1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiến tới kỉ niệm 31 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-Đại thắng mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi forza_vn, 18/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhưng dột từ trên nóc dột xuống. Sau khi Phú rời khỏi đại bản doanh, thì sư đoàn 6 không quân, với phương tiện rất hiện đại nắm sẵn trong tay, cũng ồ ạt theo chân Phú. Một số gia đình binh sĩ không quân ở trong thị xã, được đưa vào sân bay để di tản, đã làm tiết lộ việc rút bỏ thị xã này. Tin giật gân lan ra rất nhanh chóng, như một bệnh dịch, chẳng mấy chốc mà cả thị xã và các vùng lân cận đều biết cả. Những cảnh tượng rùng rợn mà trong mấy ngày qua người ta đã có tưởng tượng ra để mô tả trên đường phố Buôn Ma Thuột đã làm cho mọi người hoang mang khủng khiếp. Cuộc tắm máu mà xưa nay họ thường rêu rao ai ngờ nay lại diễn ở đây và như thế này. Mới 8 giờ sáng, nhân dân đã tràn vào sân bay Cù Hanh. Khi thấy chiếc máy bay C-130 chở thương binh vừa cất cánh, họ thấy rõ ngay là cuộc rút bỏ Plây Cu không còn là tin đồn đại nữa. Thế là một đi, hai đi, ba bốn cũng đi. Giá vé máy bay lên dần từng phút một. Lý phải để lại tất cả các máy bay và trực trăng, các trang bị nặng, quan trọng, những phương tiện, khí tài của lực lượng đặc biệt, hàng vạn tấn đạn dược, xăng dầu? Biết là bị bỏ rơi, các đơn vị địa phương và dân vệ cũng bắt đầu làm loạn. Nhân dân, binh lính trở nên vô kỷ luật. Đục nước béo cò, bọn kiêu binh bại trận tha hồ đi hiếp dâm, đốt nhà, cướp của. Mạng người rẻ như bèo. Sân bay ở trong tình trạn hỗn loạn. Một chiếc máy bay vận tải vừa hạ cánh, nhưng rồi lại không tài nào cất cánh lên được, người ta chen lấn xô đẩy, đấm đá nhau túi bụi, giẫm lên nhau, chửi bới kêu khóc, để được lọt vào cửa máy bay quá hẹp. Lý đã phải dùng đến súng ngắn để lấy lại trật tự cũng không xong. Không có máy bay thì đi xe. Xe nhà binh, xe tải, xe du lịch, xe honda, không đi xe thì đi bộ: gồng, gánh, bồng bế dắt nhau mà đi. Tai nạn có thể xảy đến với bất cứ ai và bất cứ lúc nào. Nhiều nhân chứng đã kể lại: cả thị xã hỗn loạn như mặt biển trong ngày mưa bão, còn trên đường đi, từng đợt sóng người, xô tới đẩy lui, ùn lại rồi dạt dần về phương nam: tắc nghẽn. Cảnh tượng thật là kinh khủng. Nhiều ông già, bà già, trẻ con, chết gục bên đường; xe tăng, xe thiết giáp cán qua người họ mà đi. Dòng người gần như tự nhiên, trôi lên phía trước, chẳng còn ai chỉ huy ai. Từ các căn cứ quân sự ở dọc hai bên đường, rải rác một vài đám cháy lớn. Những tiếng nổ ghê rợn càng làm cho quang cảnh đã hỗn độn càng thêm hỗn độn trên hàng chục cây số, cả một biển người quằn quại dưới ánh nắng như thiêu đốt đầu hè. Đói khát, chết chóc và kinh hoàng, khủng khiếp.
    Cuộc hành quân kéo dài lê thê vì việc sửa chữa đường sá, cầu cống mất rất nhiều thì giờ, các đơn vị biệt động quân đi ở cuối đường muốn tìm cách vượt lên phía trước để ngăn chặn áp lực của ta đối với Cheo Reo, nhưng vô cùng vất vả vì đường sá bị tắc nghẽn.
    Các liên đoàn 7 và 25 còn đang bảo vệ phía tây Plây Cu thì bị sư đoàn 968 đánh cho tan tác. Nhiệm vụ nghi binh của sư đoàn này đã chấm dứt và nó hiện nguyên nhình trước kẻ thù là một đơn vị hừng hực khí thế tiến công: pháo, rocket liên tục bắn vào đội hình, bộ binh thì bám chặt thắt liưng chúng mà truy kích, các chốt ở đèo Thanh Bình và phía tây Thanh An đều bị đánh bại. Chi khu Thanh An bị hạ. Chỉ trong một ngày, cả ba tiểu đoàn của liên đoàn biệt động quân này đã bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, toàn bộ pháo bị huỷ diệt. Nhưng tai họa lại không đến được một cách đơn độc; một đơn vị thiết giáp đi mở đường ở đông Cheo Reo, bị máy bay A37, vì bay quá cao ném bom nhầm: 4 xe tăng bị phá huỷ và một số dân chúng bị giết chết? Ai? Hoá ra những người bị ngồi trong các xe vỏ thép, đâu phải là lính chiến đấu, mà phần lớn là vợ con của các tướng ta. Cho nên hỗn loạn càng thêm hỗn loạn.
    Chưa phải đã hết, ở hướng bắc một trung đoàn khác của sư đoàn 968 đang truy kích sát gót địch rút chạy từ Kon Tum về Plây Cu phối hợp rất nhịp nhàng với trung đoàn 95A từ Phú Mỹ, ở phía đông thị xã đánh quật trở lại. Plây Cu trở thành nơi hội tụ của các lực lượng tác chiến ở phía bắc.
    Những tình tiết về cuộc rút lui có một không hai, trong lịch sử chiến tranh ở Việt Nam này đều không lọt khỏi tai mắt của các đơn vị trinh sát của ta, bố trí trên các cao điểm dọc đường 14 và số 7; được trang bị ống nhòm có bội số lớn và cả máy vô tuyến điện thoại đến lúc này thì được dùng rộng rãi. Ngay từ ngày 15 tháng 3, Quân uỷ Trung ương đã nhận thấy Phước An và đường 21 là những cái bẫy để thu hút địch và Phú Bổn là cái túi để dồn địch vào đấy mà tiêu diệt rồi. Trong bức điện gửi cho anh Tuấn hôm ấy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp viết: ?otập trung lực lượng để tiêu diệt sư đoàn 23 ở Phước An, đồng thời sẵn sàng diệt địch ở Phú Bổn (Cheo Reo). Việc tiêu diệt sinh lực địch lớn ở đây sẽ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của chiến dịch trên cả chiến trường Tây Nguyên v.v?
    Thời cơ lớn đến rồi. Như đã nói trên, nếu ở Phước An, địch dù có bao nhiêu quân cũng không có sức mạnh, vì phần lớn binh khí kỹ thuật đã lọt vào tay ta cả rồi; thì ở Phú Bổn, ngược hẳn lại, địch cứ dồn vào đây biết bao nhiêu thiết đoàn xe tăng, thiết giáp, bao nhiêu lữ đoàn pháo binh, trước sau rồi cũng sẽ nộp cả cho ta mà thôi. Ở đây, chúng chết vì có quá nhiều vũ khí nặng.
    Kết hợp ý kiến của A75, khẳng định việc địch sẽ rút lui và chỉ thị cho Bộ tư lệnh chiến dịch phải nắm chắc thời cơ để hoạt động cùng với những điều mà các đơn vị trinh sát báo cáo về, Bộ tư lệnh chiến dịch đã nhạy bén, kịp thời tung lực lượng ra, ghìm địch lại. Mới nửa chiều ngày 16 tháng 3, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64, sư đoàn 320 đã tìm cách lách núi, luồn rừng, để sáng hôm sau ra cắm chốt trên đường giữa Cheo Reo và đèo Tân Á, cắt đôi địa hình của liên đoàn 7 biệt động quân, vừa ở phía sau lách tới. Toàn bộ sư đoàn 320, được tăng cường thêm trung đoàn 95B làm lực lượng dự bị và được một tiểu đoàn xe tăng một cụm pháo binh của chiến dịch chi viện. Đơn vị nào ở phía trước cứ đi, đơn vị ở sau vừa hành quân vừa chấn chỉnh đội hình, không có đường lớn thì đi đường vòng, không có đường vòng thì dùng bản đồ, địa bàn, xẻ rừng, cắt núi mà đi. Từ cán bộ chỉ huy đến anh em chiến sĩ, mọi người đều cảm thấy phải mang hài 7 dặm, nhất tề xông lên phía trước với một quyết tâm sắt đá là tiêu diệt sạch sành sanh quân thù, nhất định không để một tên nào chạy thoát về xuôi để có cơ hội phản kích lại ta sau này. Tiếng chân giẫm trên lá khô xào xạc, tiếng chim hót trên cây, tiếng thác nước đổ xa xa trước mặt nghe như những tiếng còi xung trận, tiếng reo hò, tiếng cổ vũ của non sông đất nước. Họ biết cả mặt trận, cả nước đang hồi hộp theo dõi từng bước đi của từng đơn vị. Chỉ cần một tổ nhỏ 3 người, với một khẩu B.40 và vài viên đạn, một khẩu AK là có thể xông lên phía trước nổi lên một điểm chốt trên đường ghìm địch lại, tạo điều kiện cho các đơn vị sau kịp thời xông tới, bao vây, tiêu diệt hàng vạn tên địch, diệt hàng trăm xe tăng, phá huỷ hàng trăm đại bác, ai trong họ là người sẽ đón nhận niềm vinh dự cao quý ấy? Cũng có đói khát, mệt mỏi, nắng nóng; một mấu lương khô, một bi đông nước lã, trong lúc này quí giá vô cùng, nhưng sẵn sàng nhường nhịn nhau để giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ. Họ hiểu rằng ta khó một, địch còn khó gấp nghìn vạn lần. Cuộc săn đuổi này đã đem đến kết quả làm nức lòng người.
    10 giờ ngày 17 tháng 3, tiểu đội của Nguyễn Vi Hợi trong trung đội do Đoàn Việt Hùng chỉ huy, chỉ huy, thuộc đại đội 11, tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 đã có mặt trên đường số 7, nổ phát súng đầu tiên, ghìm địch lại. Tiếp theo đó là các tiểu đoàn và sang ngày 18, lại có thêm tiểu đoàn thứ hai của trung đoàn này, cắt ngang đội hình hành quân của địch, một nửa lọt qua khỏi đèo Tân Á; còn một nửa bị hất ngược về phía thị xã, phối hợp tuyệt đẹp với trung đoàn 48, cũng hôm ấy, bỏ rừng xông thẳng ra đường cái lớn để truy kích cho nhanh, diệt một tiểu đoàn bảo an ở Cầu Cháy, tây Phú Bổn 7 cây số và phát triển tiến công vào cái thị trấn đông nghị người này.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nói đến tình cảnh của bọn địch ở Cheo Reo, đại tá Đặng Đình Siêu, lữ đoàn phó lữ đoàn 2 kỵ binh đã thú nhận:
    ?oNgày 17 tháng 3, buổi sáng:
    Thiết đoàn biệt động quân liên đoàn 7 và chiến đoàn 1 với 14 chiến xa có nhiệm vụ mở đường, thanh toán chốt tại nam Cheo Reo. Lúc 9 giờ, đụng chốt. Một chiếc xe cháy xin không quân oanh kích: máy bay A37 ném bom nhầm vài tiểu đoàn này. Một đại đội bị loại khỏi vòng chiến đấu.
    Chi đoàn báo cáo không qua được. Bộ tư lệnh lữ đoàn ra lệnh phải tìm đường vòng phía trước mặt chốt, tìm cách qua khỏi, để bảo đảm an ninh đến chân đèo. Kết quả: 3 xe bị cháy, kể từ đó, mất liên lạc.
    Buổi chiều, bộ tư lệnh lữ đoàn lại ra lệnh cho chiến đoàn 3/1CX theo vết cũ mà đi. Chỉ liên lạc được lúc xuất phát, sau đó cũng mất liên lạc.
    Ở sở chỉ huy bộ tư lệnh lữ đoàn bị pháo 130 ly từ hướng Thuần Mẫn bắn đến xối xả.
    13 giờ, lệnh cho rút các lực lượng trong đêm. Hoả Long được điều động đến để thả hoả châu yểm trợ. Vẫn đi theo các đơn vị trước. Vì trời tối, và bị thiệt hại gần chục chiến xa, nên bộ tư lệnh lữ đoàn lệnh cho các đơn vị, trở lại làng Buôn Bleck đông nam thị trấn Cheo Reo, để phòng thủ. Tại đây, cảnh hỗn độn vì có quá nhiều xe của quân và của dân nên không thể lui tới gì được. Tư lệnh lữ đoàn rời xe và không có lệnh gì khác cho các đơn vị. Không một ai biết đương sự đi đâu? các đơn vị biệt động quân, cũng chia thành toán nhỏ rời xe thiết giáp tự động tìm đường đi bộ theo gia đình??
    Nói về nguyên nhân thất bại trên quãng đường từ Cheo Reo đến đèo Tân Á, Siêu viết tiếp:
    ?oCó sự bất đồng ý kiến trong kế hoạch phối trí lực lượng và điều quân giữa lữ đoàn và quân đoàn. Giữ quá nhiều thiết giáp ở Cheo Reo, lẽ ra phải sớm đưa ra bố trí dọc đường.
    -Tinh thần binh sĩ hoang mang dao động vì có tin, chính phủ đã ký, giao lại mặt trận, các tỉnh miền cao nguyên, trong thời hạn 3 ngày phải rút hết quân.
    -Việc yểm trợ bằng không quân ít, lại không chính xác, gây tổn thất cho bạn. Khi đụng chốt, không giải quyết được, mà tổn thất quá cao. Địa thế độc đạo, chỉ có đường duy nhất để xuống duyên hải. Hơn nữa, các xe quân sự bị các xe dân sự cản trở quá nhiều hầu như không thể điều động được.
    -Các tướng tá đã dùng các chiến xa để chở gia đình nên không có sức chiến đấu. Các quân nhân cũng quá bịn rịn vợ con, nên không tác chiến được.
    -Một số cấp chỉ huy chấp hành kỷ luật không nghiêm: đáng lẽ sau khi vượt qua khỏi chốt, phải ở lại giữ an ninh, lại bỏ chạy luôn mà không báo cáo.
    -Khi tư lệnh rời cuộc hành quân, bộ tham mưu bỏ trốn, các đơn vị tự động rời xe thiết giáp, tìm đường đi bộ. Các đơn vị còn lại không ai chỉ huy, dần dần tan rã??
    Sông Ba là một con sông lớn ở miền Nam Trung Bộ. Nguồn của nó rải khắp Tây Nguyên nên ít khi có lụt lớn. Nó phát nguyên từ chân núi Ngọc Linh, bắc Tây Nguyên chảy từ bắc vào nam, dọc theo sườn phía tây Trường Sơn, đến Cheo Reo được thêm nước sông A Yun đổ vào nó trở thành một con sông lớn, cắt ngang dãy núi Trường Sơn, dòng chảy chuyển huớng về phía đông rồi ra biển. Ở nơi chuyển hướng này, hình thành một cái thác, nước chảy hơi xiết đổ vào một cái vực sâu, có lắm cá sấu. Không có nhiều bờ cao, thác dữ. Một vài nơi có những bãi phù sa rộng rãi, trên mặt sông rất hiền lành, nhưng ở dưới là nền da ban phong hóa.
    Nhưng ngày đầu, khi những liên đoàn biệt động quân đi tiên phong của đoàn quân rút lui vượt sông bằng một chiếc cầu phao thì an toàn; nhưng đến lúc đại quân lếch thếch kéo đến, xe người hỗn độn, chen nhau vượt sông, cầu gãy. Bãi cát bờ phía tây sông hóa thành một khối nam châm khổng lồ, bao nhiêu xe cộ đi qua đấy đều bị hút xuống lòng sông: xe trước vừa dừng lại, xe sau lách lên, cả hai đều chết cứng. Càng rồ máy càng lún sâu thêm. Xe xếp hàng 4, hàng 5, hàng 6; xe chồng đôi, chồng ba, vài chiếc trực thăng cần cẩu cẩu những tấm vỉ sắn đến để chống lún, nhưng lửa xe nước gáo, thấm vào đâu. Hì hục mãi không nhích lên được nửa bước, ngoái cổ về phía tây đã thấy trung đoàn 64 của sư đoàn 320 đang đuổi gâp. Lại giẫm lên nhau mà chạy. Từ đây trở đi quân ta cứ đường cái mà truy kích, nhanh như vũ bão. Ngày 22 tháng 3, phân đội phái đi trước của trung đoàn 64 gồm bộ binh và xe bọc thép đã ghìm được địch ở quận lỵ Phú Túc, trong nháy mắt diệt ngay một bộ phận. Một vài đơn vị của sư đoàn đã nhanh chóng bơi vị trí vượt sông Ba và đến ngày hôm sau thì bắt liên lạc được với tiểu đoàn 96 địa phương Phú Yên, đang chặn đầu địch rút chạy. Chủ lực phối hợp với địa phương hình thành thế trận bao vây Củng Sơn rất đẹp. Tại đây đối phương đã có sẵn liên đoàn 6 biệt động quân về đóng chốt từ trước. Cùng số quân, lóp ngóp từ Tây Nguyên mới chạy về, lực lượng phòng thủ khá mạnh: trên 6 nghìn quân, 40 xe tăng thiết giáp và hàng trăm xe vận tải. 13 giờ ngày 24 tháng 3, ta bắt đầu tiến công, địch chống trả điên cuồng, tập trung hoả lực của pháo binh và trực thăng vũ trang quyết ngăn chặn ta. Xe tăng, xe bọc thép, dựa vào số lượng đông hơn gấp bội, phản kích liên tục. Bộ binh và xe tăng đã chiến đấu vô cùng anh dũng, vượt qua lưới lửa dày đặc của địch, theo đường cái tiến công vào Tịnh Sơn. Bộ đội cao xạ bắn rơi 1 máy bay A37 tại trận, đến chiều thì chiếm được quận lỵ. Trên hướng bắc ta tiến công vào Hòn Một, địch phản kích bị ta đánh bật, phải tháo chạy; 15 giờ ngày, Hòn Một rơi vào tay ta. Cùng lúc ấy, nắm được tình hình địch đang hoang mang cao độ, bộ tư lệnh sư đoàn 320 hạ lệnh tiến công đồng loạt vào các mục tiêu đã được phân công, sau một đợt pháo bắn chuẩn bị ngắn, ta chiếm được Hòn Ngang, rồi phát triển sang sân bay cùng với tiểu đoàn 96 dứt điểm mục tiêu này.
    Củng Sơn hoàn toàn được giải phóng.
    Sau Tây Nguyên, ta đã tạo được một bước ngoặt chiến lược. Thế của địch đã bị sụt hẳn, nhưng lực lượng của chúng vẫn còn đông. Chỉ tính riêng ở vùng 1 chiến thuật, một nửa độ dài của khúc ruột miền Trung, đã giữ chân một lực lượng quân đội cộng hoà không phải nhỏ: 24 vạn quân chính quy, nghĩa là 1 phần 3 tổng quân số với đầy đủ các binh chủng: 5 sư đoàn, 2 lữ đoàn bộ binh, 9 liên đoàn biệt động quân tổ chức thành 93 tiểu đoàn quân chủ lực, 155 tiểu đoàn và 77 đại đội bảo an, 1842 trung đội dân vệ. Pháo binh có 24 tiểu đoàn và 10 đại đội với 544 khẩu pháo các loại; 7 trung đoàn xe tăng với 741 chiếc; 3 sư đoàn không quân với 760 chiếc. Ngoài ra còn có trên 10 vạn phòng vệ dân sự có vũ trang và 3 vạn cảnh sát.
    Toàn bộ lực lượng chiếm đóng gần 2.000 cứ điểm, 90 chi khu và quận lỵ.
    Nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ là phải nhanh chóng tiêu diệt sạch sành sanh toàn bộ lực lượng địch ở đây, không cho chúng kéo về Sài Gòn. Trong lúc tiếng súng đuổi địch trên chiến trườn Tây Nguyên chưa tắt, thì trên toàn Miền, tiếng súng phối hợp chiến trường đã trở thành tiếng súng tiến công. Từ một chiến dịch có tính chiến lược, chuyển thành một cuộc tiến công để hoàn thành sứ mệnh giải phóng toàn bộ đất nước, trong một thời gian ngắn, chưa đầy hai tháng, là một việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.
    Suốt cả tuần lễ ròng rã, Bộ Tổng tham mưu đêm ngày làm việc với các Tổng cục, các cơ quan để nắm tình hình nghiên cứu các phương án cho bước phát triển mới để đề đạt lên Bộ Chính trị.
    Trong cuộc họp lần này anh Ba nêu vấn đề:
    -Địch muốn co cụm để cho mạnh lên; nhưng ta phải làm thế nào để ch nó co cụm mà lại yếu đi hơn thì mới đúng, và phải làm ngay từ bây giờ. Phải đánh chúng trong quá trình phân tán, nhất là lúc chúng rút lui, thì ta mới có thể đánh như che tre? Phải có đơn vị đánh, đơn vị đuổi, bám thắt lưng nó mà đánh.
    Chỉ vào bản đồ, anh nói tiếp:
    -Nó nghĩ rằng ta đánh từ Bắc vào Nam, nhưng ta lại không làm như thế, ta đánh từ phía Nam đánh ra kia? Phải giải phóng ngay đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long?
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp thong thả nói:
    -Trước đây mấy tháng, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Thực tiễn trong 10 ngày qua, đã xuất hiện ý đồ co cụm chiến lược của địch. Tình hình chuyển biến quá nhanh. Lần này, Mỹ cũng có chuẩn bị lực lượng không quân, đưa tàu chở máy bay đến ngoài khơi Nha Trang để răn đe, nhưng vì có nhiều khó khăn, nên giữa chừng phải thay đổi ý định.
    So sánh lực lượng hiện ta đang có nhiều thuận lợi: địch tuy mới bị diệt 1 sư đoàn, nhưng tinh thần sa sút thêm một bước mới; chúng đang bị phân tán còn ta thì đang sung sức và ở trong thế tập trung. Đề nghị Bộ Chính trị: hoàn thành nhiệm vụ cơ bản trong năm 1975 này thôi. Hướng quan trọng nhất là Sài Gòn; thứ hai là quân khu 1 bao gồm Thừa Thiên-Quảng Đà; thứ ba là đồng bằng Khu 5.
    Về sử dụng lực lượng: xung quanh Sài Gòn hiện có 1 quân đoàn và 3 sư đoàn độc lập, nay đưa thêm Quân đoàn 3 vào và tăng them 2 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn pháp, 5 trung đoàn cao xạ. Cũng có thể lấy vũ khí vừa rồi thu được của địch để tổ chức thêm một đơn vị nữa.
    Chiến trường Trị Thiên, tập trung vào nhiệm vụ chia cắt địch.
    Khu 5 thì nhanh chóng phát triển ra hướng Đà Nẵng.
    Quân đoàn 1 sẵn sàng, khi có lệnh là đi ngay.
    Phương châm hành động là: mạnh bạo, khẩn trương và chắc thắng.
    Biện pháp: bao vây, chia cắt, tiêu diệt tiến hành đồng thời hay trước sau là tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định linh hoạt.
    Thời gian: Trong tháng 4 năm 1975 phải có biến động việc chia cắt chiến lược.
    Đối với miền Bắc: phải cảnh giác đề phòng nhưng chỉ làm trong nội bộ quân đội và nam Quân khu 4 mà thôi. Đối với nhân dân, thì chưa nên đụng chạm đến. Nhân dịp này, đề nghị cho thành lập một số tiểu đoàn dự bị ở huyện, tỉnh. Phải xây dựng, huấn luyện sẵn sàng để khi cần có mà bổ sung. Đây chỉ mới là tác động của đòn tiến công quân sự. Cần đẩy mạnh hơn nữa đòn phá bình định, giành dân ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nói đến tình cảnh của bọn địch ở Cheo Reo, đại tá Đặng Đình Siêu, lữ đoàn phó lữ đoàn 2 kỵ binh đã thú nhận:
    ?oNgày 17 tháng 3, buổi sáng:
    Thiết đoàn biệt động quân liên đoàn 7 và chiến đoàn 1 với 14 chiến xa có nhiệm vụ mở đường, thanh toán chốt tại nam Cheo Reo. Lúc 9 giờ, đụng chốt. Một chiếc xe cháy xin không quân oanh kích: máy bay A37 ném bom nhầm vài tiểu đoàn này. Một đại đội bị loại khỏi vòng chiến đấu.
    Chi đoàn báo cáo không qua được. Bộ tư lệnh lữ đoàn ra lệnh phải tìm đường vòng phía trước mặt chốt, tìm cách qua khỏi, để bảo đảm an ninh đến chân đèo. Kết quả: 3 xe bị cháy, kể từ đó, mất liên lạc.
    Buổi chiều, bộ tư lệnh lữ đoàn lại ra lệnh cho chiến đoàn 3/1CX theo vết cũ mà đi. Chỉ liên lạc được lúc xuất phát, sau đó cũng mất liên lạc.
    Ở sở chỉ huy bộ tư lệnh lữ đoàn bị pháo 130 ly từ hướng Thuần Mẫn bắn đến xối xả.
    13 giờ, lệnh cho rút các lực lượng trong đêm. Hoả Long được điều động đến để thả hoả châu yểm trợ. Vẫn đi theo các đơn vị trước. Vì trời tối, và bị thiệt hại gần chục chiến xa, nên bộ tư lệnh lữ đoàn lệnh cho các đơn vị, trở lại làng Buôn Bleck đông nam thị trấn Cheo Reo, để phòng thủ. Tại đây, cảnh hỗn độn vì có quá nhiều xe của quân và của dân nên không thể lui tới gì được. Tư lệnh lữ đoàn rời xe và không có lệnh gì khác cho các đơn vị. Không một ai biết đương sự đi đâu? các đơn vị biệt động quân, cũng chia thành toán nhỏ rời xe thiết giáp tự động tìm đường đi bộ theo gia đình??
    Nói về nguyên nhân thất bại trên quãng đường từ Cheo Reo đến đèo Tân Á, Siêu viết tiếp:
    ?oCó sự bất đồng ý kiến trong kế hoạch phối trí lực lượng và điều quân giữa lữ đoàn và quân đoàn. Giữ quá nhiều thiết giáp ở Cheo Reo, lẽ ra phải sớm đưa ra bố trí dọc đường.
    -Tinh thần binh sĩ hoang mang dao động vì có tin, chính phủ đã ký, giao lại mặt trận, các tỉnh miền cao nguyên, trong thời hạn 3 ngày phải rút hết quân.
    -Việc yểm trợ bằng không quân ít, lại không chính xác, gây tổn thất cho bạn. Khi đụng chốt, không giải quyết được, mà tổn thất quá cao. Địa thế độc đạo, chỉ có đường duy nhất để xuống duyên hải. Hơn nữa, các xe quân sự bị các xe dân sự cản trở quá nhiều hầu như không thể điều động được.
    -Các tướng tá đã dùng các chiến xa để chở gia đình nên không có sức chiến đấu. Các quân nhân cũng quá bịn rịn vợ con, nên không tác chiến được.
    -Một số cấp chỉ huy chấp hành kỷ luật không nghiêm: đáng lẽ sau khi vượt qua khỏi chốt, phải ở lại giữ an ninh, lại bỏ chạy luôn mà không báo cáo.
    -Khi tư lệnh rời cuộc hành quân, bộ tham mưu bỏ trốn, các đơn vị tự động rời xe thiết giáp, tìm đường đi bộ. Các đơn vị còn lại không ai chỉ huy, dần dần tan rã??
    Sông Ba là một con sông lớn ở miền Nam Trung Bộ. Nguồn của nó rải khắp Tây Nguyên nên ít khi có lụt lớn. Nó phát nguyên từ chân núi Ngọc Linh, bắc Tây Nguyên chảy từ bắc vào nam, dọc theo sườn phía tây Trường Sơn, đến Cheo Reo được thêm nước sông A Yun đổ vào nó trở thành một con sông lớn, cắt ngang dãy núi Trường Sơn, dòng chảy chuyển huớng về phía đông rồi ra biển. Ở nơi chuyển hướng này, hình thành một cái thác, nước chảy hơi xiết đổ vào một cái vực sâu, có lắm cá sấu. Không có nhiều bờ cao, thác dữ. Một vài nơi có những bãi phù sa rộng rãi, trên mặt sông rất hiền lành, nhưng ở dưới là nền da ban phong hóa.
    Nhưng ngày đầu, khi những liên đoàn biệt động quân đi tiên phong của đoàn quân rút lui vượt sông bằng một chiếc cầu phao thì an toàn; nhưng đến lúc đại quân lếch thếch kéo đến, xe người hỗn độn, chen nhau vượt sông, cầu gãy. Bãi cát bờ phía tây sông hóa thành một khối nam châm khổng lồ, bao nhiêu xe cộ đi qua đấy đều bị hút xuống lòng sông: xe trước vừa dừng lại, xe sau lách lên, cả hai đều chết cứng. Càng rồ máy càng lún sâu thêm. Xe xếp hàng 4, hàng 5, hàng 6; xe chồng đôi, chồng ba, vài chiếc trực thăng cần cẩu cẩu những tấm vỉ sắn đến để chống lún, nhưng lửa xe nước gáo, thấm vào đâu. Hì hục mãi không nhích lên được nửa bước, ngoái cổ về phía tây đã thấy trung đoàn 64 của sư đoàn 320 đang đuổi gâp. Lại giẫm lên nhau mà chạy. Từ đây trở đi quân ta cứ đường cái mà truy kích, nhanh như vũ bão. Ngày 22 tháng 3, phân đội phái đi trước của trung đoàn 64 gồm bộ binh và xe bọc thép đã ghìm được địch ở quận lỵ Phú Túc, trong nháy mắt diệt ngay một bộ phận. Một vài đơn vị của sư đoàn đã nhanh chóng bơi vị trí vượt sông Ba và đến ngày hôm sau thì bắt liên lạc được với tiểu đoàn 96 địa phương Phú Yên, đang chặn đầu địch rút chạy. Chủ lực phối hợp với địa phương hình thành thế trận bao vây Củng Sơn rất đẹp. Tại đây đối phương đã có sẵn liên đoàn 6 biệt động quân về đóng chốt từ trước. Cùng số quân, lóp ngóp từ Tây Nguyên mới chạy về, lực lượng phòng thủ khá mạnh: trên 6 nghìn quân, 40 xe tăng thiết giáp và hàng trăm xe vận tải. 13 giờ ngày 24 tháng 3, ta bắt đầu tiến công, địch chống trả điên cuồng, tập trung hoả lực của pháo binh và trực thăng vũ trang quyết ngăn chặn ta. Xe tăng, xe bọc thép, dựa vào số lượng đông hơn gấp bội, phản kích liên tục. Bộ binh và xe tăng đã chiến đấu vô cùng anh dũng, vượt qua lưới lửa dày đặc của địch, theo đường cái tiến công vào Tịnh Sơn. Bộ đội cao xạ bắn rơi 1 máy bay A37 tại trận, đến chiều thì chiếm được quận lỵ. Trên hướng bắc ta tiến công vào Hòn Một, địch phản kích bị ta đánh bật, phải tháo chạy; 15 giờ ngày, Hòn Một rơi vào tay ta. Cùng lúc ấy, nắm được tình hình địch đang hoang mang cao độ, bộ tư lệnh sư đoàn 320 hạ lệnh tiến công đồng loạt vào các mục tiêu đã được phân công, sau một đợt pháo bắn chuẩn bị ngắn, ta chiếm được Hòn Ngang, rồi phát triển sang sân bay cùng với tiểu đoàn 96 dứt điểm mục tiêu này.
    Củng Sơn hoàn toàn được giải phóng.
    Sau Tây Nguyên, ta đã tạo được một bước ngoặt chiến lược. Thế của địch đã bị sụt hẳn, nhưng lực lượng của chúng vẫn còn đông. Chỉ tính riêng ở vùng 1 chiến thuật, một nửa độ dài của khúc ruột miền Trung, đã giữ chân một lực lượng quân đội cộng hoà không phải nhỏ: 24 vạn quân chính quy, nghĩa là 1 phần 3 tổng quân số với đầy đủ các binh chủng: 5 sư đoàn, 2 lữ đoàn bộ binh, 9 liên đoàn biệt động quân tổ chức thành 93 tiểu đoàn quân chủ lực, 155 tiểu đoàn và 77 đại đội bảo an, 1842 trung đội dân vệ. Pháo binh có 24 tiểu đoàn và 10 đại đội với 544 khẩu pháo các loại; 7 trung đoàn xe tăng với 741 chiếc; 3 sư đoàn không quân với 760 chiếc. Ngoài ra còn có trên 10 vạn phòng vệ dân sự có vũ trang và 3 vạn cảnh sát.
    Toàn bộ lực lượng chiếm đóng gần 2.000 cứ điểm, 90 chi khu và quận lỵ.
    Nhiệm vụ cấp bách lúc bấy giờ là phải nhanh chóng tiêu diệt sạch sành sanh toàn bộ lực lượng địch ở đây, không cho chúng kéo về Sài Gòn. Trong lúc tiếng súng đuổi địch trên chiến trườn Tây Nguyên chưa tắt, thì trên toàn Miền, tiếng súng phối hợp chiến trường đã trở thành tiếng súng tiến công. Từ một chiến dịch có tính chiến lược, chuyển thành một cuộc tiến công để hoàn thành sứ mệnh giải phóng toàn bộ đất nước, trong một thời gian ngắn, chưa đầy hai tháng, là một việc xưa nay chưa từng có trong lịch sử chiến tranh.
    Suốt cả tuần lễ ròng rã, Bộ Tổng tham mưu đêm ngày làm việc với các Tổng cục, các cơ quan để nắm tình hình nghiên cứu các phương án cho bước phát triển mới để đề đạt lên Bộ Chính trị.
    Trong cuộc họp lần này anh Ba nêu vấn đề:
    -Địch muốn co cụm để cho mạnh lên; nhưng ta phải làm thế nào để ch nó co cụm mà lại yếu đi hơn thì mới đúng, và phải làm ngay từ bây giờ. Phải đánh chúng trong quá trình phân tán, nhất là lúc chúng rút lui, thì ta mới có thể đánh như che tre? Phải có đơn vị đánh, đơn vị đuổi, bám thắt lưng nó mà đánh.
    Chỉ vào bản đồ, anh nói tiếp:
    -Nó nghĩ rằng ta đánh từ Bắc vào Nam, nhưng ta lại không làm như thế, ta đánh từ phía Nam đánh ra kia? Phải giải phóng ngay đồng bằng Khu 5, đồng bằng sông Cửu Long?
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp thong thả nói:
    -Trước đây mấy tháng, Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Thực tiễn trong 10 ngày qua, đã xuất hiện ý đồ co cụm chiến lược của địch. Tình hình chuyển biến quá nhanh. Lần này, Mỹ cũng có chuẩn bị lực lượng không quân, đưa tàu chở máy bay đến ngoài khơi Nha Trang để răn đe, nhưng vì có nhiều khó khăn, nên giữa chừng phải thay đổi ý định.
    So sánh lực lượng hiện ta đang có nhiều thuận lợi: địch tuy mới bị diệt 1 sư đoàn, nhưng tinh thần sa sút thêm một bước mới; chúng đang bị phân tán còn ta thì đang sung sức và ở trong thế tập trung. Đề nghị Bộ Chính trị: hoàn thành nhiệm vụ cơ bản trong năm 1975 này thôi. Hướng quan trọng nhất là Sài Gòn; thứ hai là quân khu 1 bao gồm Thừa Thiên-Quảng Đà; thứ ba là đồng bằng Khu 5.
    Về sử dụng lực lượng: xung quanh Sài Gòn hiện có 1 quân đoàn và 3 sư đoàn độc lập, nay đưa thêm Quân đoàn 3 vào và tăng them 2 trung đoàn xe tăng, 2 trung đoàn pháp, 5 trung đoàn cao xạ. Cũng có thể lấy vũ khí vừa rồi thu được của địch để tổ chức thêm một đơn vị nữa.
    Chiến trường Trị Thiên, tập trung vào nhiệm vụ chia cắt địch.
    Khu 5 thì nhanh chóng phát triển ra hướng Đà Nẵng.
    Quân đoàn 1 sẵn sàng, khi có lệnh là đi ngay.
    Phương châm hành động là: mạnh bạo, khẩn trương và chắc thắng.
    Biện pháp: bao vây, chia cắt, tiêu diệt tiến hành đồng thời hay trước sau là tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định linh hoạt.
    Thời gian: Trong tháng 4 năm 1975 phải có biến động việc chia cắt chiến lược.
    Đối với miền Bắc: phải cảnh giác đề phòng nhưng chỉ làm trong nội bộ quân đội và nam Quân khu 4 mà thôi. Đối với nhân dân, thì chưa nên đụng chạm đến. Nhân dịp này, đề nghị cho thành lập một số tiểu đoàn dự bị ở huyện, tỉnh. Phải xây dựng, huấn luyện sẵn sàng để khi cần có mà bổ sung. Đây chỉ mới là tác động của đòn tiến công quân sự. Cần đẩy mạnh hơn nữa đòn phá bình định, giành dân ở đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đồng chí Lê Đức Thọ tiếp lời:
    -Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1976 thì bây giờ cơ bản vẫn là quyết tâm ấy. Vấn đề đặt ra hiện nay là thời gian. Từ năm 1973 đến nay, thực tế đã diễn ra trên chiến trường đều vuợt quá thời gian của Quân uỷ Trung ương dự kiến. Mỹ rút thì nguỵ suy sụp lớn; Hiệp định Paris đã tác động to lớn đến bọn nguỵ. Sự sụp đổ lần này là cơ bản, chúng đã mất chỗ dựa là Mỹ, thì lấy gì mà gượng lại được.
    Mỹ bây giờ thế nào? Khó khăn của Mỹ cũng vuợt ra ngoài sự suy nghĩ của ta một phần. Cứ tưởng ký xong Hiệp định Paris thì Nixon sẽ gượng lại được; thực tế thì ngược lại hẳn: Tình hình lạm phát thất nghiệp vẫn tiếp tục trầm trọng và Nixon bị hạ bệ. Ford đã phải thú nhận: Tình hình Mỹ còn rất khó khăn; đã ra rồi thì không thể quay trở lại được nữa. Về Campuchia, thái độ của Mỹ và Pháp đã chuyển rồi. Thực tiễn học thuyết Nixon mà chỉ bằng viện trợ không thôi, thì chắc chắn cũng không giải quyết được vấn đề gì. Còn nói nó có thể đưa máy bay vào can thiệp thì tốn kém biết bao nhiêu. Ta phải cảnh giác là đúng nhưng đồng ý là phải mạnh dạn, phải khẩn trương và chắc thắng. Ta phải nhận định về khả năng Mỹ không thể vào cho dứt khoát. Nó mà có vào cũng đánh thôi. Đây là cuộc chiến tranh cơ mà! Nó vào một lần nữa đẻ làm gì? Nó có chiến lược của nó, vào để gây lại chiến tranh ở miền Nam một lần nữa à? Trong mười lăm năm chống Mỹ không lúc nào thuận lợi như bây giờ. Bây giờ thì phải táo bạo, táo bạo có cơ sở. Trong chiến lược co cụm, địch mạnh yếu như thế nào? Ta cũng có dự kiến là nó sẽ co cụm. Bây giờ thì nó làm sớm hơn thôi. Nó muốn giữ được lực lượng để khỏi bị tiêu diệt, nhưng đây là một thất bại rất lớn. Ta phải đánh trong quá trình co cụm, làm cho nó yếu dần đi. Nó co cụm ở đâu? Nó cố giữ đường chiến lược, ven biển và đồng bằng. Ta phải phá bằng hai mặt trận: Chủ lực và lực lượng tại chỗ của ta ở đồng bằng. Ta có đầy đủ cơ sở để nói rằng ta sẽ hoàn thành cuộc cách mạng trong năm 1975. Địch đang hết sức, ta quyết không để cho địch nghỉ để xả hơi, củng cố, ta hoàn toàn có khả năng làm việc này vì ta giải phóng Tây Nguyên sớm hơn, ta cũng sẽ suống miền Đông sớm hơn. Vấn đề bây giờ là vấn đề tổ chức, hậu cần và cán bộ. Ở miền Bắc chỉ nên tổ chức phòng không trong quân đội thôi.
    Thủ tướng Phạm Văn Đồng hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại mặt cúi xuống đất. Đây là một cử chỉ quen thuộc mỗi khi đồng chí tập trung trí tuệ để suy nghĩ một vấn đề gì quan trọng. Thỉnh thoảng đồng chí lại dừng lại, ngước mắt nhìn về phía anh Sáu Thọ đang phát biểu ý kiến và gật đầu tỏ vẻ đồng tình. Thủ tưởng Phạm Văn Đồng nói:
    -Đồng ý tôi không nói lại nhiều. Năm nay ta dứt khoát làm Sài Gòn thì rồi Huế, Đà Nẵng cũng rụng thôi. Ta phải nhanh thì ta mới mạnh, mới áo đảo địch. Ta không thiếu lực lượng, hơn nó rồi đấy. Vấn đề là phải chuẩn bị cho tốt, có cách đánh thật táo bạo, linh hoạt, phải quả cảm, kiên quyết. Vấn đề tổ chức trang bị bây giờ quan trọng vô cùng. Phải có đầy đủ vũ khí tiến công, có hoả lực mạnh. Trong 3 sư đoàn của địch ở chung quanh Sài Gòn, phải diệt cho được 2. Bịt cho được đường biển. Phải giải phóng ngay đồng bằng Khu 5 lấy dân, lấy gạo. Địch rời rụng, bại hoại, ta vừa đánh tiêu diệt lực lượng quân sự của nó, vừa gọi hàng. Phải làm cho nó có những đơn vị lớn đầu hàng, tan rã.
    Đối với dân chạy nạn, phải hết sức giúp đỡ, cố gắng nhanh chóng ổn định đời sống cho họ.
    Vẫn như mọi lần, mỗi khi phát biểu, đồng chí Trường Chính bao giờ cũng cầm sẵn trong tay một tờ giấy đã ghi sẵn những ý kiến đã chuẩn bị:
    -Nếu Mỹ còn tiếc rẻ tên tay sai này thì nhất định nhân dân miền Nam sẽ đạp đổ hắn, ngày một ngày hai thôi. Địch chỉ mới thất bại ở nam Tây Nguyên mà cả hệ thống chiếm đóng từ trên xuống dưới bị rung chuyển. Điều đó chứng tỏ chúng rất yếu, xuống dốc nhiều và nhanh. Thắng lợi ở Tây Nguyên đã nói lên điều gì? Địch chuyển sang thế phòng ngự chiến lược. Nó co cụm để giữ sinh lực, giữ nông thôn nhiều người nhiều của; giữ thành phố. Đó là thế yếu của chúng. Từ chỗ đưa quân đi bình định lấn chiếm khắp nơi, nay lại phải bỏ, đẻ thay đổi thế bố trí chiến lược. Ta cần phải theo dõi từng bước sự điều chỉnh này, nhất là với bọn dù và thuỷ quân lục chiến. Đã co cụm thì có đánh ra cũng cốt để giữ thôi. Đáng chú ý là nó chạy nhưng chưa hàng, ta giải phóng được nhiều, nhưng diệt còn ít.
    Nhiệm vụ của ta là phải thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Phải bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cho linh hoạt. Phương châm là táo bạo, chắc thắng; đồng thời phải tích cực cơ động, linh hoạt? điều chỉnh kế hoạch phải theo tinh thần táo bạo, chắc. Nếu không nắm thời cơ tiến công trong lúc này là có tội với Tổ quốc. Bỏ lỡ cơ hội này thì mình không phải là mình nữa?
    Nhìn sang phía Thượng tướng Hoàng Văn Thái và Trung tướng Lê Trọng Tấn, đồng chí muốn nhắc nhở với Bộ Tổng tham mưu:
    -Đánh phải tiêu diệt sinh lực, kể cả lực lượng cơ động chiến lược. Đánh tiêu diệt là biện pháp hàng đầu. Nó sẽ rã như cám. Phải diệt bọn chỉ huy, bắt, giáo dục để nó tuyên bố chống lại Thiệu. Phải kiên quyết thực hiện thế chia cắt chiến lược: Huế-Đà Nẵng; Đà Nẵng-Nha Trang; với Sài Gòn. Về kế hoạch tác chiến chiến lược trên hướng chính, Bộ Tổng tham mưu cần nghiên cứu kỹ, ít hôm nữa sẽ trình bày? Đánh như kiểu Quang Trung có được không? Đừng rị mọ. Nếu ta chiếm được hai kho thóc: đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5, thì dù địch có co cụm cũng không thể mạnh được.
    Anh Ba kết luận:
    Địch có những cái bất ngờ:
    -Năm nay ta chưa đánh lớn.
    -Ta sẽ tiến công vào đồng bằng Khu 5.
    -Nó chưa thấy hết chỗ yếu của nó.
    Trong lúc này phải nắm chắc ba quả đấm: nông thôn mạnh, đô thị mạnh, chủ lực mạnh. Chủ lực phải tập trung mạnh. Ta tập trung 9 sư đoàn, nhưng sau lưng phải có 4-5 sư đoàn dự bị. Ta lại tạo được thế bất ngờ thì sức mạnh sẽ tăng lên gấp 3-4 lần.
    Phải diệt lực lượng quân sự của địch, nhưng lúc vào thành phố rồi, thì ba thành phần. Đánh Sài Gòn đã khó, quản lý lại còn khó hơn. Phải đặt vấn đề chính sách mặt trận ra ngay?
    Mặt trận tiến dần về hướng Đông. Các sở chỉ huy cũng tiến lên phia trước. Đồng chí đại tá Hoàng Niệm, phụ trách thông tin của chiến dịch và tôi được giao nhiệm vụ đi chọn địa điểm để di chuyển A75 lên, vừa để chỗ gần các đơn vị để tiện chỉ huy, nhưng chủ yếu là để chuẩn bị cho một cuộc họp rất quan trọng sắp đến. Trên cho biết đồng chí Lê Đức Thọ sẽ vào truyền đạt quyết tâm mới của Bộ Chính trị. Dự họp sẽ có các đồng chí trong Trung ương Cục ra, các đồng chí ở Liên khu 5 lên, một số cán bộ trong Bộ tư lệnh chiến dịch A75.
    Chúng tôi đi suốt cả đêm, cuối cùng cũng chọn được một vị trí ở Chư Leo, gần quận lỵ Thuần Mẫn. Đây là một trạm phẫu thuật của sư đoàn 320 chuẩn bị cho trận diệt viện; nhưng trận ấy lại không hề xảy ra, nên các bác sĩ cho biết là vừa rồi bị thất nghiệp. Các trận chiến đấu lẻ tẻ trong vùng này trước ngày 10 tháng 3 thì chỉ có trung thương trở xuống thôi, các trạm phẫu thuật của các trung đoàn cũng đủ sức giải quyết, thành ra trạm phẫu thuật của sư đoàn chẳng có việc làm. Giữa núi rừng, giữa lúc tình hình diễn biến khẩn trương như thế này, mà phải kiến thiết một địa điểm họp, bảo đảm có đủ chỗ ăn, ở cho hàng trăm người thì cũng không phải dễ dàng gì: nên vừa đến nơi, xem xét qua, chúng tôi đã nhất trí ngay. Nhà cửa, hầm hố, nước nôi? ở đây đều rất sẵn. Vì là một trạm phẫu thuật, nên việc đi lại cũng dễ dàng. Lại được cái ở gần một trung đoàn thông tin nên mạng liên lạc với Hà Nội-Trung ương Cục đã vững chắc.
    Trên đường đi đến điểm mới, anh Tuấn ghé thăm thị xã Buôn Ma Thuột. Chiếc xe com măng ca đi chậm chạp, len lỏi vào cả những phố xá đông người. Sinh hoạt của nhân dân đã nhanh chóng được trở lại bình thường: người mua bán đi lại tấp nập nhộn nhịp; mọi người đều tích cực làm tổng vệ sinh và đào hầm hố tránh máy bay. Lực lượng vũ trang chỉ thấy loáng thoáng trên các đường phố, mà trận tự an ninh vẫn được giữ vững.
    Anh Tuấn dừng lại khá lâu trước cổng sư đoàn 23, nghe cán bộ tác chiến báo cáo lại diễn biến trận đánh hướng tiến của từng mũi đột kích, vị trí của từng chiếc xe tăng của ta và cách bố phòng, đối phó của địch. Điều làm cho anh rất hài lòng là không có một vết đạn pháo nào bắn lạc bào khu dân cư; đến cả cái khách sạn Anh Đào nằm giữa khu quân sự cũng hãy còn nguyện vẹn.
    Chỉ vào một bãi đất trống ở gần sư đoàn bộ, anh Tuấn nói: sau này, sẽ bàn với địa phương, để xây dựng ở đây, một đài liệt sĩ cho đẹp, cho lớn. Cán bộ tham mưu cần nghiên cứu kỹ, rút kinh nghiệm quý báu sau trận đánh này.
    Ở đâu phải có rất nhiều kỷ niệm sâu sắc, trước kia cũng như ngày nay?
    Vừa đến vị trí mới, triển khai công tác ngay.
    Được sống gần anh Tuấn trong những ngày này, tôi thấy anh băn khoăn suy nghĩ rất nhiều. Sàn nhà của anh lát bằng tre, nên mỗi bước đi đều phát ra tiếng kêu cọt kẹt. Ở trong nhà chán anh lại bước ra sân. Dưới bóng cây râm mát, anh đi đi lại lại, tay không rời chiếc gậy Trường Sơn. Không gian vắng vẻ quá. Không một tiếng chim hót, chỉ có tiếng róc rách của dòng suối nhỏ bên cạnh nhà. Hai đồng chí chiến sĩ đứng gác ở hai đầu sân, im lặng như hai pho tượng. Đến gần chiếc bàn dã chiến đặt dưới một tán cây, anh gọi đưa chiếc cặp da đến, lấy ra mảnh giấy màu vàng. Đây là bức điện của anh Văn đề ngày 19-3:
    ?oBộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn sớm hơn dự kiến trước, và chuyển lực lượng hoạt động ở Tây Nguyên vào Nam Bộ. Anh Lê Đức Thọ, ngày 28 tháng 3 sẽ lên đường vào Tây Nguyên để họp, phổ biến đầy đủ nghị quyết??
    Tình hình hiện nay đang phát triển rất nhanh. Đây là một bước nhảy vọt. Lúc này, tranh thủ thời gian là nắm thời cơ là quyết định lắm??.
    Một cục diện mới vừa mở ra. Một nhiệm vụ mới mà suốt mấy mươi năm đấu tranh, toàn Đảng, toàn dân đang nóng lòng chờ đợi từng giây từng phút, từ trong công tác hàng ngày, những cuộc hội họp và đến cả trong những giấc mơ? Bây giờ đón nhận lấy nó, lòng ai mà không rạo rực bàng hoàng? Một thời cơ lớn mà chúng ta đã tốn biết bao xương máu, trí tuệ mới tạo ra được; thế thì ai mà còn chịu nổi ngồi chơ, không nhanh tay với lấy, sớm một giây hay chậm một giây? Tây Nguyên địch đã rút, vấn đề tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch đang ở trong tầm tay; các chiến trường khác đang rung chuyển mạnh; Bộ Chính trị đã cân nhắc rất nhiều khi hạ quyết tâm. Trên chiến trường, người cán bộ chỉ huy phải làm thế nào để thực hiện cho thật tốt thật đúng tinh thần của lãnh đạo.
    Anh Tuấn gọi tôi đến hỏi về đường số 7 và đường 21. Tôi trình bày theo sự hiểu biết địa hình của tôi, và theo sự suy nghĩ của tôi gần đây nhất:
    -Trên đường 21, sư đoàn 10 không dễ gì đánh bật được địch ra khỏi đèo Ma Đrắc ngày một ngày hai, vì địa thế ở đây rất hiểm trở, mà lực lượng địch ở đây, nếu cộng cả quân địa phương, thì cũng tương đương một sư đoàn, có binh khí kỹ thuật chi viện đắc lực chứ không như ở Phước An. Lữ 3 dù năm ngoái tôi đã đánh nhau với chúng ở Thượng Đức, cũng không phải tồi lắm.
    Nhưng nếu trên hướng đường số 7, sư đoàn 320 dứt điểm gọn được Củng Sơn mà xuống Phú Yên thì tình hình sẽ vô cùng thuận lợi vì có rất nhiều đường đi vào Khánh Hoà: đường quốc lộ 1, đường từ Liên hiệp Mỹ qua dốc Mỏ vào chiến khu Đá Bàn. Như vậy, sư đoàn 320 sẽ trở thành một mõi vu hồi rất lợi hại, tạo điều kiện cho sư đoàn 10 nhanh chóng tiêu diệt địch; dù chúng có đông và mạnh đến bao nhiêu cũng phải vỡ.
    Anh lại hỏi tôi về đường đi Nam Bộ?
    -Báo cáo có hai đường: một đường phải qua đất Campuchia một đoạn. Sau khi giải phóng Đức Lập thì có thêm được đường thứ hai, theo đường 14, đi hoàn toàn trên đất ta. Đường này tốt hơn, đã rải đá có đoạn đã rải nhựa, nhưng còn phải gỡ mìn mất mấy hôm mới dùng được.
    -Các đơn vị ở đây thế nào?
    Sư đoàn 316 và trung đoàn 95B đang thu quân về củng cố.
    Trước mặt các lực lượng ta ở Tây Nguyên đang tràn xuống đồng bằng có hai nơi có thể co cụm lớn: Nha Trang và Cam Ranh. Lời khai của Vũ Thế Quang, nguyên thị trưởng thị xã cố lắm, đánh có thể thắng nhanh được. Nhưng đó là với lực lượng của địa phương kia, như nếu có lực lượng chủ lực của địch về thì phải cẩn thận hơn.
    Anh lẩm bẩm như nói một mình:
    -28 mới đi? ít nhất phải mồng 4, mồng 5 mới đến được.
    Tôi biết anh rất sốt ruột. Anh đang mong chờ anh Sáu Thọ đến để nghe kỹ quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị. Anh phải chờ gần nửa tháng nữa, trong lúc đang coi ngày bằng năm.
    Một cái gạch bút chì đỏ, đậm nét trên tờ giấy vàng dã thu hút sự chú ý của anh: tiêu diệt địch ở vùng Phú Bổn, Củng Sơn? và trong một bức điện khác: ?Tiêu diệt địch trong quá trình co cụm?.
    Vấn đề là như thế đó. Phải nắm vững vấn đề tiêu diệt và làm tan rã thật nhiều sinh lực địch. Muốn vậy, hướng phát triển trước mắt, như đã thống nhất ý kiến trong cuộc họp với một số cán bộ ở đây, là phải liên tục nhất, phải phát huy được sức mạnh nhất và còn nhiều thời gian để hoạt động động. Chỉ có hướng đông mới làm được đầy đủ việc này. Anh cho gọi đồng chí Nguyễn Tuyến và đồng chí Hoàng Dũng mang bản đồ đến. Mắt không rời những mũi tên xanh đỏ vẽ chằng chịt trên giấy trắng, anh nói:
    ?oĐiện gọi Vũ Lăng ở Khánh Dương về. Tổ chức cho anh Hoàng Mình Thảo đi ngay ra đường 19 để nắm lấy sư đoàn 968 và trung đoàn 95A, nhanh chóng phát triển về đồng bằng: Đồng chí Hàm thôi không trở về sở chỉ huy chiến dịch nữa, mà ở lại đây, để tổ chức đưa ngay trung đoàn 95B và sư đoàn 316 vào Nam Bộ. Cùng với đồng chí Nguyễn Lang, tính toán khối lượng vật chất, xe cộ để đưa ngay vào miền Đông càng sớm càng tốt, càng nhiều càng tốt, kể cả khối lượng còn tồn trên đường dây. Sau đó đồng chí Nguyễn Lang ra đường 9 đón anh Sáu Thọ. Đồng chí Tuyến thảo điện xin ý kiến Quân uỷ Trung ương và đưa cho tôi xem?.
    Nội dung điện như đã họp bàn hôm trước, đại ý là: sử dụng lực lượng Tây Nguyên cùng với lực lượng Khu 5 phát triển xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng trên một triệu dân? có một bộ phận đi trước vào Nam Bộ.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đồng chí Lê Đức Thọ tiếp lời:
    -Bộ Chính trị đã hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1976 thì bây giờ cơ bản vẫn là quyết tâm ấy. Vấn đề đặt ra hiện nay là thời gian. Từ năm 1973 đến nay, thực tế đã diễn ra trên chiến trường đều vuợt quá thời gian của Quân uỷ Trung ương dự kiến. Mỹ rút thì nguỵ suy sụp lớn; Hiệp định Paris đã tác động to lớn đến bọn nguỵ. Sự sụp đổ lần này là cơ bản, chúng đã mất chỗ dựa là Mỹ, thì lấy gì mà gượng lại được.
    Mỹ bây giờ thế nào? Khó khăn của Mỹ cũng vuợt ra ngoài sự suy nghĩ của ta một phần. Cứ tưởng ký xong Hiệp định Paris thì Nixon sẽ gượng lại được; thực tế thì ngược lại hẳn: Tình hình lạm phát thất nghiệp vẫn tiếp tục trầm trọng và Nixon bị hạ bệ. Ford đã phải thú nhận: Tình hình Mỹ còn rất khó khăn; đã ra rồi thì không thể quay trở lại được nữa. Về Campuchia, thái độ của Mỹ và Pháp đã chuyển rồi. Thực tiễn học thuyết Nixon mà chỉ bằng viện trợ không thôi, thì chắc chắn cũng không giải quyết được vấn đề gì. Còn nói nó có thể đưa máy bay vào can thiệp thì tốn kém biết bao nhiêu. Ta phải cảnh giác là đúng nhưng đồng ý là phải mạnh dạn, phải khẩn trương và chắc thắng. Ta phải nhận định về khả năng Mỹ không thể vào cho dứt khoát. Nó mà có vào cũng đánh thôi. Đây là cuộc chiến tranh cơ mà! Nó vào một lần nữa đẻ làm gì? Nó có chiến lược của nó, vào để gây lại chiến tranh ở miền Nam một lần nữa à? Trong mười lăm năm chống Mỹ không lúc nào thuận lợi như bây giờ. Bây giờ thì phải táo bạo, táo bạo có cơ sở. Trong chiến lược co cụm, địch mạnh yếu như thế nào? Ta cũng có dự kiến là nó sẽ co cụm. Bây giờ thì nó làm sớm hơn thôi. Nó muốn giữ được lực lượng để khỏi bị tiêu diệt, nhưng đây là một thất bại rất lớn. Ta phải đánh trong quá trình co cụm, làm cho nó yếu dần đi. Nó co cụm ở đâu? Nó cố giữ đường chiến lược, ven biển và đồng bằng. Ta phải phá bằng hai mặt trận: Chủ lực và lực lượng tại chỗ của ta ở đồng bằng. Ta có đầy đủ cơ sở để nói rằng ta sẽ hoàn thành cuộc cách mạng trong năm 1975. Địch đang hết sức, ta quyết không để cho địch nghỉ để xả hơi, củng cố, ta hoàn toàn có khả năng làm việc này vì ta giải phóng Tây Nguyên sớm hơn, ta cũng sẽ suống miền Đông sớm hơn. Vấn đề bây giờ là vấn đề tổ chức, hậu cần và cán bộ. Ở miền Bắc chỉ nên tổ chức phòng không trong quân đội thôi.
    Thủ tướng Phạm Văn Đồng hai tay chắp sau lưng, đi đi lại lại mặt cúi xuống đất. Đây là một cử chỉ quen thuộc mỗi khi đồng chí tập trung trí tuệ để suy nghĩ một vấn đề gì quan trọng. Thỉnh thoảng đồng chí lại dừng lại, ngước mắt nhìn về phía anh Sáu Thọ đang phát biểu ý kiến và gật đầu tỏ vẻ đồng tình. Thủ tưởng Phạm Văn Đồng nói:
    -Đồng ý tôi không nói lại nhiều. Năm nay ta dứt khoát làm Sài Gòn thì rồi Huế, Đà Nẵng cũng rụng thôi. Ta phải nhanh thì ta mới mạnh, mới áo đảo địch. Ta không thiếu lực lượng, hơn nó rồi đấy. Vấn đề là phải chuẩn bị cho tốt, có cách đánh thật táo bạo, linh hoạt, phải quả cảm, kiên quyết. Vấn đề tổ chức trang bị bây giờ quan trọng vô cùng. Phải có đầy đủ vũ khí tiến công, có hoả lực mạnh. Trong 3 sư đoàn của địch ở chung quanh Sài Gòn, phải diệt cho được 2. Bịt cho được đường biển. Phải giải phóng ngay đồng bằng Khu 5 lấy dân, lấy gạo. Địch rời rụng, bại hoại, ta vừa đánh tiêu diệt lực lượng quân sự của nó, vừa gọi hàng. Phải làm cho nó có những đơn vị lớn đầu hàng, tan rã.
    Đối với dân chạy nạn, phải hết sức giúp đỡ, cố gắng nhanh chóng ổn định đời sống cho họ.
    Vẫn như mọi lần, mỗi khi phát biểu, đồng chí Trường Chính bao giờ cũng cầm sẵn trong tay một tờ giấy đã ghi sẵn những ý kiến đã chuẩn bị:
    -Nếu Mỹ còn tiếc rẻ tên tay sai này thì nhất định nhân dân miền Nam sẽ đạp đổ hắn, ngày một ngày hai thôi. Địch chỉ mới thất bại ở nam Tây Nguyên mà cả hệ thống chiếm đóng từ trên xuống dưới bị rung chuyển. Điều đó chứng tỏ chúng rất yếu, xuống dốc nhiều và nhanh. Thắng lợi ở Tây Nguyên đã nói lên điều gì? Địch chuyển sang thế phòng ngự chiến lược. Nó co cụm để giữ sinh lực, giữ nông thôn nhiều người nhiều của; giữ thành phố. Đó là thế yếu của chúng. Từ chỗ đưa quân đi bình định lấn chiếm khắp nơi, nay lại phải bỏ, đẻ thay đổi thế bố trí chiến lược. Ta cần phải theo dõi từng bước sự điều chỉnh này, nhất là với bọn dù và thuỷ quân lục chiến. Đã co cụm thì có đánh ra cũng cốt để giữ thôi. Đáng chú ý là nó chạy nhưng chưa hàng, ta giải phóng được nhiều, nhưng diệt còn ít.
    Nhiệm vụ của ta là phải thực hiện các mục tiêu đã đề ra. Phải bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cho linh hoạt. Phương châm là táo bạo, chắc thắng; đồng thời phải tích cực cơ động, linh hoạt? điều chỉnh kế hoạch phải theo tinh thần táo bạo, chắc. Nếu không nắm thời cơ tiến công trong lúc này là có tội với Tổ quốc. Bỏ lỡ cơ hội này thì mình không phải là mình nữa?
    Nhìn sang phía Thượng tướng Hoàng Văn Thái và Trung tướng Lê Trọng Tấn, đồng chí muốn nhắc nhở với Bộ Tổng tham mưu:
    -Đánh phải tiêu diệt sinh lực, kể cả lực lượng cơ động chiến lược. Đánh tiêu diệt là biện pháp hàng đầu. Nó sẽ rã như cám. Phải diệt bọn chỉ huy, bắt, giáo dục để nó tuyên bố chống lại Thiệu. Phải kiên quyết thực hiện thế chia cắt chiến lược: Huế-Đà Nẵng; Đà Nẵng-Nha Trang; với Sài Gòn. Về kế hoạch tác chiến chiến lược trên hướng chính, Bộ Tổng tham mưu cần nghiên cứu kỹ, ít hôm nữa sẽ trình bày? Đánh như kiểu Quang Trung có được không? Đừng rị mọ. Nếu ta chiếm được hai kho thóc: đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng Khu 5, thì dù địch có co cụm cũng không thể mạnh được.
    Anh Ba kết luận:
    Địch có những cái bất ngờ:
    -Năm nay ta chưa đánh lớn.
    -Ta sẽ tiến công vào đồng bằng Khu 5.
    -Nó chưa thấy hết chỗ yếu của nó.
    Trong lúc này phải nắm chắc ba quả đấm: nông thôn mạnh, đô thị mạnh, chủ lực mạnh. Chủ lực phải tập trung mạnh. Ta tập trung 9 sư đoàn, nhưng sau lưng phải có 4-5 sư đoàn dự bị. Ta lại tạo được thế bất ngờ thì sức mạnh sẽ tăng lên gấp 3-4 lần.
    Phải diệt lực lượng quân sự của địch, nhưng lúc vào thành phố rồi, thì ba thành phần. Đánh Sài Gòn đã khó, quản lý lại còn khó hơn. Phải đặt vấn đề chính sách mặt trận ra ngay?
    Mặt trận tiến dần về hướng Đông. Các sở chỉ huy cũng tiến lên phia trước. Đồng chí đại tá Hoàng Niệm, phụ trách thông tin của chiến dịch và tôi được giao nhiệm vụ đi chọn địa điểm để di chuyển A75 lên, vừa để chỗ gần các đơn vị để tiện chỉ huy, nhưng chủ yếu là để chuẩn bị cho một cuộc họp rất quan trọng sắp đến. Trên cho biết đồng chí Lê Đức Thọ sẽ vào truyền đạt quyết tâm mới của Bộ Chính trị. Dự họp sẽ có các đồng chí trong Trung ương Cục ra, các đồng chí ở Liên khu 5 lên, một số cán bộ trong Bộ tư lệnh chiến dịch A75.
    Chúng tôi đi suốt cả đêm, cuối cùng cũng chọn được một vị trí ở Chư Leo, gần quận lỵ Thuần Mẫn. Đây là một trạm phẫu thuật của sư đoàn 320 chuẩn bị cho trận diệt viện; nhưng trận ấy lại không hề xảy ra, nên các bác sĩ cho biết là vừa rồi bị thất nghiệp. Các trận chiến đấu lẻ tẻ trong vùng này trước ngày 10 tháng 3 thì chỉ có trung thương trở xuống thôi, các trạm phẫu thuật của các trung đoàn cũng đủ sức giải quyết, thành ra trạm phẫu thuật của sư đoàn chẳng có việc làm. Giữa núi rừng, giữa lúc tình hình diễn biến khẩn trương như thế này, mà phải kiến thiết một địa điểm họp, bảo đảm có đủ chỗ ăn, ở cho hàng trăm người thì cũng không phải dễ dàng gì: nên vừa đến nơi, xem xét qua, chúng tôi đã nhất trí ngay. Nhà cửa, hầm hố, nước nôi? ở đây đều rất sẵn. Vì là một trạm phẫu thuật, nên việc đi lại cũng dễ dàng. Lại được cái ở gần một trung đoàn thông tin nên mạng liên lạc với Hà Nội-Trung ương Cục đã vững chắc.
    Trên đường đi đến điểm mới, anh Tuấn ghé thăm thị xã Buôn Ma Thuột. Chiếc xe com măng ca đi chậm chạp, len lỏi vào cả những phố xá đông người. Sinh hoạt của nhân dân đã nhanh chóng được trở lại bình thường: người mua bán đi lại tấp nập nhộn nhịp; mọi người đều tích cực làm tổng vệ sinh và đào hầm hố tránh máy bay. Lực lượng vũ trang chỉ thấy loáng thoáng trên các đường phố, mà trận tự an ninh vẫn được giữ vững.
    Anh Tuấn dừng lại khá lâu trước cổng sư đoàn 23, nghe cán bộ tác chiến báo cáo lại diễn biến trận đánh hướng tiến của từng mũi đột kích, vị trí của từng chiếc xe tăng của ta và cách bố phòng, đối phó của địch. Điều làm cho anh rất hài lòng là không có một vết đạn pháo nào bắn lạc bào khu dân cư; đến cả cái khách sạn Anh Đào nằm giữa khu quân sự cũng hãy còn nguyện vẹn.
    Chỉ vào một bãi đất trống ở gần sư đoàn bộ, anh Tuấn nói: sau này, sẽ bàn với địa phương, để xây dựng ở đây, một đài liệt sĩ cho đẹp, cho lớn. Cán bộ tham mưu cần nghiên cứu kỹ, rút kinh nghiệm quý báu sau trận đánh này.
    Ở đâu phải có rất nhiều kỷ niệm sâu sắc, trước kia cũng như ngày nay?
    Vừa đến vị trí mới, triển khai công tác ngay.
    Được sống gần anh Tuấn trong những ngày này, tôi thấy anh băn khoăn suy nghĩ rất nhiều. Sàn nhà của anh lát bằng tre, nên mỗi bước đi đều phát ra tiếng kêu cọt kẹt. Ở trong nhà chán anh lại bước ra sân. Dưới bóng cây râm mát, anh đi đi lại lại, tay không rời chiếc gậy Trường Sơn. Không gian vắng vẻ quá. Không một tiếng chim hót, chỉ có tiếng róc rách của dòng suối nhỏ bên cạnh nhà. Hai đồng chí chiến sĩ đứng gác ở hai đầu sân, im lặng như hai pho tượng. Đến gần chiếc bàn dã chiến đặt dưới một tán cây, anh gọi đưa chiếc cặp da đến, lấy ra mảnh giấy màu vàng. Đây là bức điện của anh Văn đề ngày 19-3:
    ?oBộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn sớm hơn dự kiến trước, và chuyển lực lượng hoạt động ở Tây Nguyên vào Nam Bộ. Anh Lê Đức Thọ, ngày 28 tháng 3 sẽ lên đường vào Tây Nguyên để họp, phổ biến đầy đủ nghị quyết??
    Tình hình hiện nay đang phát triển rất nhanh. Đây là một bước nhảy vọt. Lúc này, tranh thủ thời gian là nắm thời cơ là quyết định lắm??.
    Một cục diện mới vừa mở ra. Một nhiệm vụ mới mà suốt mấy mươi năm đấu tranh, toàn Đảng, toàn dân đang nóng lòng chờ đợi từng giây từng phút, từ trong công tác hàng ngày, những cuộc hội họp và đến cả trong những giấc mơ? Bây giờ đón nhận lấy nó, lòng ai mà không rạo rực bàng hoàng? Một thời cơ lớn mà chúng ta đã tốn biết bao xương máu, trí tuệ mới tạo ra được; thế thì ai mà còn chịu nổi ngồi chơ, không nhanh tay với lấy, sớm một giây hay chậm một giây? Tây Nguyên địch đã rút, vấn đề tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch đang ở trong tầm tay; các chiến trường khác đang rung chuyển mạnh; Bộ Chính trị đã cân nhắc rất nhiều khi hạ quyết tâm. Trên chiến trường, người cán bộ chỉ huy phải làm thế nào để thực hiện cho thật tốt thật đúng tinh thần của lãnh đạo.
    Anh Tuấn gọi tôi đến hỏi về đường số 7 và đường 21. Tôi trình bày theo sự hiểu biết địa hình của tôi, và theo sự suy nghĩ của tôi gần đây nhất:
    -Trên đường 21, sư đoàn 10 không dễ gì đánh bật được địch ra khỏi đèo Ma Đrắc ngày một ngày hai, vì địa thế ở đây rất hiểm trở, mà lực lượng địch ở đây, nếu cộng cả quân địa phương, thì cũng tương đương một sư đoàn, có binh khí kỹ thuật chi viện đắc lực chứ không như ở Phước An. Lữ 3 dù năm ngoái tôi đã đánh nhau với chúng ở Thượng Đức, cũng không phải tồi lắm.
    Nhưng nếu trên hướng đường số 7, sư đoàn 320 dứt điểm gọn được Củng Sơn mà xuống Phú Yên thì tình hình sẽ vô cùng thuận lợi vì có rất nhiều đường đi vào Khánh Hoà: đường quốc lộ 1, đường từ Liên hiệp Mỹ qua dốc Mỏ vào chiến khu Đá Bàn. Như vậy, sư đoàn 320 sẽ trở thành một mõi vu hồi rất lợi hại, tạo điều kiện cho sư đoàn 10 nhanh chóng tiêu diệt địch; dù chúng có đông và mạnh đến bao nhiêu cũng phải vỡ.
    Anh lại hỏi tôi về đường đi Nam Bộ?
    -Báo cáo có hai đường: một đường phải qua đất Campuchia một đoạn. Sau khi giải phóng Đức Lập thì có thêm được đường thứ hai, theo đường 14, đi hoàn toàn trên đất ta. Đường này tốt hơn, đã rải đá có đoạn đã rải nhựa, nhưng còn phải gỡ mìn mất mấy hôm mới dùng được.
    -Các đơn vị ở đây thế nào?
    Sư đoàn 316 và trung đoàn 95B đang thu quân về củng cố.
    Trước mặt các lực lượng ta ở Tây Nguyên đang tràn xuống đồng bằng có hai nơi có thể co cụm lớn: Nha Trang và Cam Ranh. Lời khai của Vũ Thế Quang, nguyên thị trưởng thị xã cố lắm, đánh có thể thắng nhanh được. Nhưng đó là với lực lượng của địa phương kia, như nếu có lực lượng chủ lực của địch về thì phải cẩn thận hơn.
    Anh lẩm bẩm như nói một mình:
    -28 mới đi? ít nhất phải mồng 4, mồng 5 mới đến được.
    Tôi biết anh rất sốt ruột. Anh đang mong chờ anh Sáu Thọ đến để nghe kỹ quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị. Anh phải chờ gần nửa tháng nữa, trong lúc đang coi ngày bằng năm.
    Một cái gạch bút chì đỏ, đậm nét trên tờ giấy vàng dã thu hút sự chú ý của anh: tiêu diệt địch ở vùng Phú Bổn, Củng Sơn? và trong một bức điện khác: ?Tiêu diệt địch trong quá trình co cụm?.
    Vấn đề là như thế đó. Phải nắm vững vấn đề tiêu diệt và làm tan rã thật nhiều sinh lực địch. Muốn vậy, hướng phát triển trước mắt, như đã thống nhất ý kiến trong cuộc họp với một số cán bộ ở đây, là phải liên tục nhất, phải phát huy được sức mạnh nhất và còn nhiều thời gian để hoạt động động. Chỉ có hướng đông mới làm được đầy đủ việc này. Anh cho gọi đồng chí Nguyễn Tuyến và đồng chí Hoàng Dũng mang bản đồ đến. Mắt không rời những mũi tên xanh đỏ vẽ chằng chịt trên giấy trắng, anh nói:
    ?oĐiện gọi Vũ Lăng ở Khánh Dương về. Tổ chức cho anh Hoàng Mình Thảo đi ngay ra đường 19 để nắm lấy sư đoàn 968 và trung đoàn 95A, nhanh chóng phát triển về đồng bằng: Đồng chí Hàm thôi không trở về sở chỉ huy chiến dịch nữa, mà ở lại đây, để tổ chức đưa ngay trung đoàn 95B và sư đoàn 316 vào Nam Bộ. Cùng với đồng chí Nguyễn Lang, tính toán khối lượng vật chất, xe cộ để đưa ngay vào miền Đông càng sớm càng tốt, càng nhiều càng tốt, kể cả khối lượng còn tồn trên đường dây. Sau đó đồng chí Nguyễn Lang ra đường 9 đón anh Sáu Thọ. Đồng chí Tuyến thảo điện xin ý kiến Quân uỷ Trung ương và đưa cho tôi xem?.
    Nội dung điện như đã họp bàn hôm trước, đại ý là: sử dụng lực lượng Tây Nguyên cùng với lực lượng Khu 5 phát triển xuống Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng trên một triệu dân? có một bộ phận đi trước vào Nam Bộ.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 12: Đầu và đáy
    Khi được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương phổ biến cho biết quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong hai năm 1975-1976, và Quân khu Trị Thiên là một trong những hướng rất quan trọng, có nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng tinh nhuệ của đối phương, Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên cũng như Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 vừa mừng lại vừa lo. Năm 1975, Trị Thiên nhất định phải tạo ra cho được một bước chuyển biến cơ bản, để tạo điều kiện cho năm 1976 dứt điểm.
    Những vấn đề rất mới phải đặt ra là: tiêu diệt 4-5 trung đoàn, trong đó có sư đoàn 1 bộ binh của quân đội cộng hoà, nhằm làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng giữa ta và địch; chia cắt từng thời kỳ, tiến tới chia cắt lâu dài đoạn đường từ nam Phú Bài đến đèo Hải Vân; khống chế các cửa biển Thuận An và Tư Hiền; giải phóng Huế. Lại còn phải chuẩn bị đưa hàng trăm đội công tác xuống đồng bằng giành quyền làm chủ thêm hàng chục vạn đân, đưa lên tranh chấp vài chục vạn; diệt vài ba quận lỵ, kìm diệt 2 sư đoàn tổng dự bị của quân đội cộng hoà là sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến; để tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác trong toàn miền hoàn thành nhiệm vụ.
    Điều đáng lo nhất là thời gian chuẩn bị lại quá ít. Trước đây, trong tháng 10 năm 1974, Bộ Tổng tham mưu đã có khêu gợi theo tinh thần lúc bấy giờ-là nên chọn hướng đường 12, tây Huế, làm hướng chính của chiến dịch tổng hợp mùa Xuân 1975, giành chiến trường nam Huế cho đợt quyết định sau này khi có thời cơ lớn xuất hiện. Công tác chuẩn bị chiến trường trên hướng tây Huế giản đơn hơn, vật chất sẵn sàng hơn. Phương án này rất phù hợp với khả năng hiện tại của chiến trường, vì đang giữa mùa mưa to gió lớn, muốn làm gì quy mô hơn cũng khó.
    Bước sang tháng 2 năm 1975, bỗng có sự thay đổi đột ngột: hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là nam Huế, còn hướng Quảng Trị và đường 12 chỉ là những hướng phối hợp, nghi binh. Thời gian còn lại, vẹn chỉ có 35 ngày. Hệ thống đường chiến dịch chưa hoàn thành: đường vòng phía tây đèo Hải Vân còn phải làm hơn một chục cây số nữa mới đưa được pháo lớn vào khống chế sân bay và cảng Đà Nẵng. Mặc dù ngoài lực lượng công binh ra, Quân khu, quân đoàn đã huy động tất cả mọi lực lượng: pháo binh, cao xạ, xe tăng, bộ binh v.v? đội mưa gió, làm không ngơi tay, nhưng khối lượng công việc còn lại vẫn rất lớn. Về vật chất, tuy vận chuyển suốt cả mùa mưa, vẫn chỉ mới đạt được 4 vạn tấn, bằng 20 phần trăm yêu cầu. Bản thân các lực lượng vũ trang, cũng có những vấn đề cần được giải quyết: các trung đoàn, tiểu đoàn của Quân khu, suốt mấy tháng trời quần nhau với địch, kể cả trong mùa mưa, chưa được bổ sung quân số; chưa được huấn luyện. Quân đoàn 2 ra quân lần này bị thiếu hẳn sư đoàn 304. Đơn vị này đang cài thế với địch ở mặt trận Thượng Đức; và bản thân mỗi sư đoàn còn lại, cũng chỉ có 2 trung đoàn. Cơ quan hậu cần của Quân đoàn thì chưa được kiện toàn để bảo đảm cho những chiến dịch lớn, trong điều kiện cơ động nhiều và xa.
    Bên cạnh những khó khăn đó, cũng có những thuận lợi rất lớn: tinh thần binh lính địch suy sụp, thế địch đang xuống dốc. Sau những cuộc đụng độ trong mùa thu đông 1974 ở Thượng Đức, Bộ tư lệnh quân đoàn đã đánh giá được sức chiến đấu của quân đôi cộng hoà; so với triứơc rõ ràng có một bước thụt lùi khá dài. Trong điều kiện có sự phối hợp chung và có sự thôi động của những chiến thắng ở những chiến trường khác như Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ, chắc chắn địch ở đây sẽ bị tác động mạnh. Nhân dân Trị Thiên, từ sau Tết Mậu Thân đến nay, bị kìm kẹp rất chặt. Mặc dù vậy, họ vẫn không quên những ngày họ đã từng làm chủ cả thành phố Huế, một số khá đông bị lùa từ Quảng Trị vào từ năm 1972, phải sống lay lắt dọc đường quốc lộ 1, trong các khu tập trung, ngày đêm ngong ngóng trở về làng cũ.
    Trong khi giao nhiệm vụ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có khêu gợi với Quân đoàn: ?oTa đánh giá dân chưa đúng hết tầm. Tình hình sắp đến, có thể biến chuyển; ngoài kế hoạch cơ bản, phải dự kiến một kế hoạch phát triển. Đừng quên Huế đấy nhé!?.
    Đón lấy thời cơ như thế nào đây?
    Những đợt mưa lúc kéo dài trong mùa đông 1974, có làm cho tình hình chiến sự ở quân khu 1 lắng dịu một chừng nào. Tuy vậy, nhớ đến mùa thu vừa qua, tướng Ngô Quang Trường vẫn cứ thấy áy náy, lo âu. Chỉ mới chạm súng qua loa thôi, đã thấy trắng tay rồi. Ông này rất khác vói Phạm Văn Phú, và cũng xem thường Phú. Làm tư lệnh một quân khu, mà chẳng bao giờ Phú làm nổi một kế hoạch tác chiến chiến lược. Trưởng thì đâu ra đấy. Ông ta rút kinh nghiệm ở Thượng Đức để vạch một kế hoạch phòng thủ cho toàn bộ chiến trường Trị Thiên, giao cho các lực lượng thường trực phải đảm nhiệm vòng ngoài. Dọc vùng giáp ranh phía tây, từ Quảng Trị đến đèo Hải Vân là nhiệm vụ của các lữ đoàn thuỷ quân lục chiến, các trung đoàn của sư đoàn 1, lữ đoàn kỵ binh 1 và lữ đoàn quân địa phương. Trong tay ông ta, chỉ nắm hai lữ đoàn dù và liên đoàn biệt động quân 15 làm dự bị. Ba trung đoàn xe tăng và 13 tiểu đoàn pháo binh rải rác mỗi nơi một ít.
    Toàn bộ cái vỏ bọc ngoài ấy làm lá chắn che chở cho hơn 300 trung đội dân vệ và 3 vạn rưởi phòng vệ dân sự, phượng hoàng, thiên nga v.v? số này ở bên trong, tha hồ tác yêu tác quái, tiến hành bình định, ngày đêm đánh phá phong trào.
    Kế hoạch của Trưởng còn đề ra các giả thiết:
    Trường hợp bị áp lực mạnh, liệu thế không giữ được, thì co bớt về phía sau, lập tuyến phòng thủ trên sông Mỹ Chánh ở phía bắc và La Sơn ở phía Nam, tiến hành trì hoãn chiến. Nếu thêm một bước nữa, thì ?otử thủ? trong khu vực An Lỗ đến Phú Bài. Nhược điểm lớn nhất của kế hoạch này, là đưa tất cả lực lượng tinh nhuệ ra dàn mỏng mành mành một cách rất nguy hiểm, làm chô lực lượng dự bị không đủ sức mạnh để đối phó với những tình huống bất trắc. Ngay trong lúc bình thường, chỉ cần rút đi bất cứ một nơi nào một vài đơn vị, thì nơi ấy sẽ hình thành ngay một lỗ thủng lớn; nếu không thì cái mành mành kia sẽ bị co kéo, dàn mỏng hơn nữa sẽ bộc lộ ra những chỗ sơ hở mới. Tình huống ấy tất nhiên sẽ đến!
    Tháng 2 năm 1975, Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà rút hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến trên tuyến phòng thủ tây bắc Huế về để làm nòng cốt cho việc xây dựng thêm lực lượng dự bị chiến lược. Chưa phải đã xong, tiếp đó, ngày 6 tháng 3, lại chỉ thị cho Ngô Quang Trường phải đưa ngay toàn bộ sư đoàn thuỷ quân lục chiến vào Đà Nẵng để thay đổi cho sư đoàn dù rút về Sài Gòn. Trưởng chẳng phải vừa. Ông ta dùng số đống để chống lại lệnh trên. Một cuộc họp tại Đà Nẵng, gồm có đầy đủ bọn đàn em: tư lệnh sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến, sư đoàn 1, 2, 3 v.v? dưới quyền chủ toạ của Trưởng, ra kiến nghị với Bộ Tổng tham mưu đòi thủ tiêu cái mệnh lệnh tai ác kia đi, viện lẽ rằng: ?oViệc rút sư đoàn dù khỏi Đà Nẵng và sư đoàn thuỷ quân lục chiến khỏi Quảng Trị sẽ gây ảnh hưởng tâm lý rất bất lợi trong dân chúng. Về mặt chiến thuật, việc phòng thủ sẽ trở nên lỏng lẻo, không hữu hiệu. Đặc biệt đối với khu vực Quảng Trị??.
    Thực ra, họ đều thừa biết rằng, Nguyễn Văn Thiệu muốn rút quân dù về Sài Gòn, là do mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Thiệu đang phát triển gay gắt, và đã có dư luận là một cuộc đảo chính dường như sắp nổ ra, ngày một ngày hai.
    Đầu tháng 3 năm 1975, bầu không khí êm ắng, bỗng trở nên náo nhiệt hẳn lên. Ngày 5 tháng 3 ta đánh sập cầu An Lỗ, tiếp đến phục kích trên đèo Hải Vân, vây ép một số điểm cao ở bắc Quảng Trị: 365-Động Ong Do-235. Những hoạt động của ta ở bắc Quảng Trị lần này, theo chúng nắm được, hình như đều có bộ binh, xe tăng, bộ đội địa phương tham gia. Hơn nữa, chúng còn phát hiện thêm là mạng thông tin VTĐ ở Ba Lòng vẫn còn nằm nguyên tại chỗ, lên tiếng đều đều. Sự kiện giật gân nhất là tin sư đoàn 308 sẽ vượt sống Thạch Hãn và tiến công thẳng vào thành phố Quảng Trị? Tất cả những bằng chứng ấy đều đi đến một kết luận dứt khoát là: ?oRõ ràng ********* đã lặp lại cái trò chiến dịch Quảng Trị năm 1972 rồi??.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 12: Đầu và đáy
    Khi được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương phổ biến cho biết quyết tâm hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam trong hai năm 1975-1976, và Quân khu Trị Thiên là một trong những hướng rất quan trọng, có nhiệm vụ tiêu diệt một bộ phận quan trọng lực lượng tinh nhuệ của đối phương, Bộ tư lệnh Quân khu Trị Thiên cũng như Bộ tư lệnh Quân đoàn 2 vừa mừng lại vừa lo. Năm 1975, Trị Thiên nhất định phải tạo ra cho được một bước chuyển biến cơ bản, để tạo điều kiện cho năm 1976 dứt điểm.
    Những vấn đề rất mới phải đặt ra là: tiêu diệt 4-5 trung đoàn, trong đó có sư đoàn 1 bộ binh của quân đội cộng hoà, nhằm làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng giữa ta và địch; chia cắt từng thời kỳ, tiến tới chia cắt lâu dài đoạn đường từ nam Phú Bài đến đèo Hải Vân; khống chế các cửa biển Thuận An và Tư Hiền; giải phóng Huế. Lại còn phải chuẩn bị đưa hàng trăm đội công tác xuống đồng bằng giành quyền làm chủ thêm hàng chục vạn đân, đưa lên tranh chấp vài chục vạn; diệt vài ba quận lỵ, kìm diệt 2 sư đoàn tổng dự bị của quân đội cộng hoà là sư đoàn dù và thuỷ quân lục chiến; để tạo điều kiện thuận lợi cho các chiến trường khác trong toàn miền hoàn thành nhiệm vụ.
    Điều đáng lo nhất là thời gian chuẩn bị lại quá ít. Trước đây, trong tháng 10 năm 1974, Bộ Tổng tham mưu đã có khêu gợi theo tinh thần lúc bấy giờ-là nên chọn hướng đường 12, tây Huế, làm hướng chính của chiến dịch tổng hợp mùa Xuân 1975, giành chiến trường nam Huế cho đợt quyết định sau này khi có thời cơ lớn xuất hiện. Công tác chuẩn bị chiến trường trên hướng tây Huế giản đơn hơn, vật chất sẵn sàng hơn. Phương án này rất phù hợp với khả năng hiện tại của chiến trường, vì đang giữa mùa mưa to gió lớn, muốn làm gì quy mô hơn cũng khó.
    Bước sang tháng 2 năm 1975, bỗng có sự thay đổi đột ngột: hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch là nam Huế, còn hướng Quảng Trị và đường 12 chỉ là những hướng phối hợp, nghi binh. Thời gian còn lại, vẹn chỉ có 35 ngày. Hệ thống đường chiến dịch chưa hoàn thành: đường vòng phía tây đèo Hải Vân còn phải làm hơn một chục cây số nữa mới đưa được pháo lớn vào khống chế sân bay và cảng Đà Nẵng. Mặc dù ngoài lực lượng công binh ra, Quân khu, quân đoàn đã huy động tất cả mọi lực lượng: pháo binh, cao xạ, xe tăng, bộ binh v.v? đội mưa gió, làm không ngơi tay, nhưng khối lượng công việc còn lại vẫn rất lớn. Về vật chất, tuy vận chuyển suốt cả mùa mưa, vẫn chỉ mới đạt được 4 vạn tấn, bằng 20 phần trăm yêu cầu. Bản thân các lực lượng vũ trang, cũng có những vấn đề cần được giải quyết: các trung đoàn, tiểu đoàn của Quân khu, suốt mấy tháng trời quần nhau với địch, kể cả trong mùa mưa, chưa được bổ sung quân số; chưa được huấn luyện. Quân đoàn 2 ra quân lần này bị thiếu hẳn sư đoàn 304. Đơn vị này đang cài thế với địch ở mặt trận Thượng Đức; và bản thân mỗi sư đoàn còn lại, cũng chỉ có 2 trung đoàn. Cơ quan hậu cần của Quân đoàn thì chưa được kiện toàn để bảo đảm cho những chiến dịch lớn, trong điều kiện cơ động nhiều và xa.
    Bên cạnh những khó khăn đó, cũng có những thuận lợi rất lớn: tinh thần binh lính địch suy sụp, thế địch đang xuống dốc. Sau những cuộc đụng độ trong mùa thu đông 1974 ở Thượng Đức, Bộ tư lệnh quân đoàn đã đánh giá được sức chiến đấu của quân đôi cộng hoà; so với triứơc rõ ràng có một bước thụt lùi khá dài. Trong điều kiện có sự phối hợp chung và có sự thôi động của những chiến thắng ở những chiến trường khác như Tây Nguyên, Khu 5, Nam Bộ, chắc chắn địch ở đây sẽ bị tác động mạnh. Nhân dân Trị Thiên, từ sau Tết Mậu Thân đến nay, bị kìm kẹp rất chặt. Mặc dù vậy, họ vẫn không quên những ngày họ đã từng làm chủ cả thành phố Huế, một số khá đông bị lùa từ Quảng Trị vào từ năm 1972, phải sống lay lắt dọc đường quốc lộ 1, trong các khu tập trung, ngày đêm ngong ngóng trở về làng cũ.
    Trong khi giao nhiệm vụ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có khêu gợi với Quân đoàn: ?oTa đánh giá dân chưa đúng hết tầm. Tình hình sắp đến, có thể biến chuyển; ngoài kế hoạch cơ bản, phải dự kiến một kế hoạch phát triển. Đừng quên Huế đấy nhé!?.
    Đón lấy thời cơ như thế nào đây?
    Những đợt mưa lúc kéo dài trong mùa đông 1974, có làm cho tình hình chiến sự ở quân khu 1 lắng dịu một chừng nào. Tuy vậy, nhớ đến mùa thu vừa qua, tướng Ngô Quang Trường vẫn cứ thấy áy náy, lo âu. Chỉ mới chạm súng qua loa thôi, đã thấy trắng tay rồi. Ông này rất khác vói Phạm Văn Phú, và cũng xem thường Phú. Làm tư lệnh một quân khu, mà chẳng bao giờ Phú làm nổi một kế hoạch tác chiến chiến lược. Trưởng thì đâu ra đấy. Ông ta rút kinh nghiệm ở Thượng Đức để vạch một kế hoạch phòng thủ cho toàn bộ chiến trường Trị Thiên, giao cho các lực lượng thường trực phải đảm nhiệm vòng ngoài. Dọc vùng giáp ranh phía tây, từ Quảng Trị đến đèo Hải Vân là nhiệm vụ của các lữ đoàn thuỷ quân lục chiến, các trung đoàn của sư đoàn 1, lữ đoàn kỵ binh 1 và lữ đoàn quân địa phương. Trong tay ông ta, chỉ nắm hai lữ đoàn dù và liên đoàn biệt động quân 15 làm dự bị. Ba trung đoàn xe tăng và 13 tiểu đoàn pháo binh rải rác mỗi nơi một ít.
    Toàn bộ cái vỏ bọc ngoài ấy làm lá chắn che chở cho hơn 300 trung đội dân vệ và 3 vạn rưởi phòng vệ dân sự, phượng hoàng, thiên nga v.v? số này ở bên trong, tha hồ tác yêu tác quái, tiến hành bình định, ngày đêm đánh phá phong trào.
    Kế hoạch của Trưởng còn đề ra các giả thiết:
    Trường hợp bị áp lực mạnh, liệu thế không giữ được, thì co bớt về phía sau, lập tuyến phòng thủ trên sông Mỹ Chánh ở phía bắc và La Sơn ở phía Nam, tiến hành trì hoãn chiến. Nếu thêm một bước nữa, thì ?otử thủ? trong khu vực An Lỗ đến Phú Bài. Nhược điểm lớn nhất của kế hoạch này, là đưa tất cả lực lượng tinh nhuệ ra dàn mỏng mành mành một cách rất nguy hiểm, làm chô lực lượng dự bị không đủ sức mạnh để đối phó với những tình huống bất trắc. Ngay trong lúc bình thường, chỉ cần rút đi bất cứ một nơi nào một vài đơn vị, thì nơi ấy sẽ hình thành ngay một lỗ thủng lớn; nếu không thì cái mành mành kia sẽ bị co kéo, dàn mỏng hơn nữa sẽ bộc lộ ra những chỗ sơ hở mới. Tình huống ấy tất nhiên sẽ đến!
    Tháng 2 năm 1975, Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hoà rút hai tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến trên tuyến phòng thủ tây bắc Huế về để làm nòng cốt cho việc xây dựng thêm lực lượng dự bị chiến lược. Chưa phải đã xong, tiếp đó, ngày 6 tháng 3, lại chỉ thị cho Ngô Quang Trường phải đưa ngay toàn bộ sư đoàn thuỷ quân lục chiến vào Đà Nẵng để thay đổi cho sư đoàn dù rút về Sài Gòn. Trưởng chẳng phải vừa. Ông ta dùng số đống để chống lại lệnh trên. Một cuộc họp tại Đà Nẵng, gồm có đầy đủ bọn đàn em: tư lệnh sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến, sư đoàn 1, 2, 3 v.v? dưới quyền chủ toạ của Trưởng, ra kiến nghị với Bộ Tổng tham mưu đòi thủ tiêu cái mệnh lệnh tai ác kia đi, viện lẽ rằng: ?oViệc rút sư đoàn dù khỏi Đà Nẵng và sư đoàn thuỷ quân lục chiến khỏi Quảng Trị sẽ gây ảnh hưởng tâm lý rất bất lợi trong dân chúng. Về mặt chiến thuật, việc phòng thủ sẽ trở nên lỏng lẻo, không hữu hiệu. Đặc biệt đối với khu vực Quảng Trị??.
    Thực ra, họ đều thừa biết rằng, Nguyễn Văn Thiệu muốn rút quân dù về Sài Gòn, là do mâu thuẫn trong nội bộ chính quyền Thiệu đang phát triển gay gắt, và đã có dư luận là một cuộc đảo chính dường như sắp nổ ra, ngày một ngày hai.
    Đầu tháng 3 năm 1975, bầu không khí êm ắng, bỗng trở nên náo nhiệt hẳn lên. Ngày 5 tháng 3 ta đánh sập cầu An Lỗ, tiếp đến phục kích trên đèo Hải Vân, vây ép một số điểm cao ở bắc Quảng Trị: 365-Động Ong Do-235. Những hoạt động của ta ở bắc Quảng Trị lần này, theo chúng nắm được, hình như đều có bộ binh, xe tăng, bộ đội địa phương tham gia. Hơn nữa, chúng còn phát hiện thêm là mạng thông tin VTĐ ở Ba Lòng vẫn còn nằm nguyên tại chỗ, lên tiếng đều đều. Sự kiện giật gân nhất là tin sư đoàn 308 sẽ vượt sống Thạch Hãn và tiến công thẳng vào thành phố Quảng Trị? Tất cả những bằng chứng ấy đều đi đến một kết luận dứt khoát là: ?oRõ ràng ********* đã lặp lại cái trò chiến dịch Quảng Trị năm 1972 rồi??.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong những đêm 5, 6, 7, 8 tháng 3 năm 1975, trong lúc địch căng mắt ra để theo dõi những hoạt động của các đơn vị chủ lực của ta, thif dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Thường vụ Quân khu uỷ và Bộ tư lệnh mặt trận, 5 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, gần 100 đội công tác và các đôi vũ trang địa phương, cùng với lực lượng chính trị và cơ quan chỉ huy, lãnh đạo các cấp tỉnh, huyện cả thảy hơn 3.000 tay súng, lặng lẽ đột nhập đồng bằng, hướng về các địa bàn trọng điểm. Dưới ánh sáng sao, từng đoàn người lặng lẽ vượt qua đường quốc lộ, băng qua những bãi cát trắng, những cánh đồng lâu ngày bị bỏ hoang, cỏ mọc lút đầu người, rồi chia tay nhau về các khu tập trung, theo sự phân công từ trước. Ngọn lửa cách mạng lâu nay ấp ủ trong lòng người dân Trị Thiên, đang chờ một lần gió nhẹ, để ngùn ngụt bốc lên.
    Giữa lúc ấy, thì quang cảnh ở vùng giáp ranh, vùng rừng núi lại khác hẳn. Một tiểu đoàn công binh của trung đoàn 219 và toàn bộ sư đoàn bộ binh 324, ngày đêm dồn dức ra làm đường lên Động Truồi, một cao điểm trên 1 nghìn mét, cố đưa cho được nửa số pháo trong biên chế lên bố trí trên các mỏm, nòng chĩa thẳng vào các vị trí của địch ở phía nam Huế.
    Ngày 8 tháng 3, trước khi nam Tây Nguyên nổ súng một ngày, các trung đoàn của Quân khu và Quân đoàn 2 đồng loạt tiến công trên hai hướng: phía bắc là Phong Sơn, phía nam là đường 14. Một bộ phận lực lượng tập trung của Quảng Trị tiến công vào quận lỵ Hải Lăng. Địch hoảng sợ, rút bỏ 11 điểm chốt. Trên đường 14, đúng 5 giờ 45 phút, sư đoàn 324 nổ súng tiến công. Sau 30 phút đánh dồn dập, pháo chuyển làn vào sân bay Phú Bài và các trận địa pháo của địch ở La Sơn, Ấp 5.
    Cuộc chiến đẫu diễn ra gay go ngay từ ngày đầu. Đơn vị đảm nhiệm hướng chủ yếu đến chậm, chiếm lĩnh rất khó khăn. Tiểu đoàn 6 ba lần xung phong đều bị đánh bật, phần thì bị pháo bắn chặn, phần thì bị hoả lực súng máy tạt sườn. Ở cao điểm 309, hai tiểu đoàn địch chống trả quyết liệt. Thương vong ngày càng nhiều. Trên hướng thứ yếu, sau một giờ chiến đấu ta dã chiếm được các cao điểm 75, 76 ven theo đường 14. Ngày 10 tháng 3 sư đoàn tổ chức một bộ phận trinh sát tập kích vào cụm xe tăng ở núi Nghệ, bắn 4 phát hoả tiễn, diệt luôn 4 xe. Đến 14 giờ cùng ngày tiểu đoàn 4, trung đoàn 2 đột kích vào cao điểm 204. Bị đánh bất ngờ trong lúc chúng đang căn cơm, nên chỉ sau 45 phút chiến đấu ta dứt điểm. Trong lúc đó, trung đoàn 3 ở Thượng Đức mới trở về đội hình của sư đoàn đã nhanh chóng triển khai đội hình tiến công và làm chủ cao điểm 273.
    Chiến sự ở cao điểm 303 ngày càng trở nên ác liệt: địch cố giữ, chúng tăng cường thêm trên hướng này 2 tiểu đoàn 61 và 94 của lữ đoàn 14, tập trung phi cơ ném bom có ngày lên đến 170 lần chiếc. Suốt cả một tuần lễ địch giành đi giật lại với ta từng cao điểm, kiên quyết ngăn chặn ta trên tuyến núi Bông, núi Nghệ ở tây nam Phú Bài.
    Mặt trận chủ trương: sư đoàn 324 phải giữ vững các khu vực đã chiếm được, sư đoàn 325 thì gấp rút chuẩn bị để tiến công vào khu vực Kim Sắc, cao điểm 560 để phối hợp, đồng thời bước đầu thực hiện việc chia cắt quốc lộ 1. Vì công tác chuẩn bị có gặp trở ngại, nên thời gian nổ súng phải lùi lại mấy hôm. Địch như phát hiện được lực lượng của ta, phán đoán hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch, nên tập trung các trung đoàn 1, liên đoàn 15 biệt động quân và một tiểu đoàn của trung đoàn 51 liên tục phản kích.
    Nhân lúc đồng bằng sơ hở, đêm 8 rạng ngày 9 tháng 3, theo đúng kế hoạch cả tám huyện và vùng ven đô, đồng loạt nổi dậy. Lực lượng chính trị, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương, đánh vào một số chi khu, 30 phân chi khu, chủ yếu nhằm diệt các bộ máy kìm kẹp, kết hợp với vũ trang tuyên truyền trên một diện rộng có 53 xã, 150 thôn với 20 vạn dân. Ở nam Quảng Trị, ta tiêu diệt chi khu Mai Lĩnh, diệt gọn ba phân chi khu, ở bắc Thừa Thiên, diệt 5 phân chi khu: Phong Chương, Phong Hoà, Phong Bình, Phong Niên và Quảng Phú; ở nam Thừa Thiên, đánh vào 10 phân chi khu; diệt gọn 3. Ở phía bắc, kho xăng Động Toàn bị đánh cháy; ở khu giữa ta bắn pháo vào Mỹ Chánh, Đồng Lâm, Hiệp Khánh và ở phí nam, đèo Hải Vân bị uy hiếp. Cả đồng bằng Trị Thiên, dài trên 100 cây số, đâu đâu cũng vang rền tiếng súng tiến công, tiếng reo hò nổi dậy, Nhân dân như sống lại những ngày tưng bừng của Tết Mậu Thân.
    Sự phối hợp tuyệt đẹp giữ đồng bằng và vùng giáp ranh trong những ngày này, đã làm cho đối phương vô cùng hoảng sợ. Bộ máy kìm kẹp mà Mỹ nguỵ đã ra sức xây dựng trong bao nhiêu năm bị tan rã nhanh chóng, chúng bỏ chạy toán loạn, đi đâu cũng bị đánh. Một bầu không khí hoang mang dao động lan tràn trong hàng ngũ tay sai.
    Biện pháp đối phó trước tiên là vội vã rút bỏ một số chốt không quan trọng để co về những nơi hiểm yếu hơn ở vùng giáp ranh be bờ, cố thủ. Đến ngày 10 tháng 3, địch bắt đầu phản kích lại trên từng hướng. Ở những nơi có lực lượng của ta trụ lại, thì dùng những phân đội bộ binh nhỏ, có xe tăng yểm hộ, đánh phá quyết liệt và có gây thương vong trong các lực lượng vũ trang địa phương.
    Sớm dự kiến tình huống có thể xảy ra, ngày 12 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các chiến trường: ?oĐịch đang có bước sa sút mới sau thắng lợi của ta ở Tây Nguyên. Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn hơn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Cần phải quán triệt tinh thần khẩn trương, mạnh bạo, kịp thời lợi dụng điều kiện mới, giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch trong trong khi chúng rút chạy??.
    Được sự chỉ đạo kịp thời của trên, Thường vụ Khu uỷ và Quân khu uỷ đã họp, đánh giá tình hình, khẳng định những thắng lợi bước đầu và đề ra những chỉ thị bổ sung cần thiết, cho các đơn vị. Ngày 13 tháng 3, trung đoàn 6 của tính bắt đầu tiến công trên đường 12, chiếm Chúc mao, diệt địch ở cao điểm 300, uy hiếp Bình Điền, Động Trạch. Phòng tuyến giữa, ở ngay sát nách Huế có nguy cơ bị chọc thủng. Ngày 15 tháng 3, địch rút bỏ một khu vực lớn từ Đèo Đông đến cao điểm 551.
    Về phía đối phương trong những ngày này, cơn sóng gió không chỉ diễn ra trên chiến trường mà cả trong nội bộ họ nữa. Được hậu thuẫn mạnh mẽ, sau ngày 6 tháng 3, Ngô Quang Trường tỏ ra bướng bỉnh khong chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà. Ông ra chần chừ mãi đến ngày 13 tháng 3 mới bay về Sài Gòn. Viên gạt nhẹ quả bóng: ?oĐây là lệnh của Thiệu?. Trưởng báo cáo với Thiệu là không nên rút lui về Đà Nẵng, vì đối phương đang uy hiếp quốc lộ 1. Tốt nhất là nên ở lại Huế và chuẩn bị chiến đấu, may ra còn có thể đem lại cho nhân dân một ít lòng tin. Trưởng thấy còn có các căn cứ phòng thủ khá tốt chung quanh Huế và có thể tập trung quân co cụm vào ba nơi trong phạm vi vùng 1 chiến thuật: Huế, Đà Nẵng, Chu Lai. Kỳ kèo mãi, Thiệu mới đồng ý kéo dài việc rút quân được mấy hôm: dự kiến ngày 17 tháng 3, sẽ rút lữ đoàn dù thứ nhất, ngày 25 tháng 3, rút lữ đoàn thứ hai và đến cuối tháng 3, rút xong lữ đoàn cuối cùng. Khi trưởng hỏi về sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, Thiệu trả lời là sẽ đê nguyên ở vùng 1 và sẽ cố thủ Huế. Trưởng cảm thấy hơi an tâm. Nhưng trong lúc ăn cơm, hỏi lại Khiêm, thì Khiêm lại rỉ tai là Thiệu đang nghiên cứu cả việc rút sư đoàn lính thuỷ đánh bộ về, thực hiện chiến lược mới: nhẹ ở đầu, nặng ở đấy. Đầu là vùng 1 và đáy là Sài Gòn. Như vậy có nghĩa là sẽ hy sinh các tỉnh phía bắc và cả Tây Nguyên.
    Trưởng ra về, lòng dạ bồn chồn, căm phẫn và bất mãn. Để cứu van tình thế vùng 1, Trưởng manh nha một âm mưu mới: đảo chính. Đảo chính lật đổ vốn là truyền thống xưa nay của vùng 1. Ông ta thấy phải lật đổ Thiệu, nhưng chưa kịp chiêu binh, tập hợp lực lượng, thì Quân giải phóng đã ập đến sau lưng rồi!
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong những đêm 5, 6, 7, 8 tháng 3 năm 1975, trong lúc địch căng mắt ra để theo dõi những hoạt động của các đơn vị chủ lực của ta, thif dưới sự chỉ đạo, chỉ huy của Thường vụ Quân khu uỷ và Bộ tư lệnh mặt trận, 5 tiểu đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, gần 100 đội công tác và các đôi vũ trang địa phương, cùng với lực lượng chính trị và cơ quan chỉ huy, lãnh đạo các cấp tỉnh, huyện cả thảy hơn 3.000 tay súng, lặng lẽ đột nhập đồng bằng, hướng về các địa bàn trọng điểm. Dưới ánh sáng sao, từng đoàn người lặng lẽ vượt qua đường quốc lộ, băng qua những bãi cát trắng, những cánh đồng lâu ngày bị bỏ hoang, cỏ mọc lút đầu người, rồi chia tay nhau về các khu tập trung, theo sự phân công từ trước. Ngọn lửa cách mạng lâu nay ấp ủ trong lòng người dân Trị Thiên, đang chờ một lần gió nhẹ, để ngùn ngụt bốc lên.
    Giữa lúc ấy, thì quang cảnh ở vùng giáp ranh, vùng rừng núi lại khác hẳn. Một tiểu đoàn công binh của trung đoàn 219 và toàn bộ sư đoàn bộ binh 324, ngày đêm dồn dức ra làm đường lên Động Truồi, một cao điểm trên 1 nghìn mét, cố đưa cho được nửa số pháo trong biên chế lên bố trí trên các mỏm, nòng chĩa thẳng vào các vị trí của địch ở phía nam Huế.
    Ngày 8 tháng 3, trước khi nam Tây Nguyên nổ súng một ngày, các trung đoàn của Quân khu và Quân đoàn 2 đồng loạt tiến công trên hai hướng: phía bắc là Phong Sơn, phía nam là đường 14. Một bộ phận lực lượng tập trung của Quảng Trị tiến công vào quận lỵ Hải Lăng. Địch hoảng sợ, rút bỏ 11 điểm chốt. Trên đường 14, đúng 5 giờ 45 phút, sư đoàn 324 nổ súng tiến công. Sau 30 phút đánh dồn dập, pháo chuyển làn vào sân bay Phú Bài và các trận địa pháo của địch ở La Sơn, Ấp 5.
    Cuộc chiến đẫu diễn ra gay go ngay từ ngày đầu. Đơn vị đảm nhiệm hướng chủ yếu đến chậm, chiếm lĩnh rất khó khăn. Tiểu đoàn 6 ba lần xung phong đều bị đánh bật, phần thì bị pháo bắn chặn, phần thì bị hoả lực súng máy tạt sườn. Ở cao điểm 309, hai tiểu đoàn địch chống trả quyết liệt. Thương vong ngày càng nhiều. Trên hướng thứ yếu, sau một giờ chiến đấu ta dã chiếm được các cao điểm 75, 76 ven theo đường 14. Ngày 10 tháng 3 sư đoàn tổ chức một bộ phận trinh sát tập kích vào cụm xe tăng ở núi Nghệ, bắn 4 phát hoả tiễn, diệt luôn 4 xe. Đến 14 giờ cùng ngày tiểu đoàn 4, trung đoàn 2 đột kích vào cao điểm 204. Bị đánh bất ngờ trong lúc chúng đang căn cơm, nên chỉ sau 45 phút chiến đấu ta dứt điểm. Trong lúc đó, trung đoàn 3 ở Thượng Đức mới trở về đội hình của sư đoàn đã nhanh chóng triển khai đội hình tiến công và làm chủ cao điểm 273.
    Chiến sự ở cao điểm 303 ngày càng trở nên ác liệt: địch cố giữ, chúng tăng cường thêm trên hướng này 2 tiểu đoàn 61 và 94 của lữ đoàn 14, tập trung phi cơ ném bom có ngày lên đến 170 lần chiếc. Suốt cả một tuần lễ địch giành đi giật lại với ta từng cao điểm, kiên quyết ngăn chặn ta trên tuyến núi Bông, núi Nghệ ở tây nam Phú Bài.
    Mặt trận chủ trương: sư đoàn 324 phải giữ vững các khu vực đã chiếm được, sư đoàn 325 thì gấp rút chuẩn bị để tiến công vào khu vực Kim Sắc, cao điểm 560 để phối hợp, đồng thời bước đầu thực hiện việc chia cắt quốc lộ 1. Vì công tác chuẩn bị có gặp trở ngại, nên thời gian nổ súng phải lùi lại mấy hôm. Địch như phát hiện được lực lượng của ta, phán đoán hướng tiến công chủ yếu của chiến dịch, nên tập trung các trung đoàn 1, liên đoàn 15 biệt động quân và một tiểu đoàn của trung đoàn 51 liên tục phản kích.
    Nhân lúc đồng bằng sơ hở, đêm 8 rạng ngày 9 tháng 3, theo đúng kế hoạch cả tám huyện và vùng ven đô, đồng loạt nổi dậy. Lực lượng chính trị, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang địa phương, đánh vào một số chi khu, 30 phân chi khu, chủ yếu nhằm diệt các bộ máy kìm kẹp, kết hợp với vũ trang tuyên truyền trên một diện rộng có 53 xã, 150 thôn với 20 vạn dân. Ở nam Quảng Trị, ta tiêu diệt chi khu Mai Lĩnh, diệt gọn ba phân chi khu, ở bắc Thừa Thiên, diệt 5 phân chi khu: Phong Chương, Phong Hoà, Phong Bình, Phong Niên và Quảng Phú; ở nam Thừa Thiên, đánh vào 10 phân chi khu; diệt gọn 3. Ở phía bắc, kho xăng Động Toàn bị đánh cháy; ở khu giữa ta bắn pháo vào Mỹ Chánh, Đồng Lâm, Hiệp Khánh và ở phí nam, đèo Hải Vân bị uy hiếp. Cả đồng bằng Trị Thiên, dài trên 100 cây số, đâu đâu cũng vang rền tiếng súng tiến công, tiếng reo hò nổi dậy, Nhân dân như sống lại những ngày tưng bừng của Tết Mậu Thân.
    Sự phối hợp tuyệt đẹp giữ đồng bằng và vùng giáp ranh trong những ngày này, đã làm cho đối phương vô cùng hoảng sợ. Bộ máy kìm kẹp mà Mỹ nguỵ đã ra sức xây dựng trong bao nhiêu năm bị tan rã nhanh chóng, chúng bỏ chạy toán loạn, đi đâu cũng bị đánh. Một bầu không khí hoang mang dao động lan tràn trong hàng ngũ tay sai.
    Biện pháp đối phó trước tiên là vội vã rút bỏ một số chốt không quan trọng để co về những nơi hiểm yếu hơn ở vùng giáp ranh be bờ, cố thủ. Đến ngày 10 tháng 3, địch bắt đầu phản kích lại trên từng hướng. Ở những nơi có lực lượng của ta trụ lại, thì dùng những phân đội bộ binh nhỏ, có xe tăng yểm hộ, đánh phá quyết liệt và có gây thương vong trong các lực lượng vũ trang địa phương.
    Sớm dự kiến tình huống có thể xảy ra, ngày 12 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho các chiến trường: ?oĐịch đang có bước sa sút mới sau thắng lợi của ta ở Tây Nguyên. Ta có khả năng giành thắng lợi to lớn hơn với nhịp độ nhanh hơn dự kiến. Cần phải quán triệt tinh thần khẩn trương, mạnh bạo, kịp thời lợi dụng điều kiện mới, giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Tiêu diệt thật nhiều sinh lực địch trong trong khi chúng rút chạy??.
    Được sự chỉ đạo kịp thời của trên, Thường vụ Khu uỷ và Quân khu uỷ đã họp, đánh giá tình hình, khẳng định những thắng lợi bước đầu và đề ra những chỉ thị bổ sung cần thiết, cho các đơn vị. Ngày 13 tháng 3, trung đoàn 6 của tính bắt đầu tiến công trên đường 12, chiếm Chúc mao, diệt địch ở cao điểm 300, uy hiếp Bình Điền, Động Trạch. Phòng tuyến giữa, ở ngay sát nách Huế có nguy cơ bị chọc thủng. Ngày 15 tháng 3, địch rút bỏ một khu vực lớn từ Đèo Đông đến cao điểm 551.
    Về phía đối phương trong những ngày này, cơn sóng gió không chỉ diễn ra trên chiến trường mà cả trong nội bộ họ nữa. Được hậu thuẫn mạnh mẽ, sau ngày 6 tháng 3, Ngô Quang Trường tỏ ra bướng bỉnh khong chấp hành mệnh lệnh của Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà. Ông ra chần chừ mãi đến ngày 13 tháng 3 mới bay về Sài Gòn. Viên gạt nhẹ quả bóng: ?oĐây là lệnh của Thiệu?. Trưởng báo cáo với Thiệu là không nên rút lui về Đà Nẵng, vì đối phương đang uy hiếp quốc lộ 1. Tốt nhất là nên ở lại Huế và chuẩn bị chiến đấu, may ra còn có thể đem lại cho nhân dân một ít lòng tin. Trưởng thấy còn có các căn cứ phòng thủ khá tốt chung quanh Huế và có thể tập trung quân co cụm vào ba nơi trong phạm vi vùng 1 chiến thuật: Huế, Đà Nẵng, Chu Lai. Kỳ kèo mãi, Thiệu mới đồng ý kéo dài việc rút quân được mấy hôm: dự kiến ngày 17 tháng 3, sẽ rút lữ đoàn dù thứ nhất, ngày 25 tháng 3, rút lữ đoàn thứ hai và đến cuối tháng 3, rút xong lữ đoàn cuối cùng. Khi trưởng hỏi về sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, Thiệu trả lời là sẽ đê nguyên ở vùng 1 và sẽ cố thủ Huế. Trưởng cảm thấy hơi an tâm. Nhưng trong lúc ăn cơm, hỏi lại Khiêm, thì Khiêm lại rỉ tai là Thiệu đang nghiên cứu cả việc rút sư đoàn lính thuỷ đánh bộ về, thực hiện chiến lược mới: nhẹ ở đầu, nặng ở đấy. Đầu là vùng 1 và đáy là Sài Gòn. Như vậy có nghĩa là sẽ hy sinh các tỉnh phía bắc và cả Tây Nguyên.
    Trưởng ra về, lòng dạ bồn chồn, căm phẫn và bất mãn. Để cứu van tình thế vùng 1, Trưởng manh nha một âm mưu mới: đảo chính. Đảo chính lật đổ vốn là truyền thống xưa nay của vùng 1. Ông ta thấy phải lật đổ Thiệu, nhưng chưa kịp chiêu binh, tập hợp lực lượng, thì Quân giải phóng đã ập đến sau lưng rồi!
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 17 tháng 3, Quân uỷ Trung ương chỉ thị cho Quân khu và Quân đoàn cụ thể thêm: ?oPhải táo bạo đưa lực lượng vượt qua tuyến phòng thủ bên ngoài, thọc xuống cắt đứt đường số 1, đánh chiếm Phú Lộc, chuẩn bị hoả lực đánh vào Huế và đôn đốc đánh sớm hơn dự kiến?? (Điện số 517, ngày 17 tháng 3).
    Thường vụ Khu uỷ và Thường vụ Đảng uỷ mặt trận lại họp và nhận định: thời cơ thuận lợi mới đã xuất hiện, nên đã hạ quyết tâm, khẩn trương, mạnh bạo tiến công, dùng lực lượng tại chỗ đánh mạnh vào phòng tuyến địch, kết hợp với thọc sâu, chia cắt, phá thế co cụm, giành thắng lợi lớn ở đồng bằng, tiến tới bao vây, cô lập Huế.
    Thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh cnói trên, trong ngày hôm ấy Bộ tư lệnh Quân khu dùng toàn bộ lực lượng của tỉnh Quảng Trị đang từ trong thế phòng ngự phía bắc, chuyển sang tiến công trên hai hướng: hướng đông, từ Thành Hội theo trục đường 86; hướng tây từ Tích Tường, Như Lệ, theo đường 1, tiến vào. Các lực lượng đã rút lên vùng giáp ranh để củng cố, phải lập tức quay trở lại đồng bằng, đánh địch, phát động quần chúng nổi dậy. Phía bắc Huế, trung đoàn 4 bộ binh, thọc ra cắt đường quốc lộ 1, hướng nam Huế thì bỏ khu vực đường 14 và các cao điểm đang giành đi giật lại với địch, mà chuyển xuống cắt giao thông ở khu vực Lương Điền, Đá Bạc.
    Cũng trong ngày 17 này, về phía địch, Trưởng ngậm đắng nuốt cay tiễn chân lữ đoàn dù về Nam và triển khai lại lực lượng. Lần thứ hai trong vòng hai tuần lễ, lại một lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ nữa phải rút khỏi phòng tuyến phía bắc Huế, để co về khu vực đồi núi đèo Hải Vân nhằm tăng cường cho tuyến phòng thủ Đà Nẵng, vì giữa hai thành phố Huế và Đà Nẵng, thì Huế là đầu mà Đà Nẵng là đấy. Lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ cuối cùng còn lại trên đất Quảng Trị, chỉ còn làm nhiệm vụ của một tấm lá chắn bảo vệ cho sư đoàn 1, các lực lượng vũ trang khác và nhân dân Huế, trường hợp phải rút lui, tức là thực hiện giai đoạn hai trong kế hoạch chiến lược của Trưởng.
    3 giờ sáng ngày 19 tháng 3 cờ Mặt trận đã cắm trên Thành cổ Quảng Trị, và đến 15 giờ hôm áy, pháo lớn đã bắt đầu giội bão lửa xuống khu vực Tây Lộc, Mang Cá, trong thành phố Huế. Cái gọi là tuyến tác chiến trì hoãn, thực ra đã không trì hoãn được phút giây nào cả, mà chỉ lo giẫm lên nhau chạy dài. Sau một ngày tiến công, toàn tỉnh Quảng Trị được giải phóng.
    Cũng như ở các nơi khác, dẫn đầu các cuộc di tản bao giờ cũng là các binh sĩ rã ngũ. Cũng không có gì lạ, vì những quân nhân bao giờ cũng ?onhạy bén? với tin tức hơn ai. Lại nữa, được bộ máy chiến tranh tâm lý tác động mạnh, nên họ sẵn có ấn tượng rất sâu sắc về những cuộc tắm máu, về cái thuyết Domino mà Mỹ, nguỵ hàng ngày nhồi nhét vào đầu óc họ. Lẽ thứ ba là so sánh với thường dân, họ có phương tiện đây đủ hơn và được giành nhiều ưu tiên hơn. Cùng đi với các quân nhân là gia đình họ. Lý luận của các cấp chỉ huy ở Sài Gòn là quân đội sẽ chếin đấu tốt hơn nếu có vợ con bên cạnh, cho nên đã có quyết định cho gia đình ở cạnh binh lính, dù là Huế, Đà Nẵng, Phú Bài, hay ở một tiền đồn xa xôi. Ngoại lệ duy nhất là các sư đoàn lính thuỷ đánh bộ và lính dù.
    Trong trường hợp rút lui, các cấp chỉ huy của quân đôi cộng hoà, mới nhận thấy đây là một trở ngại khủng khiếp, lính không còn ra lính nữa. Họ đã hoà mình trong làn sóng người đang trôi dạt về phía nam, lôi kéo luôn cả một số thường dân có máu mặt: xe gíp, xe honda, xe buýt chật đường. Trong những ngày này, trên đài Sài Gòn, Thiệu ra rả đổ tội cho các chiến sĩ đặc công của ta, đã tìm cách len lỏi vào giữa đám người di tản, rỉ tai hù dọa, tác động tinh thần. Của đáng tội! Binh chủng đặc công, trong lúc này, làm gì có đủ thì giờ để làm cái việc mà Thiệu gán cho này.
    Sáng ngày 19 tháng 3, một phái đoàn chính quyền do thủ tướng Trần Thiện Khiêm dẫn đầu đáp máy bay ra phía bắc để thị sát tình hình. Nhận xét đầu tiên: cái chiến lược quỷ quái ?onhẹ đầu nặng đáy? đã tỏ ra chẳng có hiệu quả gì, vì theo lời Trưởng báo cáo thì cái đáy Đà Nẵng cũng đang bị thủng. Cấp tốc bay về Sài Gòn, Khiêm tìm gặp Thiệu và khẩn khoản đề đạt ý kiến rút ngay Huế để cứu vãn Đà Nẵng. Thiệu không nghe. Quay ngoắt 180 độ, Thiệu quyết định, vãn giữ Huế với bất cứ giá nào. Mọi người đều hết sức kinh ngạc. Trong cơn nguy biến, Thiệu trở bàn tay còn khó hơn là thay đổi đường lối chiến lược. Như thế là thế nào? Vì lẽ gì mà Huế bỗng nhiên trở thành nơi quan trọng đến như vậy? Có một điều mà lúc bấy giờ, rất ít người biết đến là vừa rồi Bùi Diễm, nguyên là đại sứ ở Mỹ và Trần Văn Đỗ có đến nói với Thiệu rằng: phải có một hành động nổi bật mới mong tập hợp được quân đội và nhân dân, nếu không thì phải từ chức. Thiệu không nghĩ ra điều gì nổi bật hơn là phải dũng cảm bảo vệ cố đô, nơi mà năm 1968, Mỹ đã phải đổ không biết bao nhiêu xương máu ra để lấy lại, một khi đã mất về tay nhân dân.
    Quyết định bất ngờ của thiệu được loan báo trên đài vô tuyến truyền hình để làm nức lòng nhân dân trong cả nước, nhưng lại làm cho Ngô Quang Trường mất tinh thần. Bao nhiêu binh khí kỹ thuật đã trót đưa xuống phía nam hết cả rồi, chỉ còn lại mỗi mình lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ đang mất tinh thần, chống đỡ và ngăn chặn nỗi gì!
    Mặc dù vậy, đêm 19 tháng 3, Trưởng đã dùng trực thăng đến tiền phương quân đoàn để ra lệnh bảo vệ Huế. Nhưng khi về đến Đà Nẵng thì Trưởng lại nhận ra được điện cấp tốc của Bộ Tổng tham mưu đánh ra nửa tiếng Việt, nửa tiếng Pháo: ?oPhương tiện eo hẹp, về không quân và hải quân chỉ cho phép ủng hộ được 1 Enclave (ý nói khu vực co cụm-TG) mà thôi. Vậy nên Mener (dẫn dắt-TG) trì hoãn chiến về tuyến đèo Hải Vân, nếu tình hình cho phép?. Ký tên Cao Văn Viên.
    Chỉ thị, mệnh lệnh, hay là ý kiến khêu gợi? Tình trạng trống đánh xuôi kèn thổi ngược này, phải chăng là do thông tin liên lạc không chặt chẽ nên hợp đồng không ăn khớp, hay là vì một lẽ gì khác? Bộ Tổng tham mưu thì đổ lỗi cho quân đoàn không báo cáo đầy đủ tình hình; cò Truởng thì kết tội Sài Gòn là thiếu chỉ huy và giúp đỡ kế hoạch.
    Trong lúc Trưởng còn đang nửa tin nửa ngờ, nên rút hay nên không, thì lại bị bồi thêm một cút chết người. Nguyên văn công điện thứ hai, để giải thích tình hình cho Trưởng rõ, như sau:
    ?oThứ nhất, khả năng trung ương chỉ có thể yểm hộ 1 Enclave mà thôi, Vì vậy bằng mọi cách phải kịp thời và khi tình hình hình đòi hỏi, thực hiện Enclave Đà Nẵng.
    Thứ hai, trong giai đoạn đầu, sư 1 bộ binh, sư 3 bộ binh và sư đoàn thuỷ quân lục chiến vào enclave Đà Nẵng. Giai đoạn hai: sư đoàn 2 bộ binh vô luôn.
    Thứ ba, khi sư 2 bộ binh vô xong, hoàn trả tức khắc sư đoàn thuỷ quân lục chiến về trung ương?.
    Ký tên: Đại tướng Cao Văn Viên.
    Mãi về sau, tình hình mới rõ ra. Số là ngày 19 tháng 3, khu vực phòng thủ của liên đoàn 14 biệt động quân bị tiến công mạnh, các đại đội địch ở La Vang, Như Lệ, mất liên lạc với nhau. Đến 10 giờ, địa phương quân phát hiện xe tăng và bộ binh ta ở Thành Hội, vội vàng tháo chạy, kéo theo luôn các đơn vị địa phương khác. Chiều hôm ấy, báo cáo lên tiểu khu Quảng Trị là chiến xa của Quân giải phóng đã tiến đến Gia Đẳng, Mỹ Thuỷ ở phía biển, và trên đường quốc lộ thì vào đến La Vang, Thành Cổ. Như thế là tiểu khu Quảng Trị bỏ chạy; và chỉ huy tiểu khu Thừa Thiên ở Huế, cũng thần hồn nát thần tính, chuẩn bị cuốn gói về Đà Nẵng; nên ra lệnh sơ tán dân, phá hoại vũ khí, phương tiện kỹ thuật, quyết không để lọt một tí gì vào tay đối phương.
    Thực ra tình hình trên các mặt trận, đâu đã đến nỗi gì. Tiền phương Quân đoàn 2 còn nắm trong tay 8 trung đoàn chủ lực với 25 tiểu đoàn, quân số còn khá đầy đủ, vì tất cả đều được bổ sung sau mùa đông; 15 tiểu đoàn địa phương, hơn 10 tiểu đoàn pháo lớn, ba trung đoàn xe tăng nặng, tuy có bị sứt mẻ chút ít, nhưng vẫn còn sức chiến đấu. Với chừng ấy lực lượng ý định của Trưởng là:
    -Giữ vững tuyến Mỹ Chánh, Thanh Hương, để cho phía sau có thì giờ xây dựng trận địa bảo vệ Huế.
    -Tăng cường tuyến sông Bồ phía bắc Huế. Ngoài lực lượng 4 tiểu đoàn của lữ đoàn 147 lính thuỷ đánh bộ, hai tiểu đoàn biệt động quân 78 và 79, lữ kỵ binh 20, chúng còn dự kiến tăng cường thêm lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 468 mới thành lập để triển khai phía sau tuyến phòng thủ thứ nhất, từ Sịa đến Hương Điền. Trên mặt trận phía nam đã có các trung đoàn 1, 51, 54 của sư đoàn 1, liên đoàn biệt động quân 15, lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ 258 và liên đoàn biệt động quân 914.
    Do không nắm được tình hình này, nên Trần Thiện Khiêm đề nghị Cao Văn Viên ra lệnh rút bỏ Huế. Sáng hôm sau, khi rõ ra rồi thì lại có lệnh mới: ?oGiữ vững tuyến Mỹ Chánh, và sẽ có thêm lực lượng mới?.
    Việc trước tiên mà Trưởng thấy phải làm ngay là ngừng việc điều động các đại đội phá 175 ly đã có lệnh đưa về Đà Nẵng và ngừng việc di chuyển đạn dược ra khỏi Huế.
    Tuyến phòng thủ phía bắc và phía tây tạm thời ổn định được một hôm thì tình hình chiến sự ở phía nam lại rộ lên, báo hiệu một sự sụp đổ vĩnh viễn, không còn cách gì ngăn chặn được.
    Cũng trong ngày 20 tháng 3, Thiệu gửi một bức điện khẩn cho các tư lệnh các quân khu, quân binh chủng, các sư đoàn, các tỉnh trưởng và các tiểu khu trưởng:
    ?oĐất nước hiện đang trải qua một cơn thử thách nghiêm trọng. Tình hình hiện tại rất dễ gây hoang mang trong quân đội và dân chúng. Tôi đã giải thích tình hình chung trong ngày hôm nay, tôi thấy cần lưu ý thêm quí vị về các sự kiện sau đây:
    Nhân danh Tổng tư lệnh tối cao quân lực, tôi rất hãnh diện về tinh thần chiến đấu anh dũng của toàn thể chiến hữu các cấp trong thời gian qua.
    Những việc làm của chính phủ và quân lực trong những ngày qua, là do những quyết định can đảm, được hội đồng an ninh quốc gia ban hành, sau khi đã cân nhắc kỹ lưỡng. Để bảo toàn lực lượng ta, hầu đủ khả năng giữ vững những vùng đông dân cư và trù phú của đất nước, tôi nhấn mạnh: ngày 20 tháng 3 năm 1975 những phần đất còn lại sẽ được bảo vệ đến cùng??
    Chú thích thêm: công điện của Tổng thống Việt Nam Cộng hoà đặc biệt dành riêng cho cá nhân quý vị.
    Để đáp lại những lời lẽ động viên, hô hào tử thủ, Trưởng trả lời ngay bằng một công điện ngắn gọn:
    ?oTrân trọng kính trình tổng thống: tự nhận thấy đuối sức và bối rối, sợ rằng không hoàn thành trách vụ, kính xin tổng thống cho được từ chức?.
    Ngày 20 tháng 3 năm 1975, ký tên: Ngô Quang Trường.
    Thiệu trả lời ngay:
    ?oChưa thể chấp nhận thỉnh cầu của trung tướng trong tình hình hiện tại??
    Còn Cao Văn Viên thì cho một bài học ngắn gọn:
    ?oTrong lúc này, ai cũng phải cố gắng hy sinh tối đa?.

Chia sẻ trang này