1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiềm lực quân sự Trung Quốc - Phần 3

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi ov10, 19/12/2007.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Chiến lược phủ định của Trung Quốc
    Trong khi đó thì thái độ chống đối của Trung Quốc đối với việc Mỹ muốn triển khai/dàn dựng hệ thống phòng thủ tên lửa (ballistic missile defense system, BMD) ở Âu Châu và ủng hộ Nga trong việc tranh cãi với Mỹ về vấn đề nầy cho ta thấy Trung Quốc sợ nếu Mỹ thành công ở Âu Châu thì Mỹ sẽ có thể thiết lập hệ thống nầy ở vùng Châu Á Thái Bình Dương. Phản ứng của Trung Quốc càng ngày càng mạnh. Khi cuộc họp thượng đỉnh G8 vừa qua bắt đầu, Jiang Yu (người phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Trung Quốc) tuyên bố là ?ocác hệ thống phòng thủ tên lửa có ảnh hưởng tiêu cực đối với cân bằng chiến lược và ổn định và (vì thế) có phương hại đến vấn đề tin tưởng lẫn nhau giữa các cường quốc và có thể sẽ tạo ra các vấn đề phổ biến vũ khí mới (Xinhua, ngày 5 tháng 6 năm 2007).
    Ngày 21 tờ Nhân Dân nhật báo (People?Ts Daily) đăng một bài xã luận nói rằng kế hoạch chống tên lửa của Mỹ ở Âu Châu diễn ra cùng lúc với những hoạt động hợp tác với Nhật và Ô-xtrây-li-a để phát triển một hệ thống tương tự ở Á Châu. Bài nầy nói rằng hệ thống phòng thủ tên lửa cũng có thể dùng để tấn công như là ?obắn trúng các tên lửa cao tốc tấn công các máy bay đang bay hay những vệ tinh trên quỹ đạo.? Bài báo nhấn mạnh rằng những nỗ lực của Mỹ và đồng minh trong việc xây dựng một hệ thống phòng thủ tên lửa là ?ophản ánh đầu óc của Mỹ muốn tăng cường trạng thái tâm lý Chiến Tranh Lạnh? và vì thế ?osẽ chẳng có thể duy trì an ninh khu vực hay phát triển sự tin tưởng lẫn nhau hay sự hợp tác giữa các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.? Bài xã luận đi đến kết luận đáng ngại là hệ thống phòng thủ tên lửa ?osẽ không những tăng cường sự mất tin tưởng và cảm giác xa lìa giữa các quốc gia nhưng sẽ còn tạo ra những vấn đề phổ biến vũ khí.?
    Vài nhà nghiên cứu cho rằng Trung Quốc thử vũ khí chống vệ tinh để đánh đổi việc Mỹ và các đồng minh muốn gầy dựng các hệ thống vũ khí chống tên lửa từ trên không gian (space-based antimissile weapons). Peter W. Rodman, một viên chức cao cấp của Bộ Quốc Phòng Mỹ vừa từ chức gần đây, không đồng ý với quan điểm nầy và cho biết rằng Trung Quốc đã từ lâu viết về các phương cách làm sao để đánh què một siêu cường dựa vào kỹ thuật cao như vệ tinh và đã rất kiên nhẫn trong việc phát triển các vũ khí có khả năng thực hiện việc đó cho nên, theo ông thấy, Trung Quốc không có lý do gì để trao đổi cả.[20] Larry Wortzel, một nhà nghiên cứu chiến lược trong Bộ Quốc Phòng Mỹ và là cựu tùy viên quân sự tại Bắc Kinh đi đến kết luận (sau khi nghiên cứu các tài liệu quân sự của Trung Quốc) rằng Trung Quốc, cũng như Nga, chuẩn bị các hệ thống tên lửa để áp đảo bất cứ một hệ thống phòng tên lửa nào của Mỹ. Wortsel trích bài viết mới đây của một số sĩ quan Trung Quốc trong đó họ cho rằng ?ocác lực lượng tên lửa hướng dẫn là những quân chủ bài để dành lấy thắng lợi trong một chiến tranh cục bộ công nghệ cao? (?oguided missile forces are the trump card (sa shou jian) in achieving victory in limited high technology war?).[21]
    Lô-gích vừa trích ở trên cũng có nghĩa là khả năng bảo vệ các vệ tinh và các mấu thông tin của hệ thống phòng thủ tên lửa của Mỹ và đồng minh là một trong những đe dọa lớn nhất đối với chiến lược quân sự của Trung Quốc. Nhưng Trung Quốc càng phát triển khả năng dùng tên lửa để làm cho hệ thống trinh sát của Mỹ bị mù thì Mỹ lại càng tăng cường hệ thống phòng tên lửa. Và như thế thì quả thật sẽ có thể gây ra một trình trạng giống như Chiến Tranh Lạnh trước đây. Tình trạng mới nầy làm cho nhiều nước ở Đông Nam Á đang phải vừa củng cố quốc phòng vừa tìm các biện pháp phòng hờ (hedging) đối với Trung Quốc và Mỹ.
  2. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1
    Ví dụ phòng hờ và thái độ của Mỹ
    Một ví dụ phòng hờ là trường hợp của Ma-lai-xi-a. Ma-lai-xi-a là nước có quan hệ rất tốt với Trung Quốc và cả hai nước nầy đều công nhận như thế. Trên bình diện kinh tế thì mậu dịch hai chiều đã tăng từ 14,2 tỷ USD năm 2003 đến 22,5 tỷ USD năm 2005. Theo tài liệu của Quỷ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund, IMF) thì đến năm 2005 Trung Quốc là bạn hàng lớn thứ tư của Ma-lai-xi-a, sau Mỹ, Xing-ga-po và Nhật. Tuy nhiên từ năm 2000 nhập siêu của Ma-lai-xi-a đối với Trung Quốc đã tăng dần; và đến năm 2005 nhập siêu của Ma-lai-xi-a đối với Trung Quốc là 3,9 tỷ USD. Một lý do cho việc nhập siêu nầy là vì hàng chế biến của Trung Quốc quá rẻ và làm cho các doanh nhiệp Ma-lai-xi-a rất khó cạnh tranh.[22] Tuy nhiên, chính phủ Ma-lai-xi-a cũng rất lạc quan về quan hệ kinh tế với Trung Quốc và cả hai chính phủ đều đặt mục tiêu mậu dịch hai chiều sẽ tăng lên đến 50 tỷ USD năm 2010. Xuất khẩu nhiên liệu của Ma-lai-xi-a sang Trung Quốc sẽ giúp Ma-lai-xi-a giảm tỷ lệ nhập siêu vì Ma-lai-xi-a là một trong những nước xuất khẩu khí tự nhiên hóa lỏng (liquified natural gas, LNG) nhiều nhất trên thế giới. Tháng 11 năm 2006 hãng dầu quốc doanh (Petronas) của Ma-lai-xi-a thắng thầu cung cấp cho Thượng Hải mỗi năm 3 triệu tấn LNG trong 25 năm với giá 25 tỷ USD. Và đây là hợp đồng lớn nhất giữa hai nước.[23]
    Ma-lai-xi-a đối đãi rất tế nhị với Trung Quốc. Một ví dụ là từ năm 2000 Ma-lai-xi-a đã nới rộng các hạn chế về thị thực và để cho công nhân Trung Quốc vào ra Ma-lai-xi-a một cách dễ dàng. Kết quả là số du khách từ Trung Quốc đến càng ngày càng tăng. Năm 2003 có 350 ngàn du khách Trung Quốc đến thăm Ma-lai-xi-a và năm 2006 con số nầy đã tăng đến 439 ngàn. Thêm vào đó là Ma-lai-xi-a đã cho rất nhiều sinh viên Trung Quốc vào học tại các đại học và cao học Ma-lai-xi-a. Năm 2003 có 11 ngàn sinh viên Trung Quốc ghi tên học tại các đại học Ma-lai-xi-a, tức là khoảng 25% tổng số các sinh viên nước ngoài tại Ma-lai-xi-a. Số du khách và sinh viên to lớn kể trên đem đến cho Ma-lai-xi-a một số thu nhập đáng kể. Nhưng con số to lớn ấy cũng gây lên những quan tâm về an ninh vì có hàng vạn công dân Trung Quốc ấy không chịu về nước và một là trốn ở lại trái phép hay dùng Ma-lai-xi-a để rồi đi đến nước thứ ba.[24]
    Đối với các vấn đề khác ̶ như Đài Loan, eo biển Malacca, và an ninh khu vực ̶ Ma-lai-xi-a cũng đã sử sự rất khôn khéo để làm cho Trung Quốc vui lòng.[25] Thủ tướng Abdullah Badawi đã thường tuyên bố là ông không coi Trung Quốc là một mối đe dọa và bộ trưởng quốc phòng Ma-lai-xi-a thường cho rằng Trung Quốc là một đồng minh của ASEAN. Tháng 4 năm 2007 bộ trưởng quốc phòng Ma-lai-xi-a tuyên bố trước quốc hội Ma-lai-xi-a là việc Trung Quốc tăng cường các lực lượng hải quân không có nghĩa là Trung Quốc có tham vọng bành trướng ở Á Châu. Các quan chức và các chính khách Ma-lai-xi-a thường lập đi lập lại luận điểm nầy và những ai nghĩ rằng Trung Quốc là mối đe dọa thì không phát biểu trước công chúng.[26]
    Một trong những vấn đề an ninh tồn tại giữa Ma-lai-xi-a và Trung Quốc là tranh chấp về quần đảo Trường Sa. Năm 1980 Ma-lai-xi-a tuyên bố chủ quyền trên 12 đảo trong quần đảo Trường Sa và từ đó đến nay đã chiếm đóng 5 đảo. Trong thập kỷ 1980 Ma-lai-xi-a đã mua nhiều chiến hạm và máy bay hiện đại để phòng giữ các đảo khu vực trong quần đảo Trường Sa mà Ma-lai-xi-a đã tuyên bố thuộc về chủ quyền của họ. Trung Quốc đã không có phản ứng gì mạnh đối với Ma-lai-xi-a một là vì sợ tổn thương quan hệ chính trị và kinh tế với Ma-lai-xi-a. Hai là những khu vực mà Ma-lai-xi-a tuyên bố chủ quyền cách Trung Quốc quá xa trong khi quân đội Ma-lai-xi-a có đủ sức phòng vệ các khu vực ấy trong khi không quân Trung Quốc chưa có đủ khả năng để trợ lực cho các cuộc đổ bộ dành lấy các đảo nầy.
  3. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Ví dụ phòng hờ và thái độ của Mỹ
    Vì những lý do vừa kể trên, Trung Quốc và Ma-lai-xi-a đã cố gắng cải thiện quan hệ quân sự với nhau. Tháng 9 năm 2005 hai nước đã ký một bản ?oGhi nhớ về đồng ý trên phương diện hợp tác quân sự? (Memorandum of Understanding on Defense Cooperation) để có những trao đổi trong các hoạt động quân sự. Nhưng khi Trung Quốc đề nghị bán các hệ thống vũ khí, kể cả các chiến thuyền, cho Ma-lai-xi-a thì Ma-lai-xi-a đã lễ phép từ chối. Trong khi đó thì Ma-lai-xi-a vẫn tiếp tục mua vũ khí của Mỹ, Anh và Nga vì những vũ khí nầy tốt hơn và tối tân hơn những vũ khí chế tạo tại Trung Quốc. Hơn thế nữa, Ma-lai-xi-a đã cố gắng duy trì một cách rất im lìm sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương.[27]
    Mặc dầu bề ngoài ra vẻ chống Mỹ, tiền nhiệm của Thủ tướng Abdullah đã bí mật ký một hiệp định với Mỹ để cho các chiến thuyền của hải quân Mỹ và các máy bay quân sự của Mỹ có thể được sửa chữa và tiếp vận tại Ma-lai-xi-a. Hiệp định nầy ̶ gọi là ?oCross Servicing and Acquisitions Agreement ̶ được giữ trong bí mật cho đến năm 2005 khi chính quyền ông Abdullah ký gia hạn hiệp định nầy trong 10 năm. Theo một số nhận xét thì, nói chung, quan hệ quân sự của Ma-lai-xi-a với Mỹ quan trọng hơn bất cứ những quan hệ gì Ma-lai-xi-a có với Trung Quốc. Mỗi năm các chiến thuyền của Mỹ thường viếng thăm các cảng của Ma-lai-xi-a; hải quân Ma-lai-xi-a và hải quân Mỹ mỗi năm đều tập trận với nhau; các đội lặn của hải quân và bộ binh Mỹ thường tập luyện với các đội Ma-lai-xi-a; và lính huấn luyện chiến trận trong rừng Ma-lai-xi-a. Các khâu quan hệ quân sự của Ma-lai-xi-a với Mỹ ̶ cũng như với Anh, Ô-xtrây-li-a, Niu-di-lân qua cái hiệp định gọi là ?oFive Power Defense Arrangement, FPDA? ̶ chứng tỏ một cách rất rõ ràng là Ma-lai-xi-a muốn có một lực lượng đối trọng trước một Trung Quốc đang lên và đang bành trướng ảnh hưởng. Vì thế, tuy Ma-lai-xi-a cố gắng mềm dẽo và tế nhị với Trung Quốc để duy trì quan hệ tốt, Ma-lai-xi-a cũng có chính sách phòng hờ. Do đó, Ma-lai-xi-a vẫn tiếp tục cảnh giác đối với các khu vực tranh chấp ở quần đảo Trường Sa và cố gắng duy trì sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Á Châu.[28]
    Nói chung thì các nước Đông Nam Á đều có các chính sách phòng hờ riêng của mình và phần lớn đều đang chạy đua vũ trang, đặc biệt là mua hay đóng tàu ngầm. Tờ Sunday Telegraph, ngày 4 tháng 2 năm 2007 cho biết rằng In-đô-nê-xia đã tuyên bố là sẽ cho đóng 12 chiếc tàu ngầm tối tân để hạ thủy khoảng năm 2024. Tờ báo cho biết là In-đô-nê-xia đã mua nhiều tầm ngầm hơn bất cứ nước nào cùng cỡ: 4 chiếc loại Kilo chạy bằng dầu diesel của Nga với giá là 200 triệu USD mỗi chiếc và hai chiếc của Hàn Quốc với giá 750 triệu USD. Xing-ga-po định có 6 chiếc tàu ngầm khoảng năm 2016. Ma-lai-xi-a đã đặt mua hai chiếc tàu ngầm Scorpene của Pháp. Và Việt Nam muốn có hai hay là 3 chiếc tàu ngầm hạng Kilo của Nga.[29] Như đã trình bày phía trên, tàu ngầm có hiệu lực lớn trong việc chống các tàu trên mặt nước. Nhưng sự chạy đua vũ trang này có nguy cơ gây ra những đụng độ vô tình mà hậu quả là không có thể lường trước được.
    Do đó, thái độ của Mỹ là làm sao kéo tất cả các lực lượng hải quân trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương hợp tác để bảo vệ các dường thông thương trên biển, đặc biệt là qua eo biển Malacca và Biển Đông. Cựu Đô đốc Eric A. McVadon viết trong một bài đăng trong China Brief ngày 13 tháng 6 năm 2007 rằng Đô đốc Michael Mullen, tổng tư lệnh chiến dịch của hải quân Mỹ (U.S. Chief of Naval Operations), đã mời Trung Quốc hợp tác, qua phó đô đốc và tư lệnh quân đoàn hải quân Trung Quốc tên Wu Shengli, với một ?oHải Quân Nghìn Thuyền? (?oThousand Ship Navy?). Hải Quân Nghìn Thuyền nầy là kiểu hợp tác tự nguyện trong một mạng lưới hải quân đa quốc gia. Theo cựu Đô đốc McVadon thì lời mời của Đô đốc Michael Mullen được giới quân sự Trung Quốc chú ý và Đô đốc Wu Shengli cho biết rằng ông thích đề nghị nầy và sẽ bàn thêm với Đô đốc Mullen khi ông nầy sang thăm Trung Quốc vào trung tuần tháng 6 năm 2007. Một viên chức cao cấp của hải quân Trung Quốc có nhiều quan hệ với giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc cũng cho Đô đốc McVadon biết hồi tháng 4 năm 2007 là họ ủng hộ việc hợp tác tập trận giữa hải quân Mỹ và Trung Quốc trong việc bảo vệ an ninh của các đường thông thương trên biển.[30]
  4. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Ví dụ phòng hờ và thái độ của Mỹ
    Theo Đô đốc McVadon thì những đề nghị hợp tác song phương lại được Đô đốc Timothy Keating, chỉ huy trưởng hải quân Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương, lập lại trong khi ông đến thăm Bắc Kinh và gặp Đại tướng Guo Boxiong, phó chủ tịch cao nhất của Quân ủy Trung ương của Trung Quốc. Đô đốc Keating và Đại tướng Guo đều muốn có thêm trao đổi quân sự để phát triển quan hệ song phương. Một chi tiết khá quan trọng trong buổi tọa đàm với Đại tướng Guo là Đô đốc Keating nói ông ta thấy việc Trung Quốc muốn phát triển một hạm đội hàng không mẫu hạm cũng ?odễ hiểu?. Ông nhấn mạnh sự khó khăn và rắc rối trong việc phát triển và điều hành một chiếc hàng không mẫu hạm và nói tiếp rằng nếu Trung Quốc muốn thì Mỹ sẽ sẵn sàng giúp đỡ trong các lãnh vực được đề cập đến. Nhưng phản ứng của một số quan chức và chuyên gia quân sự Trung Quốc là nhiều lắm thì Mỹ cũng chỉ truyền đạt suông một số kinh nghiệm điều hành thôi chứ Mỹ còn lâu mới bỏ cấm vận vũ khí đối với Trung Quốc và chịu chuyển giao các công nghệ hải quân cho Trung Quốc. Theo một tờ báo Hông Kông, Trung tướng Yang Chunchang của Viện Khoa Học Quân Sự tại Bắc Kinh ông ta rất nghi ngờ về những gì Đô đốc Keating đã nói và ông ta cho rằng việc Mỹ muốn giúp đỡ là chỉ muốn nạy ra những bí mật mà thôi. Đô đốc McVadon kết luận rằng những phản ứng như trên chứng tỏ là hai bên cần phải cố gắng rất nhiều để tạo tin tưởng lẫn nhau. Nhưng ít ra Đô đốc Mullen và Đô đốc Keating cũng đã khởi đầu một quá trình và đã gây chú ý đến sự cần thiết của hợp tác. Theo Đô đốc McVadon, để có thể thành công thì bất cứ một cuộc hợp tác hải quân nào cũng cần một nền tảng quan hệ song phương được cải thiện và sự hợp tác rộng rãi hơn giữa Trung Quốc và Mỹ với các nước khác trong khu vực.
    Nói tóm lại, yêu cầu chiến lược của Mỹ là duy trì an ninh trên biển Thái Bình Dương, nhất là trên các đường giao thương qua khu vực Đông Nam Á và Biển Đông. Mỹ có thể can thiệp đơn phương hay hợp tác và phối hợp với các lực lượng quân sự khác để bảo vệ an ninh chung trên biển trong khu vực trên. Nhưng điều nầy không có nghĩa là Mỹ hay các lực lượng hải quân khác sẽ can thiệp khi có đụng độ giữa các nước tranh chấp các đảo trong khu vực Biển Đông. Giải pháp quân sự không phải là giải pháp an ninh và an toàn.
    Chú thích
    [1] Trích trong David Lague, ?oChina airs ambitions to beef up naval power,? International Herald Tribune, ngày 28 tháng 12 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: http://www.iht.com/bin/print?id=4038159.
    [2] Trích trong bài ?oViệt Nam khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,? đăng trên báo Công An Nhân Dân (cand.com) ngày 29/12/2006. Bài nầy có thể tải về từ: http://www.cand.com.vn/vi-VN/thoisux.../12/94420.cand.
    [3] ?oBeijing Cashes in Prosperity in Massive Boost to Military Spending,? Agence France Press, ngày 4 tháng 3 năm 2007. Bài nầy cho biết là người phát ngôn viên của Quốc Hội Trung Quốc, ông Jiang Enzhu, cho biết rằng ngân sách quốc phòng của Trung Quốc năm 2007 sẽ bằng 7,5% của tổng ngân sách nhà nước so với 7,4% năm 2006. Ông Jiang nói tiếp rằng số tiền chi cho quân đội Trung Quốc năm 2007 là 350,9 tỷ đồng nguyên (tương đương với 45 tỷ USD), tức là tăng gần 53 tỷ nguyên so với chi tiêu thật sự năm 2006. Các nguồn tin của chính phủ Mỹ đã ước tính là ngân sách quốc phòng của Trung Quốc hàng năm là vào khoảng 80 đến 115 tỷ USD, tức là lớn nhất trên thế giới sau Mỹ và cao hơn con số chính thức được được đưa ra rất nhiều.
    [4] Về những từ ngữ và cơ cấu tổ chức của Hải quân Trung Quốc bằng tiếng Trung Quốc xin xem:
    Shi Yunsheng (chủ biên), Trung Quốc Hải quân Bách khoa Toàn thư (Zhongguo Haijun Baike Quanshu; 中>海?>T'.书). Bắc Kinh: Nhà Xuất Bản Haichao, tháng 12 năm 1998. Zhang Xusan (chủ biên), Hải quân Đại tự điển (Haijun Da Cidian; 海?>大词.). Thượng Hải: Nhà Xuất Bản Tự Điển Thượng Hải, tháng 10 năm 1993. Zhang Yongyi (chủ biên), Hải quân Quân sự Huấn luyện Học (Haijun Junshi Xunlian Xue; 海?>?>海?>). Bắc Kinh: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1987. Hải quân Trung Quốc thường dùng từ hạm đĩnh (jianting ^ ??) và hạm thuyền (jianchuan ^ ^) để nói chung về các tàu chiến của họ. Chữ thuyền (chuan) có thể dùng để đề cập đến bất cứ chiến thuyền lớn nhỏ nào.
    Chữ hạm chỉ dành riêng cho các tàu chiến lớn hơn 400 tấn và có quân hàm đại đội (dadui). Quân hàm đại đội của các tàu chiến hải quân Trung Quốc tương đương với quân hàm trung đoàn (regiment) hay tiểu đoàn (battalion) của Mỹ và vì thế thường được các tài liệu của Mỹ dịch ra là ?osquadron? (liên đội tàu). Các đại đội hải quân đánh bộ, gọi là ?ohải quân lục chiến binh? (haijun luzhanbing 海 ?> T? ^~ .), ?ohải quân hàng không binh? (haijun hangkhongbing 海 ?> ^ 空 .), ?ohải quân ngạn phòng binh? ( haijun anfangbing 海 ?> 岸 ~ .), hậu cần và kỹ thuật, đều có quân hàm tương đương với quân hàm tiểu đoàn của Mỹ.
    Chữ đĩnh thường được dùng cho những tàu chiến nhỏ hơn 400 tấn. Nhưng hiện nay nhiều chiếc đĩnh đã lớn hơn 400 tấn vì đã được thiết bị với những hệ thống vũ khí tối tân hơn và nặng hơn, nhưng cách gọi vẫn giữ nguyên như thông lệ. Đĩnh có quân hàm cao nhất là đại đội, nhưng có những chiếc chỉ có quân hàm trung đội (zhongdui), tức tương đương với quân hàm đại đội của Mỹ. Ví dụ như những chiếc ?ohộ vệ đĩnh? cở 125 tấn chỉ có quân hàm trung đội và những chiếc ?ođạo đạn đĩnh? chỉ có quân hàm phó trung đội hay tiểu đội. Trong khi đó thì những chiếc tàu đổ bộ, gọi là ?ođăng lục đĩnh? (dengluting T T? ??), do các hạ sĩ quan (士 ~) chỉ huy thì không có quân hàm gì cả.
    Mặc dầu tàu ngầm được gọi là ?otiềm đĩnh?, tàu ngầm hạt nhân được quân hàm phó chi đội và tàu ngầm thông thường, tùy lớn hay nhỏ, được quân hàm phó đại đội đến đại đội.
  5. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Chú thích
    Hải quân Trung Quốc có hết tất cả 15 cấp hàm và 5 tầng lớp. Các cấp hàm từ trên xuống dưới là:
    ?oQuân Ủy Chủ Tịch? (Junwei zhuxi ?> " 主 席),tức là chủ tịch của Quân Ủy Trung Ương, và ?oQuân Ủy Phó Chủ Tịch? (Junwei fuzhuxi ?> " ? 主 席). Chức phó chủ tịch quân ủy tương đương với chức đô đốc (admiral) của Mỹ. Đô đốc của Mỹ là sĩ quan cấp 10, tức là cấp cao nhất. ?oQuân Ủy Ủy Viên? (Junwei weiyuan ?> " " '~). Chức nầy cũng tương đương với chức đô đốc của Mỹ. Tư lệnh vùng, gọi là ?ođại khu chính chức? (Daqu zhengzhi 大 O 正 O),cũng tương đương với chức đô đốc của Mỹ. Phó tư lệnh vùng, gọi là ?ođại khu phó chức? (Daqu fuzhi 大 O ? O), tương đương với phó đô đốc (vice admiral) hay chuẩn đô đốc (rear admiral) của Mỹ. Vice admiral của Mỹ là sĩ quan cấp 9 và rear admiral là sĩ quan cấp 8. Tư lệnh quân đoàn, gọi là ?ochính quân? (Zhengjun 正 ?>), tương đương với phó đô đốc hay chuẩn đô đốc của Mỹ. Phó tư lệnh quân đoàn, gọi là ?ophó quân? (Fujun ? ?>), tương đương với chuẩn đô đốc hay thuyền trưởng cấp cao ( senoir captain, sĩ quan cấp 7) của Mỹ. Sư đoàn trưởng, gọi là ?ochính soái? (Zhengshi 正^), tương đương với thuyền trưởng cấp cao hay chuẩn đô đốc của Mỹ. Sư đoàn phó hay lữ đoàn trưởng, gọi là ?ophó soái? (Fushi ? ^), tương đương với thuyền trưởng (captain, cấp 6) hay thuyền trưởng cấp cao của Mỹ. Trung đoàn trưởng, gọi là ?ochính đoàn? (Zhengtuan 正 >), tương đương với trung tá (commander, cấp 5) hay thuyền trưởng của Mỹ. Trung đoàn phó, gọi là ?ophó đoàn? (Futuan ? >), tương đương vớ trung tá hay thuyền trưởng của Mỹ. Tiểu đoàn trưởng , gọi là ?ochính doanh? (Zhengying 正营), tương đương với thiếu tá (lieutenant commander, cấp 4) hay trung tá của Mỹ. Tiểu đoàn phó, gọi là ?ophó doanh? (Fuying ? 营), tương đương với đại úy (lieutenant, cấp 3) hay thiếu tá (lieutenant commander) của Mỹ. Đại đội trưởng, gọi là ?ochính liên? (Zhenglian 正 z), tương đương với trung úy (lieutenant junior grade, cấp 2) hay đại úy của Mỹ. Đại đội phó, gọi là ?ophó liên? (Fulian ? z), tương đương với cấp trung úy hay thiếu úy (ensign, cấp 1) của Mỹ. Trung đội trưởng, gọi là ?ochính bài? (Zhengpai 正Z'), tương đương với cấp thiếu úy hay trung úy của Mỹ. Trên phương diện cơ cấu tổ chức thì có 5 tầng lớp như sau:
    Bộ Tư lệnh Hải quân. Trong cơ cấu tổ chức thì Bộ Tư lệnh có cấp hàm hạng 3, tức ?ođại khu chính chức.? Mãi đến năm 2004 tư lệnh trưởng và chính ủy đều là sĩ quan có hàm cấp 3. Nhưng đến khoảng giữa năm 2004 tư lệnh trưởng được tăng chức thành một ủy viên Quân Ủy và vì thế có hàm cấp 2. Nhưng chính ủy, theo tổ chức là ngang hàng với tham mưu trưởng, vẫn giữ hàm cấp 3. Bộ tư lệnh của 3 vùng chiến lược: Bắc hải, Đông hải, và Nam Hải. Mỗi bộ tư lệnh có quân hàm cấp 4. Vì thế, từ những năm cuối thập kỹ 80, tư lệnh của các hạm đội trên đều có hàm ?ođại khu phó chức.? Mỗi hạm đội đều có các căn cứ trực thuộc và những căn cứ nầy có hàm cấp 6, tức phó tư lệnh quân đoàn. Có 3 loại căn cứ: căn cứ phục vụ, căn cứ trắc nghiệm, và căn cứ đào tạo. Căn cứ ?ohải quân hàng không binh? cũng có hàm cấp 6. Trong tất cả các căn cứ, 8 căn cứ phục vụ sau đây là quan trong nhất: Qingdao và Lushun (khu vực Bắc hải Hạm đội); Zhoushan, Fujian, Shanghai (khu vực Đông hải Hạm đội): Guangzhou, Yulin, Zhanjiang (Nam Hải Hạm đội). Một căn cứ phục vụ có các đơn vị trực thuộc gọi là ?othủy cảnh khu? (Shuijingqu 水 警 O), tức là những căn cứ có phận sự cảnh bị và phòng vệ các khu vực duyên hải. Có tất cả 8 căn cứ gọi là ?othủy cảnh khu?: Dalian và Weihai (Bắc hải Hạm đội); Xiamen (Đông hải Hạm đội); Shantou, Beihai, Xisha/Hoàng Sa (Nam Hải Hạm đội). Các chi đội tàu chiến thông thường trực thuộc một căn cứ phục vụ và các đại đội tàu chiến có thể trực thuộc một căn cứ phục vụ hay một chi đội.
    [5] Trích trong China?Ts Navy 2007, Office of Naval Intelligence, trang 24.
    [6] Như trên.
    [7] Trích trong China?Ts Navy 2007, như trên, trang 24-25.
    [8] China?Ts Navy 2007, trang 25.
    [9] China?Ts Navy 2007, trang 26.
    [10] Xem: Brad Kaplan, ?oChina?Ts Navy Today: Storm Cloud on the Horizon ?or Paper Tiger??, http://navy.league.org/seapower/chinas_navy_today.htm.
    [11] China?Ts Navy 2007, trang 55.
    [12] ?oAmphibious Warships: The Real East Asian Arms Race,? Stratfor.com, ngày 5 tháng 4 năm 2007. Bài nầy có thể tải về từ: http//www.stratfor.com/products/premium/print.php?storyId=286856. Những chi tiết về những chiến thuyền đổ bộ sau đây là từ nghiên cứu nầy.
    Được thtcaymamtep sửa chữa / chuyển vào 17:40 ngày 07/10/2008
  6. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Chú thích
    [13] Trung Quốc hiện nay đang tu trang chiếc hàng không mẫu hạm loại Kuznetsov tên là Varyag mà Trung Quốc đã mua của Nga với giá nữa tỷ USD. Chiếc Varyag được đóng khi sự hiểu biết của Liên Xô cũ về các hoạt động của các máy bay trên một chiếc hàng không mẫu hạm chưa được tinh vi lắm. Một ví dụ là sân bay trên hàng không mẫu hạm nầy nhỏ so với những hàng không mẫu hạm khác. Nhưng Trung Quốc đã nhất định đưa chiếc nầy vào hoạt động, có thể như là một hàng không mẫu hạm dùng vào việc đào tạo, vào năm 2010. Trong khi đó thì vào tháng 3 năm nay (2007) một ông đô đốc Trung Quốc đã tiết lộ trong một tờ báo Hồng Kông rằng Trung Quốc đã tiến triển rất nhanh trong việc nghiên cứu và phát triển hàng không mẫu hạm (aircraft-carrier R&D) và sẽ có thể hạ thủy một chiếc hàng không mẫu hạm vào năm 2010. (Peter Brookes, ?oPacific Power Play: China?Ts Naval Expansionism,? The Heritage Foundation, ngày 19 tháng 3 năm 2007: http://www.heritage.org/Press/Commen...nderforPrint=1.) Vấn đề là tại sao Trung Quốc lại hạ quyết tâm phát triển hàng không mẫu hạm trong khi phát triển các chiến thuyền đổ bộ, tàu ngầm, và các hỏa tiển siêu âm lướt trên mặt nước và tự điều khiển đến mục tiêu để chống thuyền trên mặt nước (supersonic, sea-skimming anti-ship cruise missiles) là có hiệu quả hơn. Peter Brookes đưa ra một số giả thuyết (lý do). Một là, Trung Quốc cho là đã đến lúc giương ngọn cờ quốc gia và công báo cho thế giới biết Trung Quốc không chỉ còn là một đại cường khu vực nữa nhưng là một siêu cường. Nếu Trung Quốc có những hạm đội hàng không mẫu hạm mà Trung Quốc có thể gởi đi vòng quanh thế giới như Mỹ đã và đang làm thì Trung Quốc cũng có thể thị oai và chứng minh ?osức mạnh mềm? của mình như Mỹ đã và đang làm. Hai là, Trung Quốc càng ngày càng phải vận chuyển nhiên liệu từ các nước Trung Đông và Châu Phi qua biển Ấn Độ, eo biển Mallaca, và Biển Đông. Những tàu chuyên chở nhiên liệu nầy hiện nay được an toàn căn bản là vì Mỹ đãm bảo việc tự do di chuyển trên biển trong các khu vực nầy. Đều nầy làm cho Trung Quốc khó chịu vì vấn đề an ninh nhiên liệu đang phải dựa vào lòng hảo tâm của Mỹ. Không có nhiên liệu nhập thì Trung Quốc không có thể tiếp tục phát kinh tế của mình với cao độ hiện nay, không có thể bành trướng ảnh hưởng, và không có thể tham chiến khi cần. Vì thế, Trung Quốc thấy việc phát triển hạm đội hàng không mẫu hạm là cần thiết để bảo vệ các đường nhập dầu và các nguồn dầu nhập. Một ví dụ là Trung Quốc đã tài trợ việc xây cất một cảng tại Gwadar ở Pakistan, gần vịnh Persian Gulf mà Trung Quốc có thể điều động một hạm đội hàng không mẫu hạm đến đó khi cần trong tương lai.
    Nhưng theo một vài phân tích thì tham vọng thiết lập một hạm đội hàng không mẫu hạm hút rất nhiều tiền và sẽ làm cho hải quân Trung Quốc càng tụt hậu so với các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật và Ô-xtrây-li-a trong những lãnh vực mà Trung Quốc còn suy kém. Hàng không mẫu hạm rất đắt tiền. Ngoài việc chiếc Varyag cần ít nhất là 500 triệu USD để tu trang, hiện nay hải quân Trung Quốc đang thương lượng mua 50 chiếc máy bay Su-33 của Nga với giá là 2 tỷ rưỡi USD, và đang phải chi rất nhiều tiền để mua hay đóng các chiến thuyền hộ tống và các thuyền hổ trợ (như ?otác chiến chi viện thuyền? và tàu đánh đuổi tàu lặn) cần thiết khác. Hiện nay, mặc dầu không phải chi tiền để đóng các chiếc hàng không mẫu hạm và các chiếc tàu hộ tống cần thiết, hải quân Mỹ cũng phải chi trung bình mỗi năm là 1 tỷ USD để có thể giữ cho một hàng không mẫu hạm với các thuyền hộ tống của nó (gọi là ?ocarrier strike group?) có thể hoạt động. Nhưng một hạm đội hàng không mẫu hạm (gọi là ?ocarrier fleet?) phải có 3 chiếc hàng không mẫu hạm và những thuyền hộ tống của nó để có thể hoạt động có hiệu lực. Ngoài ra, một hạm đội hàng không mẫu hạm cần một hai thập niên huấn luyện mới có thể hoạt động có hiệu lực được vì vấn đề phối hợp rất phức tạp. (?oChina: The Deceptive Logic for a Carrier Fleet,? Stratfor.com, ngày 7 tháng 8 năm 2007.)
  7. thtcaymamtep

    thtcaymamtep Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    503
    Đã được thích:
    1

    Chú thích
    [14] Brad Kaplan, như trên.
    [15] Theo nhiều nghiên cứu thì Hạm Đội Nam Hải là hạm đội hùng hậu nhất của Trung Quốc. Hạm Đội Nam Hải có ít nhất là 32 hạm đội (flotilla) tàu lặn, trong đó có những chiếc tàu lặn tối tân nhất; hai hạm đội chiến thuyền đổ bộ (amphibious flottita);các hạm đội khu trục (destroyer flottila); các hạm đội tàu đặt mìn (mine warfare flottila); hơn một chục hạm đội tàu cao tốc lướt trên mặt nước (speed boat flottila); và toàn bộ các lữ đoàn thủy quân lục chiến.
    [16] Bài nầy có thể tải về từ: http://www.strategy.net/printVersion...b.asp?pubID=99.
    [17] Xem: http://www.heritage.org/Research/Asi...nderforprint=1
    [18] Michael R. Gordon and David S. Cloud, ?oU.S. Knew of China Missle Test, but Kept Silent,? The New York Times, ngày 23 tháng 4 năm 2007 : http://www.nytimes.com/2007/04/23/wa...satellite.html. Theo bài nầy thì chính quyền Bush mong rằng sự phản đối của Mỹ và các nước khác trên thế giới sau khi Trung Quốc đã thử vũ khí SC-19 sẽ làm cho Trung Quốc e ngại mà không tiếp tục thử thêm các vũ khí chống vệ tinh khác trong tương lai. Nhưng, theo bài báo nầy, trong cuộc viếng thăm Trung Quốc vào tháng 3 vừa qua Đại tướng Peter Pace, chủ tịch của Tổng Tham Mưu Quân Lực (chairman of the Joint Chiefs of Staff), không có thể đem chuyện vũ khí chống vệ tinh ra bàn với Trung Quốc. Chính ông ta cho biết là Trung Quốc nhất định không muốn đề cập đến chuyện đó.
    [19] Ashley Tellis, ?oPunching the U.S. Military?Ts ?~Soft Ribs?T: China?Ts Antisatellite Weapon Test in Strategic Perspective,? Carnegie Endowment for International Peace Policy Brief 51 (June 2007), trang 2.3.
    [20] Michael R. Gordon and David S. Cloud, ?oU.S. Knew of China Missle Test, but Kept Silent,? The New York Times, ngày 23 tháng 4 năm 2007. Nguyên văn: ?oIt is a bit of arms-control mythology that there is always a deal to be made? For years, the Chinese military has been writing about how to cripple a superpower that relies on high-tech capabilities like satellites. They have been patiently developing this capablility. I don?Tt see why they would trade it away.?
    [21] Larry Wortzel, ?oChina?Ts Nuclear Forces: Operations, Training Doctrine, Command, Control, and Campaign Planning,? Strategic Studies Institute (May 2007), trang 13.
    [22] Direction of Trade Statistics Yearbook (Washington D.C.: International Monetary Fund, 2006).
    [23] The Straits Times, ngày 1 tháng 11 năm 2006.
    [24] Ian Storey, ?oMa-lai-xi-a?Ts Hedging Strategy with China,? China Brief, số 14, ngày 11 tháng 7 năm 2007, trang 10. Bài nầy có thể tải về từ: http://jamestown.org/china_brief.
    [25] Để biết thêm các chi tiết, xem Ian Storey, ?oMa-lai-xi-a?Ts Hedging Strategy with China,? trang 10-11.
    [26] Như trên, trang 11. Xem thêm: Bernama, ngày 27 tháng giêng năm 2007 và ngày 24 tháng 4 năm 2007.
    [27] Ian Storey, ?oMa-lai-xi-a?Ts Hedging Strategy with China,? trang 11.
    [28] Như trên, trang 11; ABC Radio Australia News, ngày 9 tháng 5 năm 2005; The Straits Times, ngày 3 tháng 5 năm 2002.
    [29] Tim Shipman and Chad Bouchard, ?oChina is accused of fueling Pacific arms race,? SundayTelegraph, ngày 4 tháng 2 năm 2007: http://telegraph.co.uk.
    [30] Eric A. McVadon, ?oU.S.-PRC Maritime Cooperation: An Idea Whose Time Has Come?? China Brief Volume VII, Issue 12, ngày 13 tháng 6 năm 2007: http://jamestown.org/china_brief.
  8. vuichoi76

    vuichoi76 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/07/2007
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Cái 16 quả của Slava là P500 dùng để bắn tầu chứ. Còn để phòng không là 64 quả của hệ thống S300. 16 quả mà bắn hết thì tàu địch cũng chìm hết rồi. Nếu nhiều tàu địch quá thì hiển nhiên con Slava này cũng không đứng một mình.
  9. nobita1102

    nobita1102 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    20/09/2008
    Bài viết:
    5.394
    Đã được thích:
    655
    Đến bây h vẫn có bác nghĩ đến Trung Quốc là nghĩ đến chiến thuật " biển người " . Trung Quốc h cũng hướng đến 1 quân đội hiện đại và tinh nhuệ chứ đâu còn chơi kiểu lấy số lượng áp đảo chất lượng. Không biết quân họ trang bị hiện đại được bao nhiêu % nhưng có vẻ cũng ko ít, những người này trang bị ko kém gì quân Mỹ hay các nước tiên tiến khác.
    Có bác nào tìm hiểu hộ em xem bao nhiêu % quân TQ trang bị ngang quân mình và bao nhiêu % ngang Mỹ với
  10. minhhai2209

    minhhai2209 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/10/2008
    Bài viết:
    135
    Đã được thích:
    0
    Sau vụ melamine thì thấy TQ cũng bình thường thôi, không biết ngân sách quốc phòng của TQ bao nhiêu % là đến được đúng nơi cần nó nhỉ
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này