), là con đường song song với đường Lý Nam Ðế. Bên nhà trai có mẹ hắn và tạp chí Văn nghệ Quân đội, bên nhà gái có bố vợ và Ðoàn kịch nói Quân đội. Một nồi nước chè khô, thuốc lá Ðiện Biên, Tam Ðảo và bánh kẹo của mậu dịch. Cô dâu mặc áo dài, chú rể vẫn quần áo bộ đội và đi dép râu. Chủ hôn là nhà thơ Thanh Tịnh. Ðám cưới ngày ấy giống như một cuộc liên hoan của cơ quan, mọi người thay nhau chúc tụng, rồi ngâm thơ và kể chuyện vui, những mẩu chuyện mở đầu thì thanh kết thúc thì tục để gây cười, những cái cười nhạt nhẽo vô nghĩa của tuổi trẻ, cái tuổi rất dễ cười. Bọn hắn sống vào cái thời mọi nghi lễ đều bị tước bỏ (vì nó vô ích, nghĩ thế!), tất cả chỉ nhằm nhanh chóng đạt đến cái đích. Cái đích thì vẫn đến nhưng chả để lại một ấn tượng sâu sắc nào, về già mới chợt nghĩ hai người chưa hề đăng ký kết hôn tại một cơ quan nào của chính quyền, thậm chí cũng không có cả giấy hôn thú. Cái lối sống tạm bợ, tuỳ tiện, không kể đến những yêu cầu cần có của mỗi cá nhân, kể cả những yêu cầu rất thiêng liêng lan toả trong mọi hoạt động của xã hội. Một xã hội mà mọi người gần như quên hẳn những cụm từ cần thiết trong các mối quan hệ: xin phép, xin lỗi, cảm ơn. Cứ nghĩ lại những cửa hàng phở của mậu dịch mà hãi, xếp hàng, mua phiếu, xếp hàng cầm bát phở, những bát phở nhày nhụa nước mỡ tràn ra ngoài thành bát, vừa nóng vừa trơn, cầm không khéo là hỏng ăn, rồi và rồi nuốt. Tới đâu cũng được nhìn những gương mặt lầm lầm, những câu nói cộc lốc, gắt gỏng, đưa tiền, cầm hàng và không được chọn, có hàng đâu mà chọn, chọn là muốn đổi hàng, là phạm luật, khách mua to tiếng là quấy rối, là phạm pháp. Chỉ được nhận, có gì nhận nấy, không được phàn nàn, không được tỏ ra bất bình mới là một công dân tốt. Rồi sống mãi trong cái môi trường ấy cũng thành quen, khi hắn được gặp lại những người ruột thịt ở Sài Gòn vừa được giải phóng, ăn bữa cơm gia đình không mời ai cả, thích món nào cứ xỉa đũa gắp mãi một món ấy, tại sao lại nhìn tôi, tôi vẫn cầm đũa chứ có nhón tay ăn bốc đâu mà nhìn. Mấy đứa cháu ở Sài Gòn tỏ vẻ khó chịu khi người chỉ huy dàn nhạc mặc áo sơ mi bỏ ngoài quần thì chính hắn lại ngạc nhiên. Bọn trẻ nói: "Vào nhà hát người xem còn ăn mặc lịch sự huống là dàn nhạc". Chà, thói tật tư sản, thói tật đế quốc! Nghĩa lại trong năm đầu lấy nhau không còn nhớ được một kỷ niệm nào đẹp, không đi chơi đâu (nhìn bến xe khách là mất mật còn muốn đi đâu), không mua sắm gì (lại xếp hàng, thôi, ở nhà), cũng không có điều kiện làm những bữa cơm thân mật mời bạn bè những ngày lễ ngày nghỉ vì bọn hắn chưa có nhà riêng, họ vẫn sống ở cơ quan như trước, tối đến vợ mới sang phòng làm việc của hắn ngủ qua đêm, vợ muốn nấu một bữa cơm ngon cho chồng cũng không thể đành lại dắt nhau ra ngồi vỉa hè đường ăn quà. Mẹ chồng cũng không có chỗ ở riêng, vẫn là ở nhờ nhà người cháu, chỉ có một cái giường kê ở buồng ăn là chỗ nằm của mẹ, cũng là gặp nhau suông, nói dăm ba câu chuyện rồi về, đâu có thể chủ nhật nào cũng ăn cơm nhà anh chị. Chả có gì vui trong cuộc sống vợ chồng, chỉ có một thay đổi là họ không phải nằm lẻ loi mỗi đêm, còn tất cả vẫn như cũ, vẫn là cuộc đời lính, ăn cơm tập thể ngủ trên ván sàn. Mà lại có thêm nhiều cái phiền hà. Những giờ rảnh rỗi buổi tối hắn thường đọc sách hoặc viết, là cái khoảng thời gian sảng khoái nhất, mong đợi nhất trong ngày vì hắn được sống với nghề, được sống với những mơ mộng lớn nhỏ của hắn. Nhưng vợ hắn lại muốn đi xem cải lương, đi xem phim, phim hay thì khó mua vé, phim dở lại tiếc thì giờ, hắn ngồi ngáp ngắn ngáp dài một lúc rồi tựa đầu vào vai vợ mà ngủ. Nhưng vợ hắn thì vui lắm, được đi cùng chồng, được ngồi cạnh chồng ở chỗ công cộng là vui rồi. Ðã bắt đầu có những tranh cãi vặt, những giận hờn vặt, vì những ý muốn khác nhau, thằng đàn ông thì cậy quyền được vợ yêu, càng lúc càng bộc lộ cái tính ích kỷ, độc đoán, người vợ đã nhịn một lần đành phải nhịn tiếp, nhịn cho yên chuyện, xưa nay nhiều người đàn ông trong làng uống rượu say, chơi xóc đĩa vẫn về đánh vợ thì sao, hút thuốc phiện bán cả ruộng cả nhà mà vợ con không dám ho he một lời thì sao? Phận đàn bà thời nào chẳng khổ, không nín nhịn thì bỏ được nhau ư? Thằng đàn ông thành phố bắt nạt người vợ nhà quê bắt đầu là như thế. Vì hắn tự nghĩ hắn là một người chồng tốt, một thằng đàn ông có rất nhiều cái mạnh, hắn xứng đáng có được người vợ đẹp hơn thế, đảm đang hơn thế và cũng không bao giờ dám làm ngược lại ý chồng. Hắn là con thêm con thừa mà cũng vẫn được thừa hưởng đầy đủ máu huyết một dòng họ mà người chồng là ông chủ còn các bà vợ chỉ là tỳ thiếp mà thôi. Hắn không sợ người vợ bị bắt nạt sẽ có lúc tìm được cách trả thù. Không bao giờ! Vì không thể bỏ hắn để lấy người khác được. Hắn vừa có danh vừa có tiền, phải mỗi tội có máu gia trưởng, nhịn một chút là xong cả, còn lấy được ai hơn thế. Ðã có lần, năm còn trẻ, vợ hắn nói: "Tôi thà lấy một thằng chồng làm cu li nhưng vợ chồng quấn quýt nhau vẫn còn hơn làm vợ anh!" Hắn cười nhạo: "Thì đi mà lấy, còn kịp mà, các con tôi nuôi cho". Hắn nói trâng tráo, không chút hối tiếc thì người vợ lại đành nhịn. Nhịn hắn một chút vẫn là hơn cả. Thời trẻ còn không dám trả thù chả lẽ về già lại có cách trả thù? Thế mà cái chuyện trả thù đã xảy ra, khi các con đã trưởng thành, vợ hắn đã già lại bệnh mà vẫn có cách trả thù được, tìm được một hình phạt đáng sợ nhất, nhức buốt đến tận xương tuỷ, với một người thông minh như hắn cũng không thể nghĩ được cách thoát ra.
    7.
    Trong cuộc sống thường nhật không mấy khi hắn phạm phải lầm lỗi lớn vì hắn luôn biết tự giới hạn trong cái có thể. Một đời người mà không có đôi ba lần dám mạo hiểm vào cái không có thể cũng xem như chưa từng sống, một kẻ đã chết khi còn sống, một kẻ vô tích sự. Hắn quả là một kẻ vô tích sự, chả thế bố đẻ hắn khi ngắm nhìn hắn ngồi ngẩn ngơ ở một góc nhà đã phải thốt lên đầy thất vọng: "Thằng mán tiền!" Một thằng mán tiền mà dám phiêu lưu vào địa hạt văn chương, là cái lãnh vực hoàn toàn không có thể với thân phận hắn, với tính cách hắn. Vậy hắn đã có phép thuật gì để tồn tại được, tồn tại trong suốt mấy chục năm? Cuộc biến hoá ở trong hắn xét cho cùng lại hết sức đơn giản và hoàn toàn không tự giác. Vì hắn không có tính cách mạnh, không có bản sắc rõ ràng, chỉ là cái rỗng không, nhưng cái rỗng không ấy lại có sức mạnh hút vào nó mọi màu sắc của cuộc sống mà chỉ một kẻ nhút nhát, yếu đuối, có nhiều khát vọng dang dở mới cảm nhận được. Hắn tự biến hoá thành đối tượng được quan sát một cách rất dễ dàng. Là anh hùng hoặc một tên tội phạm chỉ qua vài lần tiếp xúc hắn đã có thể lặn vào tận đáy sâu để tìm ra cái then máy bí mật đã chi phối mọi tính toán và hành động của người đối thoại. Cũng có lúc lầm nhưng thường là không lầm. Hắn chỉ sợ có hành động, bất kể hành động gì, là tốt hay là xấu, là lớn hay nhỏ, hắn đều không bịa được, vì hắn chưa từng làm, cũng chưa bao giờ dám thử làm. Hắn nghĩ như triết nhân, làm như con trẻ. Ðã làm là hỏng, dầu là một việc rất nhỏ hắn vẫn không thể biết nên bắt đầu từ đâu nên kết thúc như thế nào! Nhưng nghĩ thì khác, nghĩ ngợi nông sâu, xa gần là thánh địa của hắn. Năm viết Xung đột hắn mới 27 tuổi nhưng chỉ ngồi trò chuyện dăm buổi với chủ tịch xã Nghĩa Hoà hơn hắn gần hai chục tuổi hắn đã có thể biến hoá thành ông ta hết sức tự nhiên. Rồi hắn nghĩ theo nhân vật, nói theo nhân vật và hành động bằng tưởng tượng đúng với tính cách của nhân vật. Nhân vật văn học đã hình thành cùng hắn đi suốt cuộc hành trình gần ba năm là khoảng thời gian đi về xã Nghĩa Hoà, cũng là khoảng thời gian của cuốn tiểu thuyết.
  6. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Nhân vật Thuỵ là một nửa khác của chính hắn, là cuộc đấu tranh dai dẳng giữa một niềm tin trong trẻo với những ham muốn nhơ nhớp của đời thường. Khi nghe một cán bộ của huyện nhận định về Nhàn, phó chủ tịch xã, là một cán bộ có uy tín trong dân nhưng lập trường không kiên định, hắn nhận ra ngay cuộc giằng co khi thắng khi thua giữa niềm tin cũ thuộc về thiêng liêng với niềm tin mới của một Ðảng viên cộng sản. Cuộc đấu tranh này chính hắn đã từng trải qua, cho đến tận hôm nay, khi gặp một chuyện rắc rối không thể tìm ra lối thoát, hắn vẫn lẩm nhẩm khấn khứa: "Lạy trời, cho con qua khỏi được chuyện này, con xin tình nguyện giảm thọ mười năm để thoát ra khỏi chuyện này." Nhưng nhân vật Tam (cũng trong Xung đột) mới thật là mảnh đất hắn có thể tung hoành ngang dọc. Tam là một cán bộ rất trong sạch, rất thẳng thắn, chỉ một chút thiếu tỉnh táo mà thành kẻ phạm tội. Cái đau đớn của một kẻ có phạm tội thật nhưng chưa mất hết lương tri chả thấm vào đâu với một người không bao giờ nghĩ rằng mình có thể phạm tội mà lại hoá ra đã phạm tội, một cái tội vô tình đụng phải nó, rồi nhập làm một với nó, nằm trong danh sách những kẻ đã phạm tội, không có cách gì để thanh minh, để tách khỏi mình ra, để trở lại trong trắng như trước đó. Không có cách nào cả. Phải cúi đầu chịu một cái tội oan chả biết kêu với ai, chính mình kêu cứu với mình cũng thấy khó nghe khó cứu huống là với người khác. Vả lại với người đời, ngay cả với vợ con, với bạn thân tuy lắng nghe những lời bộc bạch với cái vẻ thông cảm nhưng dứt khoát không có một ai tin anh cả, không có một ai tin được anh là một kẻ hoàn toàn không có tội. Hạnh phúc không thể chia bớt với ai khác, bất hạnh cũng thế, phúc ai nấy hưởng, tội ai nấy chịu, mỗi người là một nắm mồ với niềm vui và nỗi đau của riêng họ. Hắn nhận ra điều đó khi đứa con trai đầu của hắn bị chết đuối ở sông Hồng. Bạn bè kéo đến nhìn hắn vật vã than khóc với những ánh mắt rất buồn bã, rất thông cảm. Nhưng khi hắn nằm vật ra giường vì quá mệt chợt nghe tiếng các bạn hắn ở đầu hè bàn nhau chỗ hẹn để đưa các con lên xe ra Ðồ Sơn nhân chúng được nghỉ hè. Là những giọng nói khác hẳn, rất nhẹ, rất vui của các ông bố hạnh phúc đang nghĩ đến một chuyến đi rất thú vị của bọn trẻ sau một năm ăn học vất vả ở những nơi sơ tán. Có thể hắn là một nhà văn có khả năng bẩm sinh thông cảm tức thời với mọi cảnh ngộ, nhưng đúng hơn, hắn đã từng là một đứa trẻ rất trong trắng chưa hề phạm tội nhưng lại bị những người thân, rất thân, buộc tội là thằng ăn cắp, và đã đối xử với hắn như một thằng ăn cắp thực sự đang sống lẫn lộn trong đám con cái rất nết na của họ. Những kẻ lương thiện bị những tình huống trớ trêu đẩy họ thành kẻ phạm tội một cách oan uổng luôn luôn làm hắn cảm động, làm hắn tò mò muốn được hiểu thêm nữa, nhiều thêm nữa, để thêm một lần được sống lại những ngày tháng bi đát đã thuộc về quá khứ. Ðược sống lại với cái buồn cái nhục tuổi thơ cũng là dịp để hắn được dùng những giọt nước mắt của tuổi già tưới lên một vùng kỷ niệm mãi mãi là nơi ủ ấm những đốm lửa sáng tạo trong sự nghiệp văn chương của hắn. Hắn tin rằng không ai có thể viết hay hơn hắn về hai ông cháu Vũ Hồng Khanh. Người ông vì không có những quyết định đúng ở mỗi bước ngoặt của lịch sử, trở thành tội nhân của lịch sử, đứa cháu thì chả biết một tí gì về ông ngoại mà một đời phải lận đận vì những hoạt động chính trị trong quá khứ của người ông. Hắn đã phải chịu cái tội của tổ tông, là những cái tội hắn không thể biết chứ đừng nói có liên can. Lại một ông cựu đảng viên, vào đảng từ thời Nguyễn Thái Học mới lập đảng rồi cũng chạy trốn sang Vân Nam, rồi nhớ nước quá lại quay về, ra đầu thú với chính quyền kháng chiến, đi tù dăm năm, lúc được làm người tự do mới lấy vợ, mới sinh con, gian truân từ trẻ đến già. Cũng là một kiếp người mà sao đau đớn thế, khốn khổ thế. Nhưng tự mình tìm ra tội, rồi tự mình sống thấp thỏm với cái tội tưởng tượng ấy gần trọn một đời người mới thật là một cực hình. Anh ta là một người có học, thuở mới lớn có tham gia rào làng cùng các chú bác anh chị, nghĩ là rào làng kháng chiến chống Pháp, nào dè lại là rào làng chống *********, vì đây là làng của Nguyễn Thái Học, địa bàn hoạt động của Việt Nam quốc dân đảng từ những năm 30. Kháng chiến thành công, anh phải đi tù vì đã có hành động chống cách mạng từ năm 1946. Ði tù năm năm anh được tha trước thời hạn vì là một phạm nhân gương mẫu. Từ ngày được tha, anh mới thật sự là kẻ có tội, thật sự sống trong tù. Cái tội do chính anh tưởng tượng ra và cái nhà anh đang sống với vợ con đã biến thành nhà tù, tự anh là giám ngục. Anh luôn luôn tin rằng mình là kẻ đang bị công an theo dõi nhất cử nhất động của anh đều được ghi chép rất cẩn thận, chỉ cần một chuyện gì đó về chính trị xảy ra ở trong vùng, thậm chí ở trong tỉnh là anh sẽ bị bắt lại ngay lập tức. Anh cười nói, đi lại hệt như một kẻ có tội đang bị theo dõi, lấm lét, khúm núm, nịnh bợ. Là người đàng hoàng ai lại sống như thế, đó là cách sống của một kẻ có tội, cái tội còn được giấu kín, cái tội ấy chỉ có một anh biết, và một cơ quan có nhiệm vụ theo dõi anh chắc chắn là có biết. Và đêm ngày anh ta sống trong sự chờ đợi, phải nói là mong đợi, được bị bắt để chấm dứt một lần cho xong cái kiếp người có mặc cảm là đã phạm tội. Hầu hết các nhân vật trong Một cõi nhân gian bé tí đều có mang tội với ai đó, đều có khả năng phạm tội với ai đó. Người ông có tội với đứa cháu ngoại vì đã để lại một di sản chính trị không được tốt đẹp cho con cháu. Người đàn ông có tội với vợ con vì đã không biết tổ chức một gia đình vững chắc để vợ con có chỗ nương tựa lúc thời thế đổi thay. Người chỉ huy có tội trước cái chết của chiến sĩ vì đã lên một kế hoạch tác chiến thiếu chuẩn xác. Ðứa cháu có tội với bà cô vì đã để bà phải sống cô đơn lúc tuổi già sau nhiều chục năm hy sinh cho anh trai, cho các cháu. Ông uỷ viên của viện kiểm sát cũng phần nào có tội trước những lỗi lầm của các phạm nhân nguyên là chiến sĩ đã từng đánh Mỹ chỉ vì họ không tìm được việc làm thích hợp mà thành can phạm. Xét đến cùng mỗi chúng ta đều ít nhiều có tội trước những bất hạnh của vô số người mà ta đã nguyện một đời phục vụ cho sự no ấm và an toàn của họ. Và ông bố hắn cũng là người có tội khi đã sinh ra hắn mà không có một trách nhiệm gì về cái sinh mạng bé nhỏ mang dòng máu của ông, lại còn vu tội cho hắn để ông được thanh thản rũ sạch cái phần trách nhiệm phải có của mình.
    Cái mặc cảm chính hắn cũng là kẻ ít nhiều có tội trước những bất hạnh của bè bạn, của đồng nghiệp, khiến hắn sẵn sàng giải hoà, sẵn sàng nhận lỗi khi có điều kiện, không hề sợ bị mất mặt trước bạn bè, hoặc sợ bị cấp trên hiểu lầm. Năm 1987, Ðảng và Nhà nước bắt đầu đổi mới hệ thống quản lý kinh tế, xã hội và chính trị cho phù hợp với sự phát triển của đất nước, Ban thư ký Hội Nhà văn có giao cho hắn và nhà văn Xuân Thiều đi mời các nhà văn bị kỷ luật trong vụ án Nhân văn Giai phẩm trở lại sinh hoạt với Hội Nhà văn. Hắn đã nhận nhiệm vụ như kẻ được dịp lập công để chuộc lại nhiều lỗi lầm của mình trong quá khứ. Nhưng những người bị kỷ luật, trong quyết định chính thức là ba năm mà hoá ra kéo dài ba mươi năm, cũng có quyền bất bình, hờn giận với những người đi mời, có anh còn không muốn trở lại Hội nữa, là nhà văn ngoài Hội thì đã sao, vì Hội đâu có bảo vệ được họ khi họ gặp tai nạn. Hắn là tên đao phủ (như có người bạn đã gọi hắn thế trong một lúc quá giận), nhưng lại có bộ mặt của kẻ chịu án, không phải trong lúc này mà suốt mấy chục năm qua, chưa bao giờ hắn có bộ mặt vênh váo của kẻ hãnh tiến, kẻ thắng cuộc cả, chính là cái bộ mặt biết hối lỗi ấy đã khiến mọi việc hoá ra dễ dãi, hoá ra vui vẻ. Một người nói rất gay gắt, người khác lại bảo: "Thằng K. nó đã nói thế thì cũng nên nghe nó, nó cũng là đứa biết phải trái" - "Nó vì anh em mà vất vả, giận dỗi với nó mà làm gì!". Thế là xong, cuộc dàn hoà đã hoàn tất. Ông Trần Dần muốn đi khám bệnh và ông sẽ đi bằng xích lô. Hắn và Xuân Thiều bảo sẽ đưa xe của Hội tới đón ông, Trần Dần gạt ngay: "Mình thích đi xe của dân chứ không thích đi xe của quan". Hắn nói: "Anh không thích nhưng vợ con anh thích, ông Trần Dần đi khám bệnh bằng xe hơi của Hội là người hàng phố sẽ nhìn gia đình anh bằng con mắt khác, nói năng với vợ con anh bằng cái giọng khác". Hắn còn nói đùa: "Thần tiên sống bằng khí trời thì không cần, nhưng người phàm tục sống bằng gạo bằng muối thì vẫn rất cần". Trần Dần cười, không phải vì hắn nói hay mà vì lòng dạ hắn còn ngay thật.
    Suốt một đời hắn chỉ sợ nói oan cho ai một truyện gì đó, vậy mà hắn vẫn nói oan và cả viết oan cho hai người bạn mà hắn còn nhớ. Trường hợp thứ nhất là với nhà văn Trần Kim Trắc. Hắn thuộc tên Trần Kim Trắc trước mấy năm khi được gặp mặt. Ấy là cả hai đều có tác phẩm được giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1952. Trần Kim Trắc được giải nhì với truyện ngắn Cái lu, còn hắn được giải khuyến khích với truyện vừa Xây dựng. Năm 1956, hai người mới được gặp nhau, khi Trắc là một cán bộ của Tiểu đoàn Ba lẻ Bảy lừng danh tập kết ra Bắc và về Phòng Chính trị quân khu 3 làm công tác văn nghệ báo chí thế chân hắn vừa được điều động về Cục Tuyên huấn. Trong một lần về Hà Nội họp, Trắc có gợi ý hắn nên về xứ Quỹ Nhất thuộc huyện Nghĩa Hưng để tìm hiểu một vụ xô xát lớn giữa đám thanh niên công giáo với một đơn vị bộ đội đóng quân ở đó. Trắc nói: "Cũng lớn chuyện đấy, phức tạp hơn trong Nằm vạ nhiều". Một tháng sau hắn bắt tay vào viết tập 1 của bộ tiểu thuyết Xung đột (quyển 1 gồm bốn tập). Năm 1957, Trắc cũng được điều về Tạp chí Văn nghệ Quân đội mới được chuyển trụ sở ra nhà số 4 phố Lý Nam Ðế. Nửa năm sau thì Trắc gặp nạn, một lỗi lầm trong sinh hoạt, cũng nhỏ thôi, gặp người phụ trách có lòng độ lượng thì chả có chuyện gì xảy ra cả, có thể vừa cười vừa trách nhẹ một câu là xong. Ðằng này mỗi người có mặt trong cuộc họp nói hùn vào một câu, chuyện lúc đầu thì nhỏ, dần dần hoá ra to, hoá ra nghiêm trọng, cuối cùng bản án anh phải chịu là hết sức nặng nề. Sáu năm sau, năm 1963, hắn có việc phải về Hưng Yên, bất ngờ gặp lại người bạn văn thiếu may mắn là nhân viên phụ động của Ty Công nghiệp tỉnh. Trời đã chạng vạng tối, cùng ngồi với nhau trong ngôi nhà lợp gianh của một thị xã xơ xác, tiêu điều, tối om như cái làng mới lập, nhìn nét viền của gương mặt bạn trong tranh tối tranh sáng mà hắn muốn ứa nước mắt vì xấu hổ, vì ân hận. Trong sáu năm qua, hắn và các bạn ở cơ quan cũ đã có một ai gửi tới người đồng đội gặp nạn một lời thăm hỏi, một lời an ủi? Hoặc một lời giới thiệu với cơ quan mới để bạn được hiểu đúng hơn, để bạn đỡ khổ hơn? Hắn vẫn được viết văn còn bạn hắn đã bỏ nghề từ ngày rời khỏi tạp chí, bây giờ chỉ còn lo kiếm sống chứ tâm địa đâu nghĩ tới chuyện viết văn. Lại nhiều chục năm sau nữa, đôi bạn oan nghiệt lại chạm trán nhau tại thành phố Hồ Chí Minh, bạn hắn tóc đã bạc phơ, lông mày lông mi đều bạc trắng, nhưng gương mặt lại rạng rỡ như được chiếu sáng từ bên trong. Trong câu chuyện hàn huyên sau nhiều chục năm xa cách, bạn hắn không hề nhắc lại nửa lời chuyện cũ, cái chuyện rất buồn, rất tệ của một thời, thăm hỏi đủ mọi người, chả giận một ai, chả nghĩ xấu về một ai, chỉ khi chia tay mới bảo: "Mình rất biết ơn chín năm làm anh bộ đội ***** thời đánh Pháp. Không có cốt cách của một thằng lính thì khó mà chống đỡ những sóng gió của cuộc đời. Ðời rất dài ai mà tránh mãi được những chuyện không may".
  7. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Năm hắn 69 tuổi, trong một năm hắn nhận được ba, bốn lá thư của Vũ Bão, một bạn văn quen biết nhau từ thuở thiếu thời. Trong các lá thư Vũ Bão có nhắc lại một bài phê bình của hắn nặng về chính trị, nhẹ về văn chương, gần như kết án cuốn tiểu thuyết Sắp cưới của anh, in trên tạp chí Văn nghệ Quân đội năm 1958, cách đây đã 42 năm. Quả tình hắn đã quên biến mất bài báo đó, quên từ lâu rồi. Vả lại họ vẫn gặp nhau trong suốt mấy chục năm ở Hà Nội, cùng uống trà chén ở các quán dọc đường, nói chuyện trên trời dưới đất rất hồn nhiên, rất vui vẻ, có ai nhắc lại chuyện cũ đâu mà nhớ, một lời bóng gió hằn học cũng không có. Vậy mà nỗi đau của bạn vẫn còn đó, nguyên vẹn, tươi mới như chuyện mới xảy ra trong ngày hôm qua, trong tháng trước. Thì ra người cầm dao không thể có cùng một nỗi đau với người bị chém. Vết chém lành nhưng vẫn còn sẹo, còn bàn tay cầm dao buông dao ra đâu có để lại vết tích gì. Trước ngày họp đại hội nhà văn khoảng một tháng, hắn lại nhận được thư của Vũ Bão. Lần này anh ấy yêu cầu hắn phải có mặt tại đại hội, bằng mọi giá phải có mặt, không được lẩn trốn để nạn nhân có thể đứng trên diễn đàn đại hội vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa của một "tên sát thủ", một "dũng sĩ diệt đồng đội" trước mặt bạn bè. Nếu hắn còn ở tuổi 40 có lẽ hắn sẽ có phản ứng khác, nhưng hắn đã bước sang tuổi 70, đang sống mấy năm cuối của một đời người, một đời viết, đã từng có nhiều cơ hội để nhìn lại từng chặng đường của mình, những cái phù phiếm, những ganh đua con trẻ, hiếu thắng con trẻ và cách tự toả sáng cũng rất con trẻ đã tàn lụi theo năm tháng từ lâu rồi, phần còn lại khiến hắn không được an tâm là những lầm lỗi của mình, những lời nói bài viết kiêu ngạo, độc đoán một thời của mình, áp đặt một cách nghĩ đang được người đương thời ủng hộ và loại bỏ mọi cách nghĩ mà lúc về già hắn vẫn thường phải đối mặt, chuyện đời có, chuyện nghề có, chuyện trong gia đình cũng có. Hắn đã sống đời hơn nhiều, thêm tuổi thì mọi cách nghĩ ngợi của hắn càng gần giống với một ông già lương thiện, một ông già biết cách ăn ở lui tới, một ông già từng trải. Xem ra về già bạn bè thương hắn hơn, bạn đọc cũng yêu hắn hơn, và con cái cũng dễ thông cảm với hắn hơn. Là người biết nghĩ thì đã làm việc lầm lỗi phải biết nói lời xin lỗi, phải biết xin những người bị hàm oan mở lòng tha thứ và sẵn sàng chịu nhận những lời mắng mỏ, chửi rủa không chút oán hận. Hắn đến Ðại hội nhà văn với tâm trạng thư thái nhẹ nhõm vì đã tự giải phóng ra khỏi cái ngục tù vị ngã của mình. Khi cái người đã chuẩn bị bản án tuyên đọc trước đại hội hỏi hắn: "Bây giờ ông tính sao?" Hắn đã trả lời rất thản nhiên: "Ông hãy nói hết về tôi như ông đã chuẩn bị, phản ứng của tôi sẽ là tích cực". Vũ Bão lại hỏi: "Ông có lời nói lại không?" - "Không nói lại gì cả, không thanh minh gì cả, tôi chỉ xin lỗi ông trước đại hội thôi". Vũ Bão nhìn hắn với ánh mắt nghi ngờ: "Là thật sao?" Hắn đưa bài phát biểu đã viết sẵn vẻn vẹn chỉ một trang đánh máy: "Tôi sẽ đọc nguyên văn, không thêm một chữ, anh đọc trước đi". Nhưng hắn nói thêm: "Tôi đã có lỗi với nhiều người chứ không phải chỉ với một mình ông. Tôi muốn nhân dịp này được xin lỗi tất cả các anh chị đã có lúc tôi xúc phạm tới niềm tin riêng về nghệ thuật của họ". Sáng hôm sau Vũ Bão lại gặp hắn với lời đề nghị khác, rằng anh không muốn đem chuyện riêng của hai người ra nói trước đại hội, nhưng anh sẽ in lại lời xin lỗi của hắn lên bìa sau của tuyển tập Vũ Bão sẽ in trong nay mai và anh hỏi hắn có bằng lòng không? Hắn nói, lời xin lỗi của hắn là công khai, tuỳ người được xin lỗi muốn dùng cách sao đều được cả. Hai người nhìn nhau một lúc cũng lâu rồi đều cười, cả hai đều đã già, cái thời đòi sự thắng bại đã qua, chỉ còn lại một cách sống hiền minh giữa những người già, lại là những người cùng làm một nghề. Lúc chia tay để vào họp, hắn nói với Vũ Bão: "Ông có gặp Bùi Ngọc Tấn nói giùm tôi rất muốn gặp anh ấy". Vũ Bão nói: "Hắn cũng mới hỏi ông xong, đến bữa cơm gặp lại nhau nhá!".
    8.
    Càng về già hắn càng không thích nghe những câu nói làm duyên của người già, những câu đùa tình tứ của người già, và cả cái liếc mắt mà lòng con ngươi đã bạc phếch của người già. Hắn lại càng sợ phải nghe những bài thơ của các mối tình già, những chuyện tình tái xuân lãng mạn của người già. Câu chuyện tình của bà chị hắn với ông anh rể muộn mằn là chuyện nhân nghĩa, là sự đền bù một cuộc tình bị lỡ dở những năm còn trẻ mới khiến được hắn cảm động, khiến hắn quan tâm và trân trọng. Nhưng hắn vẫn không giấu được nụ cười ẩn náu đâu đó giữa các hàng chữ. Bây giờ người vợ già của hắn lại nói từ sáng đến tối, đến nửa đêm rằng bà luôn luôn yêu hắn, luôn luôn sợ mất hắn, luôn luôn dõi theo hắn mỗi lần hắn bước ra khỏi nhà, không phải đi đâu xa cả năm cả tháng mà chỉ là đi ăn quà sáng hoặc đi uống một tách cà phê ở đầu đường. Thế là hắn nổi điên lên dẫu hắn vẫn biết sự cáu giận của mình là rất vô lý, rất quái gở. Thằng con lớn nói nửa thật nửa đùa: "Ðã già mà vẫn được vợ yêu là hạnh phúc lắm đấy. Bố phải nghĩ mình là người chồng rất hạnh phúc, nghĩ thế là sẽ thấy nhẹ nhõm ngay". Nhưng hắn không thể nghĩ như thế được, hắn vốn rất sợ những hành vi buồn cười, những lời nói buồn cười, đã là hai cái xác sắp đem chôn còn bày đặt ghen tuông, rình mò, sợ bị ai đó cướp mất. Chỉ có đứa khùng mới đi cướp một cái xác khô về để hầu và để chôn thôi. Vợ hắn bảo: "Anh mặc quần áo đàng hoàng đâu có giống cái xác khô, vẫn còn tươi tắn lắm, chỉ như người mới 60 thôi". Mấy bố con ngồi trò chuyện với nhau, hắn nói nhăn nhó: "Mẹ chúng mày điên thật rồi, mắc bệnh tâm thần phân liệt rồi, lấy chuyện hư, chuyện tưởng tượng làm chuyện thật, càng lúc càng tin là chuyện có thật. Chúng mày phải nghĩ cách giùm tao..." Thằng con lớn vẫn vừa cười vừa nói: "Bố thường khoe một đời biết nhịn những cái nhỏ để được những cái lớn. Bố thử chiều mẹ một chút xem sao?" Hắn hỏi lại: "Tức là tao nhận tao đã có lỗi?" - "Với người có bệnh cứ nhận đại là đã có lỗi, có nhiều lầm lỗi thì đã mất gì nào? Mẹ còn sống được bao lâu mà bố phải nhất quyết giành cho được phần thắng?" - "Tao tự hào là một người chồng, một ông bố rất có trách nhiệm từ trẻ đến già. Tao chả có lỗi gì với mẹ con chúng mày cả". Ðứa con lại hỏi: "Xưa nay bố có lỗi gì với bạn bè mà sao bố chịu nhường nhịn các chú ấy nhiều thế?" Hắn nói: "Với bạn bè tao rất có lỗi, người ngoài nhìn vào nghĩ rằng tao không có lỗi, nhưng tự tao biết tao rất có lỗi với họ". Con hắn lại cười: "Họ chưa đánh bố đã chạy làm sao lại có lỗi được?" - "Có chứ, cô chú Anh Ðức sinh con trong rừng, nuôi con dưới bom B.52, tao rất có lỗi với vợ chồng chú ấy. Chú Nguyên Ngọc lấy vợ năm đã ngoài bốn chục tuổi, vợ chú ấy cũng phải ngồi trong nhà tù của Mỹ ngụy nhiều năm, chả lẽ tao không có lỗi. Chú Phan Tứ rời chiến trường ra Hà Nội chỉ để đi nằm bệnh viện, ra ra vào vào, chết đi sống lại mấy lần, chả lẽ tao không có chút ân hận nào? Nói ngay cậu Chí Trung của chúng mày, một đời lăn lộn trong bom đạn, bây giờ già lắm rồi, đứng lên ngồi xuống đã phải vịn bàn chống tay, nói một lúc là thở, đã ngoài bảy mươi mà một gia đình cho riêng mình cũng không có. Tao với cậu ấy còn nhiều chuyện phải tranh cãi nhưng tao đâu có dám tranh cãi, hễ cậu ấy cáu lên là tao tháo chạy ngay. Tao gần như được tất cả, cậu ấy gần như mất tất cả, chỉ còn lại mỗi cái quân hàm thiếu tướng. Thiếu tướng chứ đến đại tướng đâu có lấp đầy được những thiếu vắng của tuổi già. Tao có tư cách gì mà tranh luận, mà phân phải trái với những con người như thế. Tao không đồng tình với họ nhiều chuyện nhưng tao ngưỡng mộ họ, tao vẫn nhìn vào họ để gìn giữ sự ngay thẳng trong ngòi bút của mình".
    Nói tới chuyện có lỗi hắn lại nghĩ tới Nguyễn Trọng Oánh, một người bạn rất thân của hắn từ thuở mới về tạp chí Văn nghệ Quân đội. Cả hai đều là lính quân khu, lính đại đoàn được điều động về Tổng cục Chính trị, giống như một lũ tiểu quỷ đang ở gò ở đống bỗng chốc được lên thượng giới để sống kề cận với các vị đại tiên; đang là tôm tép ở rãnh nhỏ ngòi nông được vớt ra sông lớn hồ rộng, sống mãi rồi cũng có ngày trở thành cá lớn. Suốt một thời đánh Pháp tự nghĩ, tự viết chả có pháp thuật gì, thầy bà gì biết đến ngày nào mới thành chánh quả? Hắn là người sinh trưởng ở Hà Nội, sau nhiều năm ở làng ở rừng được về lại thành phố ngu ngơ như người nhà quê. Còn Oánh chỉ là chàng trai nông thôn lần đầu ra sống ở Hà Nội nhìn đâu cũng lạ. Cái vui của kháng chiến thành công, của tuổi trẻ, của Hà Thành hoa lệ, của những năm tháng nhảy cao bay xa sắp tới, hắn lại lấy được cả tiền nhuận bút truyện vừa Xây dựng khoảng 15 ngàn (là một trăm rưởi khi đổi tiền), sáng trưa tối đều có thể ra phố ăn quà thoả thích, sống thoả thuê, sống mãn nguyện mọi giờ mọi phút trong ngày, không ai muốn ngủ cả, không đi chơi thì ngồi tán chuyện, đọc thơ, đọc văn cho nhau nghe, rồi nghe các bậc đàn anh tâm sự về nghề nghiệp, kể chuyện về cuộc sống và thói quen viết lách của các tên tuổi lớn trên văn đàn hồi trước cách mạng và những năm ở rừng trong kháng chiến. Rồi những cái chết trận và chết bệnh của Trần Ðăng, Hoàng Lộc, Thâm Tâm, Hải Triều, Ngô Tất Tố, Nguyễn Ðình Lạp... Trong những câu chuyện linh tinh mỗi ngày mỗi đêm, hắn và Oánh gần như chỉ ngồi nghe chứ không dám mở miệng nói leo, biết gì mà nói, chuyện của nghề mới là anh tập việc, người trong nghề cũng chỉ mới được làm quen, sách của Tây thì chưa được đọc, sách của ta cũng chỉ mới đọc dăm bảy cuốn tiểu thuyết trước cách mạng. Vốn liếng sách vở không, từng trải việc đời không, mà lại dám nuôi mộng thành nhà văn nhà báo không sợ là hão huyền sao? Năm 1957, hắn bắt đầu viết các tập ghi chép về một vùng nông thôn công giáo ở Nam Ðịnh đăng rải làm nhiều kỳ trên tạp chí Văn nghệ Quân đội. Những chương sách có thể tồn tại độc lập được lập tức có bạn đọc ngay và tên của hắn bắt đầu được nhắc trong giới viết lách và những bạn đọc yêu văn học. Hắn đã bấm được ngón chân và đã đi được vài bước trên lối đi cheo leo dễ trượt ngã của văn chương. Nhưng Oánh thì chưa, trên bầu trời thi ca những năm ấy đã có sẵn những vùng sáng chói loà của các thi bá: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận, lại có cả những vùng nghịch sáng của Trần Dần, Hữu Loan, Hoàng Cầm. Thơ của Oánh trong nhiều năm vẫn phải đứng lẫn trong đám đông, thơ nghiệp dư, thơ của anh bộ đội yêu thơ, thích làm thơ. Tuổi trẻ mà mộng chưa đạt là dễ giận thân lắm. Bạn bè cùng lứa đã bắt đầu có sự phân biệt, đã có người nổi tiếng, và nhiều người đã có chỗ đứng riêng trên các trang báo tuần báo ngày. Những người nổi tiếng nhất những năm ấy là Nguyên Ngọc và Phùng Quán. Phùng Quán nói: "Mình đi từ Hà Nội và Vĩnh Linh không cần phải giấy giới thiệu, chỉ cần nói Phùng Quán đây, là các barie đều nhấc lên để mình dắt xe vào". Nên Oánh chịu khó đi lắm, chịu khó viết lắm. Khi hắn ra Cồn Cỏ vào giữa năm 1965, đến xã Vĩnh Kim đã gặp Oánh ở đấy rồi. Oánh vừa từ Cồn Cỏ trở về đất liền đang đợi xe ra Hà Nội. Chả ai phân công Oánh ra Cồn Cỏ cả, thích đi là đi, thử đến một nơi nóng nhất của cuộc chiến tranh phá hoại vừa mới bắt đầu xem có làm được một bài thơ hay không? Quả nhiên bài thơ của Oánh về các chiến sĩ Cồn Cỏ là rất hay, sẽ còn lấp lánh lâu dài trong số những bài thơ hay thời chống Mỹ. Năm 1968, Oánh lên đường vào với bộ đội binh đoàn 559, định đi vài tháng rồi ra, nào ngờ được nửa thời gian lại có lệnh đi tiếp vào B2, tiếp sức cho Tạp chí Văn nghệ Giải phóng vừa mới mất một người lãnh đạo đầy uy tín là nhà văn Nguyễn Thi.
  8. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Tháng 5 năm 1975, hắn mới gặp lại bạn cũ sau bảy năm xa cách, đã nghĩ sẽ phải nói với nhau rất nhiều chuyện, chuyện đời, chuyện nghề, chuyện cơ quan cũ. Nào ngờ bạn cũ nhìn hắn như mới quen biết lần đầu, nói cười với hắn rất gượng gạo, khi nói chuyện với hắn ánh mắt cứ nhìn chéo đi như ghét lắm, giận lắm. Hắn là người nhạy cảm nên biết ngay vì lẽ gì bạn lại ghét mình, giận mình. Cái tội của hắn là đã không có mặt ở các chiến trường phía Nam suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ. Bạn bè thay nhau vào còn hắn vẫn bình thản ở lại miền Bắc, quanh quẩn với vợ với con suốt bấy nhiêu năm, và viết, viết quá nhiều, tới đâu viết đó, thậm chí có nơi chưa từng đến, chỉ nghe kể chuyện vẫn cứ viết được như tập bút ký chính luận về Hoà Vang.
    Người đi chiến trường sống chết từng giờ vẫn là người viết văn nghiệp dư, hành quân, vác gạo, đào hầm, rồi ốm đau, rồi bình phục, rồi lại tiếp tục hành quân, có lúc nào rảnh rỗi được vài ngày để ngồi viết. Người viết khoẻ nhất là Nguyễn Thi cũng mới chỉ là những phác thảo dở dang, gần như là những trang ghi chép viết kỹ, còn phải mất nhiều năm tháng sống trong hoà bình để ngẫm nghĩ, lựa chọn, gọt giũa mới có thể thành một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh được. Nhưng chưa kịp chuẩn bị gì cho cái hồi sau thì đã chết rồi. Chết là hết, là bản thảo bị cháy, một sự nghiệp thành giấc mộng, cái nỗi đau ấy phải là người trong nghề mới cảm nhận được hết những xót xa. Và bây giờ chiến tranh vừa chấm dứt được vài ngày đã thấy hắn vác mặt vào, vào để hỏi han, để thu thập tài liệu, để được sống ít ngày trong cái không khí chiến thắng, không khí giải phóng, sau đó hắn lại về Hà Nội ngồi viết, còn viết nhanh hơn, nhiều hơn những người ở chiến trường vẫn còn chưa hết bàng hoàng. Thế là giận, vì sao lại giận, cũng chẳng có lý do chính đáng nào, là giận cho cái thằng hay gặp may, nhưng sự may rủi lại là những yếu tố không thể loại bỏ trong mỗi số phận, luôn luôn có, mãi mãi có, không tuỳ thuộc vào mình có thích hay không thích. Mình ghét hắn, chế giễu hắn, hắn vẫn cứ gặp may, hắn có tự tổ chức ra những cơ may đó đâu mà bảo phải chịu trách nhiệm về sự lấn phần may của người khác. Nhưng về già hắn lại gặp nhiều sự không may rồi! Cái chuyện không may của hắn không một ai có thể tưởng tượng nổi, nó buồn cười lắm, thê thảm lắm, mà chỉ cần hắn thay đổi cách sống một chút là hắn hoàn toàn có thể thoát ra vì tất cả đều tuỳ thuộc vào hắn, không có một trở ngại nào từ bên ngoài có thể ngăn trở hắn tự thay đổi. Vậy mà một người thông minh như hắn, luôn luôn biết tự điều chỉnh cách sống bằng sự từng trải của người khác lại phải chịu bó tay trong một trường hợp không một ai chịu bó tay, không một ai chịu đứng im để than vãn về sự không may của mình. Hắn luôn đề phòng mọi nghịch lý của đời sống nhưng chính hắn lại rơi vào một nghịch lý chưa từng nghe nói, chưa từng biết có thể có một trường hợp lạ lùng như thế nên không nhận ra những dấu hiệu báo trước, không hề chuẩn bị và cũng không biết cách chuẩn bị. Từ trẻ đến già hắn chỉ chuẩn bị là người thua, người chịu thiệt, người đứng phía sau, ngồi hàng dưới, rút cuộc hắn vẫn cứ là người thắng. Nhưng trong một trường hợp hắn nghĩ mình phải là người thắng, mãi mãi thắng thì hắn lại chịu thua, thua thảm hại bởi một người đàn bà rất thân thiết, không có bất cứ sức mạnh nào để đốn gục hắn cả.
    9.
    Năm 70 tuổi bỗng dưng hắn được rất nhiều. Ðầu năm hắn có nhà mới (do hắn bán nửa căn nhà cấp bốn phía sau để có tiền xây nửa căn nhà phía trước thành nhà cấp hai, một trệt hai lầu), cả đời chưa bao giờ hắn nghĩ có thể được ở một toà nhà khang trang đến thế. Cả tuần lẽ hắn không ngủ được trọn đêm, ngủ được một giấc dài là hắn vùng dậy ngồi chồm hỗm trên tấm nệm trải ngay trên nền nhà, ngắm nghía căn phòng từ nay là thế giới của riêng hắn, muốn bày biện ra sao cũng được, muốn thức muốn ngủ lúc nào cũng được, và cái bàn nhỏ hắn có thể viết cả ngày lẫn đêm chả ai dám quấy nhiễu, mà cái việc thất thường của hắn cũng không quấy nhiễu một ai. Trong nhiều chục năm cái bàn viết của hắn là bàn công cộng, đang viết có khách tới chơi thì gạt bản thảo sang một bên, rót trà mời khách, nhiều trang không thể đọc lại vì đã vàng ố nước cặn trà. Ðang viết lại chạy vụt ra ngoài để mua một bao thuốc Ðiện Biên hay Tam Ðảo, lại đứng nói chuyện với bạn cùng khu tập thể một lát, về ngồi lại vào bàn tìm mãi không thấy trang bản thảo viết dở, hỏi con lớn năm nó đã lên tám, con trả lời vừa lấy giấy trên bàn đi chùi đít rồi. Ăn cơm gia đình thì vợ con ngồi ăn dưới đất, còn chủ và khách thì dọn cơm trên bàn vì cũng chỉ có hai cái ghế. Một cái bàn, hai cái ghế, hai cái giường, một cái tủ nhỏ, kê vừa chật mười lăm mét vuông của căn hộ một gia đình cấp uý, cấp tá thì được thêm nửa gian nữa, rồi cơi một gian phía trước, vẩy một gian phía sau, vẫn sống rất thoải mái gần hai chục năm trời, lúc chiến tranh lúc hoà bình, lúc mới một con, lúc đã ba con, ba con chết mất đứa đầu ở sông Hồng còn lại hai, hai năm sau đẻ bù một thằng út lại thành ba, lúc khóc lúc cười, lúc buồn lúc vui, có lúc là cây bút trẻ đầy triển vọng, có lúc lại là tên phản trắc viết lách xỏ xiên, bao nhiêu chuyện thăng trầm của một đời người đều diễn ra trên mười mấy mét vuông nền xi măng ấy cả, cái gian nhà tiều tuỵ ấy mãi mãi là thiên đường của một thời đối với hắn, hắn thành danh từ đấy, thành người bố của một bầy con từ đấy, vợ chồng gắn bó với nhau trong bấy nhiêu năm cũng bắt đầu từ đấy, nơi ấy là đất lành, đất ra hoa ra trái, ra văn chương ra sự nghiệp chứ còn nơi nào khác nữa. Hà Nội với hắn thu gọn lại chỉ là một rẻo đất bãi sát sông Hồng, mùa nước lũ một màu trắng đục ngầu bọt, ngầu rác che phủ tất cả, nước rút lại đến mùi tanh khắm của bùn khô, rác thối, chuột chết, mèo chết, ********, hết mùi tanh là đến mùa ruồi, ruồi bay đen như mây từng mảng lớn mảng nhỏ bâu kín mâm cơm, đình màn, dây phơi quần áo, cười to nói lớn là ruồi bay vào tận trong cuống họng. Ðêm đến, nhất là những đêm cuối chạp, đầu xuân, đi họp về đứng trên bờ đê nhìn xuống cái vực đen thăm thẳm, le lói những chấm đèn vàng sẫm mà ghê quá, ngại quá, như sắp bước chân xuống cõi âm ty địa ngục nào. Nhưng trong cái địa ngục hun hút ấy là một đống thịt nồng nặc mùi khai đang ủ trong chăn ấm, là tiếng nói mê của trẻ con, tiếng ngáy nhỏ của người vợ sau một ngày chạy vạy mệt nhọc, địa ngục mà cũng là thiên đường chứ hắn còn có thiên đường nào khác! Có lần hắn đi họp ở nước ngoài, đoàn Việt Nam có hai người và đoàn Ba Lan cũng có hai người, có bốn người mà được ở hẳn một toà lâu đài giữa thành phố Praha, một đoàn ở tầng trên, một đoàn ở tầng dưới. Mỗi tầng có tới mười mấy phòng ở sao cho hết! Những đêm ấy hắn không ngủ, cứ đi lang thang từ phòng này sang phòng nọ, vì cả ngày sau hắn đều ở hội nghị, ăn trưa ở khách sạn, mãi tới khuya mới được về nơi ở như hoàng cung của mình. Rồi hắn về Hà Nội, lại chui đầu vào căn nhà hạnh phúc của hắn, cởi giày ra, áo ngoài áo trong cởi ra, lại quần áo bộ đội và cái áo bông bộ đội, lại ra nhà vệ sinh tập thể, *** rải từ ngoài vào trong, lại ruồi, lại cái mùi tanh khẳm quen thuộc, đêm ngủ với các con nồng nặc một mùi khai nước đái trẻ con, mùi hôi của màn, mùi mốc của chiếu, trời thì mưa phùn, trong nhà nhớp nháp hơi nước của gió nồm, chỉ khó chịu có một đêm đầu, đêm sau ngày sau lại chả ngửi thấy mùi gì hết, ngửi đâu cũng chỉ thấy mùi da thịt của vợ của con, mùi hạnh phúc, mùi thanh bình, lòng dạ yên tĩnh hẳn lại và hắn lại xắp giấy bút, pha một ấm trà hương chuẩn bị viết tiếp những trang bản thảo đang bỏ dở. Thời trước, ba mươi lăm, bốn mươi tuổi là phải làm nhà, mua nhà, hoặc chỉ mua một căn hộ để sống tách khỏi cái đại gia đình. Thời bây giờ đám doanh nhân trẻ và các viên chức nhà nước tinh khôn lại thêm có cái đức lo xa đã có nhà riêng từ năm ba mươi, ba lăm tuổi. Còn hắn mãi tới năm bảy mươi tuổi mới làm được cái nhà tử tế để vợ con cùng ở. Làm xong nhà chả biết hắn còn được ở nhà mới thêm mấy năm rồi lại phải ra ở gò ở bãi. Vì biết không thể ở được lâu trong ngôi nhà của mình nên hắn không dám rút ngắn niềm vui bằng những giấc ngủ vặt vãnh của người già. Ngủ thì vẫn phải ngủ nhưng những lúc thức là hắn lại đi tha thẩn từ phòng này qua phòng nọ, đi chán lại ngồi xuống các bậc thang trắng bóng, hút vài hơi thuốc với một cảm giác cực kỳ khoan khoái. Vật ngoài thân cũng mới chỉ thuộc về mình có ít ngày còn quyến luyến không nỡ rời, rời ra thì nhớ lắm, tiếc lắm huống người đàn bà đã là phân nửa của hắn từ non nửa thế kỷ, ngày vui cũng nhiều, ngày buồn cũng lắm, con sống có con chết có mà cũng sắp kết thúc cả rồi, hoặc hắn hoặc vợ hắn cũng sẽ phải rũ áo ra đi, sẽ chia tay nhau mãi mãi mà hắn không quyến luyến ư, không đau đớn ư? Lại không sẵn sàng nhận mọi lỗi lầm cho dù chả có lỗi lầm nào, sẵn sàng làm tất cả những gì vợ hắn một đời mong mỏi, dầu việc làm ấy có ngược lại nếp cũ, ngược lại với thói tật gia trưởng của một thằng đàn ông châu Á cổ hủ!
    Vợ hắn nói với hắn: "Trong những cái được của anh một đời có đến phần nửa là công của vợ anh nhưng trong con mắt anh, tôi không phải là vợ, chỉ là con tôi con đòi, có nợ với nhà anh từ kiếp nảo kiếp nào nay phải trả cho hết thì mới hoá sang kiếp khác được. Một đời ăn ở với nhau chả bao giờ anh hỏi tôi muốn gì, cần gì. anh cứ làm theo ý anh còn tôi là con ở con hầu không thích cũng không dám cãi lại. Tôi sinh cho anh năm đứa con, ba sống hai chết, chả có lần nào anh đưa tôi đi bệnh viện, tôi bị băng huyết, bị sát rau cũng phải sau đó anh mới biết. Sinh con xong khát khô cả cổ, người ta thì có sữa do chồng đưa vào còn tôi thì chỉ húp có nước rau muống luộc. Ðẻ xong có bao giờ tôi được kiêng cữ lấy vài tuần, sợ chồng bận, sợ chồng không viết được tôi lại tự đi nấu cơm, tự giặt giũ. Anh có người vợ dễ bảo đến thế còn chửa vừa lòng sao? Còn chửa bằng anh bằng em sao? Tôi chỉ trở thành gánh nặng cho anh có vài năm nay, vì tôi đã già rồi, lại mang nhiều bệnh. Nhưng anh đâu có vất vả thêm vì tôi, tất cả lại dồn lên đầu mấy đứa con, tiền là của chúng nó, đưa mẹ đi bệnh viện, chăm nuôi mẹ ở bệnh viện cũng là chúng nó, anh vẫn ngồi nhà mà, một tuần đến thăm vợ một lần mà cũng ngại, cũng thấy là khó nhọc. Người sướng đến thế mà không biết sướng...".
    Tất cả những tội lỗi của một thằng đàn ông tự xem là ông chủ tuyệt đối của gia đình thật ra đều xuất phát từ lòng yêu thương cả, hắn đã xem vợ là chính hắn, là một nửa của hắn, còn có việc làm nào ở đời này mà không phải vì vợ vì con. Hắn được danh, cái danh ấy là của cả chồng cả vợ, cái lợi cũng thế, một đời chưa bao giờ hắn cầm tiền hoặc có một khoản tiền để tiêu riêng. Vì đã nghĩ như thế là đủ, là đã làm tròn bổn phận làm chồng làm cha, nên hắn không cần có những chiều chuộng, nịnh bợ, những lời nói vuốt ve, hắn vốn rất sợ những lời nói của kịch, của sân khấu, những trò phường tuồng như hắn vẫn chế giễu trong mối quan hệ vợ chồng cha con. Ðến chơi nhà bạn bè hoặc các bậc huynh trưởng thấy vợ chồng họ dạ thưa với nhau nhiều quá, săn sóc âu yếm nhau lộ liễu quá hắn đều cảm thấy rất khó chịu, nói quấy quá dăm ba câu chuyện rồi tìm cớ cút thẳng. Hắn không thấy cần nhưng vợ hắn lại rất cần, hắn có thú vui được đi rồi được viết, niềm vui bất tận của người sáng tạo, còn vợ hắn ngoài những nghĩa vụ ở cơ quan và gia đình còn có niềm vui riêng nào nữa nhỉ? Nửa thế kỷ chung sống nhưng những lần được đi cùng với nhau tới nhà hát, tới rạp chiếu phim có thể đếm trên đầu ngón tay. Hoàn toàn không có chuyện vợ chồng con cái đi nghỉ dài ngày vào dịp hè hoặc đi chơi ngắn ngày vào những dịp lễ tết, lúc thì con còn nhỏ, lúc thì đang có chiến tranh, lúc thì đã quá già để có thể phơi cái khung xương khô ra bãi biển. Hắn không cần đi đâu cả, cũng không cần phải chơi bời với ai, trò chuyện với ai trong một thời gian dài mà không thấy buồn, không thấy trống vắng. Chính là cái khoảng thời gian ngồi một nơi, sống một mình lại là những ngày hắn khoan khoái nhất, mãn nguyện nhất vì cùng được phiêu lưu với các nhân vật của mình, được cùng trò chuyện với họ, tranh cãi với họ, mỗi ngày một chủ đề, có lần hắn thắng, có lần hắn thua nhưng bao giờ cũng bằng lòng về các cuộc trò chuyện tưởng tượng dông dài ấy. Sau chuyến đi Thái Bình lần thứ hai, suốt mấy tháng sau hắn sống như người mộng du, lúc là chàng "lãng tử"; lúc là anh thương binh đã bị bom Napal đốt cháy hết gương mặt và hai bàn tay; lúc lại nhà báo tỉnh với số phậm hẩm hiu của một thời thế đã thay đổi. Nhân vật nào hắn cũng ao ước, cũng gắn bó vì họ đều có tính cách mạnh dám vượt khỏi những trói buộc của hoàn cảnh để được trung thành với chính mình. Bạn bè hắn thường nói nửa đùa nửa thật rằng hắn có tài viết nhanh viết nhiều, gặp bất cứ ai, nghe bất cứ chuyện gì hắn đều có thể viết được. Thật ra hắn chỉ quan tâm và chỉ viết hay những gì có liên quan đến những mộng mơ lớn nhỏ của hắn, liên quan đến tiểu sử và cái thế giới thầm kín của hắn. Gặp một người thú vị đúng như hắn mong ước, hắn còn vần vò, nhào nặn họ đến chán chê trong cõi tưởng tượng của hắn, gần như hắn đã biến hoá thành chính họ, họ là cái mong muốn được là, là cái sẽ là, nhân vật văn học là con người khác của hắn chứ không bao giờ là hắn. Là giống con người mộng mơ chứ không thể giống với con người thật, con người hàng ngày của hắn nhạt nhẽo muốn chết làm sao thành nhân vật văn chương được. Trong những ngày hắn chuẩn bị viết và viết không ai muốn gần hắn cả, là con người đáng ghét nhất, khó chịu nhất, ăn như nuốt bã cám, nói như người dở hơi, đi lại trong nhà như cái bóng, động tí là gắt, rất dễ gắt, gần như một kẻ hoàn toàn vô tích sự khiến mọi sinh hoạt trong gia đình hoá ra nặng nề, hoá ra căng thẳng. Chính trong những ngày ấy vợ hắn bắt đầu có dấu hiệu của bệnh liệt rung, mãi sau này khi bệnh đã phát lộ hắn mới biết, dầu vợ hắn đâu như đã nói với các con, với cả hắn nhiều lần về sự cứng dần của các đốt ngón tay, sự thiếu chính xác khi gắp thức ăn, khi đánh răng, khi rửa mặt và hay có những cơn nhức đầu vặt. Hắn đã quên luôn là vợ hắn đang già dần, đứng lên ngồi xuống đã khó nhọc, và bước đi đã có cái dáng lom khom của một bà già sáu mươi tuổi.
  9. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    Lần đầu tiên vợ hắn phải nằm bệnh viện vì bệnh sỏi mật, sau gần hai chục năm phải vào bệnh viện để sinh đứa con sau cùng. Vợ hắn nói với hắn trong hơi thở ngắt quãng: "Từ nay tôi phải sống dựa vào chồng con rồi, tôi không hầu được bố con ông như trước nữa. Rồi ông sẽ bận đấy chứ không rảnh rỗi ngồi viết như những năm tôi còn khoẻ đâu". Hắn nói thản nhiên: "Bà không giúp tôi được, con cái cũng không giúp được thì phải mượn người làm, nhà nào chẳng thế". Vợ hắn nghe xong có vẻ buồn, còn như rất buồn, thì ra người vợ già chả còn quan trọng bao nhiêu tới cuộc sống của gia đình, tới công việc viết lách của hắn. Không có vợ thì đã có người giúp việc, hắn vẫn có tiền mà, xưa kia phải nuôi con bằng tiền nhuận bút, bây giờ con không phải nuôi mà tiền nhuận bút vẫn có, hắn vẫn viết nhanh viết nhiều như những năm còn trẻ, các báo ngoài Hà Nội và của thành phố vẫn săn bài của hắn như thời xưa, hắn đâu có phải thay đổi gì cách sống cách viết nếu như bà vợ già bắt đầu đau yếu.
    Hắn cũng đã nghĩ thế, vợ hắn đau bệnh đâu có ảnh hưởng gì nhiều tới đời văn của hắn, tới cả đời riêng nữa, vì ngoài người vợ mỗi năm một già đi hắn chưa từng để ý tới một người đàn bà nào khác.Thèm muốn thì vẫn có nhưng nghĩ tới những phiền phức buồn cười của mối tình vụng trộm lúc đã già là hắn lại sợ, hắn sợ trở thành một trò cười trước mắt con cái nhưng còn sợ hơn là mất sự yên tĩnh quen thuộc khi ngồi trước trang giấy trắng. Danh cũng không bằng được thảnh thơi ngồi viết, lợi đến mấy cũng không sướng bằng cái lúc được viết, vợ con cũng là nhỏ trước trang bản thảo, đời hắn chỉ là viết, là cái gông cái cùm hắn tự nguyện chui đầu vào, đưa tay vào, bỏ nó đi để trở thành người tự do thì thà chết quách còn hơn. Danh và lợi và gái là những cạm bẫy hiểm độc đến danh nhân anh hùng cũng khó thoát nhưng hắn lại chuồi được ra rất dễ dàng, với hắn chả có gì quyến rũ hơn là tờ giấy cây bút. Nhưng một đời văn mà không có những ham muốn, đau khổ, dằn vặt, thất bại của mọi đời thường thì lấy gì mà viết, đời không có đam mê, không có thất bại thì nhạt bằng nước ốc, nước đã trong sao quấy bột thành hồ! Hắn không sợ điều đó vì trời đã cho hắn cái khả năng thoát xác nhập hồn rất dễ dàng, với giá đồng nào hắn cũng đều nhập được trọn vẹn, thành thục, là đàn ông hay đàn bà, là tiện dân hay quý tộc, là cụ đạo hay ông sư, là thánh nhân hay tội phạm... Hắn có thể là tất cả mà cũng không là ai cả, là hình bóng của đối tượng hắn khai thác, là kẻ chỉ có thật trong tưởng tượng nên không có cái bẫy nào giữ được hắn lâu dài. Tưởng là thế mà hoá ra không phải thế. Về mấy năm cuối đời hắn lại bị sập bẫy do chính hắn thiết kế, tự hắn chui đầu vào và tự hắn đánh sập xuống và hiện nguyên hình là một thằng đàn ông khốn khổ mà bất cứ ai cũng có thể thoát ra rất dễ dàng, riêng hắn chẳng những không thể thoát ra mà còn tự chằng thêm dây trói, đêm ngày dãy dụa trong những vòng trói ấy. Và hắn đã nghĩ đến cái chết, đã nói ra miệng đến cái chết tự nguyện với con cái để vĩnh viễn thoát khỏi sự trừng phạt cay nghiệt nhất mà hắn đang được nếm trải.
    10.
    Cuối năm 1956, hắn làm công tác cải cách ruộng đất ở tỉnh Quảng Yên, đợt cuối. Một sáng, hãy còn tối trời vừa thức giấc hắn đã nhìn thấy một hình người ngồi nép vào một chân cột. Hắn vùng dậy, hỏi nhỏ: "Ai ngồi đấy thế?" Cái bóng kia lê người lại: "Bẩm đội con là địa chủ Tịnh đây ạ". Hắn nhìn trước nhìn sau rồi kéo bà lão lên ngồi cạnh, nói nhỏ: "Trước đông người cụ muốn gọi sao thì gọi nhưng vắng người cụ cứ xem con như con cháu của cụ" - "Con không dám..." - "Cụ nói lại đi, cụ xưng là bác đi..." - "Tôi không dám, chả là tôi có một chuyện này..." Mấy bước cuối, đội cải cách làm tiếp luôn việc sửa sai, trao trả lại quyền công dân cho một số cán bộ thôn xã, hạ thành phần những người bị quy sai, điều chỉnh lại việc phân chia ruộng đất, không khí làng xóm nhẹ nhõm hẳn, vui vẻ hẳn, người bị tố và người đi tố sau vài cuộc họp đã làm lành với nhau cũng nhanh chóng. Trong một bữa ăn gia đình nhân có hai con trai ở bộ đội về thăm mẹ, bà lão Tịnh có mời hắn sang uống rượu. Người con trai lớn của bà hơn hắn mươi tuổi, là cán bộ cấp trung đoàn nói với hắn trong nước mắt: "Bây giờ thì mẹ đã coi em như đứa con út trong nhà. Không có em bảo vệ mẹ và chị..." Thật tình hắn không bảo vệ gì bà lão cả, hắn chỉ không làm nhục bà thêm thôi. Trong cách nhìn trong cách nói mỗi khi gặp hắn bộc lộ rõ sự tôn trọng của hắn đối với bà, bà là địa chủ nhưng bà còn là mẹ của các cấp trên hắn trong quân đội. Ông đội tỏ ra dễ dãi thì bà con nông dân lập tức dễ dãi ngay. Họ đã ăn ở với nhau hàng mấy đời nếu mình không sinh sự thì tự họ làm sao lại sinh ra sự.
    Ðối thoại, dàn hoà, đoàn kết là phương châm nằm lòng suốt một đời của hắn. Hắn không thể là người của hành động, hành động bao giờ cũng đòi hỏi sự bạo liệt của người lãnh đạo, người chỉ huy, không có bạo liệt thì chả làm được việc gì đến nơi đến chốn, việc nhỏ cũng hỏng nói gì tới chiến tranh, cách mạng. Năm 68 tuổi hắn nhận huy hiệu 50 năm tuổi Ðảng, trong lời phát biểu hắn nói rằng hắn xứng đáng được nhận danh hiệu một đảng viên cộng sản lão thành, nhưng trong thâm tâm hắn lại tự thú hắn không thể xứng đáng. Hắn chưa bao giờ là một chiến sĩ cách mạng trong hành động thực tiễn, hắn thường tỏ ra rất uỷ mị, rất mềm yếu trước kẻ thù khi họ đã thất bại, đã phải gánh chịu một số phận bi thảm liên luỵ tới cả vợ cả con họ. Hắn sợ phải đối mặt với những cảnh ngộ thương tâm, bất kể người trong cảnh ngộ trước đây họ là ai, đã làm những gì. Năm 1987 khi về làng Thổ Tang hắn có xin với Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc được trò chuyện dài ngày với phạm nhân Vũ Hồng Khanh, một lãnh tụ Việt Nam Quốc dân đảng thời Nguyễn Thái Học, được quản thúc tại quê nhà do tuổi đã quá cao. Hắn gọi ông già là mọ và tự xưng là cháu. Một đảng uỷ viên xã đi theo lấy làm khó hiểu: "Chú là đại biểu quốc hội, là nhà văn của cả nước sao chú lại gọi một tên ********* là mọ và xưng là cháu?" Hắn trả lời: "Nhưng ông lão ấy còn lớn tuổi hơn cả bố tôi, tôi không thể gọi khác được". Năm hắn gặp lại bố đẻ và bà mẹ già, những người đã làm nhục hắn một thời thơ ấu, ông bố hắn nói rất thản nhiên: "Cái năm ấy chẳng qua là do hoàn cảnh...", hắn nói theo ngay: "Cậu chả nên nhắc lại cái chuyện ngày xưa làm gì, con cũng quên nó từ lâu rồi". Hắn quên thật và lấy làm thương cảm cho những người gắn bó một đời với một thể chế đã bị sụp đổ hoàn toàn từ một tuần nay. Rồi đây hai vợ chồng già sẽ sống bằng gì, vì con cái đã mỗi người tháo thân mỗi ngả. Tuổi già không có người chăm sóc, lại buồn, lại lo là sẽ khốn khổ vô cùng. Rồi hắn an ủi rất thành thật: "Cậu mợ còn có vợ chồng chúng con nữa kia mà. Chả có gì đáng phải lo lắm đâu". Không bao giờ hắn hé răng hỏi lại những người đã từng khiến hắn phải run sợ, vì lẽ gì họ lại có đủ ác tâm vu cho một đứa trẻ vốn là con mình phạm một tội mà họ biết chắc không hề có, không phải một lần mà những hai lần để dễ bề đuổi nó đi. Hắn chưa bao giờ có ý định trả thù, hắn không có máu trả thù. Vả lại thời thế đã trả thù giúp hắn rồi, một cuộc báo thù trọn vẹn, đẹp đẽ mà kẻ có thù có oán không cần mở miệng nói nửa lời, chỉ là người chiến thắng thôi, thắng từ trong nhà, trong dòng họ vốn chưa bao giờ biết sự có mặt của hắn ở đời này.
    Một người hiền lành, thích nhân nhượng, không tính oán kết thù với bất cứ ai một khi họ đã thất bại lại không thể tìm ra một cách kết thúc tốt đẹp trong quan hệ vợ chồng lúc đã về già sao? Hắn là người thắng, vợ hắn là người thua, một đời bị chồng con phá phách, tước đoạt, về già như một phế tích hoang tàn lại không đáng thương sao? Hắn đã từng tha thứ những người đã làm hắn khốn khổ mà không hề tự hỏi tại sao lại làm thế, chỉ thấy thương thôi, thấy xót xa thôi, chỉ muốn làm nhẹ bớt cái khổ của người đã từng làm cho mình khổ. Tại sao hắn lại không thể tha thứ những hành động vô lý, quá đáng của người vợ đã bắt đầu lẫn, đã có những ám ảnh phi thực tế của người có bệnh? Chỉ tại hắn đã xem vợ là một nửa của hắn, là chính hắn, lại có thể hiểu lầm một nửa này cũng là hắn, tại sao thế? Vợ hắn đã tự tách khỏi hắn từ bao giờ vậy, đang là hoàn toàn thuộc về hắn đột nhiên trở thành kẻ thù của hắn, vò xé cái nửa còn lại của hắn vào chính cái lúc hắn cần yên tĩnh nhất, thảnh thơi nhất để được sống bình thản, không lo nghĩ mấy năm cuối của một đời người tạm gọi là mãn nguyện. Và hắn đã quyết định không thể tha thứ sự phản bội đó, sự nổi loạn muộn mằn đó của cái nửa hắn vốn tin chỉ có hy sinh chứ không bao giờ dám chống trả. Như những năm đã qua. Vợ hắn nói: "Về già anh được tất cả, còn tôi chỉ được có mỗi một anh thôi. Anh mà ruồng bỏ tôi thì tôi thành tay trắng. Cho nên tôi phải giám sát anh, theo dõi anh, anh không thoát được tôi đâu. Tôi chỉ cầu xin ông giời cho tôi được chết sau anh dầu chỉ một ngày để tôi được yên tâm rằng anh không có người đàn bà nào khác, những đứa con nào khác ngoài vợ con chính thức của anh". Những người đàn ông khác có thể không thông minh bằng hắn nhưng đều có thể nói đùa một câu: "Bà còn hầu tôi vài năm nữa là ít, hầu tôi sống còn phải hầu tôi chết nữa kia, phải làm xong cái giỗ đầu cho tôi rồi bà có muốn đi đâu hãy đi!".
    Nhưng hắn không nói và có ý định sẽ không bao giờ nói, hắn không cho phép cái nửa kia của hắn dám ngờ vực, dám chống đối cái nửa còn lại, xét cho cùng có bao giờ tách khỏi cái nửa kia. Hắn không cho phép những người thân yêu nhất lại dám ngờ vực sự tận tâm, lòng chung thuỷ với vợ con của hắn. Một người hoàn toàn trong trắng trong cuộc sống cá nhân lại tự nhận đã có lỗi, một cái lỗi chưa bao giờ hắn phạm phải, nghĩ một cách tội lỗi thì có, đôi lúc vẫn có nhưng làm những việc không xứng đáng thì chưa bao giờ, chưa một lần nào, chỉ vì thương vợ, vì bệnh tật của vợ cứ cho là vì cả cái bệnh hoang tưởng của vợ mà chịu nhận lỗi cho vợ được vui lòng, cho mọi việc rắc rối được êm xuôi để giữ được sự yên tĩnh vốn có của gia đình, các con hắn vẫn khuyên hắn nên làm như thế.
    Thì hắn vẫn thường tự nhận nhiều lầm lỗi chưa bao giờ hắn phạm phải hoặc trong thâm tâm hắn vẫn cho thái độ ấy, việc làm ấy chả có gì là lầm lỗi, nhưng hắn vẫn nhận trước bạn bè, trước chi bộ, trước cấp trên thì sao? Người ta chưa nói hết câu hắn đã vội vàng nhận lấy tất cả, với bộ mặt giọng nói của người hối lỗi thì sao? Hắn đã trườn qua mọi chuyện rắc rối bằng sự sám hối nhanh nhảu để dành thời gian cho công việc viết lách thì đã sao? Cái lỗi được nhận khiến xung quanh quên đi nhanh chóng hắn đã là người có lỗi, tập thể luôn luôn đúng và hắn luôn luôn sai, đã kết luận được như thế thì còn gì phải căm ghét hắn nữa. Thế là tha liền, quên liền và hắn cũng quên luôn đã từng nhận những lầm lỗi gì. Nhiều người bạn của hắn đã phải chịu vất vả cả năm, cả nhiều năm vì đã tranh cãi đến cùng một cái lỗi, xét đến cùng là hết sức vớ vẩn so với những hoạt động khác của một đời người. Hắn vẫn thầm chê cái bệnh ham tranh luận, ham lý lẽ, ham phân tích sai đúng, phải trái của người này người kia là bệnh của thằng ngu. Hắn còn đọc được ở đâu đó, hình như của cụ Mác thì phải, rằng mọi tấn bi kịch đều sinh ra từ cái ngu của con người.
    Cái tấn tuồng nửa bi nửa hài của vợ chồng hắn lúc cuối đời có phải từ cái ngu của hắn không nhỉ?
  10. duong_chieu_la_rung

    duong_chieu_la_rung Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    970
    Đã được thích:
    0
    11.
    Nếu không có cuộc cách mạng giải phóng dân tộc năm 1945 thì chắc hẳn mãi mãi hắn chỉ là đứa con thêm con thừa, đứa con bỏ đi của một dòng họ. Nhờ có cách mạng, rồi lại nhờ có kháng chiến hắn đã trút dần được cái hồn nô lệ để chập chững tập làm người tự do. Nhưng làm người nô lệ, làm người phụ thuộc, người thích dựa dẫm thì quen, còn làm người tự do, người dám chịu trách nhiệm về những quyết định của mình thì còn lạ còn sợ. Cũng là may hắn lại chọn được cái nghề làm báo, viết văn để dần dần tự cải tạo mình qua những tính cách mạnh mẽ, quyết liệt của những nhân vật hắn ái mộ. Hắn vốn ngưỡng mộ những người anh hùng, đặc biệt là những anh hùng trong thất bại. Người anh hùng trong thất bại bao giờ cũng tự toả sáng từ bên trong, gương mặt ưu tư của họ trở lên cao quý và thường gây được ấn tượng lâu dài trong tâm thức hắn. Hắn rất sợ những gương mặt mãn nguyện, tự bằng lòng với mình, nó nông và dung tục, kể cả cái bản mặt của chính hắn khi được đưa lên mặt báo sau ngày được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 2. Một cái mặt hả hê đến thế còn hy vọng gì có thể viết được những trang văn hay hơn những cái đã viết.
    Lại nói về những gương mặt, hắn rất mê những gương mặt của bạn bè lúc đã về già. Gương mặt của Nguyên Ngọc lúc già đẹp hơn lúc trẻ, đẹp hơn nhiều, tóc thưa đi nên vầng trán như rộng ra, gồ hẳn lên khiến cái đầu như lớn hơn với những nếp nhăn khắc khoải, ưu tư nhưng ánh mắt lại bình thản, lấp lánh trong đáy sâu như có một thoáng cười. Nguyên Ngọc kém hắn hai tuổi, vào bộ đội chống Pháp sau hắn vài năm, nhưng học vấn sâu rộng hơn hắn, sự từng trải ở chiến trường cũng nhiều hơn hắn, nhất là thời kỳ chống Mỹ, và tài năng viết lách cũng hơn hắn. Nguyên Ngọc còn là người say mê hành động, có kinh nghiệm trong hành động thực tiễn. Và còn là người rất quyết liệt trong niềm tin của mình. Tuy nhiên theo hắn, con người tư tưởng không cần biết tới sự nhân nhượng, không cần biết đến vùng đệm, những khoảng giữa, không cần cả đồng minh để giữ được sự trong sáng và trọn vẹn trong cách tư duy của mình. Anh ta có thể đúng mà cũng có thể sai nhưng vẫn là một cái mốc trên chặng đường tiến hoá về tư duy của đồng loại. Còn là người hành động thì lại hoàn toàn khác. Người hành động trước hết phải là người biết tổ chức sự cộng tác của nhiều người, có khả năng đoàn kết với nhiều loại người, biết nhân nhượng, biết nhẫn nhục, biết chờ đợi, biết biến hoá để cùng họ hành động cho tới ngày đạt được mục đích. Sự cô độc sẽ làm nhà tư tưởng lớn mạnh lên nhưng lại phá phách những điều kiện của người hành động. Nguyên Ngọc mãi mãi chỉ là người của tư tưởng, là nhà tư tưởng của thế hệ bọn hắn, với hắn thế là quá đủ, đủ để xem bạn như một hình mẫu lý tưởng để tự điều chỉnh cách sống và cách viết của hắn.
    Một gương mặt nữa cũng có sức hấp dẫn hắn trong nhiều năm. Ðó là gương mặt của L.H.N. Anh ấy nguyên là bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, sau này còn là bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá. N. có gương mặt của người luôn luôn trăn trở, lo lắng vì cái trách nhiệm quá lớn của mình. Và anh rất thật thà, anh thuyết phục hắn ngay từ lần gặp đầu tiên vì sự chân thật. Phải là người tự tin, biết rõ giá trị của mình mới dám nói thật với người chỉ mới đọc văn chứ chưa biết người. Khi hắn hỏi về ông Kim Ngọc, cố bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú dám làm khoán chui để dân bớt khổ, N. không tránh né gì cả, còn nói rất nhiều về mối quan hệ thân thiết của mình với người tiền nhiệm. Theo N. ông Kim Ngọc có hai điều đáng tiếc. Thứ nhất, ông ta dám làm một việc động trời mà chả có lý lẽ gì cả, chỉ nói là có lợi và nên làm. Còn các phái viên của trung ương về kiểm tra thì lại có quá nhiều lý lẽ để phản bác, cãi không được nên đành cúi đầu chịu tội, chịu tội nhưng vẫn ấm ức vì việc làm của họ đâu có giống với lý sự của trung ương. Thứ hai, ông Ngọc không biết dùng trí thức, ông dùng người bằng những quen biết trực tiếp nên anh trí thức đứng vòng ngoài. Phó chủ tịch tỉnh phụ trách văn xã là một bà nông dân, nhai trầu bỏm bẻm. Phó chủ tịch phụ trách công nghiệp là một ông thợ rèn. Một bà phó ban nông nghiệp cũng ăn trầu và chả biết gì về công việc của mình cả. Thủ lĩnh có chí lớn nhưng không có người cộng tác và trợ lý xứng đáng, không có một đội ngũ những trí thức trẻ làm hậu thuẫn phía sau. Biết là mình bị kết án oan và lý lẽ của cấp trên là giáo điều, tách khỏi sự vận động của đời sống, tách khỏi những mong muốn nóng bỏng của người nông dân, nhưng không có lý lẽđể bảo vệ, không biết cả cách bảo vệ. Khi nhận nhiệm vụ là bí thư tỉnh uỷ, anh N đã làm ba việc để tưởng niệm nhà cách mạng đơn độc. Một là, đưa khoán hộ vào nghị quyết của tỉnh uỷ vì lúc này trung ương đã nới tay rồi. Hai là, tư hữu hoá ngôi nhà của ông Kim Ngọc, định giá là hai trăm ngàn, lấy tiền trợ cấp của tỉnh bù vào. Ba là, xây mộ cho vị tiền nhiệm tại nghĩa trang của tỉnh. "Rồi anh N. hỏi hắn: "Làm thế có được không?" Hắn nói rất chân thành: "Lòng biết ơn đối với những người anh hùng đơn độc cũng là một hành vi đẹp của người cầm quyền". Mấy năm sau khi hắn về Thanh Hoá, cũng là quê gốc của hắn, thì anh N. lại là bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá. Hắn có hỏi anh: "anh đánh giá vị bí thư tiền nhiệm của tỉnh này như thế nào?"N. nói: "Trong nền kinh tế bao cấp ông H. rất giỏi, làm thâm canh giỏi, làm thuỷ lợi giỏi, huy động lương thực cho tiền tuyến rất quyết liệt, lại có năng lực tổng hợp. Nhưng khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường thì ông ấy không thoát được thân". Nhận xét về một người thất bại như thế là khách quan, vô tư và rất có tư cách. Anh N. cũng là một nhân vật lý tưởng để hắn nuôi dưỡng cái phẩm chất làm người của hắn.
    Trần Kim Trắc cũng là một người hắn rất kính trọng về nhân phẩm cũng có một gương mặt tuyệt đẹp, nhàu nát những nếp nhăn, tóc bạc, râu bạc, lông mày, long mi đều bạc, trong cái nhìn cứ như ẩn giấu đâu đó một thoáng cười, không phải là cười giễu mà là cái cười khiêm nhường của người biết ơn, biết ơn cuộc đời đã rất tàn nhẫn với mình, biết ơn bạn bè đã từng gây nhiều khó khăn cho mình, như người đã vượt khỏi Sông Mê, đã tới bến bờ của sự Giác Ngộ. Hắn đã quan sát rất kỹ cuộc gặp mặt giữa nạn nhân với những người đã từng làm án nhân ngày kỷ niệm 40 năm tạp chí Văn nghệ Quân đội ra mắt bạn đọc. Những người "chân chính" như hơi ngượng, cười gượng, nói gượng, còn kẻ đã "phạm tội", đã mất nhiều chục năm sống khốn khổ khốn nạn thì cười nói nhỏ nhẻ, nhún nhường: "Dạ, thưa vẫn khoẻ", "Dạ, năm nay vừa tròn bảy mươi...". "Dạ, vẫn viết, tuổi già chỉ có hai việc, cõng chắt ngoại đi chơi, lúc chắt đi trẻ thì ngồi viết, viết cũng chậm lắm, nhưng vẫn có chút việc riêng để làm". Chả giận ai cả, chả oán ai cả, vẫn biết ơn đời, đời cho sống đến lúc tóc bạc để được gặp lại bạn cũ, một đời người mấy ai tránh được những rủi ro, những rủi ro đâu có sao, chả sao cả, nó vẫn là muối của đời... Gương mặt của Trần Kim Trắc mãi mãi ám ảnh hắn, cổ vũ hắn những lúc hắn vấp phải những chuyện buồn.
    12.
    Dầu hắn không được bất cứ giải thưởng văn chương nào, không là một tên tuổi gì trong làng văn hắn vẫn cứ là một người may mắn. Nếu không có cách mạng thì mãi mãi hắn sẽ bị ám ảnh là một đứa trẻ bị ruồng bỏ, học hành dang dở, tính cách yếu đuối, chỉ xứng đáng có một thân phận hèn mọn, sống bám vào những ông anh bà chị giầu sang. Như nhiều ông bác, ông chú nghèo hèn sống lẩn khuất trong cái bóng phú quí của dòng họ mà hắn đã được biết. Rồi với cái nghề làm báo trong mấy chục năm hắn đã được tiếp xúc với vô số người, là người cùng thời đã tham gia hai cuộc chiến tranh, một thời hoà bình gian nan vất vả, lại một thời thay đổi cách quản lý kinh tế với bao nhiêu chìm nổi trong mỗi số phận. Non nửa thế kỷ sóng to gió lớn, đất nước nghiêng ngả bởi những rung chuyển từ chân móng nên đã sinh ra mấy lớp người dám ôm mộng cải tạo xã hội, cải tạo thế giới, dám có những ý tưởng táo bạo, những hành động và cách sống vượt khỏi mọi giới hạn của con người. Chính họ là "dưỡng chất trần gian" đã nuôi sống và thay đổi dần dần cái thế giới tinh thần của hắn, xúi giục hắn biết mộng mơ, biết lãng mạn, biết quên cái thân phận tẻ nhạt của mình để hoà nhập vào những thay đổi lớn lao trong số phận cộng đồng. Hắn trở thành người có chí hướng từ đó, dám nghĩ dám viết một cách độc lập từ đó. Nếu kể hết những người đã có ảnh hưởng hoặc thấp thoáng hoặc sâu đậm với hắn trong suốt mấy chục năm thì nhiều lắm, hắn cũng chả thể nhớ, hắn ghi chép đời của nhiều người nhưng chưa bao giờ ghi chép những thay đổi hoặc những sự kiện quan trọng đã xảy ra với mình. Hắn không có thói quen viết nhật ký, nhiều lắm là hắn ghi vội ở rìa trang bản thảo: "Bữa nay Huỳnh sốt cao, rất lo!", "Bữa nay lại cãi nhau với vợ, cô ấy doạ ly hôn, chuyện vớ vẩn mà rất buồn...". Ngay cả chuyện làm sụp đổ một nửa niềm vui và hy vọng của hắn, hắn cũng chỉ ghi vội, vẫn là ở phần rìa trang viết nháp của một truyện ngắn chỉ vừa mới bắt đầu và sẽ không bao giờ hoàn thành: "Thứ Năm, chiều 17 tháng 5 năm 1973, lúc 5 giờ 30 chiều, Huỳnh, đứa con trai yêu dấu của bố đã bị chết đuối ở sông Hồng, năm con vừa tròn 15 tuổi. Con ơi! Bố chết được chăng? Nếu mà bố chết được thay con!!!..." Nhưng những chuyện mới xảy ra trong khoảng ba chục năm trở lại thì hắn còn nhớ. Vì những con người khiến hắn phải xúc động, phải bàng hoàng, có cơ hội để hiểu thêm một khía cạnh u uẩn trong tâm hồn con người, hắn đều viết thành truyện cả, những truyện ngắn, những tạp văn. Những trang viết dành cho bạn đọc cũng là những trang viết dành cho riêng hắn, là những khoảnh khắc hắn đã sống và đã nghĩ, là một phần sống của chính hắn, mỗi dòng chữ là một nhịp đập lúc nhanh lúc chậm của trái tim nghệ sĩ trong hắn trước vẻ đẹp muôn mầu của cuộc đời, là quà tặng không cạn kiệt của đời luôn luôn tỏ ra hào phóng với hắn.
    Cách đây đã ba chục năm, ở góc đường Phan Ðình Phùng - Phùng Hưng có một bà lão nhặt hoa đại trồng ở các công sở, tãi phơi ở một đoạn hè, vừa chải đầu bắt chấy vừa trông các cánh hoa héo dần, người bà cao, mỏng, tuổi khoảng bảy mươi nhưng tóc chưa bạc nhiều, hai hàm răng nhuộm đen còn nguyên vẹn, đi lại cứng cáp, nhanh nhẹn. Bà lão chỉ vắng mặt có buổi sáng, còn trưa, chiều, tối đều ngồi dưới cái vòm mái rộng của một cơ quan luôn luôn đóng cửa. Từ tạp chí qua đó chỉ vài bước chân, lại có nhiều quán hàng bán trà chén, buổi sáng thì đủ thứ quà gánh cho người đi làm ăn điểm tâm, nên hắn qua lại một ngày rất nhiều lần, nhìn bà lão mãi hoá quen rồi hoá thân vì gương mặt của bà phảng phất giống với gương mặt của mẹ hắn năm bà còn khoẻ ngồi bán trầu vỏ cũng ở một góc đường. Một gương mặt buồn thiu nhưng bình thản, đã coi mọi chuyện sống chết đói no như chả còn liên can tới mình. Lần đầu hắn bắt chuyện với bà cụ là một buổi chiều bà lão đi giao hàng cho một cửa hàng bán thuốc Nam vừa trở về ngồi ăn bún ở một quán hàng bán trà chén hắn vẫn hay ngồi uống. Bà lão ăn bún với muối, ăn bốc mà ăn ngon lành lắm, thoả thuê lắm. Chị hàng nước nhìn bà lão ăn chằm chằm rồi buông một câu: "Nhìn bà ăn cháu ghê cả người". Bà lão nói nhấm nhẳn: "Thế hả?" Chị kia lại nói: "Ăn bún với mắm với riêu chứ ai lại ăn với muối bao giờ!" Một người khác hỏi: "Bà sống một mình à?" Chị hàng nước nói: "Một mình thế nào, bà có những hai anh một chị kia, đều là người đi làm cho nhà nước cả". Bà lão ngừng ăn nói: "Ði làm có lương chỉ có hai anh thôi, còn cô út thì bán rau, chồng nó đạp xe xích lô, con lại đông, nhà nó là túng nhất đấy". Một người nữa hỏi: "Bà không ở với con nào à?" Bà lão đã ăn xong một ký bún, còn nhặt những sợi bún dính vào những mảnh lá dong ăn nốt, xin một chén nước rồi mới trả lời: "Người già trái tính chả ở với ai được cả. Tôi thích ở một mình". Chị hàng nước hỏi: "Nhưng bà vẫn đến thăm các anh chị ấy chứ?" - "Dăm bữa nửa tháng lại đến thăm một nhà, ăn mặc tử tế, nói là vừa ở quê ra, quê tôi ở Bần, ra Hà Nội cũng gần". Hắn hỏi: "Tại sao bà phải làm thế, không ở hẳn với một ai thì ở luân phiên, mỗi nhà ở một tháng chẳng hạn". Bà lão nhìn hắn rồi bảo: "Tôi ăn uống xấu thói lắm anh ạ, sợ con cháu nó cười, sợ nhất là bạn con đến chơi cùng ngồi ăn sẽ cười". Hắn lại nói: "Bà cứ hay lo xa chứ ai dám cười mẹ của bạn?" Bà lão cười nhỏ: "Bạn con không cười nhưng con trai con dâu thì khó chịu lắm. Cứ thấy mặt mẹ là chúng nó lườm, chúng nó gắt, mà mình có làm gì nên tội, chỉ có mỗi cái tội luộm thuộm, bẩn thỉu thôi". Nuôi con lúc trẻ để nhờ con lúc già lúc chết, nhưng lúc già lại bị con đuổi thì sống với ai. Ðã có lần bà lão bán cây lá thuốc Nam nói với hắn: "Ai lo ốm lo chết chứ tôi chả lo một tý nào. Cái tạng tôi đã phải nằm chỉ một hai bữa là chết ngay thôi, người chết vô thừa nhận đã có nhà nước lo, không lo chả lẽ để thối cả hàng phố à, mà con cái lại đỡ phải tiêu một món tiền lớn! Thế chả hơn ư?" Ðã nghĩ cái chuyện thương tâm về một người mẹ có những ba con mà phải sống một mình, chết một mình ở một góc phố rồi mình sẽ quên mau mà lại không quên nổi, lại nghĩ lan man tới mẹ, nếu như không có cuộc đổi đời sợ rằng bà cũng sẽ phải sống như thế, phải chết như thế, đời mẹ đã khổ đời các con chắc cũng khổ, cái ý nghĩ buồn thảm ấy thường len đến khi hắn vừa được in một cuốn sách mới, vừa được đọc một bài báo có lời khen ngợi, hoặc lúc hắn đưa vợ con đi xem một vở kịch chính hắn là tác giả đêm khai diễn, đại để cứ mỗi lần hắn được nhận thêm một vinh dự, bộ mặt buồn thảm của bà mẹ hắn với hai đứa con chưa tới tuổi trưởng thành lại chợt loé sáng trong một khoảnh khắc khiến hắn có gương mặt tư lự như người có lỗi, lại như người có nợ mà chưa thể trả, chưa kịp trả, chính là ở những giây phút ấy bạn bè muốn gần hắn hơn, muốn thương hắn hơn. Gần hai chục năm sau hắn mới viết truyện ngắn Mẹ và các con, viết xong trong lòng hắn cũng vơi nhẹ phần nào.

Chia sẻ trang này