1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiền chùa??? ai được hưởng???

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi motorola_abco, 17/01/2011.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. motorola_abco

    motorola_abco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/03/2004
    Bài viết:
    76
    Đã được thích:
    0
    Ni sư viên tịch, tài sản 140.000 USD ai hưởng?
    Một ni sư là trụ trì chùa mất, để lại khối tài sản hơn 140.000 USD. Phía Ban đại diện Phật giáo cho rằng đây là tài sản của chùa, người thân của ni sư thì nói đó là tài sản riêng của ni sư và yêu cầu chia thừa kế.
    [​IMG]
    5 sổ tiết kiệm ngoại tệ lớn của cố ni sư Huệ Tịnh .
    Năm 1998, Ban trị sự Thành hội Phật giáo TPHCM bổ nhiệm ni sư Huệ Tịnh, thế danh Đỗ Thị Thiềng, làm trụ trì chùa Thiên Chánh (đường Khuông Việt, phường Phú Trung, quận Tân Phú). Tháng 5-2008, ni sư Huệ Tịnh viên tịch.
    Ban đại diện Phật giáo Tân Phú đến chùa tổ chức tang lễ cho ni sư, phát hiện ni sư Huệ Tịnh có 5 quyển sổ tiết kiệm gửi tại Vietcombank mang tên Đỗ Thị Thiềng với tổng số tiền 138.850 USD và số tiền mặt 423 USD, gần 42 triệu đồng. Số tài sản này được lập biên bản, tạm thời giao cho ban đại diện Phật giáo Tân Phú cất giữ.
    Sau đó, bà Đỗ Ngọc Thanh (trú phường 13, quận Gò Vấp) là em ruột ni sư Huệ Tịnh có đơn gửi đến Ban đại diện Phật giáo Tân Phú, xin được cúng dường số tiền mặt và nhận lại 5 quyển sổ tiết kiệm cùng giấy chứng tử để thực hiện quyền và nghĩa vụ của những người thừa kế theo quy định pháp luật. Bị từ chối, bà Thanh và đồng thừa kế đã khởi kiện vụ việc ra TAND quận Tân Phú.
    Xung đột pháp lý
    Tại buổi hòa giải tại tòa mới đây, Ban đại diện Phật giáo Tân Phú cho rằng, khối tài sản mà cố ni sư để lại là của chùa, bởi đây là số tiền (tài sản) do phật tử, khách thập phương đóng góp. Ban trị sự Thành hội Phật giáo TPHCM cũng có văn bản đề nghị Vietcombank niêm phong tài khoản ngoại tệ trong giấy chứng nhận tiền gửi mang tên khách hàng Đỗ Thị Thiềng.
    Thượng tọa Thích Thiện Hòa, Phó ban đại diện Phật giáo Tân Phú cũng cho rằng, người xuất gia theo đạo Phật thì phải cắt ái, ly gia và hiến thân mình cho Phật pháp. Khoản ngoại tệ gửi ngân hàng của ni sư Huệ Tịnh là số tiền bá tánh thập phương tự nguyện đóng góp từ thời vị trụ trì trước. Đây là tài sản của một cơ sở tôn giáo, không phải là tài sản của cá nhân làm ra và cũng không phải là tài sản của họ tộc nên bà Thanh không thể đòi quyền thừa kế.
    Trong khi đó, nhiều chuyên gia pháp lý cho rằng: Tuy ni sư Tịnh đã xuất gia đi tu nhưng vẫn có đầy đủ các quyền có tài sản, thừa kế và quyền để lại thừa kế theo quy định của pháp luật. Do khối tài sản đứng tên cá nhân của ni sư Tịnh nên khi phát sinh thừa kế thì chia theo pháp luật về thừa kế.
    “Theo qui định tại khoản 2, Điều 15 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì cá nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự: Quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản. Như vậy, 5 cuốn sổ tiết kiệm mang tên cá nhân của người trụ trì ở một ngân hàng nào, thì tài sản đó được khẳng định là tài sản của cá nhân đó.
    Người trụ trì có quyền sở hữu đối với tài sản trên và được pháp luật bảo vệ. Nếu trụ trì mất mà không để lại di chúc, thì tài sản đó được gọi là di sản và được giải quyết theo qui định Pháp luật thừa kế” - Luật sư Bùi Quốc Tuấn xác định.
    Thẩm phán Nguyễn Hoàng Đạt - Phó chánh Tòa Dân sự TAND TPHCM cũng cho rằng, Luật dân sự không có quy định riêng nào về tài sản của những người xuất gia tu hành. Nếu luật không quy định thì phải xem đến tập quán và các quy định khác.
    Giáo luật của Thiên Chúa giáo có quy định người tu hành không có quyền có tài sản riêng, tài sản của họ là của Giáo hội còn trong Hiến chương Phật giáo không quy định vấn đề này. Như vậy, một vấn đề được đặt ra là các tăng - ni (Phật giáo) đang đứng tên sở hữu xe máy, xe hơi khi viên tịch tài sản này thuộc về ai? Gia đình, chùa nơi họ tu tập hay ban trị sự?
  2. motorola_abco

    motorola_abco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/03/2004
    Bài viết:
    76
    Đã được thích:
    0
    Thừa kế" về đâu khi ni sư viên tịch?
    Trên cơ sở hợp tác nhằm mục tiêu tham gia hoạt động xã hội, phổ biến kiến thức pháp luật Việt Nam, chúng tôi, Luật sư Công ty Luật TNHH Đại Việt có một số ý kiến về vụ việc sau khi một ni sư viên tịch thì tài sản thuộc quyền sở hữu của ai? Ai là người được hưởng?
    Theo quy định tại khoản 2 điều 15 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định cá nhân có các quyền, nghĩa vụ dân sự như “ quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản”.
    Tại điều 5 BLDS cũng quy định “trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau”.
    Như vậy theo luật pháp Việt Nam không có quy định riêng với những người xuất gia tu hành, mọi người đều bình đẳng và có quyền tài sản như nhau. Do đó nếu đơn thuần xét chứng cứ hiện có (sổ tiết kiệm đứng tên bà Đỗ Thị Thiềng...) thì đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của bà Thiềng và sau khi bà mất đi mà không có di chúc thì những người thuộc hàng thừa kế của bà sẽ được hưởng di sản của bà để lại theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên theo quan điểm của chúng tôi trong vụ việc này cần làm rõ một số vấn đề liên quan đến nguồn gốc hình thành khối tài sản này để làm rõ quyền sở hữu thực sự đối với tài sản này là của ai? Có phải của bà Đỗ Thị Thiềng- ni sư Huệ Tịnh hay không?
    Trước hết để giải quyết được vấn đề ai sẽ là người được hưởng khối tài sản này cần làm rõ khối tài sản này thực chất là của ai? Mặc dù tài sản được gửi Ngân hàng và sổ tiết kiệm- là những giấy tờ chứng minh quyền sử hữu- mang tên bà Đỗ Thị Thiềng nhưng chúng ta cần xem xét đến nguồn gốc hình thành khối tài sản trên.
    Tại điều 170 BLDS quy định căn cứ xác lập quyền sử hữu như sau:
    “ Quyền sở hữu được xác lập đối với tài sản trong các trường hợp sau đây:
    1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp;
    2. Được chuyển quyền sở hữu theo thoả thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
    3. Thu hoa lợi, lợi tức;
    4. Tạo thành vật mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến;
    5. Được thừa kế tài sản;
    6. Chiếm hữu trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với vật vô chủ, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn giấu, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên;
    7. Chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai phù hợp với thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều 247 của Bộ luật này;
    8. Các trường hợp khác do pháp luật quy định”.
    Trong trường hợp này Ni sư Huệ Tịnh là người đã xuất gia, không có bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, cũng không phải là người làm công ăn lương, thực tế là người không có thu nhập, cuộc sống của người xuất gia chỉ dựa vào lộc, hương hoa nhà chùa và rất đạm bạc. Do đó khối tài sản này không được hình thành từ bất kỳ căn cứ nào theo điều 170 nêu trên nên việc ni sư có một số tiền lớn như vậy không hợp lý do đó không có căn cứ để xác lập quyền sở hữu của Ni sư.
    Hơn nữa xuất phát từ thực tế chùa chiền là nơi các phật tử tìm đến để cầu bình an, dâng lễ vật, làm công đức…Thực tế đây là một khoản thu không nhỏ của các nhà chùa và các khoản thu này thường được sử dụng để tu bổ chùa, làm việc thiện. Các đệ từ nhà phật đến dâng lễ, cúng tiến, góp tiền công đức cũng là nhằm mục đích này chứ không phải để cho riêng một sư thầy, chú tiểu nào.
    Vì vậy cần làm rõ nguồn gốc số tiền này được hình thành như thế nào. Nếu là tiền của các phật tử đóng góp cho chùa thì phải là tiền của chùa chứ không phải của cá nhân Ni sư Huệ Tâm. Ngoài các căn cứ và lập luận như trên thì có thể thu thập nhiều chứng cứ khác để chứng minh như những người thường xuyên cúng tiến, lễ bái chùa Thiên Chánh, những người thường xuyên làm việc, chăm sóc chùa và ni sư khi còn sống mà dân gian hay gọi là những “ người ăn mày cửa phật” (nếu có)…
    Còn việc tại sao Ni sư Huệ Tịnh lại đứng tên trong các sổ tiết kiệm gửi Ngân hàng thì cũng cần phải xem xét đến hoàn cảnh thực tế. Chùa chiền không phải là một tổ chức thông thường, không có quy chế rõ ràng, không có con dấu, không có người đại diện theo pháp luật… mà hoạt động trên cơ sở tín ngưỡng và tâm linh của phật tử và thường có một vi Sư Chủ Trì cai quản (nhưng không phải là người đại diện theo pháp luật). Do đó bản thân tổ chức ấy (chùa) không thể tham gia giao dịch với tư cách một chủ thể độc lập bình thường mà thường sẽ do Sư Chủ trì đứng ra để thực hiện. Do đó việc ni sư Huệ Tịnh là Sư Chủ trì của Chùa Thiên Chánh đã góp tiền của Chùa lại để đi gửi tiết kiệm là phù hợp với thực tế.
    Xét về mặt pháp lý, nếu tài sản này là tài sản được hình thành do các phật tử đóng góp cho chùa chứ không phải cho ni sư thì đây là tài sản của nhà chùa, việc Ni sư Huệ Tịnh tự ý sử dụng, gửi tiết kiệm mang tên mình là trái quy định và không đúng với mục đích của những người đã đóng góp, nếu không Ni sư cũng chỉ được tham gia với tư cách người đại diện. Do đó không thể chỉ căn cứ vào các sổ tiết kiệm này mà tuyên bố Ni sư Huệ Tịnh (Đỗ Thị Thiềng) là chủ sở hữu hợp pháp của khối tài sản này. Cũng giống như trường hợp mặc dù giấy tờ tài sản (nhà đất, ô tô, xe máy…) mang tên của một người nhưng do người khác mua và nhờ đứng tên hộ thì khi có tranh chấp Tòa án cũng không thể công nhận những người có tên trong giấy chứng nhận là chủ sở hữu của tài sản này.
    Ngoài ra trong vụ việc này cần xem xét, tham khảo đến đạo lý, giáo lý nhà phật và của cả những đạo giáo khác để giải quyết. Trong Giáo luật của Thiên Chúa giáo có quy định rõ người tu hành không có quyền có tài sản riêng, tài sản của họ là của Giáo hội Thiên chúa giáo. Trong Hiến chương của Phật giáo không quy định rõ về vấn đề này mà tại điều 37 của Hiến Chương giáo hội Việt Nam thống nhất chỉ quy định về tài sản của Giáo hội phật giáo bao gồm Động sản và bất động sản hiến cúng; Động sản và bất động sản do Giáo Hội tự tạo chứ không có quy định tài sản riêng của những người đã xuất gia. Đồng thời theo giáo lý nhà phật thì người xuất gia là người đã thoát tục, không vướng bụi hồng trần, không coi vật chất là tài sản, không có tài sản riêng cho bản thân nên số tiền này không công nhận là tài sản riêng của ni sư cũng là hợp đạo lý và theo tôi cũng là tâm niệm của người đã mất- Ni sư Huệ Tịnh.
    Vì vậy có căn cứ để không công nhận khối tài sản này thuộc quyền sở hữu của bà Đỗ Thị Thiềng- Ni sư Huệ Tịnh. Do đó không thể chia thừa kế cho những người anh chị em của Ni sư.


    LUẬT SƯ TRẦN THỊ THÚY HẰNG
    CÔNG TY LUẬT TNHH ĐẠI VIỆT
    Địa chỉ: Số 335 Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
    Tel: 04.3747 8888 – Fax: 04. 3747 3966
    Email: info@luatdaiviet.vn
    Website: http://luatdaiviet.vn
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    Toàn là suy đoán chủ quan của Luật sư Hằng. Đồng ý rằng ở đây cần chứng minh ngồn gốc hình thành tài sản, nhưng đã là chứng minh thì phải có cơ sở chứng cứ cụ thể. Không thiếu nhà sư đi giải hạn cho những gia đình giàu có được người ta cúng tặng riêng những tài sản rất giá trị.

    Suy đoán như bà Hằng thì bao nhiêu cán bộ cao cấp lương ba cọc ba đồng, lại là Đản g viên đại diện giai cấp vô sản (ghi rõ trong cương lĩnh và điều lệ Đ nhá) làm sao mà có nhà to xe xịn được ... không tham nhũng tiền thuế thì ở đâu ra, vậy người dân đóng thuế có chiếm tài sản của các quan đượ không? Theo tôi nếu Tòa hay Ban đại diện phật giáo không chứng minh được bằng chứng cứ cụ thể rằng đó là tiền công đức thì cứ theo Luật thừa kế mà làm. Đây cũng là tiếng chuông cho những chùa khác để tránh những vụ tương tự, TW Hội phật giáo quốc doanh cũng nên bổ sung giáo luật đi là vừa, bên Công giáo đã đi trước rồi đó.
    Thực tâm là tham tiền chùa thì là không nên, nhưng đã là sống theo hiến pháp là pháp luật thì vụ này phải cho người được thừa kế hưởng , coi như là cái duyên vậy.

    Các Bác cho ý kiến xem thế nào?
  3. thaiduong09

    thaiduong09 Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    02/01/2010
    Bài viết:
    122
    Đã được thích:
    24
    Về chuyện thùa kế bắt buộc phải theo qui định của PL nghĩa là các hàng thừa kế của ni sư được hưởng ( vì ko có di chúc), tất nhiên có ngoại lệ nhưng tôi xin phép ko đề cập. Lập luận của Ls Hằng mang tính chủ quan rất nhiều ko đưa ra được cơ sở khách quan để chứng minh được rằng khối tài sản của ni sư là ko phải của riêng ni sư. Một nguyên tắc ko thể thay đổi là các loại tài sản đã mang tên chủ sở hữu là ni sư thì phải là của riêng ni sư nếu ko có các thoả thuận khác, bất kỳ ai muốn phủ nhận điều này thì phải có nghĩa vụ chứng minh trước toà rằng tài sản đó không thuộc quyền sở hữu của ni sư (chứng minh điều này là rất khó). Chuyện này đơn giản nhưng chăng qua là có tổ chức nhúng tay vào và số tiền cũng nhiều nên làm cho phức tạp thêm mà thôi.

Chia sẻ trang này