1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiến tới kỉ niệm 31 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-Đại thắng mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi forza_vn, 18/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bây giờ tôi nói thêm vài ý kiến về vấn đề đô thị về mặt quân sự. Ở ven đô, phải có những đội đặc công thật mạnh, thật tinh nhuệ, tổ chứ thành đơn vị tiểu đoàn, trung đoàn đứng vững chắc trên các địa bàn. Việc này, các anh trong ấy đang làm và theo báo cáo của các thành uỷ, thì kết quả rất tốt. Đây không phải như người ta đoán là: lấy nông thôn bao vây thành thị. Theo quan điểm của ta, thành thị không phải chỉ có đầu sỏ Mỹ, nguỵ, tư sản mại bản, mà còn có cả một lực lượng quần chúng cách mạng đông đảo bao gồm công nhân, dân nghèo thành thị, học sinh, sinh viên, phụ nữ, trí thức cách mạng v.v? Tại sao lại nói bao vây họ? Nói như vậy là vô nghĩa. Song song với việc xây dựng lực lượng, xây dựng các bàn đạp ở ngoại ô, phải tạo ra và nắm lấy các lõm giải phóng ở trong các phường, các khóm trong nội thành, phát triển các đội biệt động trong nội thành. Những việc này ta đã làm từ năm 1968, nay phải làm rộng rãi hơn, mạnh hơn, nhiều hơn. Như thế là trong và ngoài, tạo ra được thế liên hoàn hỗ trợ nhau và mới có thể phát huy được sức mạnh của ba thứ quân sau này.
    Cũng có người lo rằng, năm 1975, phong trào chính trị ở thành phố cũng sẽ không làm được gì. Nghĩ như thế là sai. Địch yếu, còn do mâu thuẫn nội bộ, yếu về chính trị, yếu cả về kinh tế. Thời Ngô Đình Diệm, nó đưa lực lượng từ miền Bắc vào, tiếp đó thì Mỹ vào, cho nên Sài Gòn nó mạnh. Bây giờ, Sài Gòn lại là nơi yếu nhất. Ở đấy, đã có lực lượng của ba thứ quân mà trước đây ta chưa hề có; lại có cả ba thành phần. Trước đây, có ai giành quyền nổi với Diệm đâu? Ở Sài Gòn cũng như ở các đô thị lớn ở miền Nam, có khả năng tình hình sẽ phát triển một cách đội biến khi có thời cơ, hoặc là do thắng lợi của những cuộc phản công của quân đội cách mạng đưa lại; hoặc là do chính phong trào cách mạng ở đó phát sinh ra do lợi dụng được mâu thuẫn trong bội bộ địch. Trong cách mạng, luôn luôn có những bước phát triển nhảy vọt. Lê-nin nói: ?oMột ngày bằng 20 năm? là nói về chính trị. Trường hợp Sài Gòn khởi nghĩa thắng lợi năm 1945, hay Ngô Đình Diệm bị lật đổ 1963, hay nhân dân Đà Nẵng làm chủ thành phố này trong 76 ngày năm 1966, đã chứng minh điều đó. Tôi e rằng rồi đây phong trào chính trị lên mà quân sự lại không theo kịp. Năm 1971-72, Thiệu còn mạnh mà ta đã thắng được như thế, thì năm 1975, nếu biết làm, tình hình sẽ khác đi nhiều?
    Tôi nhắc lại nhé! Ta cần nhận định đầy đủ hơn nữa vị trí cực kỳ quan trọng của thành thị, và đấu tranh chính trị ở thành thị, trong việc đánh bại chính sách Việt Nam hoá chiến tranh của Mỹ trong giai đoạn mới, để có sự chỉ đạo hết sức linh hoạt, chủ động và kịp thời khi có những động thái mới của tình hình. Làm công tác đô thị, phải biết kết hợp cho tốt giữa bí mật và công khai. Bí mật là chính, là cơ bản, nhưng công khai là quan trọng. Bí mật là tồn tại của Đảng, còn càng công khai bao nhiêu càng mạnh bấy nhiêu. Vừa rồi, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết về đô thị. Rồi đây, Quân uỷ Trung ương và Quân uỷ Miền sẽ thảo luận nghị quyết này. Nhất định năm 1975 phải làm cho phong trào đô thị mạnh lên gắn liền với phong trào nông thôn thúc đẩy, hỗ trợ tiến lên.
    Như tôi đã nói hôm qua, do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ, phải chủ động gây phong trào, chứ không phải ngồi chờ cho phong trào nổi lên. Khi ta đánh mạnh thì phong trào đô thị sẽ khác ngay. Phải có người dám làm, vào hẳn trong thành phố. Không xông vào thì xa rời quần chúng, xa phong trào. Phải xông vào mà nắm lấy chỗ yếu nhất của địch, để kịp thời và có biện pháp cụ thể lợi dụng, khoét sâu thêm.
    Anh Ba dừng lại hồi lâu. Phải chăng anh nhớ lại 20 năm về trước, khi hoà bình mới lập lại trên nửa đất nước, vâng theo lời Đảng, theo chỉ thị Bác, Anh đã ở lại miền Nam sống giữa lòng đồng bào. Khi thì náu mình giữa rừng đước U Minh, Năm Căn, nơi tận cùng của đất nước, khi thì sống đàng hoàng gần như công khai trong các xóm lao động giữa các đô thị lớn như Sài Gòn, Đà Lạt. Đã nhiều lần, Anh bộc lộ tâm tình với anh em cán bộ: Nhiều đêm anh đã khóc, vì đoán biết thế nào đồng bào miền Nam cũng phải trải qua một giai đoạn đấu tranh cực kỳ gian khổ, sẽ phải chịu không biết bao nỗi hy sinh, tù đày, chết chóc. Kết quả của những năm dài sống giữa nanh vuốt quân thù, Anh đã cùng Đảng tìm được đường lối đấu tranh cách mạng nhất, khoa học nhất, thích hợp nhất và đúng đắn nhất.
    Đột nhiên Anh hỏi:
    -Đánh vào Sài Gòn thế nào? Tất nhiên là phải chuẩn bị cho thật kỹ về quân sự. Các anh phải làm cho thật tốt. Tôi chỉ nói đến một khía cạnh thôi. Đây là một thành phố có gần 4 triệu dân, có 10 vạn cảnh sát, ghê gớm lắm. Nhưng không phải chỉ đem lực lượng quân sự giữa hai bên ra mà so sánh, mà phải lấy lực lượng của quần chúng. Lực lượng này thì tiềm tàng, bây giờ ta phải ra sức phát triển, nhưng sức mạnh của nó thì không có ai có thể lường hết được. Nó còn mạnh gấp năm, gấp mười lần sức mạnh quân sự. Đến một lúc nào đó, tình thế xoay chuyển, thì chỉ trong một thời gian ngắn, lực lượng này có thể làm tê liệt tất cả: nhà máy sẽ không còn là pháo đài, lô cốt của địch mà sẽ trở thành những ổ đề kháng, nơi tập trung lực lượng của giai cấp công nhân, đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch mà trở thành những chiến luỹ gang thép, thiên la địa võng của ta để bao vây địch, tiêu diệt quân thù. Mà cũng chẳng phải chỉ có Sài Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, nơi nào cũng làm được như thế cả.
    Về vấn đè hậu phương, Stalin đã từng nói: ?oHậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định mọi thắng lợi?. Câu nói đó rất đúng và rất phù hợp với cuộc chiến tranh của ta hiện nay. Miền Bắc là chỗ dựa vững chắc, là hậu phương của cách mạng miền Nam. Nó còn có nhiệm vụ rất nặng nề đối với cách mạng Lào, Campuchia. Vì vậy, từ trước đến nay chúng ta đặt vấn đề xây dựng và bảo vệ miền Bắc thành một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng. Trước đây có người góp ý với ta, nên kéo địch ra miền Bắc mà đánh, vì ở đây, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn về mọi mặt bảo đảm; còn địch sẽ khó khăn nhiều. Ta không nghe. Trái lại ta chủ trương hạn chế chiến tranh ở miền Nam và thắng địch ở miền Nam, không cho chiến tranh lan ra miền Bắc. Đây là nói về một cuộc chiến tranh thông thường, bằng bộ binh; còn việc Mỹ dùng máy bay, tàu chiến, tiến hành chiến tranh phá hoại như vừa qua, thì là một vấn đề khác. Bao giờ cũng vậy, ta phải độc lập, tự chủ. Hôm nay bao nhiêu nhỉ?
    -Ngày 22 tháng 7.
    -Thì giờ đi nhanh quá. Những ý kiến phát biểu hôm nay, thực ra, trong Bộ Chính trị, chúng tôi cũng đã có trao đổi qua rồi. Tuy vậy, các anh về báo cáo lại với anh Văn, anh Dũng để trao đổi thêm về chủ trương, phương hướng làm kế hoạch cho năm 1975. Cố gắng chuẩn bị cho tốt, để khoảng tháng 10 Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương có thể họp được. Quay sang đồng chí Võ Quang Hồ anh tiếp: có ghi được đầy đủ những ý kiến tôi phát biểu không? Viết cho gọn rồi đưa tôi xem lại. Đây cũng là một phần nội dung của cuộc họp sắp đến đấy.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 6: Những bài toán hóc búa
    Ngay sau khi gặp đồng chí Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Đồ Sơn về Thượng tướng Hoàng Văn Thái đã báo cáo lại với các đồng chí trong Quân uỷ những ý kiến khêu gợi của anh Ba ở Đồ Sơn hổmtước và đã hướng dẫn cho các nơi làm kế hoạch tác chiến 1975, mặc dù đã chuẩn bị từ trước nhưng nay phải khẩn trương, cấp bách hơn. Cục tác chiến đang thu thập, tổng hợp các báo cáo để lên kế hoạch cho cả năm.
    Ý kiến chung của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy quân đội là: về phương hướng cơ bản thì nhất trí, còn cách làm ra sao đây thì phải bàn kỹ. Sau 30 năm đấu tranh, Đảng ta mới tạo ra được thời cơ thuận lợi như thế này, thì phải nắm lấy mà hành động thật kiên quyết. Phải tập trung mọi nỗ lực lại mà làm. Và kế hoạch 1975, phải khẩn trương bàn và làm. Nếu quân sự không thắng lớn, thì thời cơ cũng chưa đến đâu; ngược lại, nếu chúng ta đánh tốt, thắng lớn, thì phong trào chính trị lên, cũng sẽ có thể sẽ có thời cơ.
    Trị Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, mỗi nơi phải làm gì, nhằm đạt yêu cầu gì và phải có những biện pháp gì? Đánh vào đâu là có lợi nhất? Ở bắc vùng 1, từ Huế đến Đà Nẵng thì gần hậu phương miền Bắc. Chiến trường này được tổ chức tốt, có đường chạy dọc từ Quảng Trị đến nam Động Khe Tre, song song với đường đông Trường Sơn; lại có đường ngang từ La Hạp bắc qua đường 12 ở tây Huế. Công tác chuẩn bị có thể làm nhanh, để giữ bí mật và cũng ít phức tạp. Hiện nay, đối phương đang tập trung toàn bộ các đơn vị dự bị chiến lược ở khu vực này để thực hiện chiến lược ?onặng đầu, nhẹ đáy?. Lực lượng chủ lực của ta ở đây cũng khá mạnh, nhưng lực lượng dưới cơ sở thì quá yếu. Nếu ta có lực lượng diệt và giam chân địch ở đây, để cho các nơi khác hoạt động, thì rất tốt. Thiệu không thể nào bỏ nơi này được, vì nếu bỏ thì sụp ngay, nên càng bị đánh, càng phải bám lấy. Năm 1972 chỉ có một mảnh đất nhỏ hẹp như thành cổ Quảng Trị, mà quân đội Cộng Hoà cũng cố sống cố chết lấy lại cho bằng được thì đủ biết. Mọi người đều thống nhất với nhau là chiến trường Tây Nguyên có rất nhiều thuận lợi cho việc đánh tiêu diệt lớn; mà lúc này thì vấn đề cơ bản là vấn đề làm suy yếu đối phương, để nhanh chóng làm thay đổi so sánh lực lượng. Ở đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long, thì chủ yếu là vấn đề phá bình định giành dân, giành quyền làm chủ, còn muốn diệt địch thì phải tìm chỗ yếu của nó mà đánh. Vùng 1 đất hẹp, ta khó triển khai lực lượng lớn; vùng 3, địch mạnh, ta chưa có ưu thế áo đảo; cho nên địch yếu nhất là ở vùng 2 mà ở trong vùng 2 thì Tây Nguyên địch yếu hơn các nơi khác. Địa hình ở đây rất tốt, địch lại bị cô lập. Đánh xong, giữ cũng được, mà phát triển xuống đồng bằng hay vào Nam đều thuận lợi. Đánh ở đây, ngoài việc tiêu diệt địch, còn đánh khai thông hành lang Nam-Bắc. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, cứ tha thiết đề nghị với Quân uỷ Trung ương và Bộ Chính trị giải quyết sớm Đắc Pét, Đức Lập để có được một hành lang đi hoàn toàn trên đất ta; vì gần đây, bạn Campuchia hay dở chứng lắm. Xe ta sẽ chạy suốt từ bắc Kon Tum vào Nam Bộ, theo con đường mới mở dọc biên giới Việt-Miên. Bây giờ xong Đắc Pét rồi còn Đức Lập nữa. Cái khó ở đây là công tác bảo đảm. Kon Tum, Plây Cu thì gần miền Bắc, dễ bảo đảm hơn nhưng địch đề phòng nhiều, còn ở Đức Lập, Buôn Ma Thuột, thì địch có sơ hở thật, nhưng bị lệ thuộc nhiều vào thời tiết. Nếu ta diệt được 4-5 chiến đoàn ở đây, thì sẽ tạo chuyển biến lớn, nhất là trên đường 19 cũng sẽ diệt được một vài chiến đoàn. Lúc đầu là diệt, nhưng sau thì chuyển thành chia cắt, và đây là điều mà đối phương lo sợ nhất.
    Miền Đông Nam Bộ cũng có thể đánh tiêu diệt lớn được, địa hình rất tốt. Đánh lớn ở đây, thì ngoài mục đích tiêu diệt sinh lực địch ra, còn có tác dụng trực tiếp là hỗ trợ cho phong trào phá bình định, giành dân ở đồng bằng sông Cửu Long và ven đô. Trở ngại lớn nhất là xa hậu phương lớn quá. Ta chưa có điều kiện để sử dụng lực lượng lớn ở đây, vì vận chuyển, tiếp tế khó khăn, nhất là trường hợp có nhiều binh chủng kỹ thuật tham gia. Đánh ở đây, thì thế nào Thiệu cũng kéo cả sư đoàn dù, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ về. Với ba sư đoàn hiện có, các liên đoàn biệt động quân và với các sư đoàn 7, 9 ở đồng bằng rút về như năm 1972, thì lực lượng có thể lên đến 9-10 sư đoàn. Liệu ta có còn giữ được ưu thế nữa không? Vấn đề là phải phân tán cho được chủ lực đối phương, kìm chế được chúng để giữ nguyên trạng thái như hiện nay, hoặc có thêm bớt chút ít gì đó thôi, thì mới giữ được ưu thế chiến dịch lâu dài. Nếu không, thì rất dễ xảy ra tình trạng đánh cò cưa như kiểu Rạch Bắp-Ri Nét, bắc Bến Cát vừa rồi; cuối cùng tiêu hao lực lượng cả đôi bên, nó thì yếu mà ta cũng không còn đủ sức để phát triển, sau khi tạo ra thời cơ. Chủ lực của ta ở đây có kinh nghiệm chiến đấu, quen chiến trường, quen địch, nhưng chưa được kiện toàn. Tình trạng quân số chiến đấu thấp, chưa biết bao giờ mới khắc phục được, Địa hình ở đây thì tốt thật đấy, nhưng từ sau Tết Mậu Thân, Mỹ rải chất độc vô tội vạ, nên trơ trụi hết. Có nhiều nơi, trước đây cây cối rất rậm rạp, um tùm; thế mà nay, đã biến thành những bãi cỏ gianh trống tuếch, trống toác, cỏ cũng không mọc nổi. Chính diện thì rộng thật, nhưng tung thâm thì ngắn quá. Nếu ta đánh Chơn Thành hay Bến Cát thì coi ngay như đứng trên đỉnh đầu Sài Gòn rồi. Đây là nơi sẽ đánh nhau, giành giật quyết liệt của hiệp cuối của cuộc chiến tranh; hết phòng ngự lại phản kích, hết phản kích lại tiến công? Ở đây đối phương có mấy cái lợi: các căn cứ lớn đều có thể yểm hộ hoả lực cho nhau rất có hiệu quả; họ lại có điều kiện để tập trung nhanh, phát huy mọi uy lực của mọi binh, quân chủng: thiết giáp, pháo binh, ? không quân? Cho nên, ở đây ta không nên đánh lèm nhèm, đã đánh là phải tập trung lực lượng, tập trung phương tiện, tập trung chỉ huy, đánh cho ra trò, cho dai sức. Tuy vậy, ngay từ bây giờ, phải bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị Sài Gòn như ý anh Ba thì mới kịp. Phải nghĩ đến việc xây dựng căn cứ ở miền Đông Nam Bộ, nối liền với Tây Nguyên. Trên đường 14, từ Đồng Xoài trở ra, thì địch yếu. Nếu ta giải phóng được Bù Đăng, Bù Na, ra đến Kiến Đức, Gia Nghĩa, Đức Lập thì sẽ có một căn cứ hoàn chỉnh dài mấy trăm cây số từ Đồng Xoài ra đến Buôn Ma Thuột. Từ đấy, có thể cơ động đi các tỉnh miền Đông và hướng Tây Ninh hay Đồng Xoài, Long Khánh, hoặc ra các tỉnh Kế hoạch 5 đều thuận tiện. Vấn đề chọn chiến trường, để mở màn cho đợt mùa xuân tới, còn phải cân nhắc, phải bàn bạc kỹ thêm nữa. Bây giờ thì phải giải quyết ngay các vấn đề cấp bách trước mắt.
    Từ sau khi có ý kiến khêu gợi của đồng chí Bí thư thứ nhất, căn cứ vào tình hình chiến trường và tham khảo những đề nghị của các nơi vè kế hoạch hoạt động năm 1975, Bộ Tổng tham mưu gấp rút làm kế hoạch tác chiến chiến lược 1975-1976, dưới sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, đặc biệt là Thượng tướng Hoàng Văn Thái va Trung tướng Lê Trọng Tấn, để kịp thời trình bày trong hội nghị Bộ Chính trị tháng Mười tới. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Tổng tham mưu phó và thượng tá Võ Quang Hồ cục phó cục tác chiến chuẩn bị làm báo cáo; về sau tôi cũng được trên bổ sung vào nhóm này.
    Gần một năm sau có nghị quyết 21, từng chiến trường đã có những chuyển biến lớn, hoặc nhỏ. Đến tháng 10 năm 1974, tình hình đại thể như sau:
    Đối phương đã bị thất bại một bước quan trọng, trong việc thực hiện âm mưu bình định, lấn chiếm, bộc lộ những suy yếu mới, đang ở thế đi xuống, với tốc độ ngày càng nhanh. Kế hoạch xoá trạng thái da báo chẳng những không thực hiện được, mà vùng chúng kiểm soát thì ngày càng bị thu hẹp. Hệ thống đồn bốt cũng bị phá vỡ từng mảng, hoặc mất hiệu lực. Những cuộc hành quân lấn chiếm giảm dần: từ con số chín nghìn năm 1973 xuống còn ba nghìn năm1974; ngược lại những cuộc hành quân giải toả lại tăng từ hai nghìn năm1973 lên chín nghìn năm 1974. Rõ ràng là họ đang lùi dần về thế phòng ngự toàn diện. Đối với một số vùng ta mới giải phóng, địch đã phải chịu bỏ hẳn: Nha Bích-Tống Lê Chân ở miền Đông; Tánh Linh ở cục Nam Trung Bộ; Chư Nghé-Lệ Minh-Đắc Pét-Iasúp, Măng Bút ở Tây Nguyên; Nông Sơn, Thượng Đức, Minh Long, Gia Vụt ở Khu 5. Trong năm 1974, họ mất 830 ấp, 2.700 đồn, trong đó có một số chi khu quận lỵ, mà chỉ lập lại được 155 ấp, đóng lại 600 đồn. Tinh thần và sức mạnh chiến đấu của quân đội Cộng Hoà giảm sút, số đào ngũ tăng gấp ba lần năm 1973, tổng số sau khi bổ sung lại vẫn còn tụt hai vạn. Lực lượng dự bị chiến lược bị sa lầy; quân chủ lực của các vùng chiến thuật bị dàn mỏng các nơi nên không còn sức để tiến công lớn ra vùng giải phóng. Viện trợ Mỹ ngày càng giảm sút, tài khóa 1974-1975 chỉ còn 700 triệu đô la về quân sự, mới đáp ứng được một nửa yêu cầu theo sự tính toán của DAO.
    Những khó khăn về kinh tế, chính trị của Mỹ, kéo theo những khó khăn của Thiệu. Nền kinh tế Mỹ tiếp tục bị suy thoái, nạn thất nghiệp ngày càng tăng, thì nền kinh tế miền Nam cũng ngày càng khốn đốn; ngân sách thiếu hụt gần một trăm tỷ đồng bạc miền Nam, lạm phát 200 tỷ.
    Tuy nhiên, khách quan mà nói, đối phương vẫn còn lực lượng khá hùng hậu. Chúng còn trên một triệu quân, trong đó có gần 70 vạn quân chủ lực và bảo an được trang bị hiện đại. Bắt lính đôn quân, mặc dù có khó khăn hơn trướ, nhưng vẫn còn làm được. Kết quả tác chiến trong năm 1974 số bị diệt và bị tan rã khá nhiều, nhưng cũng chỉ mới đánh tuột được tổng quân số hơn vài vạn. Bộ máy kìm kẹp còn khá mạnh, tổ chức còn chặt chẽ, từ trung ương đến các địa phương. Tuy nhiên có nhiều nơi rệu rã, nhưng chúng đang chiếm lĩnh các địa bàn chiến lược, các đô thị, các vùng đông dân nhiều của, các đầu mối giao thông quan trọng. Trong tổng số 23 triệu dân ở miền Nam, ta mới nắm chắc trên 4 triệu, trong đó mới có một triệu hai được giải phóng hoàn toàn. Viện trợ Mỹ giảm, nhưng với trên một tỷ đô la-700 triệu quân sự và 300 triệu viện trợ kinh tế thử hỏi trong đám chư hầu, tay sai có ai được ưu đãi đến thế không?
    Phương chi, Mỹ Thiệu rất ngoan cố, xảo quyệt. Họ đưa muôn nghìn mánh khóe để lừa bịp dư luận thế giới, hòng ngăn chặn phong trào chống chiến tranh sôi sục ở khắp nơi và ngay trong nước Mỹ; họ tìm cách để chia rẽ, lừa bịp, hạn chế ta. Và việc làm của họ không phải là không có kết quả.
    Việc nghiên cứu kế hoạch lần này xoay quanh các vấn đề chính: Đánh giá địch và âm mưu của chúng sắp đến; phương hướng và nhiệm vụ của ta, phân chia các đợt hoạt động; sử dụng lực lượng, phối hợp chiến trường, công tác bảo đảm v.v? Từng vấn đề được nêu ra nghiên cứu và thảo luận. Một câu hỏi chung lúc bấy giờ là: làm thế nào để trong vòng hai năm thay đổi được cục diện toàn chiến trường theo hướng có lợi cho ta? Phải diệt bao nhêu chiến đoàn, giải phóng bao nhiêu quận lỵ, làm chủ bao nhiêu dân? Mọi người đều nhất trí là nếu không có chiến thắng vang dội, dồn dập thì sẽ chưa có thời cơ; và nếu địch không có thất bại về quân sự, thì tổng khởi nghĩa sẽ không có. Năm 1975, với tư tưởng chỉ đạo thống nhất là mở chiến dịch nam Tây Nguyên, đã được trên xác định rõ: đây là một chiến dịch kiên quyết. Vấn đề lớn nhất cần phải quán triệt, là phải tiêu diệt được nhiều địch, giải phóng và thắng giòn giã. Muốn vậy, phải chọn đúng mục tiêu đánh điểm; chọn đúng chiến trường đánh viện; phải giữ yếu tố bất ngờ, rất chủ động, buộc đối phương hành động theo ý định của mình. Phải có kế hoạch phối hợp chiến trường rất tỷ mỷ, chặt chẽ; phải chuẩn bị đầy đủ để khi có thời cơ, thì phát triển cho nhanh.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 6: Những bài toán hóc búa
    Ngay sau khi gặp đồng chí Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng ở Đồ Sơn về Thượng tướng Hoàng Văn Thái đã báo cáo lại với các đồng chí trong Quân uỷ những ý kiến khêu gợi của anh Ba ở Đồ Sơn hổmtước và đã hướng dẫn cho các nơi làm kế hoạch tác chiến 1975, mặc dù đã chuẩn bị từ trước nhưng nay phải khẩn trương, cấp bách hơn. Cục tác chiến đang thu thập, tổng hợp các báo cáo để lên kế hoạch cho cả năm.
    Ý kiến chung của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy quân đội là: về phương hướng cơ bản thì nhất trí, còn cách làm ra sao đây thì phải bàn kỹ. Sau 30 năm đấu tranh, Đảng ta mới tạo ra được thời cơ thuận lợi như thế này, thì phải nắm lấy mà hành động thật kiên quyết. Phải tập trung mọi nỗ lực lại mà làm. Và kế hoạch 1975, phải khẩn trương bàn và làm. Nếu quân sự không thắng lớn, thì thời cơ cũng chưa đến đâu; ngược lại, nếu chúng ta đánh tốt, thắng lớn, thì phong trào chính trị lên, cũng sẽ có thể sẽ có thời cơ.
    Trị Thiên, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, mỗi nơi phải làm gì, nhằm đạt yêu cầu gì và phải có những biện pháp gì? Đánh vào đâu là có lợi nhất? Ở bắc vùng 1, từ Huế đến Đà Nẵng thì gần hậu phương miền Bắc. Chiến trường này được tổ chức tốt, có đường chạy dọc từ Quảng Trị đến nam Động Khe Tre, song song với đường đông Trường Sơn; lại có đường ngang từ La Hạp bắc qua đường 12 ở tây Huế. Công tác chuẩn bị có thể làm nhanh, để giữ bí mật và cũng ít phức tạp. Hiện nay, đối phương đang tập trung toàn bộ các đơn vị dự bị chiến lược ở khu vực này để thực hiện chiến lược ?onặng đầu, nhẹ đáy?. Lực lượng chủ lực của ta ở đây cũng khá mạnh, nhưng lực lượng dưới cơ sở thì quá yếu. Nếu ta có lực lượng diệt và giam chân địch ở đây, để cho các nơi khác hoạt động, thì rất tốt. Thiệu không thể nào bỏ nơi này được, vì nếu bỏ thì sụp ngay, nên càng bị đánh, càng phải bám lấy. Năm 1972 chỉ có một mảnh đất nhỏ hẹp như thành cổ Quảng Trị, mà quân đội Cộng Hoà cũng cố sống cố chết lấy lại cho bằng được thì đủ biết. Mọi người đều thống nhất với nhau là chiến trường Tây Nguyên có rất nhiều thuận lợi cho việc đánh tiêu diệt lớn; mà lúc này thì vấn đề cơ bản là vấn đề làm suy yếu đối phương, để nhanh chóng làm thay đổi so sánh lực lượng. Ở đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long, thì chủ yếu là vấn đề phá bình định giành dân, giành quyền làm chủ, còn muốn diệt địch thì phải tìm chỗ yếu của nó mà đánh. Vùng 1 đất hẹp, ta khó triển khai lực lượng lớn; vùng 3, địch mạnh, ta chưa có ưu thế áo đảo; cho nên địch yếu nhất là ở vùng 2 mà ở trong vùng 2 thì Tây Nguyên địch yếu hơn các nơi khác. Địa hình ở đây rất tốt, địch lại bị cô lập. Đánh xong, giữ cũng được, mà phát triển xuống đồng bằng hay vào Nam đều thuận lợi. Đánh ở đây, ngoài việc tiêu diệt địch, còn đánh khai thông hành lang Nam-Bắc. Đồng chí Đinh Đức Thiện, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, cứ tha thiết đề nghị với Quân uỷ Trung ương và Bộ Chính trị giải quyết sớm Đắc Pét, Đức Lập để có được một hành lang đi hoàn toàn trên đất ta; vì gần đây, bạn Campuchia hay dở chứng lắm. Xe ta sẽ chạy suốt từ bắc Kon Tum vào Nam Bộ, theo con đường mới mở dọc biên giới Việt-Miên. Bây giờ xong Đắc Pét rồi còn Đức Lập nữa. Cái khó ở đây là công tác bảo đảm. Kon Tum, Plây Cu thì gần miền Bắc, dễ bảo đảm hơn nhưng địch đề phòng nhiều, còn ở Đức Lập, Buôn Ma Thuột, thì địch có sơ hở thật, nhưng bị lệ thuộc nhiều vào thời tiết. Nếu ta diệt được 4-5 chiến đoàn ở đây, thì sẽ tạo chuyển biến lớn, nhất là trên đường 19 cũng sẽ diệt được một vài chiến đoàn. Lúc đầu là diệt, nhưng sau thì chuyển thành chia cắt, và đây là điều mà đối phương lo sợ nhất.
    Miền Đông Nam Bộ cũng có thể đánh tiêu diệt lớn được, địa hình rất tốt. Đánh lớn ở đây, thì ngoài mục đích tiêu diệt sinh lực địch ra, còn có tác dụng trực tiếp là hỗ trợ cho phong trào phá bình định, giành dân ở đồng bằng sông Cửu Long và ven đô. Trở ngại lớn nhất là xa hậu phương lớn quá. Ta chưa có điều kiện để sử dụng lực lượng lớn ở đây, vì vận chuyển, tiếp tế khó khăn, nhất là trường hợp có nhiều binh chủng kỹ thuật tham gia. Đánh ở đây, thì thế nào Thiệu cũng kéo cả sư đoàn dù, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ về. Với ba sư đoàn hiện có, các liên đoàn biệt động quân và với các sư đoàn 7, 9 ở đồng bằng rút về như năm 1972, thì lực lượng có thể lên đến 9-10 sư đoàn. Liệu ta có còn giữ được ưu thế nữa không? Vấn đề là phải phân tán cho được chủ lực đối phương, kìm chế được chúng để giữ nguyên trạng thái như hiện nay, hoặc có thêm bớt chút ít gì đó thôi, thì mới giữ được ưu thế chiến dịch lâu dài. Nếu không, thì rất dễ xảy ra tình trạng đánh cò cưa như kiểu Rạch Bắp-Ri Nét, bắc Bến Cát vừa rồi; cuối cùng tiêu hao lực lượng cả đôi bên, nó thì yếu mà ta cũng không còn đủ sức để phát triển, sau khi tạo ra thời cơ. Chủ lực của ta ở đây có kinh nghiệm chiến đấu, quen chiến trường, quen địch, nhưng chưa được kiện toàn. Tình trạng quân số chiến đấu thấp, chưa biết bao giờ mới khắc phục được, Địa hình ở đây thì tốt thật đấy, nhưng từ sau Tết Mậu Thân, Mỹ rải chất độc vô tội vạ, nên trơ trụi hết. Có nhiều nơi, trước đây cây cối rất rậm rạp, um tùm; thế mà nay, đã biến thành những bãi cỏ gianh trống tuếch, trống toác, cỏ cũng không mọc nổi. Chính diện thì rộng thật, nhưng tung thâm thì ngắn quá. Nếu ta đánh Chơn Thành hay Bến Cát thì coi ngay như đứng trên đỉnh đầu Sài Gòn rồi. Đây là nơi sẽ đánh nhau, giành giật quyết liệt của hiệp cuối của cuộc chiến tranh; hết phòng ngự lại phản kích, hết phản kích lại tiến công? Ở đây đối phương có mấy cái lợi: các căn cứ lớn đều có thể yểm hộ hoả lực cho nhau rất có hiệu quả; họ lại có điều kiện để tập trung nhanh, phát huy mọi uy lực của mọi binh, quân chủng: thiết giáp, pháo binh, ? không quân? Cho nên, ở đây ta không nên đánh lèm nhèm, đã đánh là phải tập trung lực lượng, tập trung phương tiện, tập trung chỉ huy, đánh cho ra trò, cho dai sức. Tuy vậy, ngay từ bây giờ, phải bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị Sài Gòn như ý anh Ba thì mới kịp. Phải nghĩ đến việc xây dựng căn cứ ở miền Đông Nam Bộ, nối liền với Tây Nguyên. Trên đường 14, từ Đồng Xoài trở ra, thì địch yếu. Nếu ta giải phóng được Bù Đăng, Bù Na, ra đến Kiến Đức, Gia Nghĩa, Đức Lập thì sẽ có một căn cứ hoàn chỉnh dài mấy trăm cây số từ Đồng Xoài ra đến Buôn Ma Thuột. Từ đấy, có thể cơ động đi các tỉnh miền Đông và hướng Tây Ninh hay Đồng Xoài, Long Khánh, hoặc ra các tỉnh Kế hoạch 5 đều thuận tiện. Vấn đề chọn chiến trường, để mở màn cho đợt mùa xuân tới, còn phải cân nhắc, phải bàn bạc kỹ thêm nữa. Bây giờ thì phải giải quyết ngay các vấn đề cấp bách trước mắt.
    Từ sau khi có ý kiến khêu gợi của đồng chí Bí thư thứ nhất, căn cứ vào tình hình chiến trường và tham khảo những đề nghị của các nơi vè kế hoạch hoạt động năm 1975, Bộ Tổng tham mưu gấp rút làm kế hoạch tác chiến chiến lược 1975-1976, dưới sự chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, đặc biệt là Thượng tướng Hoàng Văn Thái va Trung tướng Lê Trọng Tấn, để kịp thời trình bày trong hội nghị Bộ Chính trị tháng Mười tới. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, Tổng tham mưu phó và thượng tá Võ Quang Hồ cục phó cục tác chiến chuẩn bị làm báo cáo; về sau tôi cũng được trên bổ sung vào nhóm này.
    Gần một năm sau có nghị quyết 21, từng chiến trường đã có những chuyển biến lớn, hoặc nhỏ. Đến tháng 10 năm 1974, tình hình đại thể như sau:
    Đối phương đã bị thất bại một bước quan trọng, trong việc thực hiện âm mưu bình định, lấn chiếm, bộc lộ những suy yếu mới, đang ở thế đi xuống, với tốc độ ngày càng nhanh. Kế hoạch xoá trạng thái da báo chẳng những không thực hiện được, mà vùng chúng kiểm soát thì ngày càng bị thu hẹp. Hệ thống đồn bốt cũng bị phá vỡ từng mảng, hoặc mất hiệu lực. Những cuộc hành quân lấn chiếm giảm dần: từ con số chín nghìn năm 1973 xuống còn ba nghìn năm1974; ngược lại những cuộc hành quân giải toả lại tăng từ hai nghìn năm1973 lên chín nghìn năm 1974. Rõ ràng là họ đang lùi dần về thế phòng ngự toàn diện. Đối với một số vùng ta mới giải phóng, địch đã phải chịu bỏ hẳn: Nha Bích-Tống Lê Chân ở miền Đông; Tánh Linh ở cục Nam Trung Bộ; Chư Nghé-Lệ Minh-Đắc Pét-Iasúp, Măng Bút ở Tây Nguyên; Nông Sơn, Thượng Đức, Minh Long, Gia Vụt ở Khu 5. Trong năm 1974, họ mất 830 ấp, 2.700 đồn, trong đó có một số chi khu quận lỵ, mà chỉ lập lại được 155 ấp, đóng lại 600 đồn. Tinh thần và sức mạnh chiến đấu của quân đội Cộng Hoà giảm sút, số đào ngũ tăng gấp ba lần năm 1973, tổng số sau khi bổ sung lại vẫn còn tụt hai vạn. Lực lượng dự bị chiến lược bị sa lầy; quân chủ lực của các vùng chiến thuật bị dàn mỏng các nơi nên không còn sức để tiến công lớn ra vùng giải phóng. Viện trợ Mỹ ngày càng giảm sút, tài khóa 1974-1975 chỉ còn 700 triệu đô la về quân sự, mới đáp ứng được một nửa yêu cầu theo sự tính toán của DAO.
    Những khó khăn về kinh tế, chính trị của Mỹ, kéo theo những khó khăn của Thiệu. Nền kinh tế Mỹ tiếp tục bị suy thoái, nạn thất nghiệp ngày càng tăng, thì nền kinh tế miền Nam cũng ngày càng khốn đốn; ngân sách thiếu hụt gần một trăm tỷ đồng bạc miền Nam, lạm phát 200 tỷ.
    Tuy nhiên, khách quan mà nói, đối phương vẫn còn lực lượng khá hùng hậu. Chúng còn trên một triệu quân, trong đó có gần 70 vạn quân chủ lực và bảo an được trang bị hiện đại. Bắt lính đôn quân, mặc dù có khó khăn hơn trướ, nhưng vẫn còn làm được. Kết quả tác chiến trong năm 1974 số bị diệt và bị tan rã khá nhiều, nhưng cũng chỉ mới đánh tuột được tổng quân số hơn vài vạn. Bộ máy kìm kẹp còn khá mạnh, tổ chức còn chặt chẽ, từ trung ương đến các địa phương. Tuy nhiên có nhiều nơi rệu rã, nhưng chúng đang chiếm lĩnh các địa bàn chiến lược, các đô thị, các vùng đông dân nhiều của, các đầu mối giao thông quan trọng. Trong tổng số 23 triệu dân ở miền Nam, ta mới nắm chắc trên 4 triệu, trong đó mới có một triệu hai được giải phóng hoàn toàn. Viện trợ Mỹ giảm, nhưng với trên một tỷ đô la-700 triệu quân sự và 300 triệu viện trợ kinh tế thử hỏi trong đám chư hầu, tay sai có ai được ưu đãi đến thế không?
    Phương chi, Mỹ Thiệu rất ngoan cố, xảo quyệt. Họ đưa muôn nghìn mánh khóe để lừa bịp dư luận thế giới, hòng ngăn chặn phong trào chống chiến tranh sôi sục ở khắp nơi và ngay trong nước Mỹ; họ tìm cách để chia rẽ, lừa bịp, hạn chế ta. Và việc làm của họ không phải là không có kết quả.
    Việc nghiên cứu kế hoạch lần này xoay quanh các vấn đề chính: Đánh giá địch và âm mưu của chúng sắp đến; phương hướng và nhiệm vụ của ta, phân chia các đợt hoạt động; sử dụng lực lượng, phối hợp chiến trường, công tác bảo đảm v.v? Từng vấn đề được nêu ra nghiên cứu và thảo luận. Một câu hỏi chung lúc bấy giờ là: làm thế nào để trong vòng hai năm thay đổi được cục diện toàn chiến trường theo hướng có lợi cho ta? Phải diệt bao nhêu chiến đoàn, giải phóng bao nhiêu quận lỵ, làm chủ bao nhiêu dân? Mọi người đều nhất trí là nếu không có chiến thắng vang dội, dồn dập thì sẽ chưa có thời cơ; và nếu địch không có thất bại về quân sự, thì tổng khởi nghĩa sẽ không có. Năm 1975, với tư tưởng chỉ đạo thống nhất là mở chiến dịch nam Tây Nguyên, đã được trên xác định rõ: đây là một chiến dịch kiên quyết. Vấn đề lớn nhất cần phải quán triệt, là phải tiêu diệt được nhiều địch, giải phóng và thắng giòn giã. Muốn vậy, phải chọn đúng mục tiêu đánh điểm; chọn đúng chiến trường đánh viện; phải giữ yếu tố bất ngờ, rất chủ động, buộc đối phương hành động theo ý định của mình. Phải có kế hoạch phối hợp chiến trường rất tỷ mỷ, chặt chẽ; phải chuẩn bị đầy đủ để khi có thời cơ, thì phát triển cho nhanh.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Việc chọn mục tiêu Đức Lập, được mọi người nhất trí. Trong năm 1971, với hai trung đoàn bộ binh, vật chất bảo đảm nghèo nàn, ta cũn đã giải phóng được khu vực này. Nhưng sau khi ta lui quân, địch lại chiếm lại. Nay, với hai sư đoàn-sư đoàn 10 và sư đoàn 320-ở nam Tây Nguyên; với sư đoàn 968 thiếu ở bắc Tây Nguyên, và trung đoàn 95A trên đường 19, trung đoàn 25 trên đường 21, nhất định cũng sẽ giải phóng được khu vực này và diệt vài ba chiến đoàn trên đường 14 bằng đánh viện. Như thế, đã đủ để làm cho toàn bộ chiến trường miền Nam rung chuyển chưa? Năm 1972, trên chiến trường Trị Thiên, lực lượng ta sử dụng còn lớn hơn bây giờ, vật chất bảo đảm dồi dào hơn nhiều, đã giải phóng được tỉnh lỵ Quảng Trị, truy kích địch vào đến Mỹ Chánh, Huế rung chuyển rất dữ, nhưng đã có gì thay đổi lắm đâu. Thiệu lại đưa hai sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến ra đối phó. Chiến dịch kéo dài mấy tháng liền. Trời lại mư xuống, rồi lại lui quân; thế là một năm trôi qua? Trong chúng tôi, không ai nghĩ đến việc phải tăng thêm lực lượng cho chiến trường chính này, để tạo ra một bước chuyển biến lớn, vang dội hơn; vì kiểm lại lực lượng chung trong toàn quốc, thấy không còn có đơn vị nào nữa, trừ Quân đoàn Quyết Thắng. Sư đoàn 316, thì mới ở Lào về, đang củng cố ở Quân khu 4. Mới mở màn đợt hoạt động, mà đã phải tung quân đoàn chủ lực dự bị chiến lược ra, là điều thất sách, chẳng ai làm; còn sư đoàn 316 thì đang chuẩn bị để đưa vào Nam Bộ, vì các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục đã có đề nghị xin, và Bộ đã chấp thuận. Kế hoạch tiếp theo là sẽ dùng lực lượng nào để nhân đà thắng lợi đẩy mạnh hoạt động và phương hướng khuếch trương chiến quả vào đâu để giành thắng lợi cao nhất? Hay là tạm nghỉ, chuẩn bị thêm lực lượng, để năm 1976, sẽ đánh đòn quyết định?
    Bài toán hóc búa nhất chung quy vẫn là con người và vật chất. Một miền Bắc, với vài chục triệu dân, với một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu lại phải qua bao nhiêu năm chiến tranh, phải bảo đảm vai trò hậu phương lớn của rất nhiều chiến trường, rất nhiều mặt trận. Tổng quân số không thể tăng lên nữa vì tỷ lệ so với dân số miền Bắc đã quá cao. Trên miền Bắc không thiếu gì những xã với năm, bảy nghìn dân, mà có đến một đại đội quân nhân đang tại ngũ, hàng trăm cán bộ và chiến sĩ đã phục viên về nhà làm lực lượng dự bị và còn có một số không ngỏ đã vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường. Những gia đình có5, 7 liệt sĩ không phải là hiếm.
    Trong cuộc chiến tranh này ta chủ trương không để cho nó lan rộng, mà thu hẹp ở miền Nam thôi, nên dù khó khăn đến đâu, bạn bè có nhiệt tình đến đâu, ta cũng không bao giờ yêu cầu một người quân tình nguyện; trong khi đó đế quốc Mỹ lại huy động lực lượng của cả nước, đến cả xương máu của các nước chư hầu ở châu Á, để ném vào cuộc chiến tranh này. Thực ra vấn đề xây dựng lực lượng cũng đã được đề cập đến từ lâu cho miền Nam. Sau ngày ngừng bắn, đã có lúc ta chủ trương giảm bớt tổng quân số, tập trung vào việc xây dựng kinh tế; nhưng liền sau đó, đối phương lật lọng, vi phạm hiệp định, càn quét, lấn chiếm liên miên, nên chủ trương này không thực hiện được. Trong hai năm 1973, 1974, thế và lực trên các chiến trường phát triển không đều có nơi lực ta không bị tiêu hao bao nhiêu, nhưng lại bị bật ra khỏi địa bàn hoạt động, bị dồn lên núi, nên mất thế; trái lại, có nơi lực lượng ta bị hao mòn, vật chất bị tiêu hao, nhưng vẫn bám chặt được địa bàn và từ đó mà cài lại thế để dần dần đi lên. Vấn đề đặt ra từ năm 1973 và những năm về sau là, song song với việc tạo thế, phải đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng, để sau một thời gian ngắn trên chiến trường, cả thế và lực ta đều hơn hẳn đối phương. Sau khi có Ng 21, Quân uỷ Trung ương đã có chỉ thị: ?oRa sức nâng cao chất lượng quân đội một cách toàn diện, nhằm trong khoảng ba năm làm cho quân đội có chuyển biến vượt bậc về mặt chất lượng và có một sức chiến đấu mới?.
    Thực hiện chủ trương này, Bộ Tổng tham mưu đã nhanh chóng tăng cường lực lượng cho miền Nam, nhất là các vùng trọng điểm: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, để làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta; ra sức tăng cường lực lượng dự bị chiến lược theo yêu cầu tác chiến quy mô ngày càng lớn, xây dựng các quân đoàn, các quân chủng, binh chủng, ra sức tăng cường sức cơ động, lực lượng vận tải chiến lược, đồng thời chuẩn bị nhân tài vật lực để đón thời cơ. Quân uỷ chỉ thị rõ:
    ?oDù thời cơ chính trị tạo ra có thuận lợi bao nhiêu, thì cũng phải đánh sụp nguỵ quân, nguỵ quyền; đòn công kích phải đi trước một bước, cho nên bất kể trong trường hợp nào, cũng phải nắm trong tay một lực lượng tập trung tướng đối mạnh, và trong sử dụng, trong xây dựng, đều phải chăm lo giáo dục, để luôn luôn là một vũ khí sắc bén của cách mạng. Bất luận trong tình huống nào, cũng phải xây dựng lực lượng ở miền Nam cho thật mạnh?.
    Cơ quan DAO và Bộ Tổng tham mưu của Thiệu đinh ninh rằng, ta không thể nào mở được cuộc tiến công lớn, trước năm 1976, điều đó không phải là không có cơ sở. Nhìn lại tình hình, từ trước đến nay: cứ 4 năm lại có một lần đánh lớn: 1964, 1968, 1972? Chu kỳ ấy, trùng hợp một cách có ý thức vào các nhiệm kỳ bầu cử tổng thống ở Mỹ. Ai muốn bước chân vào Nhà Trắng mà chẳng hứa hươu hứa vượn, với nhân dân Mỹ và với cả thế giới là sẽ chấm dứt chiến tranh trong danh dự, sẽ rút quân, đưa tù binh MỸ về?
    Để phá bỏ quy luật này, đánh lớn ngay từ năm 1975, ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề trong việc tổ chức lực lượng bảo đảm vật chất? Như vậy là, phải rút ngắn thời gian chuẩn bị một năm.
    Rất nhiều chủ trương và biện pháp cụ thể được đề ra và thực hiện một cách kiên quyết và khẩn trương. Kế hoạch tuyển quân trong 3 năm 1973-1975, thì đến giữa năm 1974 đã hoàn thành. Các địa phương chưa kịp nghỉ xả hơi, thì nay do yêu cầu mới, phải tuyển thêm một số lực lượng tương đương với trước kia. Bộ Tổng tham mưu đã phải đề nghị Bộ Chính trị cho tuyển trước số quân của kế hoạch năm 1976, việc này, đã gây nên xáo trộn lớn trên tất cả các địa phương miền Bắc, kể cả trong các cơ quan Nhà nước.
    Kết quả là chỉ trong vòng ba tháng đến cuối năm 1974, hàng vạn chiến sĩ trẻ, khỏe, vừa qua huấn luyện cơ bản, đã lần lượt lên đường vào Nam, hay đưa đi các đơn vị thường trực ở miền Bắc, thay thế cho những thương bệnh binh và những anh em chiến đấu lâu ngày, sức khỏe sút kém. Nhờ thế, bước vào năm 1975, quân số chiến đấu ở các đơn vị đã được nâng lên khá cao, và tạo nên bước thay đổi lớn về chất lượng. Để gấp rút tăng cường sức mạnh tại chỗ cho các địa phương miền Nam; ta đã tổ chức ra nhiều tiểu đoàn bộ binh hoàn chỉnh. Các chiến sĩ được chọn lọc kỹ, tổ chức và huấn luyện đặc biệt, được đưa thẳng xuống cho các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Họ đã nhanh chóng làm quen với chiến trường và sớm phát huy được tác dụng. Những đơn vị này đã làm nòng cốt trong các chiến dịch tổng hợp ở các địa phương, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang, chính trị tại chỗ, mở vùng, mở mảng, giành dân, mở rộng diện làm chủ, và phối hợp tác chiến với lực lượng cơ động từ nơi khác đến, phân tán hoặc kìm chân giữ địch, tạo điều kiện tiêu diệt nhiều địch.
    Nói đến việc xây dựng lực lượng, có một sự kiện lớn là sự thành lập các quân đoàn cơ động của ta. Về mặt chiến lược, việc ra đời các Quân đoàn 2 ở Trị Thiên, Quân đoàn 4 ở Đông Nam Bộ, Quân đoàn 1 ở miền Bắc là một bước ngoặt lớn: Những chiến dịch sắp đến sẽ không còn hạn chế ở quy mô trung đoàn, sư đoàn, mở ra trên từng địa phương nhỏ hẹp nhằm mở vùng, mở mảng, trong một khu vực nào đó thôi mà sẽ có những chiến dịch có ý nghĩa chiến lược lớn, có thể quyết định cuộc chiến tranh lâu dài này.
    Để đạt được những thành tích to lớn và nhanh chóng trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nói trên, các binh chủng, quân chủng, quân khu, quân đoàn, tỉnh đội, v.v? trên miền Bắc đã góp phần công sức không nhỏ. Khẩu hiệu ?oTất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến? được thực hiện trên mỗi kế hoạch cụ thể, trên từng việc làm rõ ràng. Các đơn vị miền Bắc đã khéo léo kết hợp giữa hai nhiệm vụ: sẵn sàng chiến đấu ở miền Bắc đồng thời hết sức chi viện cho miền Nam, đã chọn những đơn vị khá nhất, những cán bộ tốt nhất để đưa vào tăng cường cho chiến trường, còn ở miền Bắc thì sẽ tuyển tân binh khôi phục lại. Chỉ nói riêng một đơn vị như Quân đoàn Quyết Thắng, đơn vị luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, cũng đã rút ra hàng vạn cán bộ chiến sĩ có kinh nghiệm để bổ sung chiến trường.
    Công tác bảo đảm vật chất, cũng được đề ra sớm và cũng gặp vô vàn khó khăn. Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, hậu phương miền Bắc vẫn còn đang chập chững đi những bước ban đầu, nên vẫn còn thiếu thốn mọi bề. Từ cái ăn, cái mặc, cái ở, đều phải thắt lưng buộc bụng để dồn sức cho tiền tuyến lớn. Bộ Chính trị đã khẳng định: miền Bắc là hậu phương quyết định nhất. Dù khó khăn đến đâu và phải ra sức sản xuất và chiến đấu, chăm lo xây dựng lực lượng, tích luỹ dự trữ, sẵn sàng chi viện cho miền Nam đầy đủ, kịp thời. Việc khai thác tại chỗ, trong chiến trường miền Nam, tuy có đáp ứng phần nào về lương thực và thực phẩm, nhưng cũng có nhiều lúc bấp bênh; vì bản thân nền kinh tế của Thiệu cũng đang xuống dốc. Chúng đã phải tổ chức những chiến dịch thu vét lúa gạo. Sự giành giật, đấu tranh giữa ta và địch về mặt kinh tế, cũng đã diễn ra hàng ngày và cũng khá gay go quyết liệt, nhất là ở những vùng đông dân, màu mỡ nhất.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Việc chọn mục tiêu Đức Lập, được mọi người nhất trí. Trong năm 1971, với hai trung đoàn bộ binh, vật chất bảo đảm nghèo nàn, ta cũn đã giải phóng được khu vực này. Nhưng sau khi ta lui quân, địch lại chiếm lại. Nay, với hai sư đoàn-sư đoàn 10 và sư đoàn 320-ở nam Tây Nguyên; với sư đoàn 968 thiếu ở bắc Tây Nguyên, và trung đoàn 95A trên đường 19, trung đoàn 25 trên đường 21, nhất định cũng sẽ giải phóng được khu vực này và diệt vài ba chiến đoàn trên đường 14 bằng đánh viện. Như thế, đã đủ để làm cho toàn bộ chiến trường miền Nam rung chuyển chưa? Năm 1972, trên chiến trường Trị Thiên, lực lượng ta sử dụng còn lớn hơn bây giờ, vật chất bảo đảm dồi dào hơn nhiều, đã giải phóng được tỉnh lỵ Quảng Trị, truy kích địch vào đến Mỹ Chánh, Huế rung chuyển rất dữ, nhưng đã có gì thay đổi lắm đâu. Thiệu lại đưa hai sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến ra đối phó. Chiến dịch kéo dài mấy tháng liền. Trời lại mư xuống, rồi lại lui quân; thế là một năm trôi qua? Trong chúng tôi, không ai nghĩ đến việc phải tăng thêm lực lượng cho chiến trường chính này, để tạo ra một bước chuyển biến lớn, vang dội hơn; vì kiểm lại lực lượng chung trong toàn quốc, thấy không còn có đơn vị nào nữa, trừ Quân đoàn Quyết Thắng. Sư đoàn 316, thì mới ở Lào về, đang củng cố ở Quân khu 4. Mới mở màn đợt hoạt động, mà đã phải tung quân đoàn chủ lực dự bị chiến lược ra, là điều thất sách, chẳng ai làm; còn sư đoàn 316 thì đang chuẩn bị để đưa vào Nam Bộ, vì các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục đã có đề nghị xin, và Bộ đã chấp thuận. Kế hoạch tiếp theo là sẽ dùng lực lượng nào để nhân đà thắng lợi đẩy mạnh hoạt động và phương hướng khuếch trương chiến quả vào đâu để giành thắng lợi cao nhất? Hay là tạm nghỉ, chuẩn bị thêm lực lượng, để năm 1976, sẽ đánh đòn quyết định?
    Bài toán hóc búa nhất chung quy vẫn là con người và vật chất. Một miền Bắc, với vài chục triệu dân, với một nền kinh tế nông nghiệp, lạc hậu lại phải qua bao nhiêu năm chiến tranh, phải bảo đảm vai trò hậu phương lớn của rất nhiều chiến trường, rất nhiều mặt trận. Tổng quân số không thể tăng lên nữa vì tỷ lệ so với dân số miền Bắc đã quá cao. Trên miền Bắc không thiếu gì những xã với năm, bảy nghìn dân, mà có đến một đại đội quân nhân đang tại ngũ, hàng trăm cán bộ và chiến sĩ đã phục viên về nhà làm lực lượng dự bị và còn có một số không ngỏ đã vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường. Những gia đình có5, 7 liệt sĩ không phải là hiếm.
    Trong cuộc chiến tranh này ta chủ trương không để cho nó lan rộng, mà thu hẹp ở miền Nam thôi, nên dù khó khăn đến đâu, bạn bè có nhiệt tình đến đâu, ta cũng không bao giờ yêu cầu một người quân tình nguyện; trong khi đó đế quốc Mỹ lại huy động lực lượng của cả nước, đến cả xương máu của các nước chư hầu ở châu Á, để ném vào cuộc chiến tranh này. Thực ra vấn đề xây dựng lực lượng cũng đã được đề cập đến từ lâu cho miền Nam. Sau ngày ngừng bắn, đã có lúc ta chủ trương giảm bớt tổng quân số, tập trung vào việc xây dựng kinh tế; nhưng liền sau đó, đối phương lật lọng, vi phạm hiệp định, càn quét, lấn chiếm liên miên, nên chủ trương này không thực hiện được. Trong hai năm 1973, 1974, thế và lực trên các chiến trường phát triển không đều có nơi lực ta không bị tiêu hao bao nhiêu, nhưng lại bị bật ra khỏi địa bàn hoạt động, bị dồn lên núi, nên mất thế; trái lại, có nơi lực lượng ta bị hao mòn, vật chất bị tiêu hao, nhưng vẫn bám chặt được địa bàn và từ đó mà cài lại thế để dần dần đi lên. Vấn đề đặt ra từ năm 1973 và những năm về sau là, song song với việc tạo thế, phải đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng, để sau một thời gian ngắn trên chiến trường, cả thế và lực ta đều hơn hẳn đối phương. Sau khi có Ng 21, Quân uỷ Trung ương đã có chỉ thị: ?oRa sức nâng cao chất lượng quân đội một cách toàn diện, nhằm trong khoảng ba năm làm cho quân đội có chuyển biến vượt bậc về mặt chất lượng và có một sức chiến đấu mới?.
    Thực hiện chủ trương này, Bộ Tổng tham mưu đã nhanh chóng tăng cường lực lượng cho miền Nam, nhất là các vùng trọng điểm: Đông Nam Bộ, Tây Nguyên, Khu 5, để làm thay đổi so sánh lực lượng có lợi cho ta; ra sức tăng cường lực lượng dự bị chiến lược theo yêu cầu tác chiến quy mô ngày càng lớn, xây dựng các quân đoàn, các quân chủng, binh chủng, ra sức tăng cường sức cơ động, lực lượng vận tải chiến lược, đồng thời chuẩn bị nhân tài vật lực để đón thời cơ. Quân uỷ chỉ thị rõ:
    ?oDù thời cơ chính trị tạo ra có thuận lợi bao nhiêu, thì cũng phải đánh sụp nguỵ quân, nguỵ quyền; đòn công kích phải đi trước một bước, cho nên bất kể trong trường hợp nào, cũng phải nắm trong tay một lực lượng tập trung tướng đối mạnh, và trong sử dụng, trong xây dựng, đều phải chăm lo giáo dục, để luôn luôn là một vũ khí sắc bén của cách mạng. Bất luận trong tình huống nào, cũng phải xây dựng lực lượng ở miền Nam cho thật mạnh?.
    Cơ quan DAO và Bộ Tổng tham mưu của Thiệu đinh ninh rằng, ta không thể nào mở được cuộc tiến công lớn, trước năm 1976, điều đó không phải là không có cơ sở. Nhìn lại tình hình, từ trước đến nay: cứ 4 năm lại có một lần đánh lớn: 1964, 1968, 1972? Chu kỳ ấy, trùng hợp một cách có ý thức vào các nhiệm kỳ bầu cử tổng thống ở Mỹ. Ai muốn bước chân vào Nhà Trắng mà chẳng hứa hươu hứa vượn, với nhân dân Mỹ và với cả thế giới là sẽ chấm dứt chiến tranh trong danh dự, sẽ rút quân, đưa tù binh MỸ về?
    Để phá bỏ quy luật này, đánh lớn ngay từ năm 1975, ta phải giải quyết rất nhiều vấn đề trong việc tổ chức lực lượng bảo đảm vật chất? Như vậy là, phải rút ngắn thời gian chuẩn bị một năm.
    Rất nhiều chủ trương và biện pháp cụ thể được đề ra và thực hiện một cách kiên quyết và khẩn trương. Kế hoạch tuyển quân trong 3 năm 1973-1975, thì đến giữa năm 1974 đã hoàn thành. Các địa phương chưa kịp nghỉ xả hơi, thì nay do yêu cầu mới, phải tuyển thêm một số lực lượng tương đương với trước kia. Bộ Tổng tham mưu đã phải đề nghị Bộ Chính trị cho tuyển trước số quân của kế hoạch năm 1976, việc này, đã gây nên xáo trộn lớn trên tất cả các địa phương miền Bắc, kể cả trong các cơ quan Nhà nước.
    Kết quả là chỉ trong vòng ba tháng đến cuối năm 1974, hàng vạn chiến sĩ trẻ, khỏe, vừa qua huấn luyện cơ bản, đã lần lượt lên đường vào Nam, hay đưa đi các đơn vị thường trực ở miền Bắc, thay thế cho những thương bệnh binh và những anh em chiến đấu lâu ngày, sức khỏe sút kém. Nhờ thế, bước vào năm 1975, quân số chiến đấu ở các đơn vị đã được nâng lên khá cao, và tạo nên bước thay đổi lớn về chất lượng. Để gấp rút tăng cường sức mạnh tại chỗ cho các địa phương miền Nam; ta đã tổ chức ra nhiều tiểu đoàn bộ binh hoàn chỉnh. Các chiến sĩ được chọn lọc kỹ, tổ chức và huấn luyện đặc biệt, được đưa thẳng xuống cho các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long. Họ đã nhanh chóng làm quen với chiến trường và sớm phát huy được tác dụng. Những đơn vị này đã làm nòng cốt trong các chiến dịch tổng hợp ở các địa phương, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang, chính trị tại chỗ, mở vùng, mở mảng, giành dân, mở rộng diện làm chủ, và phối hợp tác chiến với lực lượng cơ động từ nơi khác đến, phân tán hoặc kìm chân giữ địch, tạo điều kiện tiêu diệt nhiều địch.
    Nói đến việc xây dựng lực lượng, có một sự kiện lớn là sự thành lập các quân đoàn cơ động của ta. Về mặt chiến lược, việc ra đời các Quân đoàn 2 ở Trị Thiên, Quân đoàn 4 ở Đông Nam Bộ, Quân đoàn 1 ở miền Bắc là một bước ngoặt lớn: Những chiến dịch sắp đến sẽ không còn hạn chế ở quy mô trung đoàn, sư đoàn, mở ra trên từng địa phương nhỏ hẹp nhằm mở vùng, mở mảng, trong một khu vực nào đó thôi mà sẽ có những chiến dịch có ý nghĩa chiến lược lớn, có thể quyết định cuộc chiến tranh lâu dài này.
    Để đạt được những thành tích to lớn và nhanh chóng trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nói trên, các binh chủng, quân chủng, quân khu, quân đoàn, tỉnh đội, v.v? trên miền Bắc đã góp phần công sức không nhỏ. Khẩu hiệu ?oTất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến? được thực hiện trên mỗi kế hoạch cụ thể, trên từng việc làm rõ ràng. Các đơn vị miền Bắc đã khéo léo kết hợp giữa hai nhiệm vụ: sẵn sàng chiến đấu ở miền Bắc đồng thời hết sức chi viện cho miền Nam, đã chọn những đơn vị khá nhất, những cán bộ tốt nhất để đưa vào tăng cường cho chiến trường, còn ở miền Bắc thì sẽ tuyển tân binh khôi phục lại. Chỉ nói riêng một đơn vị như Quân đoàn Quyết Thắng, đơn vị luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất, cũng đã rút ra hàng vạn cán bộ chiến sĩ có kinh nghiệm để bổ sung chiến trường.
    Công tác bảo đảm vật chất, cũng được đề ra sớm và cũng gặp vô vàn khó khăn. Trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, hậu phương miền Bắc vẫn còn đang chập chững đi những bước ban đầu, nên vẫn còn thiếu thốn mọi bề. Từ cái ăn, cái mặc, cái ở, đều phải thắt lưng buộc bụng để dồn sức cho tiền tuyến lớn. Bộ Chính trị đã khẳng định: miền Bắc là hậu phương quyết định nhất. Dù khó khăn đến đâu và phải ra sức sản xuất và chiến đấu, chăm lo xây dựng lực lượng, tích luỹ dự trữ, sẵn sàng chi viện cho miền Nam đầy đủ, kịp thời. Việc khai thác tại chỗ, trong chiến trường miền Nam, tuy có đáp ứng phần nào về lương thực và thực phẩm, nhưng cũng có nhiều lúc bấp bênh; vì bản thân nền kinh tế của Thiệu cũng đang xuống dốc. Chúng đã phải tổ chức những chiến dịch thu vét lúa gạo. Sự giành giật, đấu tranh giữa ta và địch về mặt kinh tế, cũng đã diễn ra hàng ngày và cũng khá gay go quyết liệt, nhất là ở những vùng đông dân, màu mỡ nhất.
  6. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    To : ptlinh !
    Chú này nhanh thật, mới photo xong mà đã gõ được từng ấy rồi cơ à ? Tặng chú Rex 5* cho công khó nhọc !
  7. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    To : ptlinh !
    Chú này nhanh thật, mới photo xong mà đã gõ được từng ấy rồi cơ à ? Tặng chú Rex 5* cho công khó nhọc !
  8. Red_fanatical

    Red_fanatical Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2004
    Bài viết:
    1.460
    Đã được thích:
    0
    Có trình quét đc chữ đó bác
  9. Red_fanatical

    Red_fanatical Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2004
    Bài viết:
    1.460
    Đã được thích:
    0
    Có trình quét đc chữ đó bác
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 7: Cuộc họp lịch sử
    Đây là một ngôi nhà, trông bề ngoài trông rất bình thường. Mái bằng, thấp, nép mình dưới một gốc cây cổ thụ, cành lá xum xuê. Từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy một mảnh mái nhà rất nhỏ; phần còn lại, khuất hẳn dưới tán cây.
    Nhà chỉ có ba phòng, giữa là phòng họp của Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương.
    Chính nơi đây là nơi đã từng mở hội nghị để vạch ra đường lối chủ trương của cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Trong những ngày sôi nổi nhất của đất nước, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cũng đã đến đây để theo dõi diễn biến, của từng bước tiến quân của các binh đoàn, và ra những chỉ thị cần thiết cho các chiến trường.
    Ngày 18 tháng 12 năm 1974, sau ba tháng trời khẩn trương chuẩn bị lại, Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương lại họp, nghiên cứu tình hình và hạ quyết tâm lần cuối cùng. Khác với kỳ họp lần trước, lần này có đông đủ đại biểu các chiến trường về dự. Đại diện cho Trung ương Cục miền Nam, có các đồng chí Phạm Hùng, Phan Văn Đáng, Trần Văn Trà; đại diện cho Khu 5 có các đồng chí Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Hoàng Mình Thảo. Trong Bộ Tổng tham mưu có các đồng chí Tổng tham mưu phó phụ trách tác chiến: Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Trung tướng Lê Trọng Tấn, Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền.
    Số lượng đại biểu không nhiều, nhưng những người dự họp lần này, là những người đã từng lăn lộn trên các chiến trường, từ lúc Đảng còn trong trứng nước, không một mảnh đất cắm dùi, với hai bàn tay trắng, đã lãnh đạo quân và dân cả hai miền Nam Bắc, đánh bại hết chiến lược này đến chiến lược khác của những tên đế quốc đầu sỏ, trên các mặt trận, quân sự, chính trị, ngoại giao. Những người về đây họp, đã tổng hợp được quyết tâm và ý chí nguyện vọng và tình cảm, trí thức và kinh nghiệm của cả nước. Mấy tháng gần đây, các đồng chí Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ mặc dù bận trăm công nghìn việc, vẫn để nhiều thì giờ nghe cán bộ ở các chiến trường về báo cáo tình hình, nghiên cứu suy nghĩ về những vấn đề đã bao nhiêu năm canh cánh bên lòng: làm thế nào đem lại độc lập cho Tổ quốc, hạnh phúc cho toàn dân.
    Từ trước đến nay, chưa thấy hội nghị nào được chuẩn bị kỹ như lần này.
    Sau khi mọi người đã ngồi vào chỗ, đồng chí Lê Duẩn khai mạc hội nghị. Đồng chí nói:
    -Lần này chúng ta họp, đông đủ cả? Cách đây gần hai tháng, Bộ Chính trị đã họp, hạ quyết tâm sơ bộ; trong hai năm chấm dứt chiến tranh. Lúc bấy giờ các đồng chí ở chiến trường đều vắng mặt. Sau đó, Quân uỷ cũng đã họp, để bàn kế hoạch triển khai dần. Lần này thì có đông đủ. Chúng ta cần đánh giá cho thật kỹ tình hình. Bộ Chính trị muốn biết ý kiến các đồng chí về chủ trương, kế hoạch, để hạ quyết tâm lần cuối cùng. Khi báo cáo tình hình miền Nam, nhớ nói luôn cả biện pháp. Có như thế, mới thấy rõ ta mạnh, yếu thế nào. Phải nói nguyên nhân, nhược điểm của địch, nhất là từ khi Mỹ ra rồi, nhược điểm trong toàn cục, và trong từng địa phương, địch còn có chỗ mạnh và ta đập tan chỗ mạnh ấy như thế nào? Khi nói chủ trương của ta, phải nói chỗ mạnh, chỗ yếu, cách bố trí lực lượng tại chỗ, ở từng nơi, phương pháp đấu tranh thế nào là đúng. Chúng ta không sợ mất nhiều thì giờ, các đồng chí thảo luận cho kỹ đi, bàn cho ra nhẽ, đồng tinh rồi, về mà làm?
    Đồng chí Bí thư thứ nhất nói xong, chậm rãi ngồi xuống.
    Nhắm thời cơ thuận lợi, ba đồng chí quay phim nhiếp ảnh bước vào phòng, kẻ kéo dây điện, nguời chiếu đèn, máy quay phim quay rè rè. Tiếp đến là mấy cán bộ tác chiến vào, tháo gỡ tất cả các bản đồ, biểu đồ giả và thay vào đó là bản đồ quyết tâm và các sơ đồ, đúng như đã chuẩn bị. Trật tự lại trở lại, cuộc họp chính thức bắt đầu.
    Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, thay mặt Bộ Tổng tham mưu, trình bày dự thảo kế hoạch, đã được thông qua hồi tháng 10, có bổ sung một vài điểm về tình hình mới nhất; điều chỉnh một vài chỉ tiêu sau khi đã thống nhất ý kiến với các Bộ chỉ huy các chiến trường.
    Sau khi tóm tắt tình hình trong một năm qua, đồng chí báo cáo:
    -Năm 1975, nhất là khoảng từ tháng 8 đến tháng 10, đồng chí bị suy yếu, phong trào quần chúng ở nông thông, đô thị lên mạnh, Mỹ có thể thay Thiệu một cách êm thấm, có thể phát triển thành một phong trào đấu tranh lớn hơn.
    Về mặt tác chếin, thì năm 1975 là năm bản lề. Cần đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị, ngoại giao lên, làm biến chuyển so sánh lực lượng, có lợi cho ta, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho năm 1976. Yêu cầu cụ thể là:
    Giải phóng làm chủ mạnh từ 5 triệu đến 6 triệu dân, hay nếu có thể, thì nâng lên 7 triệu. Muốn làm được việc đó, phải giải quyết 4.500-5.000 đồn bốt; giải phóng 3.500-4.000 ấp, 300-400 xã; diệt 15-20 chi khu quận lỵ; 4-5 tỉnh lỵ; diệt và làm bị thương 30-35 vạn địch, đánh tụt 5-10 vạn tổng quân số, trong đó gồm 14-15 trung đoàn bộ binh, 4-5 trung đoàn, lữ đoàn xe tăng, đánh thiệt hại nặng 4-5 sư đoàn; làm tan rã 70-80 phần trăm phòng vệ dân sự; đốt 7 vạn tấn kho, phá huỷ 500 đến 600 máy bay địch?
    Mở rộng và củng cố vùng giải phóng miền núi; có thể giải phóng một số thị xã, mở rộng hành làn chiến lược, nối liền Tây Nguyên với miền Đông; miền Đông với đồng bằng sông Cửu Long, cải thiện một bước thế chiến lược của ta.
    Phát triển và đẩy mạnh phong trào đô thị.
    Ra sức xây dựng ba thứ quân, làm chuyển biến nhanh so sánh lực lượng, có lợi cho ta.
    Kết hợp với tiến công ngoại giao, buộc địch lập chính phủ thi hành hiệp định, hoặc chính phủ liên hiệp ba thành phần, thực hiện các quyền tự do dân chủ, để có điều kiện đẩy mạnh phong trào đô thị lên nữa.
    Về kế hoạch tác chiến cụ thể: năm 1975 tổ chức ba đợt tiến công.
    Đợt 1, từ tháng 12 năm 1974 đến tháng 2 năm 1975: tiến công có mức độ. Ở đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Mục đích của đợt này là mở vùng đồng bằng Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre và các vùng cũ Chương Thiện-Rạch Giá-Cần Thơ-Cà Mau-các kênh Dương Văn Dương, Nguyễn Văn Tiếp, nam bắc lộ 4-Mỹ Tho. Ở miền Đông, sư đoàn trung đoàn hay sư đoàn, đánh từng trận chắc thắng, diệt Bù Na-Bù Đăng, giải phóng một đoạn đường 14, từ Bù Đăng đến Đồng Xoài.
    -Có đánh Đồng Xoài không? Có đồng chí hỏi.
    -Chưa, vì phải huy động nhiều lực lượng, nhất là nếu địch phản ứng mạnh để chiếm lại, và ta cũng chưa chủ trương sử dụng nhiều xe tăng và pháo lớn ở đây.
    -Lúc nào mới cho dùng?
    -Đợt 2. Như vậy là đợt đầu, mới tập dượt cho chiến trường miền Đông, diệt 1 vài chi khu quận lỵ. Ở các chiến trường khác: Trị Thiên-Khu 5-Tây Nguyên, chỉ hoạt động nhỏ của lực lượng địa phương, còn lực lượng chủ lực, thì chuẩn bị cho đợt 2.
    Phòng họp im phăng phắc. Mọi người đang chờ đợi một cái gì. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, bước lại gần tấm bản đồ quyết tâm treo trên giá, vừa tiếp tục báo cáo vừa chỉ:
    -Đợt 2, từ tháng 3 năm 1975 đến tháng 6 năm 1975, là đợt chủ yếu. Ta tập trung lực lượng sư đoàn 10, sư đoàn 320 và các trung đoàn độc lập 95A, 25, mở chiến dịch quy mô lớn ở nam Tây Nguyên. Đây là hướng tiến công chủ yếu của toàn miền. Tính chất của chiến dịch rất kiên quyết, nhiệm vụ của chiến dịch là tiêu diệt cụm cứ điểm Đức Lập, mở thông hành lang đường 14 nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ; diệt vài trung đoàn; đánh thiệt hại nặng sư đoàn 23 nguỵ; giải phóng một số quận lỵ trong tỉnh Đắc Lắc; có thời cơ thì chiếm Buôn Ma Thuột. Trên hướng bắc Tây Nguyên, sử dụng sư đoàn 968, nghi binh, kéo dài lên hướng này, kìm chân chúng lại, tạo điều kiện cho chiến trường chính hoàn thành nhiệm vụ. Các trung đoàn 95A và 25 thì cắt đường 19, đường 21 lâu dài. Hướng phát triển là Gia Nghĩa ở phía nam, Cẩm Ga ở phía bắc Buôn Ma Thuột. Sau khi làm nhiệm vụ ở Đức Lập, hai sư đoàn sẽ đánh quân giải toả, có thời cơ thì mở rộng vùng nông thôn Phú Bổn, giải phóng Cheo Reo.
    Phối hợp với chiến trường nam Tây Nguyên, trên chiến trường Trị Thiên, Quảng Đà, Quân đoàn 2 và lực lượng địa phương đẩy mạnh hoạt động nhằm tiêu diệt và giữ chân hai sư đoàn dự bị của nguỵ là sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến; đồng thời, tạo điều kiện cho lực lượng địa phương phá bình định. Trị Thiên cũng còn một nhiệm vụ rất quan trọng nữa là cắt dài ngày đường quốc lộ số 1, đoạn Huế-Đà Nẵng.
    Ở Khu 5, giải phóng các quận lỵ ở vùng giáp ranh, nằm lọt sâu vào trong căn cứ của ta như Tiên Phước, Phước Lâm, Sơn Hà. Trực tiếp, phối hợp với nam Tây Nguyên sẽ dùng sư đoàn 3 của Khu 5 cắt dài ngày đường 19 đoạn Phú Phong-An Khê.
    Ở đồng bằng sông Cửu Long, tổ chức chiến dịch tổng hợp với quy mô hai sư đoàn: sư đoàn 5 và sư đoàn 3, diệt các yếu khu, chi khu, mở rộng hành lang biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, tạo điều kiện cho đồng bằng trực tiếp phá bình định, giành dân, mở vùng, hoàn thành thế liên hoàn Vĩnh Trà-Bến đã tạo được trong đợt 1, áp sát Cần Thơ, khôi phục lại vùng 4 Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Cà Mau.
    Ở miền Đông Nam Bộ, dùng sư đoàn 9 (thiếu) và trung đoàn 26 diệt Dầu Tiếng hoặc Bến Củi, Bầu Đồn, Chà Rày, mở thông hành lang qua Hậu Nghĩa, phối hợp với mặt trận biên giới Kiến Phong-Kiến Tường, có điều kiện thì giải phóng Mộc Hóa. Trên quốc lộ 14, sử dụng sư đoàn 7, tiêu diệt Kiến Đức; phối hợp với lực lượng ở nam Tây Nguyên, tiêu diệt Gia Nghĩa.
    Về phía Đông, dùng một bộ phận của sư đoàn 7 và lực lượng tập trung của Khu 6, giải phóng khu vực Vỏ Đắc-Tánh Linh, hoàn chỉnh cho được một khu vực giải phóng rộng lớn, đã tạo ra được trong đợt 1, cắt đường quốc lộ 1 ở đoạn Long Khánh-Bình Tuy.
    Đợt 3, sẽ diễn ra từ tháng 8 đến tháng 10 năm 1975, phát triển thắng lợi đã đạt được, ta tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ở Trị Thiên, Khu 5, diệt địch, giữ vững và mở rộng hành lang, tiếp tục mở vùng mở mảng ở đồng bằng, đánh giao thông, hậu cứ; đồng thời, tranh thủ thời gian, củng cố lực lượng, sẵn sàng phương án đón thời cơ.
    Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền vừa nói đến ?othời cơ?, cả hội nghị đều ngước mắt lên nhìn đồng chí.
    Thiếu tướng nói:
    Như Bộ Chính trị đã dự kiến, thời cơ có thể xuất hiện sát gần, hoặc ngay trong thời gian ta đánh mạnh nhất; cũng có thể xảy ra ngay trong mùa mưa ở Nam Bộ; trong đợt 3 hoặc trong những tháng cuối năm 1975 như khi bầu cử tổng thống nguỵ. Ta sẽ thực hành chia cắt chiến lược, tiêu diệt quân phòng thủ, đánh quân giải toả, đồng thời đẩy mạnh tiến công binh vận, đẩy binh biến, ly khai?
    Để được cụ thể hơn,đồng chí nhấn mạnh:
    -Tập kích những đòn thật mạnh, diệt các cơ quan đầu não, trung tâm thông tin, sân bay, căn cứ, hậu cứ, kho tàng? diệt và làm rối loạn các hoạt động ứng cứu lẫn nhau, sẵn sàng lực lượng, kịp thời hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy và binh sĩ nguỵ ở những nơi có điều kiện, bung ra lớn. Các quân khu, quân đoàn, có kế hoạch kết hợp nổi dậy và tiến công ở trọng điểm và các đô thị, nhằm diệt cơ quan đầu não, diệt nhiều sinh lực địch, hỗ trợ cho phong trào quần chúng và binh sĩ nguỵ?
    Báo cáo xong thiếu tướng Lê Ngọc Hiền lui về chỗ ngồi. Tôi nhìn các đồng chí lãnh đạo, cảm thấy lo lo: rõ ràng là các đồng chí, chưa thật thỏa mãn với kế hoạch vừa trình bày. Điều này, trong bộ phận làm kế hoạch, chúng tôi cũng đã dự đoán từ trước. Kế hoạch đợt 1, đợt 2, thì xem chừng không có vấn đề gì, và cũng tương đối rõ ràng, cụ thể, nhưng đợt 3 và nhất là kế hoạch thời cơ thì chưa đạt; kế hoạch năm 1976, thì chưa hình thành.

Chia sẻ trang này