1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiềm lực quân sự Trung Quốc - Phần 3

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ov10, 19/12/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hanuman2008

    hanuman2008 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/09/2008
    Bài viết:
    457
    Đã được thích:
    0

    Mới hơn, Khựa nổi giận (cầu Trời cho nó tập trung vào Đài mà quên cái vụ TS,he he )
    Trung Quốc bất ngờ hủy một loạt các cuộc tiếp xúc quân sự với Mỹ

    VIT - Các quan chức Mỹ hôm 06/10 tiết lộ với hãng tin AP rằng, Trung Quốc đã bất ngờ hủy một loạt các cuộc tiếp xúc ngoại giao và quân sự với Mỹ nhằm phản đối gói thỏa thuận mua bán vũ khí trị giá 6,5 tỷ USD giữa Mỹ và Đài Loan.


    Theo các quan chức Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc, Bắc Kinh đã thông báo với Mỹ rằng, họ sẽ không tiếp tục một số chuyến thăm cấp cao và kế hoạch hợp tác quân sự do hôm 03/10, chính phủ Mỹ thông báo về thỏa thuận bán vũ khí tiên tiến với Đài Loan trị giá 6,5 tỷ USD.
    ?oSau khi có thông báo về thỏa thuận vũ khí Mỹ-Đài Loan, Trung Quốc đã hủy hoặc hoãn một số cuộc trao đổi quân sự sắp tới,? Thiếu tá Stewart Upton ?" một phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng Mỹ, cho biết.
    Các quan chức Mỹ khẳng định, Trung Quốc sẽ không tham gia vào việc trao đổi với Mỹ về viện trợ nhân đạo và trợ giúp thảm họa ?" dự kiến sẽ diễn ra vào cuối tháng 11 tới.
    Phản ứng trước quyết định trên của Trung Quốc, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ, Robert Wood, nói: ?oĐó là bước đi không thích hợp.?
    Bắc Kinh đã giận dữ khi Mỹ có quyết định bán lô vũ khí tiên tiến cho Đài Loan, trong đó có 330 tên lửa đánh chặn hiện đại Patriot III, 30 máy bay lên thẳng Apache AH-64D và 32 tên lửa Harpoon trang bị cho tàu ngầm. Trung Quốc cho rằng thỏa thuận này gây cản trở đến các vấn đề nội bộ Trung Quốc và làm tổn hại đến an ninh quốc gia.
    Được biết, Washington là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất và quan trọng nhất của Đài Loan.


    NM (Theo AP)
  2. Masan_1

    Masan_1 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/01/2002
    Bài viết:
    2.330
    Đã được thích:
    14
    Ác cái gì, khu trục hạm mà có mỗi 16 quả phòng không ngắn tũn, ngang corrvete ... , với cả 4 khẩu pháo phòng không bắn 180 viên/phút (theo sinodefence.com nhé). Chắc bắn hết 8 quả nạp nốt 8 quả dự trữ rồi LUHU quay về cảng nạp tiếp tên lửa phòng không.
    Chính xác, bắn xong về cảng nạp đạn, ngày xưa SV có tầu nạp đạn nhưng sau bỏ vì không kinh tế, và nếu đánh nhau cái đấy chìm đầu tiên. không khéo chìm cả hai, vì nạp đạn tốn rất nhiều thời gian, mà gần như không cơ động được.
  3. doncoi_noixaxoi

    doncoi_noixaxoi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/01/2007
    Bài viết:
    1.515
    Đã được thích:
    9
    Con này là soái hạm,muốn diệt được nó thi phải diệt toàn bộ hạm độ Khựa đã. Nên y'''''''' nó nói bất khả xâm phạm là thế. Mấy quả tên lửa kia cũng là trưng cho nó đẹp, chứ vai trò chiến đấu của nó cũng không có ý nghĩa nhiều lắm so với 1 trận đánh lớn,vì nhiệm vụ chính của con này không phải là chiến đấu.
    Được doncoi_noixaxoi sửa chữa / chuyển vào 13:41 ngày 07/10/2008
    Được doncoi_noixaxoi sửa chữa / chuyển vào 13:44 ngày 07/10/2008
  4. higher

    higher Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/10/2008
    Bài viết:
    3
    Đã được thích:
    0

    Tiềm lực quân sự của Trung Quốc đáng gờm lắm đấy, tuy nhiên tụi nó ít đụng trận thực tế như Mỹ hay Việt Nam. Nên trông lý thuyết thì rất Ok rất chuyên nghiệp nhưng khi đụng trận thưc tế thì chưa biết như thế nào.
    Tư duy quân sự của bọn Khựa, là đánh biển người nên đánh lại chúng thì cần các vũ khí chống biển người như: Pháo tổ ong (khi đạn nổ bắn ra phía trước cả hàng ngàn mảnh đạn), hoặc súng không giật trang bị cho tank Ontos (bắn ra hàng ngàn mảnh kim loại). Dùng mấy thứ này thì tụi này sợ lắm đây.
  5. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1
    TQ thay đổi tư duy QS rồi
  6. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1
    Có bài này đáng để đọc đây
    Chiến lược hải quân của Trung Quốc và hàm ý của nó đối với khu vực Biển Đông
    Ngô Vĩnh Long, Đại học Maine Orono, Maine, Hoa Kỳ
    Ngày 28 tháng 12 năm 2006 hầu hết các báo lớn của Trung Quốc đã trích đăng ngay trang đầu bài diễn văn của Chủ tịch Hồ Cẩm Đào ngày trước đó trong một cuộc họp với các sĩ quan hải quân về việc Trung Quốc phải xây dựng một hệ thống hải quân hùng mạnh có thể bảo vệ quyền lợi, quyền thế, và an ninh của Trung Quốc bất cứ lúc nào. Hồ Cẩm Đào nói rằng: ?oChúng ta phải cố gắng xây dựng một lực lượng Hải quân Nhân dân hùng mạnh có thể đáp ứng được sứ mạng lịch sử trong một thế kỷ mới và một thời kỳ mới.?[1]
    Ngày 28 tháng 12 năm 2006, trả lời câu hỏi của phóng viên Thông tấn xã Việt Nam về việc Trung Quốc đã tiến hành xây dựng bia chủ quyền tại các điểm cơ sở lãnh hải, trong đó có một số điểm cơ sở trên quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, người phát ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam Lê Dũng nói:
    Việt Nam một lần nữa khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam có đầy đủ những bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này?.
    Việt Nam một lần nữa khẳng định chủ trương giải quyết mọi tranh chấp trên biển giữa các nước liên quan bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền của nhau, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đông năm 2002, vì mục đích tăng cường hợp tác hữu nghị, giữ gìn hòa bình và ổn định trên biển Đông.[2]
    Không biết hai sự kiện trên có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay không. Nhưng vì Trung Quốc không bị một sự đe dọa nào trên trên đất liền cả (trừ các cuộc biểu tình của nông dân và sự chống đối của một thiểu số khoảng 50 nghìn người đạo Hồi ở vùng Tân Cương) trong khi ngân sách quốc phòng của Trung Quốc đã tăng trung bình 15,36% mỗi năm từ năm 1990 đến 2005, và tăng 17,8% năm 2007,[3] hải quân Trung Quốc đã tăng cường rất nhanh trong 16 năm qua. Do đó, ý định của bài nầy là tìm hiểu xem chiến lược của hải quân Trung Quốc sẽ có ảnh hưởng gì đối với khu vực biển Đông. Các vấn đề tranh chấp trong khu vực biển Đông là ngoài phạm vi của bài nầy và đã được phân tích trong các bài của Từ Đặng Minh Thu và Vũ Quang Việt trong số Thời Đại Mới nầy. Vì thế, ở đây tôi sẽ không đề cập đến các vấn đề ấy nữa mà chỉ mong bổ sung các bài ấy với một số thông tin về hải quân Trung Quốc và chiến lược của nó.
    Trước khi đi vào chi tiết về chiến lược của hải quân Trung Quốc, tôi xin phác qua vài nét về tên gọi và cơ cấu tổ chức của nó.[4]
    Hải quân Trung Quốc được gọi là ?oGiải phóng quân Hải quân? (Jiefangjun Haijun 解 " ?> 海 ?>) vì nó là một bộ phận của Giải phóng quân, tức quân đội, của Trung Quốc. Các sách báo tiếng Anh thường gọi tắt là PLAN (People?Ts Liberation Army Navy).
    Hải quân Trung Quốc gồm có 5 nhánh: binh đội tàu ngầm, binh đội tàu mặt nước, binh đội không quân, binh đội hải quân đánh bộ, và binh đội ?ongạn phòng.? Ngoài ra, cũng có 10 học viện và đại học trực thuộc, nhiều viện nghiên cứu, các binh đoàn bộ đội chuyên môn, và các cục chính trị, cục hậu cần, cục kỹ thuật, và các đơn vị bảo đảm phục vụ và sửa chữa. Các binh đoàn, binh đội và đơn vị trên được phân chia thành 3 vùng gọi là: Bắc Hải Hạm Đội (Beihai jiandui O- 海 ^ ~Y), Đông Hải Hạm Đội (Donghai jian dui o 海 ^ ~Y),và Nam Hải Hạm Đội (Nanhai jiandui - 海 ^ ~Y).
    Hải quân Trung Quốc được tổ chức thành những chi đội (zhidui " ~Y), đại đội (dadui 大 ~Y) và trung đội (zhongdui 中 ~Y). Về phương thức tổ chức thì một chi đội có quân hàm tương đương với một sư đoàn của Mỹ và vì thế thường được dịch ra là ?odivision? hay ?oflotilla? (hạm đội). Hải quân Trung Quốc có 7 thứ chi đội khác nhau:
    ? Tàu ngầm, gọi là ?otiềm đĩnh? (qianting o ??).
    ? Tàu khu trục (destroyers).
    ? Tàu hộ tống, gọi là ?ohộ vệ đĩnh? (huweiting S 卫 ??).
    ? Tàu cao tốc (speedboats).
    ? ?oTác chiến chi viện thuyền? (zuozhan zhiyuanjian o ^~" 援 ^).
    ? Tàu đánh đuổi tàu lặn (submarine chasers).
    Nhiều chi đội là chi đội tổng hợp gồm có các thứ tàu khác nhau. Ví dụ như có một số chi đội tàu ngầm hạt nhân và tàu ngầm thông thường, chi đội tàu khu trục, chi đội tàu hộ tống và chi đội tàu cao tốc gồm có những ?ođạo đạn đĩnh? (daodanting 导 弹 ??), tàu rà mìn, tàu phóng ngư lôi và tàu đánh đuổi tàu lặn. Các chi đội tàu thường có một số ?otác chiến chi viện thuyền? nhất định.
  7. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1
    Chiến lược chung của Hải quân Trung Quốc
    Theo định nghĩa của quân đội Trung Quốc thì chữ ?ochiến lược? (zhanlue ^~ .) chỉ áp dụng cho chiến tranh (zhanzheng ^~ ?). Chiến tranh có thể là chiến tranh cục bộ hay chiến tranh toàn bộ; và chiến tranh là để đạt được những mục tiêu chung của một quốc gia. Trong chiến tranh thì có chiến dịch (zhanyi ^~ 役) và ?ochiến dịch pháp? (zhanyifa ^~ 役 .) và được dùng để điều hành các chiến trận, mà họ gọi là ?ochiến đấu? (zhandou ^~ --), để đạt được những mục tiêu chung của một quốc gia trong chiến tranh. Mỗi mô hình ?ochiến đấu? có các ?ochiến thuật? (zhanshu ^~ o) khác nhau của nó.
    Chiến lược chung của quân đội Trung Quốc được gọi là ?oCương lĩnh Quân sự Quốc gia cho Thời đại mới? và gồm có hai phần.
    Phần thứ nhất là phần về đổi mới và hiện đại hóa quân đội toàn bộ từ trang bị vũ khí đến cơ cấu và tổ chức. Trong đó, hai vấn đề quan trọng nhất là ?ochuẩn bị đánh thắng các cuộc chiến tranh cục bộ trong hoàn cảnh công nghệ cao hiện đại? và ?ochuyển đổi từ một quân đội dựa trên số lượng đến một quân đội dựa trên chất lượng.?[5] Từ những năm đầu của thập kỷ 2000 đến nay Trung Quốc chú trọng vào việc xây một quân đội dựa trên cơ khí hóa và tin học hóa mà họ gọi là ?otin tức hóa? (xinxihua 信 息 O-).[6]
    Phần thứ hai là phần các chiến lược hoạt động, tức các đường lối cơ bản cho việc chỉ đạo chiến tranh. Phần nầy được gọi là chiến lược ?otích cực phòng ngự? (Jiji fangyu 积 z ~ 御) và được coi là cương lĩnh chiến lược tối cao của toàn thể quân đội Trung Quốc trong chiến tranh, hay trong việc chuẩn bị cho chiến tranh trong thời bình. Chiến lược ?otích cực phòng ngự? gồm những điểm sau:[7]
    ? ?oNói chung, chiến lược quân sự của ta là phòng ngự. Chúng ta chỉ tấn công sau khi bị tấn công. Nhưng các chiến dịch của chúng ta là tấn công.?
    ? ?oKhông gian và thời gian sẽ không hạn chế sự phản công của chúng ta.?
    ? ?oChúng ta sẽ không để các biên giới hạn chế các cuộc tấn công của ta.?
    ? ?oChúng ta sẽ chờ cho thời điểm và điều kiện thuận lợi cho các lực lượng của chúng ta trước khi chúng ta bắt đầu các cuộc tấn công.?
    ? ?oChúng ta sẽ tập trung vào các điểm yếu của đối phương.?
    ? ?oChúng ta sẽ dùng các lực lượng của chúng ta để tiêu diệt các lực lượng của đối phương.?
    ? ?oCác chiến dịch tấn công kẻ thù và các chiến dịch phòng thủ sẽ được thi hành cùng lúc.?
    Một phần của chiến lược ?otích cực phòng ngự? là khái niệm chiến lược gọi là ?ocận hải phòng ngự? (Jinhai fangyu '海~御) của Hải Quân Trung Quốc. Khái niệm nầy có 3 nhiệm vụ chính:[8]
    ? Kiềm chế kẻ thù từ ngoài khơi và không cho đổ bộ.
    ? Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia.
    ? Bảo vệ sự thống nhất đất nước và quyền lợi trên biển cả.
    ?oCận hải? không có nghĩa là gần bờ biển. Nhưng, theo định nghĩa trong các tài liệu của Hải Quân Trung Quốc là ?ođến tận những nơi xa trên biển cả mà Hải Quân Trung Quốc có khả năng đưa các lực lượng đặc nhiệm đến với sự chi viện và an ninh cần thiết? (?as far as the PLA Navy?Ts capabilities will allow it to operate task forces out at sea with the requisite amount of support and security.)[9] [Nhấn mạnh là trong nguyên văn] Hiện nay ?ocận hải? được định nghĩa tối thiểu là trong phạm vi của hai chuỗi quần đảo. Chuỗi quần đảo thứ nhất thường được mô tả là một đường chạy dài từ quần đảo Kurile, qua Nhật, Philippin, và In-đô-nê-sia (từ Borneo đến Natuna Besar). Chuỗi quần đảo thứ hai là đường bắc-nam chạy dài từ quần đảo Kurile, qua Nhật, Bonins, Marianas, Carolines, và In-đô-nê-sia. Hai đường nầy bao gồm gần như toàn bộ Biển đông Trung Quốc (East China Sea) hầu hết các đường giao thương trên biển (sea lanes of communication, SLOCs) của Đông Á.
    Theo một bài viết vào khoảng cuối năm 1999 khi ông còn là tùy viên hải quân Hoa Kỳ ở Trung Quốc, thuyền trưởng (Captain) Brad Kaplan cho biết rằng mục tiêu của chiến lược ?otích cực cận hải phòng ngự? (?oactive offshore defense?) là ?ođể khẳng định vai trò của Trung Quốc như là một cường quốc khu vực trên biển, để bảo vệ các khu vực kinh tế duyên hải và các quyền lợi trên biển, và để tối ưu hóa các chiến dịch của Hải quân (Trung Quốc) cho quốc phòng. Bổn phận của Hải quân Trung Quốc hiện nay bao gồm việc chiếm đóng và phòng thủ các hải đảo, và bảo vệ cũng như phong tỏa các đường giao thương trên biển (sea-lanes of communication). Hơn thế nữa, Hải quân Trung Quốc càng ngày càng được lãnh đạo của Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc coi như là bộ phận không thể thiếu trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan ̶ khi cần dùng vũ lực ̶ và để bảo vệ ?oTây sa? và ?oNam sa? (tức Hoàng sa và Trường sa) ở Trung Quốc Nam Hải (tức biển Đông).?[10]
    Kaplan viết tiếp: ?oChiến lược đang được Hải quân Trung Quốc phát triển tuần tự đã được mô tả là gồm hai giai đoạn riêng biệt rõ ràng. Giai đoạn đầu là để cho Hải quân Trung Quốc phát triển các khả năng của một ?ochiến lược phòng ngự tích cực nước màu xanh lục? (?ogreen water active defense strategy?). Chiến lược ?onước màu xanh lục? nầy thường được mô tả là bao gồm trong một hình cung từ Vladivostok ở phía bắc đến eo biển Malacca ở phía nam, và ra đến ?ochuỗi quần đảo thứ nhất? (Aleutians, Kuriles, Ryukyus, Đài Loan, Philippin, và quần đảo Greater Sunda) ở phía đông. Các nhà phân tích đã đánh giá rằng Hải quân Trung quốc có thể đạt được khả năng ?onước màu xanh lục? nầy trong những năm đầu của thế kỷ 21. Những tài liệu đã được công bố cũng cho biết là Hải quân Trung Quốc có ý định phát triển khả năng hoạt động ở ?ochuỗi quần đảo thứ hai? (Bonins, Guam, Marianas, và quần đảo Palau) vào giữa thế kỷ 21. Trong tương lai, Hải quân Trung Quốc có thể sẽ bành trướng hoạt động đến các căn cứ ở Myanmar. Các căn cứ nầy sẽ cung cấp cho Hải quân Trung Quốc phương tiện đi thẳng đến eo biển Malacca và Vịnh Bengal.?
  8. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Chiến lược chung của Hải quân Trung Quốc
    Kaplan cho biết là đến cuối thập kỷ 90 Hải quân Trung Quốc có khoảng 268.000 sĩ quan và lính, trong đó có 25.000 người trong quân chủng hàng không hải quân và khoảng 7.000 lính thủy đánh bộ. Toàn bộ lính thủy đánh bộ là thuộc Hạm đội Nam Hải. Khối lính thủy đánh bộ (thuộc Hạm đội Nam Hải) này gồm 2 lữ đoàn, gọi là Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến số một và số 164. Dưới mỗi lữ đoàn có 3 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo, một trung đoàn thiết giáp lội nước, và các đơn vị công binh, trinh sát, phòng chống hóa chất, và giao thông. Các đơn vị nầy là những đơn vị hạng tiểu đoàn và đại đội.[11]
    Lính thủy đánh bộ của Trung Quốc được huấn luyện tốt và đựợc cung cấp đầy đủ các loại vũ khí cần thiết. Theo Kaplan: ?oSứ mạng chính của lính thủy đánh bộ Trung Quốc là bảo vệ các đảo mà Trung Quốc đã chiếm ở Trung Quốc Nam Hải (South China Sea) trong thời bình và chiếm đóng và phòng thủ các đảo trong khu vực Trung Quốc Nam Hải trong thời chiến?. Lính thủy đánh bộ Trung Quốc được trang bị với các xe tăng lội nước (amphibious tanks) và các xe thiết giáp chở lính (armored personnel vehicles), súng đại liên (howitzers) và nhiều thứ vũ khí phóng tên lửa khác nhau. Mặc dù Hải quân Trung Quốc có khoảng 60 xe tăng? khả năng chở lính đổ bộ chỉ khoảng 5 đến 10 nghìn người cùng một lúc.? Vì thế, theo Kaplan, từ cuối thập kỷ 90 Hải quân Trung Quốc đã bắt đầu phát triển các khả năng đổ bộ như thuyền bay trên nệm hơi loại gọi là Jingsha (Jingsha-class air cushion vehicles) và các loại thuyền đẩy bằng cánh quạt gió (wing-in-ground-effect craft) bay trên mặt nước khoảng 1 mét với tốc độ khoảng hơn 120 hải lý một giờ để dùng trong việc đổ bộ lính thủy đánh bộ trong tương lai.
    Trong quá khứ, các cuộc tập trận đổ bộ của lính thủy đánh bộ Trung Quốc đã được phối hợp với các cuộc dội bom bằng máy bay và nã pháo từ các chiến thuyền. Nhưng vì khả năng phối hợp này còn yếu nên gần đây Trung Quốc đã phát triển hàng nghìn các loại vũ khí hổ trợ cho việc đổ bộ của lính thủy đánh bộ. Nhưng trong bài nầy tôi không đi vào chi tiết mà chỉ xin lưu ý là mặc dầu với con số khá lớn như thế, khả năng hiện nay của Trung Quốc so với Mỹ trong khu vực nầy còn kém nhiều và vì thế chưa là mối đe dọa lớn cho các tàu lặn tối tân của Mỹ.
    Hơn thế nữa, việc Trung Quốc tăng cường các loại chiến thuyển chở lính đổ bộ (amphibious warships) đã gây sự chú ý của Mỹ và phản ứng của một số nước trong khu vực Đông Á. Theo một bài nghiên cứu thì trên thực tế vấn đề chạy đua vũ trang chính trong khu vực nầy là việc phát triển các chiến thuyền có khả năng đưa lính đổ bộ đến bất cứ đâu trong khu vực.[12] Hải quân Nhật, Hàn Quốc, và Ô-xtrây-li-a mỗi nước đang mua hoặc đóng ít nhất là 2 chiến thuyền đổ bộ loại 20 ngàn tấn, lớn tương đương với loại hàng không mẫu hạm loại Invincible (bất bại) của Anh Quốc. Mỗi chiếc của 3 loại nầy trong tương lai rất gần sẽ có thể đưa vào bất cứ nơi nào trong khu vực Châu Á hai đội (squadrons) máy bay trực thăng và một số thuyền đổ bộ bay trên đệm hơi (landing craft, air cushion = LCAC). Mỗi chiếc LCAC nầy có thể chở một xe thiết giáp loại 60 tấn cùng với lính, các loại xe khác, và các loại trang thiết bị cần thiết cho các cuộc viễn chinh ở các nơi trong khu vực. Nhưng Nhật, Hàn Quốc và Ô-xtrây-li-a đặc biệt chú trọng đến khu vực Đông Nam Á.
    Hàn Quốc đã đưa vào hoạt động một chiến thuyền đổ bộ mới loại Dokdo và sẽ hạ thủy thêm 3 chiếc nữa trong tương lai gần. Mỗi chiếc sẽ nặng khoảng 19 ngàn tấn khi trang bị đầy đủ và sẽ có thể chở 700 lính, 15 chiếc trực thăng, 2 chiếc LCAC, vài chục chiếc xe các loại và nhiều tấn vật liệu tiếp tế cho một cuộc đổ bộ.
    Theo nghiên cứu trích ở trên thì Ô-xtrây-li-a sẽ có quyết định cuối cùng vào tháng 6 năm 2007 trong việc chọn lựa giữa một kiểu chiến thuyền đổ bộ giống như kiểu Mistral của Pháp hay kiểu Strategic Projection Vessel của Tây Ban Nha. Kiểu Mistral là loại chiến thuyền được thiết kế đặc biệt cho việc đổ bộ và nó có khả năng tương đương với chiếc Dokdo của Hàn Quốc. Chiến thuyền kiểu Tây Ban Nha nặng khoảng 27 ngàn tấn và thiết kế để sử dụng các chiếc máy bay cất cánh nhanh và có thể hạ thẳng xuống (short takeoff and vertical landing = STOVL) như máy bay Harrier của Anh hay máy bay F-35B Lightening II của Mỹ. Vì thế, mặc dầu chiến thuyền đổ bộ kiểu Tây Ban Nha có thể chở hơn 900 lính, 20 chiếc trực thăng và STOVL, nó chỉ có thể chở một chiếc LCAC. Nhưng vì dưới khoang tàu là cái gầm có nước tràn vào cho nên chiếc LCAC có thể ra vào một cách hết sức nhanh chóng (so với những chiến thuyền kiểu khác phải thả các chiếc LCAC bằng các trục giây cáp xuống từ hai bên hông tàu) và có thể đưa nhiều lính và các trang thiết bị vào đất liền ngay từ ngoài khơi.
    Mặc dầu hai chiếc khu trục chở máy bay trực thăng (helicopter destroyer) mà hải quân Nhật?"gọi là Lực Lượng Phòng Vệ Biển (Japan Maritime Self-Defense Force = JMSDF)?"đang đóng không có cửa vào thẳng trong gầm tàu như kiểu Tây Ban Nha, mỗi chiếc (tên là 16DDH) cũng có thể chở cùng một số lượng máy bay trực thăng như các chiến thuyền đổ bộ kiểu Tây Ban Nha. Thêm vào đó là hai chiếc nầy được thiết kế để phối hợp hoạt động với 3 chiến thuyền đổ bộ kiểu Oosumi mà Nhật đã hạ thủy. Mỗi chiếc Oosumi có thể chở 2 chiếc LCAC, 2 chiếc trực thăng trở lên và 330 lính.
    Ngoài các chiến thuyền đổ bộ của Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a, và Nhật trong khu vực Tây Thái Bình Dương còn có những chiếc WASP của hải quân Mỹ. Mỗi chiếc có thể chở 1870 lính, 42 chiếc trực thăng và STOVL và 3 chiếc LCAC.
    Những chiến thuyền đổ bộ kể trên, với những máy bay trực thăng và LCAC và khả năng đưa lính đổ bộ nhanh chóng cũng như khả năng cung cấp và duy trì các cuộc hành quân đó, sẽ là những phương tiện mới để gây ảnh hưởng tại Đông Á cho dù các cuộc hành quân đó không phải là chiếm đóng các vị trí quân sự quan trong mà là để giúp giữ gìn an ninh và trật tự hay để cứu giúp những nạn nhân sóng thần hay núi lửa.
    Trong những năm trước mắt, nếu có biến cố xảy ra ở In-đô-nê-sia, Phi-líp-pin, hay nơi nào đó ở Đông Nam Á thì những chiến thuyền đổ bộ của Mỹ sẽ phải phối hợp với các chiến thuyền đổ bộ có nhiều khả năng của Nhật, Hàn Quốc, và Ô-xtrây-li-a để can thiệp. Việc phối hợp nầy một đằng có nghĩa là Mỹ sẽ mất thế độc tôn trong việc can thiệp hay trợ giúp các nước trong khu vực khi có biến cố. Đằng khác, nếu bất cứ một nước nào đó muốn dùng sức mạnh hải quân để đơn phương can thiệp hay gây biến cố trong khu vực thì nước đó cũng có thể phải e dè đến sự phản ứng đa phương của hải quân các nước như Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật, Ô-xtrây-li-a, và một số nước khác.
  9. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1
    Chiến lược phủ định của Trung Quốc
    Như vừa cho thấy ở trên, việc tăng cường chiến thuyền đổ bộ và các phương tiện đổ bộ khác của Trung Quốc đã gây nên một cuộc chạy đua mà nói chung là càng làm cho Trung Quốc tụt hậu so với Nhật, Hàn Quốc và Ô-xtrây-li-a. (Một trong những lý do cho việc tụt hậu của Trung Quốc so với các nước vừa kể trên trong lãnh vực phát triển các chiến thuyền đổ bộ là vì Trung Quốc cũng đang đầu tư khá nhiều vào việc phát triển hàng không mẫu hạm.)[13] Trong khi đó thì hạm đội trên mặt nước của Trung Quốc rất yếu kém so với Mỹ. Mặc dầu Trung Quốc hiện nay có hơn 400 chiến hạm loại tấn công, chỉ có khoảng 50 chiếc là loại lớn theo tiêu chuẩn của Âu-Mỹ. Những chiếc nầy được trang bị với các hỏa tiển và đầu đạn tầm gần và tầm xa nhưng không có khả năng đương đầu với các tàu chiến lớn của Mỹ hay chống lại và tìm diệt các tàu lặn của Mỹ. Ngoài các chiến thuyền tấn công, hải quân Trung Quốc có hơn 300 chiếc chiếc ?ohộ vệ đỉnh? đủ loại. Theo Kaplan, gần như toàn bộ các chiếc thuyền nầy đều trang bị với các khả năng gài những loại mìn với những hệ thống sử dụng công nghệ rất hiện đại. Ông ta cho biết là: ?oNếu dùng với số lượng đầy đủ thì các loại mìn nầy sẽ gây một đe dọa rất khả quan đối với các chiến thuyền trên mặt nước và tàu lặn hoạt động dọc vùng duyên hải Trung Quốc, Hoàng Hải (Yellow Sea), Biển Nhật Bản, eo biển Đài Loan và Trung Quốc Nam Hải. (If used in sufficient numbers, this inventory poses a significant threat *****rface and submarine units operating along China?Ts littoral, the Yellow Sea, Sea of Japan, Taiwan Strait, and South China Sea.)[14]
    Nhưng vì Trung Quốc chưa thể đương đầu với các hạm đội trên mặt nước của Mỹ, chiến lược của Trung Quốc là dùng tàu lặn để tấn công và phủ định sức mạnh của các hạm đội trên mặt nước của Mỹ vì các tàu trên mặt nước, đặc biệt là hàng không mẫu hạm, rất khó phòng thủ trước các cuộc tấn công của tàu lặn bắn hàng loạt các tên lửa có đầu đạn các loại gần xa cùng một lúc.
    Nói đến tàu lặn thì bắt đầu từ thập kỷ nầy Trung Quốc có khoảng 70 chiếc và hiện nay số lượng đó vẫn như thế vì chiến lược của Trung Quốc là thay thế những tàu lặn kiểu cũ với những tàu lặn tối tân hơn như là loại chạy bằng năng lượng nguyên tử có thể phóng các tên lửa (nuclear-power ballistic-missile system, SSBN). Một ví dụ là loại 094 SSBN được trang bị với 16 ống phóng tên lửa. Từ năm 2002 đến giữa năm 2005 Trung Quốc đã đóng 14 chiếc tàu lặn loại mới. Nếu Trung Quốc tiếp tục đóng những chiếc tàu lặn tối tân với tốc độ vừa qua thì đến cuối thập kỷ nầy Trung Quốc sẽ có 40 chiếc tàu lặn tối tân. Một lần nữa trong bài nầy tôi xin không đi vào các chi tiết về các kiểu tàu lặn mới của Trung Quốc và khả năng của chúng. Tôi chỉ muốn lưu ý là phần lớn các loại tàu lặn tối tân là trong Hạm đội Nam Hải và những tàu lặn nầy đã từng đi theo các chiến thuyền của Mỹ đến tận đảo Guam để thử xem khả năng phát hiện tàu lặn của các chiến hạm của Mỹ tinh vi đến độ nào.[15]
  10. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Chiến lược phủ định của Trung Quốc
    Một nhà nghiên cứu Mỹ, tên Richard Fisher, Jr., trong một bài với tựa đề ?oTrouble Below: China?Ts submarines pose regional, strategic challenges? đăng trong Armes Forces Journal ngày 6 tháng 3 năm 2006 viết: ?oThêm vào đó là, vì trọng tâm của lực lượng tấn công nguyên tử tầng thứ hai (của Trung Quốc) chuyển về phía nam, người ta có thể dự tính rằng Bắc Kinh sẽ càng ngày càng thách thức hơn đối với các lãnh thổ mà Trung Quốc cho là của Trung Quốc trong khu vực Trung Quốc Nam Hải.? (In ad***ion, as the focus of its nuclear second-strike capability moves south, it can be expected that Beijing will become more belligerent regarding its territorial claims in the South China Sea.) Fisher cho biết rằng tàu lặn nguyên tử loại 093 SSN có thể trang bị với các đầu đạn cruise tấn công trên đất liền (land-attack cruise missiles, LACM) với tầm xa từ 1000 đến 2000 cây số sẽ càng ngày càng được dùng ở cuối thập kỷ nầy và đầu thập kỷ tới ở các nước xa Trung Quốc để ủng hộ các chính thể và các phe phái chính trị trung thành với Trung Quốc. Trong khi đó, nếu Nhật không tăng ngân sách quốc phòng một cách đáng kể thì trong tương lai Nhật chỉ có thể duy trì khoảng 15 đến 16 tàu lặn lọai thường (conventional submarines, SSKs).[16]
    Trong bài với tựa đề ?oChina?Ts Submarine Challenge? mà The Heritage Foundation ở Mỹ đăng ngày 1 tháng 3 năm 2006, John J. Tkacik, Jr., cho biết hiện nay Mỹ có 35 tàu lặn trong Hạm đội Thái Bình Dương, trong đó có 3 chiếc loại tấn công nguyên tử (nuclear attack submarines) đóng ở đảo Guam. Nhưng chỉ có khoảng một chục chiếc là được đưa vào hoạt động trong bất cứ một thời điểm nào. Và vì giá đóng mỗi chiếc tàu lặn là hơn 2 tỷ đô la và vì ngân sách đóng tàu lặn đang bị cắt, đến năm 2025 Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ sẽ chỉ còn có 30 chiếc. Tkacik cho biết rằng một số nghiên cứu đã ước tính là đến năm 2025 số lượng tàu lặn của Trung Quốc ở Thái Bình Dương sẽ lớn hơn gấp 5 lần số lượng tàu lặn của Mỹ và các tàu lặn nguyên tử có các đầu đạn nguyên tử của Trung Quốc sẽ đi rình mò dọc miền ven biển Tây của Mỹ để buộc ít nhất là hai chiếc tàu lặn loại tấn công (attack submarines) của Mỹ phải đi theo dõi một chiếc tàu lặn nguyên tử của Trung Quốc. Vì những lý do trên, đến năm 2025 hải quân của Trung Quốc sẽ có thể làm chủ Thái Bình Dương.[17]
    Phương pháp thứ hai trong chiến lược phủ định sức mạnh của hải quân Mỹ là làm tê liệt các phương tiện trinh sát và truyền tin của quân đội Mỹ, như giết các vệ tinh, để cho quân đội của Mỹ bị mù trong khi Trung Quốc tấn công các mục tiêu quân sự và vì thế không có thể trở tay hay tiếp ứng kịp thời. Ngày 11 tháng Giêng vừa qua Trung Quốc thử vũ khí chống vệ tinh (anti-satellite test, ASAT) bằng cách dùng phương pháp ra-đa mảng (phased array radar) để hướng dẫn một phi thuyền giết vệ tinh bằng động năng (kinetic-kill vehicle) bay theo một vệ tinh của Trung Quốc đang bay vòng quanh khoảng 475 dặm Anh trên không trung với tốc độ nhanh hơn một đầu đạn xuyên lục địa đang phóng xuống từ trên không trung và đập nát vệ tinh nầy ra thành hơn 1600 mảnh. Vũ khí chống vệ tinh nầy của Trung Quốc được tình báo Mỹ gọi là SC-19 và được phóng lên từ một dàn phóng di động. Mỹ biết trước là Trung Quốc sẽ thử vũ khí chống vệ tinh nầy nhưng làm thinh vì biết là không có cách nào cản được Trung Quốc.[18]
    Ashley Tellis, một nhà nghiên cứu tại Carnegie Endowment for International Peace, cho biết là các yếu tố kỹ thuật trong cuộc thử vũ khí chống vệ tinh nầy của Trung Quốc cũng giống như các yếu tố kỹ thuật trong việc bắn hạ các tên lửa. Cùng với việc thử vũ khí giết vệ tinh, Trung Quốc sẽ triển khai hệ thống tên lửa xuyên lục địa lưu động (road-mobile intercontinental ballistic missle) gọi là DF-31. Tellis viết thêm rằng Bắc Kinh đã đi đến quyết định là phải có một hệ thống tên lửa và khả năng tiêu diệt vệ tinh hùng mạnh để ?ochống lại toàn bộ khả năng quân sự của Hoa Kỳ? và để phá vở ?omạng lưới phức tạp nhưng khó bảo vệ của chỉ huy, điều khiển, thông tin, và các hệ thống dựa vào máy vi tính để cung cấp tin tức trinh sát? (?ocomplex, exposed network of command, control, communications, and computer-based systems that provide intelligence reconnaissance?) cho quân đội của Mỹ. Tellis viết là bởi vì các nhà hoạch định quốc phòng Trung Quốc thấy các nhược điểm chính của quân đội Mỹ là tính chất nối mạng thông tin nên Trung Quốc sẽ không bao giờ từ bỏ các nỗ lực xây dựng các quân lực tên lửa hùng mạnh dẫu cho Mỹ có đưa ra bất cứ những đề nghị gì để hòng ngăn chặn vấn đề vũ khí hóa không gian (weaponization of space).[19]
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này