1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

THUỶ NGUYÊN quê hương tôi - giới thiệu (trang 1)

Chủ đề trong 'Hải Phòng' bởi pham_tu, 12/06/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    ối zời gì thế Dương cũng định đốt pháo à! không sợ mấy anh áo xanh túm cổ về đồn à?
    thế muốn lấy loại nào?
  2. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Các di tích lịch sử văn hoá
    Đình Kiền Bái


    Đình Kiền Bái nằm ở xã Kiền Bái, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Xưa kia Kiền Bái cong có tên là Hổ Bái Trang thuộc huyện Thủy Đường, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương. Thang Hổ Bái có 12 xóm, dân cư tập trung đông hơn cả là xóm Đông. Do đó, đình Kiền Bái nằm ở ngay xóm Đông. Các vị thần được thờ ở đình là:

    - Trung Quốc Cảm ứng thượng đẳng thần.
    - Lôi Công Uy Diệu thượng đẳng thần.
    Theo Thủy Nguyên huyện thần tích hiện lưu trữ tại viện nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội, đền Kiều Bái thờ hai vị thành hoàng Ngọc và Bích, là hai anh em sinh đôi. Tương truyền lúc mới sinh, hai vị đều khôi ngô tuấn tú, nhưng đều mất sớm, rất linh thiêng, đã nhiều lần phù hộ dân làng Kiền có cuộc sống yên ổn, làm ăn thịnh vượng. Khi quân Nguyên sang xâm lược nước ta (1287 1288), hai vị âm phù vua Trần đánh giặc. Vua cho lập đền thờ và phong thần hiệu: Trung Quốc Cảm ứng thượng đẳng thần và Lôi Công Uy Diệu thượng đẳng thần.
    Đình Kiều Bái được xây dựng vào cuối thế kỷ XVII. Đình có cấu trúc kiểu chữ đinh gồm 5 gian tiền đường, 2 gian hậu cung. Tiền đường, trừ gian giữa (khoang thuyền ), 4 gian đều bưng gỗ, lát ván sàn. Trên cột cái, vì xà chính ghi năm tạo dựng ( 1681) và tên những người đóng góp công đức. Đây là công trình kiến trúc điêu khắc tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc thời Lê hiện còn lại ở Hải Phòng. Điểm nổi bật của đề tài trang trí trên công trình kiến trúc nghệ thuật này là bên cạnh hình ảnh rồng, phượng, hoa lá cách điệu, tia lửa, lưỡi mác... còn thấy rất nhiều cảnh sinh hoạt dân gian rất tự nhiên, sinh động. Đó là hình ảnh rồng nối đuôi nhau, trước mặt rồng có nhiều con thú 4 chân leo trèo trong đám vây rồng; có hình ảnh rồng đan xen với thú 4 chân như thằn lằn, voi ngựa, lơn ăn lá dáy; có mảng là cảnh sinh hoạt hình em bé chăn trâu ngồi vắt vẻo trên mình trâu... Hội làng Kiền tổ chức từ ngày 10 đến ngày 13 tháng giêng âm lịch hàng năm. Vào những ngày này dân làng ra đình tế lễ và nô nức vào hội: Hội hát đúm, hội nấu bánh chưng... nổi bật là trò chơi dân gian: Cướp cây bông.
    Để có được hội cướp cây bông, cả làng phải đi chọn hai cây tre cao nhất. Nhà nào chọn được tre thì phải mang bánh chưng ra đình tế. Ông mạnh bái chọn 10 thanh niên từ 18 tuổi trở lên chưa vợ hoặc là con trai đầu lòng chặt cành của hai cây tre, rồi mỗi người chọn 2 mắt tre làm 2 cây côn ( gậy) dài độ 5 trượng đem vào thờ trong đình.
    Cũng 2 cây tre đó được chặt 2 khúc thành hai cây bông. Trong 10 trai tráng khỏe, chọn ra 2 người vót cây bông. Người vot cây bông trước hết phải nạo hết vỏ xanh của tre, rồi dọc theo tre mà vót thành cái hoa ở 2 đầu. Để cho cây bông được đẹp, người ta lấy giấy kim tuyến quấn vào từng tua tre một, rồi buộc chỉ ngũ sắc vào...Hai cây bông được rước vào đình.
    Cướp cây bông diễn ra 2 đợt: trước tiên là lễ cướp thờ (không có giải), sau đó là lễ cướp giải. Tại lễ cướp thờ, khi ông mạnh bái tung cây bông lên thì 10 thanh niên quần đỏ, khăn điều, thắt lung xanh xông vào cướp dưới sự hò la cổ vũ của dân làng. Tiếp đến là lễ cướp giải, tất cả mọi người đều tham gia. Cuộc cướp cây bông diễn ra rất vui, có khi kéo dài đến sáng.
    Ai được giải cướp cây bông thì được ăn bánh của người giải nhất cuộc thi bánh chưng.
    Đình Kiền bái là di tích lịch sử văn hóa có giá trị nghệ thuật cao, được nhà nước xếp hạng di tích quốc gia năm 1986.

  3. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Lê Ích Mộc và những di sản văn hóa lưu niệm về Ông


    Lê Ích Mộc người làng Thanh Lãng ( tên Nôm là Ráng), huyện Thủy Đường, Hải Dương, nay thuộc xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Ông sinh năm 1460, không rõ năm mất.

    Thuở nhỏ, nhà nghèo, Lê Ích Mộc phải đến ở nhờ chùa Diên Phúc của làng để học. Ông chăm học, chăm làm, nổi tiếng thông minh, có trí nhớ tốt. Theo sánh Đồng Khánh địa dư chí, ông có tài đọc nhanh, lướt mắt là có thể đọc được 10 dòng. Tài liệu đã đọc, dù bỏ lâu cũng không quên. Đại Việt sử ký Toàn thư cho biết, sau khi thi đỗ được vào bái yết nhà vua, Lê Ích Mộc bưng lư hương đồng nóng bỏng tuột cả da tay mà không biết, điều này nói lên khả năng tập trung cao của ông. Lê Ích Mộc hiểu biết sâu cả nho, phật, lão giáo. Năm 43 tuổi mới đi thi và liên tiếp đỗ cả 3 khoa thi hương, hội, đình. Ông đỗ Trạng Nguyên khoa Nhâm Tuất (1502) và được bổ dụng ngay làm quan, trải thăng đến chức Tả Nhị Lang. Nhưng Lê Ích Mộc không ham danh lợi, sau khi nghỉ hưu về quê nhà, ông mở trường dạy học, tiếp thu tìm hiểu sâu đạo phật, lại khiến khích giúp đỡ dân làng khai hoang, trồng cây, gây rừng. Tương truyền, rừng lim ở Thanh Lãng xưa là do ông vận động dân trồng.
    Sau khi ông mất, dân làng cảm công đức, tạc tượng ông, xây đền trên nền trường học cũ do ông mở để thờ. Triều đình truy ân phong là phúc thần. Mộ Lê Ích Mộc được xây bằng gạch trên sườn núi Lăng, vốn là khu rừng lim xưa kia ông vận động dân trồng. Mộ đặt hướng Tây nam, nhìn ra sông Việt. Trên mộ gắn tâm bia khắc dòng chữ Trạng nguyên Lê Ích Mộc (1960 - ?). Mất ngày 15 tháng 2 năm Giáp Ngọ. Đỗ Trạng Nguyên khoa nhâm tuất, niên hiệu Cảnh Thống năm thư 5 (1502), đời Lê Thánh Tông, làm quan tới chức Tả Thị Langggg.
    Trước bia đặt bát hương đá tròn, 2 nấc. Tương truyền bát hương đá này được mang từ đền quan Trạng trên nền cũ của ngôi đền xưa.
    Năm 1992, nhân dân địa phương dựng một ngôi nhà nhỏ để thờ Lê Ích Mộc gọi là Từ Đường quan Trạng trên nền cũ của ngôi đền xưa.
    Từ đường Lê Ích Mộc còn lưu giữ được 2 di vật có niên đại Tây Sơn, đó là quả chuông đồng cao 90cm, đường kính miệng 45cm, bên cạnh bài minh còn có 4 chữ hán Diên phúc tự chungggg, khẳng định di vật của chùa Diên Phúc, chuông được đúng năm Cảnh Thịnh tam niên (1975).
    Hiện vật thứ hai là bia được khắc dọc theo giữa thân 7 chữ Hán trong khuyên tròn Lê Ích Mộc Trạng nguyên phục miếuuuu (Miếu thờ Trạng nguyên Lê Ích Mộc). Hai bên dòng chữ này ghi tên những người trong vùng bỏ tiền của cúng tiến, bia chỉ có chữ ở một mặt, tạc năm Cảnh Thịnh nhất niên (1793).
    Những di vật của thời đại Tây Sơn trong lịch sử dân tọc có ý nghĩa rất lớn trong việc nghiên cứu lịch sử Hải Phòng về nhiều lĩnh vực nghệ thuật, tôn giáo, địa danh. Lăng mộ, từ đường Trạng nguyên Lê Ích Mộc được Nhà Nước xếp hạng năm 1993.

  4. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Chùa Hoàng Pha

    Chùa Hoàng Pha có tên chữ là An Lạc tự, thuộc xã Hoàng Động, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Không chỉ thờ phật, hiện nay, tại tòa nhà thờ tổ của chùa còn có ban thờ 4 vị thành hoàng làng Hoàng Pha, được nhân dân ở đây rất tôn kính là 4 danh tướng thời nhà Lý (1010 - 1225), có nhiều công lao trong sự nghiệp chống ngoại xâm, bảo vệ và xây dựng đất nước. Đặc biệt là công ơn đóng góp xây dựng quê hương Hoàng Pha, Hoàng Động của 3 anh em họ Lý: Lý Minh, Lý Khả, Lý Bảo và Nguyễn Quốc Hồng. Tên tuổi và sự nghiệp của họ gắn liền với quá trình phát triển của làng xóm nơi đây.

    Chùa Hoàng Pha có niên đại xây dựng muộn nhất vào đầu thế kỷ XVIII. Trên chiếc thống bằng đá do nhân dân địa phương cúng vào chùa ghi rõ niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 2 (1706), đã chứng tỏ điều đó. Chùa tọa lạc trên khuôn viên hình chữ nhật (rộng khoảng 1300m2), xung quanh xây bằng gạch, ngăn cách cảnh chùa mới làng, đồng ruộng Chùa quay về hướng tây nhìn ra dòng sông Cấm. Đó cũng là hướng nhìn về tất tổ đạo Phật (Tây Trúc).
    Toàn bộ kiến trúc của chùa gồm 4 tòa nhà, cấu trúc theo hình chữ ''''quốc''''. Mặt trước là tòa phật điện kiểu chữ ''''đinh'''' gồm 5 gian tiền đường và ba gian hậu cung. Các bộ vì kèo có kết cấu ''''chồng rường đốc thước'''' quen thuộc. Ba gian giữa lắp hệ thống cửa sổ kiểu ''''cửa thùng khung khách''''. Tại gian đốc bên phải tòa tiền đường đặt bàn thờ Đức ông, gian bên trái đặt bàn thờ Mẫu, phía ngoài treo quả chuông đồng khá lớn cao 1,5 mét, rộng 0.8 mét, niên đại ghi trên chuông là Tự Đức nguyên niên (1848). Ba gian hậu cung đặt tòa tam bảo, thứ tự trên cùng là bộ tượng tam thế, tiếp đến là tượng A di đà, hàng thứ 3 giữa là Quan Âm ''''nghìn mắt nghìn tay'''', bên phải là ''''Đại thế chí bồ tát'''', bên trái là ''''Quan âm bồ tát'''', hàng thứ 4 giữa là ''''Quan Âm chuẩn đề'''', bên phải là Ananđà, bên trái là Quan Âm Thị Kính; hàng thứ 5 là tượng Ngọc Hoàng, hai bên là Nam Tào, Bắc Đẩu, cuối cùng là tòa ''''Cửu Long và Thích ca sơ sinh''''. Nhìn chung các pho tượng phật ở đây được tạc đơn giản, đáng quan tâm hơn cả là 3 pho tượng tam thế và tượng Quan Âm chuẩn đề mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
    Chùa Hoàng Pha là công trình có quy mô khá lớn, còn bảo lưu được một số kiến trúc, tượng pháp, đồ thờ có giá trị cần được quan tâm, giữ gìn, bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc ở địa phương. Chùa Hoàng Pha được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1992.
  5. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Đền, chùa Trịnh Xá
    Cụm di tích đền, chùa Trịnh Xá nằm trên địa bàn thôn Trịnh Xá, xã Thiên Hương, huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng. Đền Trịnh Xá có cấu trúc kiểu chữ đinh gồm 3 gian tiền đường và một hậu cung. Đền thờ 3 nhân vật lịch sử là Quý Minh, Nam Hải và Linh Quang đại vương. Ba vị này từ lâu đã được phong thành hoàng và có các địa điểm thờ khác nhau. Hiện nay tại đền Trịnh Xá còn lưu giữ một số sắc phong của các triều Tây Sơn và triều Nguyễn.

    Xưa kia hội làng Trịnh Xá bắt đầu ngày 7/11 âm lịch. Nhân dân rước tượng 3 vị thành hoàng từ 3 nơi khác nhau về đình, vào đám 3 ngày. Khi giã hội lại rước 3 vị về miếu. Ngoài nghi lễ tế, rước dân làng còn tổ chức bơi chải, đánh vật, đánh đu...
    Bên cạnh đền là cùa Trịnh Xá, tên chữ là Hoàng Mai Tự. Trước thế kỷ 17, chùa còn có tên là Hoàng Xá. Tuy nhiên theo nội dung cây Thạch trụ tân tạo Hoàng Mai tựựựự thì chùa Trình Xá được dựng vào nửa cuối thế kỷ 17 (1684) . Tại chùa còn lưu giữ khá nhiều bia ký có nghệ thuật điêu khắc rất tinh xảo, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy đền, chùa Trịnh Xá được nhà nước xếp hạng di tích văn hóa năm 1992.
    Chùa Nhân Lý
    Chùa Nhân Lý thuộc thôn Nhân Lý, xã Cao Nhân, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
    Theo một số nhà nghiên cứu, chùa Nhân Lý thuộc thiền phái Trúc Lâm, có chốn tổ ở núi Yên Tử, do vua Trần Nhân Tông sáng lập
    Một số hiện vật đáng lưu ý của chùa gồm: Ba pho tượng Tam Thế và pho tượng A di đà, một quả chuông đồng cao 1,25 m, đôi chóe sứ men xanh lam cao 0,6 m trang trí cảnh tùng, lộc...Tượng Quân Âm Tống Tử ( quan âm thị kính). Tại vườn tháp có 4 mộ tháp đều đặt xá lỵ của các vị sư. Đáng chú ý là ngôi tháp bên tả mang tên Phả Đồng tháp, cao 3 tầng, có bài minh bằng chữ hán với nội dung chủ yếu ca gợi cảnh chùa. Tháp có niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1801).
    Do chiến tranh, 3 ngôi miếu và một ngôi đình đã bị tàn phá nên nhân dân đã đưa các vị thành hoàng của mình vào phối thờ tại nhà thờ tổ của chùa. Ba vị thành hoàng là Quý Minh Đại Vương, Quảng Tế Hùng cư sĩ, Lôi Công.
    Chùa Nhân Lý xã Cao Nhân huyện Thủy Nguyên là một di tích lịch sử văn hóa được nhà nước xếp hạng năm 1992.
  6. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Miếu Phương Mỹ

    Miếu Phương Mỹ thuộc xã Mỹ Đồng huyện Thủy Nguyên thành phố Hải Phòng. Tương truyền, làng Phương Mỹ có từ rất sớm. Ban đầu mang tên là trang Hoa Kiều. Vào thời nhà Ly (1010 1225), trang Hoa Kiều trở thành trang Hoa Chương. Đến thời Nguyễn trang Hoa Chương đổi thành thôn Phương Mỹ và giữ nguyên tới ngày nay.

    Miếu Phương Mỹ được xây cất trên một cù lao nhỏ hình mai rùa nổi giữa đầm Đông vết tích của một dòng sông cổ ở phía đông làng. Miếu quay về hướng đông, các công trình liên hoàn từ ngoài vào gồm hồ nước, tam quan, sân rộng có tường bao xung quanh, trước thềm tam cấp là một sân tế nhỏ. Ngăn cách với bên trong tiền đường là hệ thống 3 gian cửa gỗ làm theo kiểu cửa thùng, cung kháchhhh quen thuộc. Mặt bằng kiến trúc miếu bố cục hình chữ đinh gồm 5 gian tiền đường và 3 gian hậu cung.
    Số lượng đồ thờ, đồ tế tự ở miếu Phương Mỹ tương đối phong phú và chủ yếu mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn. Trong đó, các di vật quy ngoài long đình, bát bửu, bài vị, quán tẩy, nhang án, số đồ thờ bằng đồng hay bằng sành sứ khác, xòn có 5 chiếc sập gỗ, 3 bộ kiệu bát cống và 3 pho tượng thánh đều có niên đại thế XIX.
    Kể từ khi ngôi đình của làng không còn, miếu Phương Mỹ được coi như ngôi đình chung, nơi thờ phụng các vị thành hoàng những bậc thánh nhân có công lao to lớn đối với sự nghiệp bảo vệ đất nước, que hương. Miếu Phương Mỹ được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1992
    Được pham_tu sửa chữa / chuyển vào 11:40 ngày 31/01/2007
  7. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Đền Quảng Cư
    Đền Quảng Cư thuộc xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên là một di tích tưởng niệm vị trạng nguyên đầu tiên ở mảnh đất Hải Phòng: trạng nguyên Lê Ích Mộc. Lê ích Mộc (1458 - ? ) sinh ra và lớn lên tại làng Ráng, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương ( nay là thôn Quảng Cư, xã Quảng Thanh, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng). Ông đậu trạng nguyên khoa nhâm tuất ( năm 1502) đời vua Lê Hiến Tông.

    Lê Ích Mộc bước vàng chốn quan trường khi xã hội phong kiến Việt Nam thời Lê đã chuyển sang rối ren, thối nát. Trước tình cảnh ấy, ông đã treo ấn từ quan. Năm 1527, nhà Mạc lên nắm quyền có nhiều chính sách tiến bộ. Mến mô tài đức của Lê Ích Mộc, nhà Mạc đã trọng dụng ông cho giữ chức Tả Nhị Lang. Nhờ có những đóng góp của Lê Ích Mộc, đạo phật dưới thời Mạc đã phát triển trở lại. Sau một thời gian làm quan dưới triều Mạc, Lê Ích Mộc xin nghỉ hưu tại quê nhà. Vốn là người có học vấn sâu rộng, đạo đức mẫu mực, ông đã có nhiều công lao đóng góp cho quê hương như mở trường dậy học, dựng chùa. Tương truyền Lê Ích Mộc là người đứng ra tu sửa chùa Ráng đã đổ nát thành Diên Phúc Tự khang trang, rồi mở mang đường sá, khai khẩn đất hoang, trồng rừng...
    Để ghi nhớ công lao của trạng nguyên Lê Ích Mộc, nhân dân đã lập đền thờ tưởng niệm ông. Tuy là một công trình có quy mô không lớn, kiến trúc đơn giản, song đền thờ trạng nguyên Lê Ích Mộc chứa đựng những giá trị tiêu biểu. Đây là một trong những di sản văn hóa hiếm hoi còn lại, góp phần nghiên cứu truyền thống khoa bảng ở Hải Phòng trong lịch sử. Cuộc đời và sự nghiệp của trạng nguyên Lê Ích Mộc là một tấm gương sáng cho các thế hệ nối tiếp nhau phấn đấu, học tập. Đền Quảng Cư được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử năm 1991.
  8. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Miếu Thủy Tú

    Miếu Thủy Tú thuộc thôn Thủy Tú có tên cũ là làng Ngọc Phương, thuộc xã Thủy Đường, huyện Thủy Nguyên, Hải Phòng Miếu Thủy Tú cùng các di tích khác của Thủy Đường như: đình Thượng, đình Hạ, đền Lương Đường, đình Chiếm Phương ( xã Hòa Bình) hợp thành một cụm di tích lịch sử ghi nhớ công tích của 4 người con họ phạm, tham gia đánh giặc Tống ở thế kỷ thứ X ( năm 981) dưới sự lãnh đạo của Lê Đại Hành.

    Xã Thủy Đường ngày ấy có gia đình họ Phạm sinh được 4 người con. Đó là Phạm Quang, Phạm Nghiêm, Phạm Huấn, Phạm thị Cúc Nương. Họ là 2 cặp anh em song sinh. Khi ông Quang, ông Nghiêm 18 tuổi; ông Huấn và người em gái Cúc Nương 15 tuổi, thì cả cha lẫn mẹ đều mất. Bốn anh em họ Phạm chôn cất cha mẹ tại cánh đồng Mả Thuyền, Phía đông của trang.
    Khi quân Tống theo sông Bạch Đằng vào xâm lược nước ta, nhà vua đem quân đi dẹp giặc. Quân đội triều đình đến một gò đất cao thuộc huyện Thủy Đường, được dân làng đón tiếp chu đáo. Đặc biệt là các cụ già trong thôn cho vua biết có 4 anh em trai, gái nhà họ Phạm đều là những người hiếu lễ, võ nghệ tài giỏi. Nhà vua cho gọi cả 4 anh em họ Phạm đi đánh giặc. Vâng lệnh vua, cả 4 anh em đều vui mừng làm lễ tổ tiên, cha mẹ rồi tới bái yết nhà vua. Thấy cả 4 anh em họ Phạm diện mạo khác thường lại giỏi võ nghệ, nhà vua cả mừng, ban chức tước và sai cùng đi đánh giặc.
    Sau ngày chiến thắng, 4 anh em họ Phạm đều được phong chức tước rồi xin vua cho về thăm phần mộ cha mẹ, tổ tiên, khao thưởng quan sĩ và dân làng. Bốn người mời các vị phụ lão dự tiệc, tặng 300 quan tiền để tỏ nghĩa ân tình.
    Sau khi 4 anh em họ Phạm mất, nhân dân các trang lập miếu thờ. Trang Ngọc Phương ( nay là thôn Thủy Tú, xã Thủy Đường) thờ người anh cả là Phạm Quang, trang Chiếm Phương thờ Phạm Nguyên, trang Trường Sơn thờ Phạm Huấn và Cúc Nương. Nhân dân 3 trang đều tổ chức lễ hội truyền thống hàng năm từ ngày 9 đến ngày 12 tháng 3 âm lịch. Miếu Thủy Tú được nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1991.
  9. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Đền An Lư
    Đền An Lư thuộc xã An Lư, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thờ danh y Tuệ Tĩnh. Đền nằm trên dải sa bồi của hệ thống Sông Cấm, chảy qua thềm đất cổ Thủy Nguyên, nơi có sụ khai phá đất đai, tạo dựng xóm làng của cư dân làm nông nghiệp làm lúa nước và chài lưới từ rất sớm. Nhưng vì sao thiền sư Tuệ Tĩnh, nguyên là một trong hai vị thánh thuốc nam của nước Việt ta, quê mãi tận Cẩm Giàng, Hải Dương lại được dân làng An Lư thờ phụng uy nghi

    Sử liệu cũ thu thập tại địa phương cho thấy: Vào thời Trần Duệ Tông (1370 1377), cụ tổ họ Phạm tên Viết Trinh, vốn là thương gia, dẫn thêm 5 người thuộc các họ Bùi, Nguyễn, Vũ, Hoàng đi qua vùng đất phía đông thuộc huyện Thủy Đường ( tên gọi cũ của huyện Thủy Nguyên), nhận thấy đất đai nơi đây rộng rãi nhưng dân cư còn thưa thớt. Họ liền bàn bạc, đồng lòng cam kết lập thành khu vực mới để ở. Sau đó, từ quê nhà cũ ở Cẩm Giàng có nhiều người tiếp tục theo đến khai phá đất đai, lập xóm, dựng làng ngày thêm đông đúc. Gia sản của các dòng họ chuyển cư này được các thế hệ con cháu lưu truyền, suy tôn cụ tổ Phạm viết Trinh là người có công đầu trong việc khai phá đất đai, lập nên làng xóm An Lư ngày nay. Chuyển dân cư xuống vùng đất xóm ven sông Cấm được l7 năm, dân làng liên tiếp có người bị dịch bệnh, đau ốm liên miên, lòng người hoang mang, định trở về quê cũ làm ăn sinh sống. Khi bình tâm nhớ lại quê nhà, có môn thuốc bằng cây cỏ đem sao vàng, hạ thổ rồi sắc uống. Bài thuốc hay do chính vị danh y Tuệ Tĩnh truyền lại, mọi người bảo nhau là theo lời dặn , quả nhiên dịch bệnh bị đẩy lùi, dân cư được yên ổn. Năm đó, tại khu vực đồng Sim, dân làng lập ngôi đền nhỏ thờ danh y. Lại đặt tên chữ cho làng là An Lư có nghĩa là làng yên ổn, tên nôm là Xưa. Lập lại chợ Xưa, dựng thêm cây cầu 7 nhịp bắc bằng gỗ lim cho dân đi lại cho ngòi nước chảy ra sông Cấm để gợi nhớ hình ảnh quê hương cũ. Trước đây, tại mảnh đất An Lư còn nhiều công trình di tích khác như: Miếu Hổ,bến Bút, đình Chung được dân làng nhiều lần tổ chức nghi lễ liên quan đến việc tuyên truyền, phổ biến phương pháp chữa bệnh bằng cỏ cây, thảo dược, lưu truyền những bài thuốc hay của đaih danh y Tuệ Tĩnh. Trải qua thời gian, chiến tranh, thiên nhiên khắc nghiệt đã hủy hoại hoàn toàn những di tích ban đầu của dân làng tôn thờ danh y Tuệ Tĩnh. Đầu năm 1948, dân làng An Lư đã rước thành hoàng đại danh y Tuệ Tĩnh về phối thờ tại ngôi đền An Bạch, là nơi dân làng thờ vị anh hùng dân tộc Trần quốc Tuấn và các con trai tại vị trí di tích hiện nay. Pho tượng đại danh y Tuệ Tĩnh được các nghệ nhân dân gian tạo tác bởi bàn tay điệu nghệ, giàu tính nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Tượng tạo gần bằng người thật theo lối tượng tròn, trang trọng trong sắc phục quan văn cuối thế kỉ XIX.
    Lễ hội làng An Lư diễn ra từ ngày 11/11 am lịch hàng năm. Tùy theo điều kiện mà lễ hội kéo dài từ 3 đến 5 ngày. Điều đặc biệt cho huyện Thủy Nguyên và riêng làng An Lư là ngoài lễ hội tưởng niệm vị đại danh y diễn ra tại ngôi đền thờ ông, còn bảo lưu truyền thống văn hóa mang đậm bản sắc địa phương như: Họp phiên trợ Xưa vàng sáng mùng một tết nguyên đán, có đầy đủ các sản vật địa phương và nhiều miền quê trù phú khác như. Tại đây, nhân mùa xuân mới người ta gặp gỡ, chúc tụng nhau những điều tốt lành, hy vọng một năm mới gặp nhiều may mắn, thuận lợi trong xuốt cả năm. Đền An Lư được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1990.
  10. congchua_thino

    congchua_thino Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    20/02/2006
    Bài viết:
    5.314
    Đã được thích:
    3
    Mượn đất của Dương tí
    Quần thể di tích - Danh thắng Tràng Kênh
    Khu di tích lịch sử và danh thắng Tràng Kênh thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng có bề dày lịch sử văn hóa, đồng thời đây còn là một danh thắng với cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ do hệ thống núi đá vôi và sông ngòi tạo thành. Tràng Kênh, vùng đất cổ được biết đến qua di chỉ khảo cổ học nổi tiếng, hiện còn bảo lưu trong lòng đất. Theo các nhà nghiên cứu, Tràng Kênh là một di chỉ khảo cổ học, một công xưởng chế tác đồ trang sức bằng đá lớn nhất vùng Đông bắc Tổ quốc, có niên đại cách ngày nay gần 4000 năm, thuộc sơ kỳ thời đại kim khí. Từ buổi khai sơn, phá thạch, tạo dựng cuộc sống, người Tràng Kênh với bàn tay khéo léo đã chế tác ra những đồ trang sức bằng đá tinh xảo, với những vòng tay, hoa tai, chuỗi hạt đa dạng, phong phú, đầy màu sắc. Thông qua các cuộc khai quật và nghiên cứu, các nàh khảo cổ học đã kết luận rằng: Tràng Kênh cách đây gần 4000 năm đã thực sự là một công xưởng chế tác đồ đá có quy mô lớn, sản phẩm của nó không chỉ được trao đổi ở nội địa, mà còn vượt biển tới các nước Đông Bắc Á và Đông Nam Á.
    [​IMG]
    Đền thờ Trần Quốc Bảo


    Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vùng đất này được coi là một phên dậu chống giặc ngoại xâm. Dấu ấn lịch sử để lại đến nay cho biết, Tràng Kênh là một trận địa quan trong trận thủy chiến Bạch Đằng năm 1288 do Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ huy, đánh tan đội quân xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII. Với các địa danh đã đi vào sử sách dân tộc như núi U Bò, Hoàng Tôn, Phượng Hoàng hay cửa Bạch Đằng, nơi hợp lưu của 3 con sông đổ về, cùng các dấu tích về những trận địa cọc hay những địa danh như Áng Hồ, Áng Lác cho biết vùng đất này đã ghi dấu về một chiến trường do quân và dân triều Trần bày trận đón đánh quân thù. Ngày nay dưới chân núi Hoàng Tôn trong hệ thống núi đồi ở Tràng Kênh còn ngôi đền thờ một vị tướng của vương triều Trần. Đó là đền thờ Trần Quốc Bảo. Ông thuộc tôn thất nhà Trần có công trong trận Bạch Đằng năm 1288, khi mất được nhân dân địa phương lập đền thờ. Theo nội dung tấm bia dựng vào niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 8 (1626) đời vua Lê Thần Tông, ngôi đền được xây dựng ở nơi có thắng cảnh đẹp vào hạng thứ nhất của xứ Hải Dương.
    Tràng Kênh - Bạch Đằng, một địa danh lịch sử từ lâu đã đi vào tiềm thức của người dân thành phố Hải Phòng như một ký ức không thể nào quên về một chiến công vĩ đại chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cách đây trên 7 thế kỷ. Cùng với nhiều di sản mang những nội dung lịch sử văn hóa có giá trị, Tràng Kênh - vùng đất thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng đã được nhà nước xếp hạn di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh năm 1962../.
    (Theo "Hải Phòng, di tích - danh thắng xếp hạng Quốc gia")


    Được pham_tu sửa chữa / chuyển vào 11:32 ngày 01/02/2007

Chia sẻ trang này