1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiến tới kỉ niệm 31 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-Đại thắng mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi forza_vn, 18/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chuông điện thoại réo vang, mặc! Trưởng chẳng buồn nghe nữa; chối tai lắm rồi. Nếu không phải là ông tá này xin quân tiếp viện, thì chắc là ông tướng khác xin từ thoái. Quân đâu mà tiếp viện, đến trung tướng mà cũng chỉ bảo đảm được một ?oenclave thôi?, nữa là cấp quân khu. Còn từ thoái, từ thoái cái gì; phải tử thủ, tử thủ đến cùng. Đối với dưới, Trưởng kiên quyết bao nhiêu, thì với trên, Trưởng cay cú, căm tức bấy nhiêu.
    Năm 1972, ở Quảng Trị, quan thầy Mỹ đã đánh giá Trưởng rất cao. Ông ta được Thiệu kính nể. So với Nguyễn Chánh Thi vua vùng 1 trước đây, thì Trưởng còn uy thế hơn nhiều. Thế mà nay! Chiến lược gì mà không thất hết tầm quan trọng của vùng 1 chiến thuật? Trưởng căm tức. Quân giải phóng còn ở đâu đâu mà cứ đòi rút cho được cả sư đoàn dù về Sài Gòn. Trưởng cho rằng lịch sử chiến tranh ở Việt Nam đã bao lần chứng minh rằng, vùng 1 chiến thuật là nơi quan trọng nhất. Hơn 100 năm về trước, Pháp đến Đông Dương, và cách đây mươi năm, Mỹ nhảy vào Việt Nam, cả hai lần, những bàn chân xâm lược đều phải bám trước tiên vào mảnh đất Trưởng hiện đang đứng đây. Giữ được vùng 1 là giữ được tất cả; mất vùng 1, là sụp đổ hoàn toàn. Vì thế hôm 6 tháng 3, trong cuộc họp có đầy đủ các tư lệnh quân đoàn, sư đoàn, mọi người đều phản đối việc rút sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến khỏi vùng 1 chiến thuật. Đến nay, hậu quả thật đã rõ ràng.
    Trưởng vò nát bức điện của Cao Văn Viên gửi ra và lẩm bẩm một mình:
    ?oVô luôn, vô cái gì nữa? Sư đoàn 1, sư đoàn 2 còn đâu nữa và vô với ra? Còn một chút hy vọng là sư đoàn thuỷ quân lục chiến, thì nay đòi rút, mai đòi kéo? Ta đã trót dại một lần, trót buông sư đoàn dù ra nên mới đến nỗi sụp đổ như hôm nay; còn bây giờ thì đừng ai hòng rút được một tên lính nữa?.
    Tiếng còi xe ô tô vang lên từ dưới sân. Mọi người đến đông đủ: chuẩn tưởng tư lệnh sư đoàn 1 không quân, tư lệnh phó sư đoàn thuỷ quân lục chiến? Lại có cả một người khách không mời mà đến: Al Francis, tổng lãnh sự Mỹ ở Đà Nẵng.
    Trưởng còn đương nhớn nhác như muốn tìm ai, thì đại tá phó tư lệnh thuỷ quân lục chiến đến báo cáo:
    -Thưa trung tướng, thiếu tướng tư lệnh của tôi đã ra tàu để ở ngoài khơi, để phối hợp kế hoạch đổ quân ngày mai.
    -Thôi được!
    Trưởng đặt rất nhiều tin tưởng vào sư đoàn thuỷ quân lục chiến nên khi nghe thấy thế, đoán chắc rằng sớm muộn gì cũng có một lực lượng dự bị chiến lược hùng hậu đến đây. Với một sư đoàn đầ đủ, 4 lữ đoàn, Trưởng cảm thấy hơn yên tâm.
    Vừa ngồi xuống ghế, Nguyễn Thành Trị, phó tư lệnh thuỷ quân lục chiến đứng lên, đi thẳng gần đến tấm bản đồ treo trên tường.
    -Tôi xin báo cáo tình hình diễn biến, từ khi Trung tướng ra tàu HQ05.
    3 giờ sáng ngày 25 tháng 3, lữ 147 báo cáo hoàn tất việc tập trung tại bờ bể Thuận An. Theo sau có 2 liên đoàn biệt động quân 13 và 14.
    Đến 9 giờ sáng, một tàu LST dự định vào ủi bãi để bốc các đơn vị thuỷ quân lục chiến, nhưng tàu này không thể nào vào được, vì nước cạn. Ngày 26 tháng 3, tôi được thiếu tướng tư lệnh cho biết, qua đài Vị TRÍ trung gian đặt trên đèo Hải Vân là sẽ có 3 tàu LCU đến bốc lữ đoàn 147. Đến 9 giờ, có hai chiếc đến ủi bãi; một chiếc bị mắc cạn, và bị pháo bắn hư không hoạt động được; một chiếc bốc được một ít thương binh và ban chỉ huy lữ đoàn. Dưới áp lực của pháo và hoả lực bắn thẳng của Quân giải phóng, lữ đoàn trưởng 147 bị thương. Chiếc LCU thứ ba không đến được, vì có chạm súng trên bờ.
    24 giờ, mất liên lạc với các đơn vị còn bị kẹt lại . Suốt cả ngày hôm ấy, các chiến đĩnh, cố gắng lắm mới vớt được trêm một nghìn quân nhân, trong đó có 800 thuỷ quân lục chiến về đến đây. Hiện ở sân bay Nước Mặn.
    Thế là hết! Phút giây tràn trền hy vọng ban nãy, chẳng qua là ánh lửa bùng lên của một ngọn nến trước khi phụt tắt.
    Viên đại tá nhắc khéo:
    -Dạ còn sư đoàn 3.
    Trưởng buồn rầu dằn từng tiếng:
    -Không thể tin tưởng vào khả năng của đơn vị này được. Tôi đã thừa biết sức chiến đấu của nó rồi.
    Đến lượt Nguyễn Đức Khánh, tư lệnh sư đoàn không quân 1 phát biểu:
    -17 giờ chiều hôm nay, tôi nhận được điện thoại của thiếu tướng Vũ Xuân Lành, tư lệnh phó quân chủng, có lệnh di tản phi cơ, để tránh pháo kích.
    -Tôi chưa có ý định di tản khỏi nơi đây. Trưởng bực tức ra mặt, trả lời.
    Như không để ý đến thái độ của Trưởng, Khánh tiếp tục:
    -Mười bảy giờ rưỡi, tôi đã họp với các không đoàn trưởng 41, 51, 61 và đã ra lệnh cho họ, nhưng thời tiết quá xấu. Liền sau đó lại có lệnh, cùng qua điện thoại, phải cho A37 về Cam Ranh ngay, vì sân bay Phù Cát cũng bị pháo kích. Trực thăng cũng không thể đến sân bay Nước Mặn được, vì thời tiết quá xấu. Vả lại, thuỷ quân lục chiến cũng đang đồn trú trong các vòm để máy bay. Họ đang làm loạn ở đấy, tước cả súng cá nhân của tôi. 18 giờ tôi đã có liên lạc để báo cáo trung tướng biết, nhưng chuông điện thoại reo mãi, chẳng thấy ai trả lời. Đến 19 giờ 30, phi trường báo động vì bị pháo kích.
    -Tình hình ở sân bay thế nào?
    -Mấy hôm nay, phi trường rối loạn, vì dân tị nạn gây ra, gia đình quân nhân xao xuyến, chúng tôi đã áp dụng nhiều biện pháp, nhưng cũng không đạt được kết quả khả quan.
    -Nghe báo cáo có một số quân nhân của không quân có hiện tượng vô kỷ luật.
    -Đúng! Một số quân nhân đã hiểu lầm lệnh di tản phi cơ nên oán các cấp chỉ huy không cho họ biết lệnh này.
    -Cho đến giờ phút này, không có lệnh nào cho phép anh em rút lui cả. Tuy nhiên, tôi chấp nhận, coi như anh em có thể tìm cách để từ thoái. Chuẩn tướng và đại tá Duệ cũng có thể tuỳ nghi đi trước. Tôi sẽ ở lại với anh em thuỷ quân lục chiến.
    Khánh hỏi lại:
    -Từ thoái bằng phương tiện gì ạ?
    -Lập cầu hàng không mà đi.
    -Khong thể được! Vì địch có tiền sát viên hướng dẫn, nên pháo kích rất chính xác, hoạt động của không quân rất khó khăn.
    -Phải dùng không quân của mình, mà áp chế nó đi chứ?
    -Thời tiết quá xấu, không quân không cất cánh được.
    -Thiếu tướng tư lệnh quân chủng đã có ý kiến gì chưa?
    -Không thể báo cáo tình hình với tư lệnh được, vì hệ thống thông tin liên lạc bị hư. Nhưng trước đó, tôi có nhận được chỉ thị của trên là bắt đầu từ bây giờ trở đi, tôi sẽ chấp hành mọi mệnh lệnh của trung tướng.
    -Ông định thế nào?
    -Xin tàu hải quân giúp cho việc này. Chúng tôi xin bốc dỡ ở Nam Ô.
    Tư lệnh phó thuỷ quân lục chiến, từ nãy đến giờ ngồi yên, nghe hai người nói chuyện, bỗng giãy lên như đỉa phải vôi:
    -Bãi đó đã dành cho sư đoàn 3 và thuỷ quân lục chiến rồi. Mà chỉ có 1 HQ03 mà thôi.
    -Có LST không?
    -Chỉ có 3 chiếc. Ngày mai sẽ đến Non Nước để bốc số còn lại của lữ 147 và cả sư đoàn thuỷ quân lục chiến?
    Khánh cảm thấy vô cùng chua chát. Đã đến lúc ?osống chết mặc bay rồi?.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mỗi người, mỗi đơn vị, mỗi quân chủng, phải tự lập tìm lấy lối thoát thân của mình. Khánh vụt đứng dậy, cầm lấy mũ, đưa tay lên chào Trưởng, rồi lạnh lùng bước ra khỏi phòng. Sẵn có trực thăng trong tay, Khánh muốn đi lúc nào mà chả được? Và sau này, Bộ Tổng tham mưu có kết tội, thì Khánh cứ như thế này mà phúc trình; chứng cớ, lý do, đầy đủ cả.
    Giữa lúc các tướng tá đang còn phân vân chưa biết tính toán ra sao, thì một quả đạn pháo rơi trúng giữ bãi đỗ trực thăng, làm hỏng hai chiếc, trong đó có chiếc máy bay riêng của Trưởng.
    Nhanh như sóc, tổng lãnh sự Mỹ chạy ra ngay chiếc trực thăng còn lại, chuồn lập tức. Trưởng và mọi người ra theo. Tấn bi hài kịch này, kết thúc ra sao, về sau Khánh kể lại trong một bản phúc trình:
    ?o0 giờ 30 ngày 29 tháng 3, di chuyển bằng trực thăng với tư lệnh quân đoàn 1 đến phi trường Non Nước để gặp tư lệnh thuỷ quân lục chiến, bị quân cảnh tước vũ khí cá nhân, lần thứ hai trong ngày, không cho trực thăng cất cánh. Gặp đại tá tư lệnh phó sư đoàn thuỷ quân lục chiến đang lo sắp xếp nội bộ, cho lệnh tìm chiếc tàu HQ08. Đến 6 giờ 30, phi cơ hết xăng, phải cho đáp tại bãi bốc để lôi ra tàu HQ402. Bị thiếp đi, vì bốn đêm không ngủ? sau đó tư lệnh quân đoàn 1 và đại tá phó tư lệnh thuỷ quân lục chiến được chuyển sang tàu HQ404 để về thẳng Sài Gòn. Cả thị trưởng Duệ ở Huế và Kỳ ở Quảng Trị cũng chạy theo luôn.
    Ở phía Nam, sau khi Tam Kỳ được giải phóng, cơ cấu chỉ huy của địch ở tiểu khu Quảng Tín hầu như bị tan rã, các lực lượng địa phương quân và nghĩ quân cũng tan rã theo. Trung đoàn 2 của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà, được tăng cường một chi đoàn xe tăng và xe thiết giáp gồm có 6 xe M.48 và 8 xe M.113, một phân đội chống chiến xa, một tiểu đoàn pháo 105 có 18 khẩu, một đại đội pháo 155 có 6 khẩu, rút về Câu Lâu, trên tuyến phòng thủ sông Thu Bồn. Đứng chân chưa vững, lại phải lo tháo chạy vì bị pháo 130 ly của ta bắn vào Trà Kiệu. Các tiểu đoàn địa phương của Quảng Đà đã phối hợp đắc lực, nhanh chóng chiếm quận lỵ Duy Xuyên, Nam Phước và phát triển nhanh ra bờ sông Thu Bồ. Đến nơi địch đã đánh sập cầu, hòng ngăn chặn, không cho ta tiến công ra Vĩnh Điện. Bao nhiêu binh khí kỹ thuật đều phải ùn lại phía nam cầu. lương thực chuyển theo không kịp. Các đoàn xe vận tải của Cục Hậu cần chở gạo, đạn, xăng dầu thì còn nằm ở tít xa hơn. Mặc dù mới giải phóng được ngày một ngày hai, nhân dân huyện Quế Sơn, đã huy động được trên 40 tấn gạo, xăng dầu, xe cộ, kịp thời bảo đảm cho các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Bằng việc làm này, chính nhân dân đã nâng sức cơ động của bộ đội, và đã góp phần vào làm cho đối phương bất ngờ trở tay không kịp.
    Quyết tâm của Quân khu lúc bấy giờ là, không chờ xe pháo đến đủ, kiên quyết đẩy nhanh tốc độ tiến công bằng bộ binh, dưới sự chi viện của pháo binh, đặt trận địa lâm thời tại Nam Phước. Suốt ngày 28 và cả buổi sáng ngày 29 tháng 3, trung đoàn 38 tổ chức vượt sống đánh chiếm Vĩnh Điện, thu toàn bộ pháo và xe tăng dịch, rồi phát triển về phía núi Ngũ Hành. Trung đoàn 1, thì vòng lên phía tây, vượt qua cầu Kỳ Lam, tiến ra Thanh Quýt; trung đoàn 31 bám sát đội hình của trung đoàn 1.
    Trên phía bắc, hoạt động của các đơn vị cũng khẩn trương không kém.
    Gần trưa ngày 29, đoàn 475 đến sở chỉ huy Quân đoàn 2. Cả bộ tư lệnh đang lên phía trước, theo sát đơn vị; chỉ còn có một mình chính uỷ ở nhà.
    Chính uỷ báo cáo tình hình với Trung tướng Lê Trọng Tấn:
    -Sư đoàn 325 thiếu, được tăng cường một đại đội xe tăng, một tiểu đoàn pháo, tiến quân bằng cơ giới theo trục đường 1. Tiếp theo là trung đoàn 101. Lực lượng này do một đồng chí trong bộ tư lệnh quân đoàn trực tiếp chỉ huy.
    -Ai đi với cánh này?
    -Đồng chí Hoàng Đan.
    Trung tướng gật đầu, tỏ vẻ tán thành:
    -Cánh này thì có thể tiến nhanh đấy vì đường sá tốt. Đáng chú ý nhất là cầu Thuỷ Tú. Phải chiếm nhanh cầu này, không để cho địch phá hỏng, thì tốc độ tiến công mới nhanh được. Nhưng cũng phải đặt giả thiết, nếu cầu bị phá, thì ta sẽ làm thế nào?
    -Có phà.
    -Phà cũng phải có người lái. Anh em mình có thể lái được, chỉ sợ có máy lạ thôi. Lúc bấy giờ mà còn phải tìm hiểu, mò mẫm nữa, thì chậm mất.
    Chính uỷ báo cáo tiếp:
    -Trên hướng tây bắc, trung đoàn 9 sư đoàn 304, cùng với tiểu đoàn xe tăng, tiến theo đường 14 cũ, từ Nam Yên vào thành phố. Trên hướng này, có trận địa pháo 130 ly ở đèo Mũi Trâu chi viện. Bộ tư lệnh đi theo cánh này.
    Rút cây chỉ bản đồ ra, kéo đặt ngang trên bản đồ, trung tướng lẩm bẩm:
    -Ừ, có thể bắn vào càng và sân bay được. Nhưng coi chừng núi Phước Tường, có thể đây là một khối chắn để che chở sân bay? Phải đặt kế hoạch hoả lực bắn vào Sủng Mây nữa, vì đây là sở chỉ huy của sư đoàn bộ binh 3 nguỵ.
    -Trên hướng tây nam, sư đoàn 304 thiếu tiến công trên hai hướng: trung đoàn 66, đánh theo trục Ái Nghĩa, nam Hiếu Đức; trung đoàn 24 đánh theo hướng Đồng Lâm. Nhiệm vụ chính của sư đoàn là đánh vào lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 369 và tiến vào sân bay Đà Nẵng.
    -Tôi lo nhất cánh này đây. Trung tướng nói. Gần nửa năm trời, suốt cả mùa mưa, vừa qua, quần nhau với địch ở phía tây Đại Lộc, thành tích lớn nhất của đơn vị này là đã đánh cho sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến bị thiệt hại nặng và kìm chặt chúng ở vùng 1 nhưng cũng do đấy mà sức chiến đấu có thể bị giảm sút. Quân số ốm khá nhiều nhưng cái đấy chưa đáng lo; lo nhất là anh em đang từ phòng ngự dàn quân ra để giữ từng mỏm núi với địch; nay chuyển sang tiến công, mà lại tiến công hết sức táo bạo, nhanh chóng, sợ anh em không quen. Bây giờ mà còn nói đến Đồng Lâm, Ái Nghĩa làm gì? Sao không tìm đường vòng ra phía Trung Man, Phú Túc, mà đánh ngay vào Hiếu Đức, Tuý Loan, thọc xuống Hoà Cầm, hay là đánh ra Sủng Mây, như thế có nhanh hơn không? Sợ quân địch còn lại ở Ái Nghĩa đánh tập hậu ở sau lưng à? Trong lúc này, thì tình huống ấy sẽ không xảy ra đâu.
    Trên hướng bắc trung đoàn 18, ngày 27 tháng 3 chiếm được đèo Phú Gia và tiến nhanh về hướng Lăng Cô. Đến 18 giờ ngày 28 thì chiếm được cái cầu vô cùng quan trọng này. Địch trong phía nhà ga, dựa vào vách núi, chống cự mãnh liệt. Chúng ở trên cao, ta dưới thấp, nên có lợi thế hơn ta. Suốt đêm, phản kích bốn lần, cố chiếm lại cầu. Giá tỉnh tảo hơn một chút, chỉ cần một vài tạt huóc nổ, đánh sập vài nhịp cầu trước khi bỏ chạy lên đèo, thì cánh quân này của ta phải bị ùn lại, phơi mình trên bán đảo, một bên là đầm Lăng Cô rộng mênh mông, một bên là biển, và sẽ trở thành mục tiêu rất tốt cho máy bay và tàu chiến ngày hôm sau. Sư đoàn trưởng, đại tá Phạm Đức Tâm, cũng đã sớm thấy điều đó và bộ tham mưu quân đoàn cũng đã nhận thấy thế, nên trong đêm, cấp tốc tăng cường cho đơn vị 6 xe tăng lội nước PT.85, nhất quyết chiếm cho kỳ được đèo Hải Vân trong ngày hôm sau.
    Mờ sáng ngày 29 tháng 3, xe GMC chiến lợi phẩm chở trung đoàn 18 và sở chỉ huy sư đoàn tiến công lên đèo. Tiểu đoàn 8, do tiểu đoàn trưởng Trân Minh Thiệt chỉ huy là mũi tiến công chính. Đại đội 6 do đại đội trưởng Nguyễn Tiến Lăng chỉ huy, ngồi trên xe tăng dẫn đầu đội hình tiến công của sư đoàn. Khi đến gần đỉnh đèo, một đại đội địch ra ngăn chặn, bị xe tăng ta đang lao tới, tiếng máy nổ ầm ầm, tiếng xích nghiến mặt đường rợn óc, đã hốt hoảng, vứt vũ khí tháo chạy.
    8 giờ 30, ta chiếm kho xăng Liên Chiểu, một giờ sau, tiếp cận cầu Thuỷ Tú. Nhân dân tràn ra hai bên đường hoan hô bộ đội. Bỗng một cụ già, tách ra khỏi đám đông, tay khăn, tay áo giơ lên khoát lia lịa, như muốn cản cả đoàn xe lại. Người ta thấy cụ lao vào chặn xe, miệng thét to, tay chỉ xuống gầm cầu: ?oMìn, mìn!?. Một chiến sĩ trên xe hiểu ý, nhảy xuống. Nhác thấy một làn khói xanh đang xì lên ở chân cầu; không một giây do dự, người chiến sĩ ấy lao tới, dùng hết sức mình, giật mạnh đoạn dây cháy chậm, vứt xuống sông. Hú vía! Đoàn xe lại tiếp tục tiến.
    11 giờ trung đoàn 18 tiến đến ngã ba trung tâm thành phố, đánh chiếm các mục tiêu: cầu Trịnh Minh Thế, sư đoàn 2 của quân khu đã chiếm giữ từ trước. Tiến thẳng ra phía bắc, tiểu đoàn 8 cắm cờ trên mũi Sơn Trà lúc 13 giờ 30. Trên trục đường 14, trung đoàn 9, sư đoàn 304 cùng một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn cao xạ và một tiểu đoàn pháo binh hành quân suốt cả ngày đêm. Họ vừa hành quân, vừa phải khắc phục mìn, nên đến sáng ngày 29 mới triển khai được ở Đá Đen. Địch đã rút chạy từ trước. Ta nhanh chóng chiếm Phước Tường, Hoà Khánh và sở chỉ huy của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà ở Sủng Mây. Đến 14 giờ ngày 29 thì đến toà thị chính. Các đơn vị tiếp tục vượt qua cầu Trịnh Minh Thế sang bán đảo Sơn Trà và triển khai ngay đội hình chiến đấu, lập tức bắn cháy một số tàu chiến trong lúc chúng rối loạn rút lui.
    Trên hướng tây, sau khi đánh tan sự chống cự của địch ở Đồng Lâm, trong ngày 28 thán 3, trung đoàn 24 truy kích sát gót; ngày 29 đánh trên đoạn Ái Nghĩa-Hiếu Đức và đến 12 giờ 30 thì vào đến sân bay Đà Nẵng.
    Cũng trong lúc này, trung đoàn 1, sau khi bắn cháy một xe tăng địch ở bến đò Xu, thu một xe tăng và bắt sống một số, đã tiến chiếm được sở chỉ huy quân đoàn của quân đội Cộng hoà. Một bộ phận phát triển sang phía tây, phối hợp cùng trung đoàn 24 chiếm sân bay, bắt 159 tù binh. Một bộ phận khác, tiến ra ngã ba Huế rồi đánh chiếm toà thị chính và chi cảnh sát lúc 12 giờ. Trước đó không lâu, khi các đơn vị chủ lực tiếp cận vùng ngoại ô, thì các tiểu đoàn địa phương của Quảng Đà trung đoàn 96, tiểu đoàn 401 và đội biệt động Lê Độ ở Cầu Đỏ, bến đò Xu đã cùng với đội biệt động khác đã lót sẵn tại chỗ chiếm toà thị chính lúc 11 giờ 15.
    Ở nhà lao Non Nước, anh em tù chính trị cũng đã vùng dậy, đập phá nhà tù và thoát ra. Những con chim mới sổ ***g đã nhanh chóng hoà mình với quần chúng, cùng với cán bộ địa phương đứng ra giải phóng, hô hào những tên lính bại trận nhanh chóng vứt bỏ cái xác đánh thuê và quay về với nhân dân.
    Một sự phối hợp vô cùng đẹp mắt trong một chiến dịch lớn. Chỉ cách đây mấy hôm, các đơn vị bắt đầu xuất phát tại những địa điểm cách xa nhau hàng trăm cây số. Mỗi đơn vị đều vượt qua biết bao nhiêu đèo cao, sông lớn, đánh không biết bai nhiêu trận lớn nhỏ, để hợp điểm lại một nơi trước sau trên một tiếng đồng hồ, trên mảnh đất lịch sử này.
    Ngọn cờ nửa đỏ nửa xanh, tung bay trên sóng nước sông Hàn, trên đỉnh Sơn Trà. Chính tại nơi đây, một trăm mười bảy năm về trước, quân đội viễn chinh Pháp, đã cắm lá cờ ba sắc đầu tiên trên đất nước ta, bắt đầu một đêm dài nô lệ.
    Trong lúc các cánh quân của ta tiến nhanh như vũ bão, thì đối phương có dần tuyến phòng ngự lại. Cũng gọi là phòng tuyến này phòng tuyến nọ, nhưng thực chất sức chiến đấu không có bao nhiêu. Những trận chiến ở nam Thừa Thiên, ở Tam Kỳ, ở Quảng Ngãi trong tháng 3 đã thực tế đánh quỵ các đơn vị chủ lực quân đội Cộng hoà; một số lớn binh khí kỹ thuật đã rơi vào tay Quân giải phóng. Trên đường rút lui, phần lớn nghĩa quân, địa phương quân do bà con khuyên nhủ, lôi kéo, rã ngũ tại chỗ. Một số lớn quân chủ lực, người ở các nơi khác đến, thì tìm đường tháo chạy, đập phá, cướp bóc lung tung, cuối cùng sa vào tay của nhân dân. Tình hình trên bãi biển Đà Nẵng cũng chẳng khác gì trên bãi biển Thuận An mấy hôm trước.
    Một nhân chứng kể lại.
    ?~Ngày 29 tháng 3, khoảng 10 giờ, binh sĩ thuỷ quân lục chiến kéo nhau lội xuống biển, ra tàu. Họ vứt bỏ súng ống hỗn độn; có rất nhiều loại quý giá như hoả tiễn ?oTOW?, súng đại bác không giật 90 ly, hồng ngoại tuyến, súng chống tăng X.202. Ở đầu cầu Trịnh Minh Thế, quang cảnh vô cùng hỗn loạn; còn trong sở chỉ huy của bộ tư lệnh quân khu ở gần đấy, thì mọi người đã bỏ đi từ bao giờ. Đến 15 giờ, mới thấy có tàu HQ403 cập bãi, cách đó 4 cây số về phía nam, mấy chiếc xe M.113 chạy đến để bắc cầu nhưng chỉ được một lúc, vì tàu không neo nên cứ troi ra, dạt bào. Biển động mạnh, làm chết rất nhiều người. Đám tàn quân rã dần?
    Tình hình ở sân bay còn rối loạn hơn. Khi chiếc máy bay Boeing 727 đầu tiên lượn trên đường băng thì một đoàn xe tải quân sự chật ních người của quân đội nam Việt Nam Cộng hoà chạy ra đường băng bắt đầu bốc dỡ. Trong nháy mắt, hàng nghìn người Việt Nam khác, chờ sẵn ngoài lối ra vào, chạy ùa lên máy bay, giẫm đạp lên cả phụ nữ và trẻ em. Lính bảo vệ Mỹ vung gập đánh như mưa xuống đầu họ, nhưng chẳng ăn thua gì. Phi công mở máy rồi cất cánh. Hàng chục người bám lấy càng và bánh xe của máy bay; nhiều người đã bị nghiền chết. Nhiều người khác đã bị rơi khi máy bay lơ lửng trên không. Đây là chiếc máy bay cuối cùng của Mỹ bay ra khỏi Đà Nẵng.
    Ở sân bay Nước Mặn tình trạng hỗn loạn cũng không kém gì. Kế hoạch máy bay bắt đầu đi vào đường băng thì hàng trăm binh lính lao theo, túm lấy cánh, lấy thân máy bay, không cho cất cánh. Viên tổng lãnh sự Mỹ vừa chạy nhanh dọc theo đường băng, vừa la chửi, đánh đấm túi bụi. Nhiều người trong số lính đang bám cánh máy bay quay trở lại nên hết đòn này đến đòn khác vào cổ vào mặt viên lãnh sự trong khi chiếc máy bay nặng nề cất cánh bay lên trời. Vị đại diện của nước Mỹ được ăn một trận đòn nên thân.
    Trên một chiếc tàu hạm đội 7 được pháo đến Đà Nẵng để răn đe cũng đang diễn ra những cảnh tượng rùng rợn:
    Hơn một nghìn năm trăm lính Việt Nam ăn nằm ngổn ngang trên boong, trên sàn tàu. Cách đài chỉ huy không đầy 30 thước, một lính Cộng hoà đang hiếp một phụ nữ, trong khi những người lính káhc thản nhiên đứng nhìn. Một người trong số đó hét rất to: ?oChúng ta muốn về Philippin và hãy nhốt thuyền trưởng trên boong và khoá chặt buồng lái lại?.
    Khi những chiếc tầu nhỏ đến cặp mạn tàu vận tải, người ta thả thang dây xuống và khách bắt đầu leo rất nguy hiểm. Nhiều trẻ em và người già trượt chân ngã xuống, va đầu vào chiếc tàu đã chở họ đến. Đến chập choạng tối, gần một nghìn người chết như thế đấy. Phải chăng đây cũng là một kiểu răn đe??
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Mỗi người, mỗi đơn vị, mỗi quân chủng, phải tự lập tìm lấy lối thoát thân của mình. Khánh vụt đứng dậy, cầm lấy mũ, đưa tay lên chào Trưởng, rồi lạnh lùng bước ra khỏi phòng. Sẵn có trực thăng trong tay, Khánh muốn đi lúc nào mà chả được? Và sau này, Bộ Tổng tham mưu có kết tội, thì Khánh cứ như thế này mà phúc trình; chứng cớ, lý do, đầy đủ cả.
    Giữa lúc các tướng tá đang còn phân vân chưa biết tính toán ra sao, thì một quả đạn pháo rơi trúng giữ bãi đỗ trực thăng, làm hỏng hai chiếc, trong đó có chiếc máy bay riêng của Trưởng.
    Nhanh như sóc, tổng lãnh sự Mỹ chạy ra ngay chiếc trực thăng còn lại, chuồn lập tức. Trưởng và mọi người ra theo. Tấn bi hài kịch này, kết thúc ra sao, về sau Khánh kể lại trong một bản phúc trình:
    ?o0 giờ 30 ngày 29 tháng 3, di chuyển bằng trực thăng với tư lệnh quân đoàn 1 đến phi trường Non Nước để gặp tư lệnh thuỷ quân lục chiến, bị quân cảnh tước vũ khí cá nhân, lần thứ hai trong ngày, không cho trực thăng cất cánh. Gặp đại tá tư lệnh phó sư đoàn thuỷ quân lục chiến đang lo sắp xếp nội bộ, cho lệnh tìm chiếc tàu HQ08. Đến 6 giờ 30, phi cơ hết xăng, phải cho đáp tại bãi bốc để lôi ra tàu HQ402. Bị thiếp đi, vì bốn đêm không ngủ? sau đó tư lệnh quân đoàn 1 và đại tá phó tư lệnh thuỷ quân lục chiến được chuyển sang tàu HQ404 để về thẳng Sài Gòn. Cả thị trưởng Duệ ở Huế và Kỳ ở Quảng Trị cũng chạy theo luôn.
    Ở phía Nam, sau khi Tam Kỳ được giải phóng, cơ cấu chỉ huy của địch ở tiểu khu Quảng Tín hầu như bị tan rã, các lực lượng địa phương quân và nghĩ quân cũng tan rã theo. Trung đoàn 2 của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà, được tăng cường một chi đoàn xe tăng và xe thiết giáp gồm có 6 xe M.48 và 8 xe M.113, một phân đội chống chiến xa, một tiểu đoàn pháo 105 có 18 khẩu, một đại đội pháo 155 có 6 khẩu, rút về Câu Lâu, trên tuyến phòng thủ sông Thu Bồn. Đứng chân chưa vững, lại phải lo tháo chạy vì bị pháo 130 ly của ta bắn vào Trà Kiệu. Các tiểu đoàn địa phương của Quảng Đà đã phối hợp đắc lực, nhanh chóng chiếm quận lỵ Duy Xuyên, Nam Phước và phát triển nhanh ra bờ sông Thu Bồ. Đến nơi địch đã đánh sập cầu, hòng ngăn chặn, không cho ta tiến công ra Vĩnh Điện. Bao nhiêu binh khí kỹ thuật đều phải ùn lại phía nam cầu. lương thực chuyển theo không kịp. Các đoàn xe vận tải của Cục Hậu cần chở gạo, đạn, xăng dầu thì còn nằm ở tít xa hơn. Mặc dù mới giải phóng được ngày một ngày hai, nhân dân huyện Quế Sơn, đã huy động được trên 40 tấn gạo, xăng dầu, xe cộ, kịp thời bảo đảm cho các đơn vị tiếp tục chiến đấu. Bằng việc làm này, chính nhân dân đã nâng sức cơ động của bộ đội, và đã góp phần vào làm cho đối phương bất ngờ trở tay không kịp.
    Quyết tâm của Quân khu lúc bấy giờ là, không chờ xe pháo đến đủ, kiên quyết đẩy nhanh tốc độ tiến công bằng bộ binh, dưới sự chi viện của pháo binh, đặt trận địa lâm thời tại Nam Phước. Suốt ngày 28 và cả buổi sáng ngày 29 tháng 3, trung đoàn 38 tổ chức vượt sống đánh chiếm Vĩnh Điện, thu toàn bộ pháo và xe tăng dịch, rồi phát triển về phía núi Ngũ Hành. Trung đoàn 1, thì vòng lên phía tây, vượt qua cầu Kỳ Lam, tiến ra Thanh Quýt; trung đoàn 31 bám sát đội hình của trung đoàn 1.
    Trên phía bắc, hoạt động của các đơn vị cũng khẩn trương không kém.
    Gần trưa ngày 29, đoàn 475 đến sở chỉ huy Quân đoàn 2. Cả bộ tư lệnh đang lên phía trước, theo sát đơn vị; chỉ còn có một mình chính uỷ ở nhà.
    Chính uỷ báo cáo tình hình với Trung tướng Lê Trọng Tấn:
    -Sư đoàn 325 thiếu, được tăng cường một đại đội xe tăng, một tiểu đoàn pháo, tiến quân bằng cơ giới theo trục đường 1. Tiếp theo là trung đoàn 101. Lực lượng này do một đồng chí trong bộ tư lệnh quân đoàn trực tiếp chỉ huy.
    -Ai đi với cánh này?
    -Đồng chí Hoàng Đan.
    Trung tướng gật đầu, tỏ vẻ tán thành:
    -Cánh này thì có thể tiến nhanh đấy vì đường sá tốt. Đáng chú ý nhất là cầu Thuỷ Tú. Phải chiếm nhanh cầu này, không để cho địch phá hỏng, thì tốc độ tiến công mới nhanh được. Nhưng cũng phải đặt giả thiết, nếu cầu bị phá, thì ta sẽ làm thế nào?
    -Có phà.
    -Phà cũng phải có người lái. Anh em mình có thể lái được, chỉ sợ có máy lạ thôi. Lúc bấy giờ mà còn phải tìm hiểu, mò mẫm nữa, thì chậm mất.
    Chính uỷ báo cáo tiếp:
    -Trên hướng tây bắc, trung đoàn 9 sư đoàn 304, cùng với tiểu đoàn xe tăng, tiến theo đường 14 cũ, từ Nam Yên vào thành phố. Trên hướng này, có trận địa pháo 130 ly ở đèo Mũi Trâu chi viện. Bộ tư lệnh đi theo cánh này.
    Rút cây chỉ bản đồ ra, kéo đặt ngang trên bản đồ, trung tướng lẩm bẩm:
    -Ừ, có thể bắn vào càng và sân bay được. Nhưng coi chừng núi Phước Tường, có thể đây là một khối chắn để che chở sân bay? Phải đặt kế hoạch hoả lực bắn vào Sủng Mây nữa, vì đây là sở chỉ huy của sư đoàn bộ binh 3 nguỵ.
    -Trên hướng tây nam, sư đoàn 304 thiếu tiến công trên hai hướng: trung đoàn 66, đánh theo trục Ái Nghĩa, nam Hiếu Đức; trung đoàn 24 đánh theo hướng Đồng Lâm. Nhiệm vụ chính của sư đoàn là đánh vào lữ đoàn thuỷ quân lục chiến 369 và tiến vào sân bay Đà Nẵng.
    -Tôi lo nhất cánh này đây. Trung tướng nói. Gần nửa năm trời, suốt cả mùa mưa, vừa qua, quần nhau với địch ở phía tây Đại Lộc, thành tích lớn nhất của đơn vị này là đã đánh cho sư đoàn dù và sư đoàn thuỷ quân lục chiến bị thiệt hại nặng và kìm chặt chúng ở vùng 1 nhưng cũng do đấy mà sức chiến đấu có thể bị giảm sút. Quân số ốm khá nhiều nhưng cái đấy chưa đáng lo; lo nhất là anh em đang từ phòng ngự dàn quân ra để giữ từng mỏm núi với địch; nay chuyển sang tiến công, mà lại tiến công hết sức táo bạo, nhanh chóng, sợ anh em không quen. Bây giờ mà còn nói đến Đồng Lâm, Ái Nghĩa làm gì? Sao không tìm đường vòng ra phía Trung Man, Phú Túc, mà đánh ngay vào Hiếu Đức, Tuý Loan, thọc xuống Hoà Cầm, hay là đánh ra Sủng Mây, như thế có nhanh hơn không? Sợ quân địch còn lại ở Ái Nghĩa đánh tập hậu ở sau lưng à? Trong lúc này, thì tình huống ấy sẽ không xảy ra đâu.
    Trên hướng bắc trung đoàn 18, ngày 27 tháng 3 chiếm được đèo Phú Gia và tiến nhanh về hướng Lăng Cô. Đến 18 giờ ngày 28 thì chiếm được cái cầu vô cùng quan trọng này. Địch trong phía nhà ga, dựa vào vách núi, chống cự mãnh liệt. Chúng ở trên cao, ta dưới thấp, nên có lợi thế hơn ta. Suốt đêm, phản kích bốn lần, cố chiếm lại cầu. Giá tỉnh tảo hơn một chút, chỉ cần một vài tạt huóc nổ, đánh sập vài nhịp cầu trước khi bỏ chạy lên đèo, thì cánh quân này của ta phải bị ùn lại, phơi mình trên bán đảo, một bên là đầm Lăng Cô rộng mênh mông, một bên là biển, và sẽ trở thành mục tiêu rất tốt cho máy bay và tàu chiến ngày hôm sau. Sư đoàn trưởng, đại tá Phạm Đức Tâm, cũng đã sớm thấy điều đó và bộ tham mưu quân đoàn cũng đã nhận thấy thế, nên trong đêm, cấp tốc tăng cường cho đơn vị 6 xe tăng lội nước PT.85, nhất quyết chiếm cho kỳ được đèo Hải Vân trong ngày hôm sau.
    Mờ sáng ngày 29 tháng 3, xe GMC chiến lợi phẩm chở trung đoàn 18 và sở chỉ huy sư đoàn tiến công lên đèo. Tiểu đoàn 8, do tiểu đoàn trưởng Trân Minh Thiệt chỉ huy là mũi tiến công chính. Đại đội 6 do đại đội trưởng Nguyễn Tiến Lăng chỉ huy, ngồi trên xe tăng dẫn đầu đội hình tiến công của sư đoàn. Khi đến gần đỉnh đèo, một đại đội địch ra ngăn chặn, bị xe tăng ta đang lao tới, tiếng máy nổ ầm ầm, tiếng xích nghiến mặt đường rợn óc, đã hốt hoảng, vứt vũ khí tháo chạy.
    8 giờ 30, ta chiếm kho xăng Liên Chiểu, một giờ sau, tiếp cận cầu Thuỷ Tú. Nhân dân tràn ra hai bên đường hoan hô bộ đội. Bỗng một cụ già, tách ra khỏi đám đông, tay khăn, tay áo giơ lên khoát lia lịa, như muốn cản cả đoàn xe lại. Người ta thấy cụ lao vào chặn xe, miệng thét to, tay chỉ xuống gầm cầu: ?oMìn, mìn!?. Một chiến sĩ trên xe hiểu ý, nhảy xuống. Nhác thấy một làn khói xanh đang xì lên ở chân cầu; không một giây do dự, người chiến sĩ ấy lao tới, dùng hết sức mình, giật mạnh đoạn dây cháy chậm, vứt xuống sông. Hú vía! Đoàn xe lại tiếp tục tiến.
    11 giờ trung đoàn 18 tiến đến ngã ba trung tâm thành phố, đánh chiếm các mục tiêu: cầu Trịnh Minh Thế, sư đoàn 2 của quân khu đã chiếm giữ từ trước. Tiến thẳng ra phía bắc, tiểu đoàn 8 cắm cờ trên mũi Sơn Trà lúc 13 giờ 30. Trên trục đường 14, trung đoàn 9, sư đoàn 304 cùng một tiểu đoàn xe tăng, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn cao xạ và một tiểu đoàn pháo binh hành quân suốt cả ngày đêm. Họ vừa hành quân, vừa phải khắc phục mìn, nên đến sáng ngày 29 mới triển khai được ở Đá Đen. Địch đã rút chạy từ trước. Ta nhanh chóng chiếm Phước Tường, Hoà Khánh và sở chỉ huy của sư đoàn 3 quân đội Cộng hoà ở Sủng Mây. Đến 14 giờ ngày 29 thì đến toà thị chính. Các đơn vị tiếp tục vượt qua cầu Trịnh Minh Thế sang bán đảo Sơn Trà và triển khai ngay đội hình chiến đấu, lập tức bắn cháy một số tàu chiến trong lúc chúng rối loạn rút lui.
    Trên hướng tây, sau khi đánh tan sự chống cự của địch ở Đồng Lâm, trong ngày 28 thán 3, trung đoàn 24 truy kích sát gót; ngày 29 đánh trên đoạn Ái Nghĩa-Hiếu Đức và đến 12 giờ 30 thì vào đến sân bay Đà Nẵng.
    Cũng trong lúc này, trung đoàn 1, sau khi bắn cháy một xe tăng địch ở bến đò Xu, thu một xe tăng và bắt sống một số, đã tiến chiếm được sở chỉ huy quân đoàn của quân đội Cộng hoà. Một bộ phận phát triển sang phía tây, phối hợp cùng trung đoàn 24 chiếm sân bay, bắt 159 tù binh. Một bộ phận khác, tiến ra ngã ba Huế rồi đánh chiếm toà thị chính và chi cảnh sát lúc 12 giờ. Trước đó không lâu, khi các đơn vị chủ lực tiếp cận vùng ngoại ô, thì các tiểu đoàn địa phương của Quảng Đà trung đoàn 96, tiểu đoàn 401 và đội biệt động Lê Độ ở Cầu Đỏ, bến đò Xu đã cùng với đội biệt động khác đã lót sẵn tại chỗ chiếm toà thị chính lúc 11 giờ 15.
    Ở nhà lao Non Nước, anh em tù chính trị cũng đã vùng dậy, đập phá nhà tù và thoát ra. Những con chim mới sổ ***g đã nhanh chóng hoà mình với quần chúng, cùng với cán bộ địa phương đứng ra giải phóng, hô hào những tên lính bại trận nhanh chóng vứt bỏ cái xác đánh thuê và quay về với nhân dân.
    Một sự phối hợp vô cùng đẹp mắt trong một chiến dịch lớn. Chỉ cách đây mấy hôm, các đơn vị bắt đầu xuất phát tại những địa điểm cách xa nhau hàng trăm cây số. Mỗi đơn vị đều vượt qua biết bao nhiêu đèo cao, sông lớn, đánh không biết bai nhiêu trận lớn nhỏ, để hợp điểm lại một nơi trước sau trên một tiếng đồng hồ, trên mảnh đất lịch sử này.
    Ngọn cờ nửa đỏ nửa xanh, tung bay trên sóng nước sông Hàn, trên đỉnh Sơn Trà. Chính tại nơi đây, một trăm mười bảy năm về trước, quân đội viễn chinh Pháp, đã cắm lá cờ ba sắc đầu tiên trên đất nước ta, bắt đầu một đêm dài nô lệ.
    Trong lúc các cánh quân của ta tiến nhanh như vũ bão, thì đối phương có dần tuyến phòng ngự lại. Cũng gọi là phòng tuyến này phòng tuyến nọ, nhưng thực chất sức chiến đấu không có bao nhiêu. Những trận chiến ở nam Thừa Thiên, ở Tam Kỳ, ở Quảng Ngãi trong tháng 3 đã thực tế đánh quỵ các đơn vị chủ lực quân đội Cộng hoà; một số lớn binh khí kỹ thuật đã rơi vào tay Quân giải phóng. Trên đường rút lui, phần lớn nghĩa quân, địa phương quân do bà con khuyên nhủ, lôi kéo, rã ngũ tại chỗ. Một số lớn quân chủ lực, người ở các nơi khác đến, thì tìm đường tháo chạy, đập phá, cướp bóc lung tung, cuối cùng sa vào tay của nhân dân. Tình hình trên bãi biển Đà Nẵng cũng chẳng khác gì trên bãi biển Thuận An mấy hôm trước.
    Một nhân chứng kể lại.
    ?~Ngày 29 tháng 3, khoảng 10 giờ, binh sĩ thuỷ quân lục chiến kéo nhau lội xuống biển, ra tàu. Họ vứt bỏ súng ống hỗn độn; có rất nhiều loại quý giá như hoả tiễn ?oTOW?, súng đại bác không giật 90 ly, hồng ngoại tuyến, súng chống tăng X.202. Ở đầu cầu Trịnh Minh Thế, quang cảnh vô cùng hỗn loạn; còn trong sở chỉ huy của bộ tư lệnh quân khu ở gần đấy, thì mọi người đã bỏ đi từ bao giờ. Đến 15 giờ, mới thấy có tàu HQ403 cập bãi, cách đó 4 cây số về phía nam, mấy chiếc xe M.113 chạy đến để bắc cầu nhưng chỉ được một lúc, vì tàu không neo nên cứ troi ra, dạt bào. Biển động mạnh, làm chết rất nhiều người. Đám tàn quân rã dần?
    Tình hình ở sân bay còn rối loạn hơn. Khi chiếc máy bay Boeing 727 đầu tiên lượn trên đường băng thì một đoàn xe tải quân sự chật ních người của quân đội nam Việt Nam Cộng hoà chạy ra đường băng bắt đầu bốc dỡ. Trong nháy mắt, hàng nghìn người Việt Nam khác, chờ sẵn ngoài lối ra vào, chạy ùa lên máy bay, giẫm đạp lên cả phụ nữ và trẻ em. Lính bảo vệ Mỹ vung gập đánh như mưa xuống đầu họ, nhưng chẳng ăn thua gì. Phi công mở máy rồi cất cánh. Hàng chục người bám lấy càng và bánh xe của máy bay; nhiều người đã bị nghiền chết. Nhiều người khác đã bị rơi khi máy bay lơ lửng trên không. Đây là chiếc máy bay cuối cùng của Mỹ bay ra khỏi Đà Nẵng.
    Ở sân bay Nước Mặn tình trạng hỗn loạn cũng không kém gì. Kế hoạch máy bay bắt đầu đi vào đường băng thì hàng trăm binh lính lao theo, túm lấy cánh, lấy thân máy bay, không cho cất cánh. Viên tổng lãnh sự Mỹ vừa chạy nhanh dọc theo đường băng, vừa la chửi, đánh đấm túi bụi. Nhiều người trong số lính đang bám cánh máy bay quay trở lại nên hết đòn này đến đòn khác vào cổ vào mặt viên lãnh sự trong khi chiếc máy bay nặng nề cất cánh bay lên trời. Vị đại diện của nước Mỹ được ăn một trận đòn nên thân.
    Trên một chiếc tàu hạm đội 7 được pháo đến Đà Nẵng để răn đe cũng đang diễn ra những cảnh tượng rùng rợn:
    Hơn một nghìn năm trăm lính Việt Nam ăn nằm ngổn ngang trên boong, trên sàn tàu. Cách đài chỉ huy không đầy 30 thước, một lính Cộng hoà đang hiếp một phụ nữ, trong khi những người lính káhc thản nhiên đứng nhìn. Một người trong số đó hét rất to: ?oChúng ta muốn về Philippin và hãy nhốt thuyền trưởng trên boong và khoá chặt buồng lái lại?.
    Khi những chiếc tầu nhỏ đến cặp mạn tàu vận tải, người ta thả thang dây xuống và khách bắt đầu leo rất nguy hiểm. Nhiều trẻ em và người già trượt chân ngã xuống, va đầu vào chiếc tàu đã chở họ đến. Đến chập choạng tối, gần một nghìn người chết như thế đấy. Phải chăng đây cũng là một kiểu răn đe??
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Năm mới em chúc tất cả các bác dồi dào sức khỏe, gặp nhiều may mắn và tích cực tham gia vô đây!
    Chương 14: Quân tìm tướng
    Sau những đòn sấm sét ở Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Phước An, tình hình trên cao nguyên có phần lắng dịu-ngoại trừ những hoạt động nhỏ lẻ trên đường 19-trong lúc từ đầu đến cuối vùng 1 chiến thuật, bão lửa của chiến tranh nhân dân ngày đêm giội xuống đầu thù. Đây chẳng qua là sự lắng dịu giữa hai cơn bão. Trên thực tế, trong những ngày này, ta và địch tranh thủ từng giây từng phút để hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, cho những trận chiến đấu cuối cùng, trên giải đất còn lạ của miền Trung.
    Chiều ngày 21 tháng 3, bữa cơm chia tay nhau của các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, chưa kịp bày ra bàn, thì Trung tướng Hoàng Mình Thảo, người chủ trì buổi liên hoan, được lệnh của A75 đã phải cấp tốc lên xe ra ngay đường 19, để kịp chỉ huy sư đoàn 968 và trung đoàn 95A đang cùng với trung đoàn 12 của sư đoàn 3, tiến công vào bốn cứ điểm tiền tiêu cảu thị trấn An Khê.
    Ngày 23, thị trấn này được giải phóng. Ta bắt 1.300 tù binh, thu 1.500 súng. Thẳng đà truy kích, tiến công bao vây địch trên đất võ Bình Khê, quê hương của Nguyễn Huệ. Sau một tuần chiến đấu, một loạt các thj trấn khác: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ rồi toàn bộ tỉnh Bình Định được giải phóng. Sư đoàn bộ binh 22 quân đội Cộng hoà có nguy cơ bị tiêu diệt. Địch vội vã giải thể một loạt các trường trại, trung tâm huấn luyện, trường quân dịch, trường nghĩa quân, trường địa phương quân, để vét người bổ sung, hòng khôi phục lại sư đoàn 22 đang bị tan rã từng mảng lớn. Biện pháp này, xem ra chẳng đem lại kết quả gì, vì các ?okhóa sinh? đã theo dõi diễn biến tình hình vùng 1 rất chặt chẽ, nên chẳng còn ai dám ?oxung phong? ở lại với đội ngũ đang rã rời này. Đến ngày 30 tháng 3, các cơ sở nguỵ quyền ở các cấp đã ngừng hoạt động, trong lúc các đơn vị Quân giải phóng áp sát vào thị xã Quy Nhơn cùng với lực lượng tại chỗ nổi dậy giành quyền làm chủ và chặn đánh các nhóm tàn quân đang tháo chạy về phía nam.
    Trên mặt trận Phú Yên, sau khi đã trút gánh nặng, chỉ huy cuộc rút lui chiến lược cho tham mưu trưởng Lê Khắc Lý, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm chạy về Tuy Hoà, gọi là để chỉ huy đầu đông của cuộc rút lui chiến lược nổi tiếng này. Cùng với tàn quân của các liên đoàn biệt động quân 35 và 21 và một số xe pháo mới ở Tây Nguyên lóp ngóp chạy về, Cẩm nắm trong tay cả 8 tiểu đoàn bảo an có sẵn tại chỗ để hình thành lực lượng phòng thủ cho cái thị xã nhỏ bé này.
    Phạm Văn Phú không hé nửa lời chê trách Cẩm vì cái tội bỏ lý một mình trên đường 7, để đưa đến tai vạ tày đình, nướng sạch mấy vạn quân, vì chính chủ tướng Phú cũng đã nêu gương chạy trước. Hơn thế nữa, Phú còn giao cho Cẩm toàn bộ trách nhiệm rất nặng nề trong lúc này là ngăn chặn Quân giải phóng trên hai hướng đường 7 và đường 21, đang tràn xuống đồng bằng như nước vỡ bờ. Kể ra, thì toàn bộ lực lượng trong khu vực này cũng tương đối lớn, nếu chỉ tính về mặt số lượng. Ngoài các lực lượng nói trên, còn có lữ đoàn 3 dù ở Đà Nẵng và trung đoàn 40 thuộc sư đoàn 22 ở Bình Định, mới được đưa đến để tăng viện lại có liên đoàn địa phương quân Khánh Hoà, hai tiểu đoàn của tiểu khu Ninh Thuận. Dọc đường 21, sát gần mặt trận, ở Dục Mỹ, còn có các trung tâm huấn luyện quân biệt động, trường pháo binh ở Ninh Hoà. Ở Nha Trang có sở chỉ huy Quân đoàn 2, vùng 2 duyên hải; sư đoàn không quân 2; trường hạ sĩ quan và trung tâm huấn luyện quốc gia Lam Sơn. Xa xa về phía nam, có đặc khu Cam Ranh do chuẩn tướng Lê Văn Thân chỉ huy, với các đơn vị thuộc sư đoàn 23 ở Tây Nguyên chạy về, mới được bổ sung 5.00 tân binh.
    Địa hình tỉnh Khánh Hoà rất thuận lợi cho việc phòng thủ. Ở phía bắc, từ Phú Yên vào, Quân giải phóng phải vượt qua một dãy núi qua Đèo Cả và Dốc Mỏ; ở phía tây xuống, phải qua đèo Phượng Hoàng. Ngay trong tỉnh, từ các huyện phía bắc xuống phía nam phải qua các đèo Ro Tượng và Rù Ri. Toàn bộ tỉnh Khánh Hoà nằm ven theo bờ biển; nơi nào cũng được pháo dưới tàu chi viện tích cực. Các sân bay Nha Trang, Thành Sơn đều là những loại sân bay quân sự lớn. Các kho tàng ở động Bà Thìn, Thành Sơn, đầy ắp nhưng đạn và bom. Dựa vào những vật chướng ngại thiên nhiên ấy, với lực lượng còn khá đông như nói trên, nếu tổ chức chỉ huy chặt chẽ, thì cũng có khả năng gây nhiều khó khăn cho đối phương. Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà cũng đã thấy được những thuận lợi ấy, nên mới bàn với nhau việc lập tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ tây sang đông: Tây Ninh, Đà Lạt, Nha Trang, và sau lưng là căn cứ Thành Sơn.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Năm mới em chúc tất cả các bác dồi dào sức khỏe, gặp nhiều may mắn và tích cực tham gia vô đây!
    Chương 14: Quân tìm tướng
    Sau những đòn sấm sét ở Buôn Ma Thuột, Đức Lập, Phước An, tình hình trên cao nguyên có phần lắng dịu-ngoại trừ những hoạt động nhỏ lẻ trên đường 19-trong lúc từ đầu đến cuối vùng 1 chiến thuật, bão lửa của chiến tranh nhân dân ngày đêm giội xuống đầu thù. Đây chẳng qua là sự lắng dịu giữa hai cơn bão. Trên thực tế, trong những ngày này, ta và địch tranh thủ từng giây từng phút để hoàn thành mọi công tác chuẩn bị, cho những trận chiến đấu cuối cùng, trên giải đất còn lạ của miền Trung.
    Chiều ngày 21 tháng 3, bữa cơm chia tay nhau của các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, chưa kịp bày ra bàn, thì Trung tướng Hoàng Mình Thảo, người chủ trì buổi liên hoan, được lệnh của A75 đã phải cấp tốc lên xe ra ngay đường 19, để kịp chỉ huy sư đoàn 968 và trung đoàn 95A đang cùng với trung đoàn 12 của sư đoàn 3, tiến công vào bốn cứ điểm tiền tiêu cảu thị trấn An Khê.
    Ngày 23, thị trấn này được giải phóng. Ta bắt 1.300 tù binh, thu 1.500 súng. Thẳng đà truy kích, tiến công bao vây địch trên đất võ Bình Khê, quê hương của Nguyễn Huệ. Sau một tuần chiến đấu, một loạt các thj trấn khác: Tam Quan, Bồng Sơn, Phù Mỹ rồi toàn bộ tỉnh Bình Định được giải phóng. Sư đoàn bộ binh 22 quân đội Cộng hoà có nguy cơ bị tiêu diệt. Địch vội vã giải thể một loạt các trường trại, trung tâm huấn luyện, trường quân dịch, trường nghĩa quân, trường địa phương quân, để vét người bổ sung, hòng khôi phục lại sư đoàn 22 đang bị tan rã từng mảng lớn. Biện pháp này, xem ra chẳng đem lại kết quả gì, vì các ?okhóa sinh? đã theo dõi diễn biến tình hình vùng 1 rất chặt chẽ, nên chẳng còn ai dám ?oxung phong? ở lại với đội ngũ đang rã rời này. Đến ngày 30 tháng 3, các cơ sở nguỵ quyền ở các cấp đã ngừng hoạt động, trong lúc các đơn vị Quân giải phóng áp sát vào thị xã Quy Nhơn cùng với lực lượng tại chỗ nổi dậy giành quyền làm chủ và chặn đánh các nhóm tàn quân đang tháo chạy về phía nam.
    Trên mặt trận Phú Yên, sau khi đã trút gánh nặng, chỉ huy cuộc rút lui chiến lược cho tham mưu trưởng Lê Khắc Lý, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm chạy về Tuy Hoà, gọi là để chỉ huy đầu đông của cuộc rút lui chiến lược nổi tiếng này. Cùng với tàn quân của các liên đoàn biệt động quân 35 và 21 và một số xe pháo mới ở Tây Nguyên lóp ngóp chạy về, Cẩm nắm trong tay cả 8 tiểu đoàn bảo an có sẵn tại chỗ để hình thành lực lượng phòng thủ cho cái thị xã nhỏ bé này.
    Phạm Văn Phú không hé nửa lời chê trách Cẩm vì cái tội bỏ lý một mình trên đường 7, để đưa đến tai vạ tày đình, nướng sạch mấy vạn quân, vì chính chủ tướng Phú cũng đã nêu gương chạy trước. Hơn thế nữa, Phú còn giao cho Cẩm toàn bộ trách nhiệm rất nặng nề trong lúc này là ngăn chặn Quân giải phóng trên hai hướng đường 7 và đường 21, đang tràn xuống đồng bằng như nước vỡ bờ. Kể ra, thì toàn bộ lực lượng trong khu vực này cũng tương đối lớn, nếu chỉ tính về mặt số lượng. Ngoài các lực lượng nói trên, còn có lữ đoàn 3 dù ở Đà Nẵng và trung đoàn 40 thuộc sư đoàn 22 ở Bình Định, mới được đưa đến để tăng viện lại có liên đoàn địa phương quân Khánh Hoà, hai tiểu đoàn của tiểu khu Ninh Thuận. Dọc đường 21, sát gần mặt trận, ở Dục Mỹ, còn có các trung tâm huấn luyện quân biệt động, trường pháo binh ở Ninh Hoà. Ở Nha Trang có sở chỉ huy Quân đoàn 2, vùng 2 duyên hải; sư đoàn không quân 2; trường hạ sĩ quan và trung tâm huấn luyện quốc gia Lam Sơn. Xa xa về phía nam, có đặc khu Cam Ranh do chuẩn tướng Lê Văn Thân chỉ huy, với các đơn vị thuộc sư đoàn 23 ở Tây Nguyên chạy về, mới được bổ sung 5.00 tân binh.
    Địa hình tỉnh Khánh Hoà rất thuận lợi cho việc phòng thủ. Ở phía bắc, từ Phú Yên vào, Quân giải phóng phải vượt qua một dãy núi qua Đèo Cả và Dốc Mỏ; ở phía tây xuống, phải qua đèo Phượng Hoàng. Ngay trong tỉnh, từ các huyện phía bắc xuống phía nam phải qua các đèo Ro Tượng và Rù Ri. Toàn bộ tỉnh Khánh Hoà nằm ven theo bờ biển; nơi nào cũng được pháo dưới tàu chi viện tích cực. Các sân bay Nha Trang, Thành Sơn đều là những loại sân bay quân sự lớn. Các kho tàng ở động Bà Thìn, Thành Sơn, đầy ắp nhưng đạn và bom. Dựa vào những vật chướng ngại thiên nhiên ấy, với lực lượng còn khá đông như nói trên, nếu tổ chức chỉ huy chặt chẽ, thì cũng có khả năng gây nhiều khó khăn cho đối phương. Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà cũng đã thấy được những thuận lợi ấy, nên mới bàn với nhau việc lập tuyến phòng thủ mới, kéo dài từ tây sang đông: Tây Ninh, Đà Lạt, Nha Trang, và sau lưng là căn cứ Thành Sơn.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Giữa hai mặt trận có mối quan hệ rất cơ hữu với nhau; trên đường 7, địch cố tìm cách chạy để thoát chết; còn trên đường 21 thì chúng cố chặn ta lại để tìm lấy cái sống. Từ chỗ khác nhau ấy, hai sư đoàn 320 và sư đoàn 10 đã vận dụng hai lối đánh khác nhau.
    Trên đường 7, Bộ tư lệnh sư đoàn 320, sau khi chiếm Củng Sơn, phải thi hành mệnh lệnh của trên: tiêu diệt sạch bọn địch còn sót lại và nhanh chóng thu quân, để chuyển sớm vào Nam Bộ. Tuy nhiên, kẻ địch trước mắt còn khá đông. Vì phải khắc phục rất nhiều mìn trên đường đi, nên tốc độ tiến quân phải chậm lại, mãi đến ngày 31 tháng 3 mới đến đường quốc lộ 1. Ta đã nhanh chóng chiếm các cao điểm Chóp Chài ở phía bắc, Nhạn Tháp ở rìa phía tây thị xã Tuy Hoà, hình thành thế bao vây địch. Ngày 1 tháng 4 sư đoàn đã có sự phối hợp đắc lực của các tiểu đoàn tỉnh, đã tiêu diệt toàn bộ địch, cùng quần chúng nổi dậy làm chủ thị xã này. Trần Văn Cẩm bị bắt.
    Trên đường 21, địch phòng ngự có bài bản hơn: lữ đoàn 3 dù và trung đoàn 40, dựa vào các cao điểm ở núi Chư Kroi, bố trí thành nhiều nút chặn, có xe tăng M.48 và pháo binh cỡ lớn chi viện. Ngày 22 tháng 3, sư đoàn b 10 cùng với trung đoàn bộ binh 25, trung đoàn pháo binh 40 và một tiểu đoàn xe tăng tiến công vào Khánh Dương. Lúc bấy giờ, địch mới phát hiện ra một mạn đường lâm nghiệp, xuyên qua các khu rừng rậm, ở phía tây tỉnh Khánh Hoà. Đây chính là một đoạn đường mòn Hồ Chí Minh, từ chiến khu Bắc Ái, tây nam Khánh Hoà, đi ra các tỉnh phía bắc. Rút kinh nghiệm trên đường 7, họ dự đoán ta có thể đưa một lực lượng lớn, tiến theo đường này, để đánh chiếm quận lỵ Diên Khánh, vu hồi thành phố Nha Trang từ phía tây. Để được chủ động, chúng vội vã rút trung đoàn 40 ở Dục Mỹ và đưa ngay vào phía nam để cùng với một tiểu đoàn địa phương và ba khẩu pháo 105 ly bảo vệ sườn phía tây thành phố. Thực ra lối đánh của sư đoàn 10 ở đây khác hẳn. Với tinh thần khẩn trương, mạnh dạn, nhưng vững chắc, từng đơn vị được phân công mục tiêu, chuẩn bị chu đáo, đánh gom từng tiểu đoàn địch lại, để diệt gọn. Khi tiến công vào mục tiêu trước mặt, thì đồng thời, có bộ phận cơ động bao vây luôn mục tiêu phía sau. Với lối đánh này, chỉ trong ngày đầu bắn chuẩn bị, pháo binh của ta đã diệt được 12 trong tổng số 24 khẩu pháo lớn của địch, và sau bốn ngày liên tục chiến đấu, lữ đoàn 3 dù chỉ còn 25 phần trăm quân số.
    10 giờ sáng ngày 1 tháng 4, được tin về mặt trận đường 21, cả trung tâm huấn luyện Lam Sơn, trại biệt động quân, trường pháo binh đùm túm kéo nhau chạy về Nha Trang. Gần trưa, chúng ùn vào thành phố, nổ súng bắn loạn xạ, cướp xe, thẳng một mạch chạy về Cam Ranh. Chớp lấy cơ hội thuận lợi, trên 1.000 tù nhân ở trại cải huấn nổi dậy, giết lính gác, phá khám, thoát ra ngoài làm náo động cả thành phố. Tiểu khu trưởng Khánh Hoà, từ trước đến nay vẫn tin tưởng vào sự bảo vệ của quân đoàn chủ lực bên cạnh, bỗng nhiên thấy mất hút đơn vị bạn. Ông ra đánh xe chạy đến Đông Bắc Nha Trang để xem tình hình ra sao thì đã thấy một số sĩ quan đứng xếp hành trên đường băng. Thì ra sư đoàn không quân đã chuẩn bị di tản mà không hề báo cho tiểu khu biết. Lại có tin đồn dồn dập: Lệnh tử thủ Quy Nhơn của Thiệu vừa ban ra chẳng được ai chấp hành, mà nhân dân Bình Định thì đã nổi dậy cướp chính quyền rồi, tỉnh trưởng nhờ nhanh trí, nhảy lên một chiếc xe đò mà thoát chết. Tỉnh trưởng Phú Yên bị tử thương do chậm chân, nên đành phải chuồn bằng hai chân
    Ngồi trong dinh Độc Lập, Thiệu, Viên làm thế nào hiểu được cái mớ bòng bong này. Cả đến quan thầy Mỹ cũng mù tịt. Chẳng thế mà giữa lúc nước sôi lửa bỏng này mà Thiệu còn cử đại diện của ông ta, Phan Quang Đán và Ford còn cử đặc phái viên, tướng Wayend, đến Nha Trang để ?othị sát tình hình?, giải quyết vấn đề dân tỵ nạn. Rút cuộc, cả hai đều cắp cặp chuồn thẳng về Sài Gòn, không kèn không trống.
    Hết hô hào tử thủ Quy Nhơn, Huế, Đà Nẵng, đến bây giờ Thiệu lại hô hào tử thủ Nha Trang. Trong mệnh lệnh có nhấn mạnh ?oPhải cố thủ khu vực Nha Trang và sẽ có lực lượng hùng hậu đển giải vây, tác chiến dưới quyền chỉ huy của tướng Oánh. Lực lượng hùng hậu lấy ở đâu ra? Trên thực tế, tất cả chỉ là giấy tờ. Lực lượng mới tổ chức lại, có người mà không có súng, vì bao nhiêu kho tàng, đã bị Quân giải phóng chiếm sạch. Trong lúc Oánh đang khóc giở mếu giở thì may quá, đến 20 giờ ngày 1 tháng 4 bỗng nhiên Phú xuất hiện. Ông ta đến đây chỉ có một mục đích duy nhất là dùng dây nói để thuyết phục cấp trên thấy rõ tình cảnh bi đát của ông ta hiện nay, để trên chấp thuận cho đưa toàn bộ cơ quan chỉ huy vào phi trường để di tản.
    Nhưng lệnh của Đổng Văn Khuyển ở Bộ Tổng tham mưu, là phú ở lại Nha Trang với ?oanh em? vì ở đây còn có các căn cứ không quân và hải quân, các trường trại v.v? Phú là người chỉ huy cao nhất nên không được đi đâu cả.
    Cao Văn Viên thì nói thẳng thừng:
    -Tổng thống bảo không được rút lui Nha Trang, phải tiêu diệt địch tối đa, không bằng bộ binh thì bằng hoả lực của không quân và hải quân. Khốn nỗi! Trong lúc thế tàn lực kiệt thì lệnh của tổng thống còn có hiệu lực gì nữa? Sẵn có chiếc trực thăng trong tay Phú hết đi mây về gió, nhởn nhơ trên bầu trời suốt cả ngày, để lại dưới đất một đám chuẩn tưởng: nào Lương, nào Oánh, nào Châu, cá mè một lứa chẳng ai chỉ huy ai.
    Người ta thấy mới 5 giờ sáng ngày 2 tháng 4 Phú đã bay từ Cam Ranh đến Nha Trang và sau đó đã có mặt ở Phan Thiết. Đến 14 giờ gặp tư lệnh phó Quân đoàn 3, Nguyễn Văn Hiếu cho biết: theo lệnh của Thiệu phần đất còn lại của vùng 2 được sát nhập vào quân khu 3, còn Phú thì về trình diện trung ương. Thoát nợ.
    Khi trình bày nguyên nhân thất bại, bản đệ trình của Phú đã kết luận rất ngon lành. Phú còn đổ trách nhiệm cho trên:
    ?oViệc rút cao nguyên, gặp hoả lực mạnh của địch, gây thiệt hại cho quân và dân nên bị hỗn loạn.
    Lực lượng địch quá đông. Ta không có lực lượng tổng trù bị. Quân số phải phân tán trên nhiều mặt trận.
    Dân chiến nạn, từ quân khu 1 kéo vào, gây ra sự hỗn loạn, làm sai kế hoạch của quân khu. Trình phó thủ tướng Phan Quang Đán nhưng không được giải quyết.
    Trung ương chỉ huy trực tiếp các chính quyền địa phương, làm cho quân khu bị tê liệt.
    Quân trú phòng Nha Trang mât tinh thần khi lữ đoàn 3 dù bị chọc thủng phòng tuyến.
    Dân chúng hoang mang vì có lời đồn đại, và các cơ sở Hoa Kỳ di chuyển??.
    Thế là Phú thoát chết và cũng thoát cả tội. Ông ta không hề nhắc đến chuyện: trong suốt ba tuần lễ, từ Buôn Ma Thuột đến Plây Cu, Quy Nhơn, Nha Trang, Phú chỉ có mặt trước khi bị tấn công, nhưng lúc bão lửa ập đến, thì Phú đã chuồn sớm bao giờ. Ở Đà Nẵng thì tướng tìm quân, ở Nha Trang thì quân tìm tướng. Quân với tướng đều một mực đổ trách nhiệm lên đầu nhau.
    Chính quyền trốn chạy, quân sĩ bỏ đi. Trong lúc đang tháo chạy nháo nhác, thì viên tổng lãnh sự Mỹ ở Nha Trang M.Spear vẫn tỏ ra thản nhiên, bình chân như vại, ít nhất là vẻ bề ngoài. Ông ta sợ bọn tay sai mất tinh thần nếu Mỹ rút đi trước như Plây Cu chăng, hay là ông ra vẫn còn đặt nhiều tin tưởng vào quân đội Cộng hoà, mà ông ra thừa biết là số lượng này còn khá đông, trên mảnh đất Nha Trang này? Có lẽ là như thế này thì đúng hơn: hạm đội 7 với mấy trăm tàu chiến, mấy tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đang diễu võ dương oai ở sát gần đấy. Họng súng lăm lăm chĩa vào bờ.
    Trong lúc lực tàn vật mạt như thế này, họ lại muốn giở cái trò ?oăn cháo đá bát?, xử tệ với quan thầy. Sau ngày miền Nam giải phóng, CIA mới phát giác ra rằng: ngày 28 tháng 3, Phạm Văn Phú đã gặp tư lệnh sư đoàn không quân Quân đoàn 2 và báo cáo cho nhau biết là sẽ bỏ Nha Trang. Việc gấp rút điều động trung đoàn 40 từ Khánh Dương về Diên Khánh, cốt là để bảo đảm an ninh cho cuộc rút lui ấy. Ấy thế mà, đối với Mỹ, Phú giấu tiệt. Thậm chí ngày 29 tháng 3, khi Wayend từ Mỹ, chân ướt chân ráo mới đến Sài Gòn, đã cấp tốc đến sở chỉ huy của Phú ở Nha Trang, xem tận mắt cuộc khủng hoảng, thì Phú hãy còn liến thoắng, nào là: ?oNgười Việt Nam không bị sa sút tinh thần theo bất kỳ nghĩa nào của từ nay?; nào là ?ođang thiết lập một tuyến phòng thủ ở phía bắc thành phố?. Trùm CIA Archer đã tâm sự: ?oTôi cảm thấy thật sự đau lòng khi nghe người tị nạn nói là Hoa Kỳ đã bỏ rơi họ. Ở Nha Trang, họ đang phản bội và bỏ rơi chúng ta (Mỹ). Các viên tuớng của họ không chịu nói với chúng ta về kế hoạch của họ và khi bắt đầu rút lui, thì ai ai cũng khăng khăng đòi lôi theo tất cả cô, dì, chú bác, ông bà??T
    Ai bỏ rơi ai? Xin hãy nghe đồng nghiệp của ngài Archer kể lại:
    ?oKhi có tin Mỹ rút lan ra trong thành phố, những đám đông bên ngoài cổng, trước cửa lãnh sự quán, tăng lên đến hàng ngàn người. Lúc đầu, lính quân cảnh thuỷ quân lục chiến Mỹ cư xử với họ lịch thiệp, nhẹ nhàng? nhưng khi có nhiều người trong đám đông vượt qua hàng rào lãnh sự quán, thì lính quân cảnh thuỷ quân lục chiến Mỹ, rút dùi cui ra và hành động dữ dội. Khi những cái đầu bị đập trúng, và những người rơi từ hàng xuống, nhưng những con ruồi gãy cánh, thì những đám đông ngoài đường phố, mặt đầy sắc khí nhìn vào?
    Và khi chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi Nha Trang, một cảnh thương tâm đã diễn ra:
    ? Chiếc máy bay thứ hai sau đó đến ngày. Khi viên phi công nổ máy và chuẩn bị cất cánh, thì một ông già người Việt Nam ẵm đứa trẻ trong tay, khập khiễng ra khỏi đám đông và nâng đứa trẻ lên buồng máy, cầu khẩn với người Mỹ cho nó lên máy bay. Một trong những ngườì bạn Mỹ đã đi ra chặn cửa và lấy gót giầy nện vào mặt ông già. Đứa trẻ rơi xuống đất và gần như đúng lúc, chiếc trực thăng cuối cùng ra khỏi lãnh sự quán, gầm rú và bay lên bầu trời??
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Giữa hai mặt trận có mối quan hệ rất cơ hữu với nhau; trên đường 7, địch cố tìm cách chạy để thoát chết; còn trên đường 21 thì chúng cố chặn ta lại để tìm lấy cái sống. Từ chỗ khác nhau ấy, hai sư đoàn 320 và sư đoàn 10 đã vận dụng hai lối đánh khác nhau.
    Trên đường 7, Bộ tư lệnh sư đoàn 320, sau khi chiếm Củng Sơn, phải thi hành mệnh lệnh của trên: tiêu diệt sạch bọn địch còn sót lại và nhanh chóng thu quân, để chuyển sớm vào Nam Bộ. Tuy nhiên, kẻ địch trước mắt còn khá đông. Vì phải khắc phục rất nhiều mìn trên đường đi, nên tốc độ tiến quân phải chậm lại, mãi đến ngày 31 tháng 3 mới đến đường quốc lộ 1. Ta đã nhanh chóng chiếm các cao điểm Chóp Chài ở phía bắc, Nhạn Tháp ở rìa phía tây thị xã Tuy Hoà, hình thành thế bao vây địch. Ngày 1 tháng 4 sư đoàn đã có sự phối hợp đắc lực của các tiểu đoàn tỉnh, đã tiêu diệt toàn bộ địch, cùng quần chúng nổi dậy làm chủ thị xã này. Trần Văn Cẩm bị bắt.
    Trên đường 21, địch phòng ngự có bài bản hơn: lữ đoàn 3 dù và trung đoàn 40, dựa vào các cao điểm ở núi Chư Kroi, bố trí thành nhiều nút chặn, có xe tăng M.48 và pháo binh cỡ lớn chi viện. Ngày 22 tháng 3, sư đoàn b 10 cùng với trung đoàn bộ binh 25, trung đoàn pháo binh 40 và một tiểu đoàn xe tăng tiến công vào Khánh Dương. Lúc bấy giờ, địch mới phát hiện ra một mạn đường lâm nghiệp, xuyên qua các khu rừng rậm, ở phía tây tỉnh Khánh Hoà. Đây chính là một đoạn đường mòn Hồ Chí Minh, từ chiến khu Bắc Ái, tây nam Khánh Hoà, đi ra các tỉnh phía bắc. Rút kinh nghiệm trên đường 7, họ dự đoán ta có thể đưa một lực lượng lớn, tiến theo đường này, để đánh chiếm quận lỵ Diên Khánh, vu hồi thành phố Nha Trang từ phía tây. Để được chủ động, chúng vội vã rút trung đoàn 40 ở Dục Mỹ và đưa ngay vào phía nam để cùng với một tiểu đoàn địa phương và ba khẩu pháo 105 ly bảo vệ sườn phía tây thành phố. Thực ra lối đánh của sư đoàn 10 ở đây khác hẳn. Với tinh thần khẩn trương, mạnh dạn, nhưng vững chắc, từng đơn vị được phân công mục tiêu, chuẩn bị chu đáo, đánh gom từng tiểu đoàn địch lại, để diệt gọn. Khi tiến công vào mục tiêu trước mặt, thì đồng thời, có bộ phận cơ động bao vây luôn mục tiêu phía sau. Với lối đánh này, chỉ trong ngày đầu bắn chuẩn bị, pháo binh của ta đã diệt được 12 trong tổng số 24 khẩu pháo lớn của địch, và sau bốn ngày liên tục chiến đấu, lữ đoàn 3 dù chỉ còn 25 phần trăm quân số.
    10 giờ sáng ngày 1 tháng 4, được tin về mặt trận đường 21, cả trung tâm huấn luyện Lam Sơn, trại biệt động quân, trường pháo binh đùm túm kéo nhau chạy về Nha Trang. Gần trưa, chúng ùn vào thành phố, nổ súng bắn loạn xạ, cướp xe, thẳng một mạch chạy về Cam Ranh. Chớp lấy cơ hội thuận lợi, trên 1.000 tù nhân ở trại cải huấn nổi dậy, giết lính gác, phá khám, thoát ra ngoài làm náo động cả thành phố. Tiểu khu trưởng Khánh Hoà, từ trước đến nay vẫn tin tưởng vào sự bảo vệ của quân đoàn chủ lực bên cạnh, bỗng nhiên thấy mất hút đơn vị bạn. Ông ra đánh xe chạy đến Đông Bắc Nha Trang để xem tình hình ra sao thì đã thấy một số sĩ quan đứng xếp hành trên đường băng. Thì ra sư đoàn không quân đã chuẩn bị di tản mà không hề báo cho tiểu khu biết. Lại có tin đồn dồn dập: Lệnh tử thủ Quy Nhơn của Thiệu vừa ban ra chẳng được ai chấp hành, mà nhân dân Bình Định thì đã nổi dậy cướp chính quyền rồi, tỉnh trưởng nhờ nhanh trí, nhảy lên một chiếc xe đò mà thoát chết. Tỉnh trưởng Phú Yên bị tử thương do chậm chân, nên đành phải chuồn bằng hai chân
    Ngồi trong dinh Độc Lập, Thiệu, Viên làm thế nào hiểu được cái mớ bòng bong này. Cả đến quan thầy Mỹ cũng mù tịt. Chẳng thế mà giữa lúc nước sôi lửa bỏng này mà Thiệu còn cử đại diện của ông ta, Phan Quang Đán và Ford còn cử đặc phái viên, tướng Wayend, đến Nha Trang để ?othị sát tình hình?, giải quyết vấn đề dân tỵ nạn. Rút cuộc, cả hai đều cắp cặp chuồn thẳng về Sài Gòn, không kèn không trống.
    Hết hô hào tử thủ Quy Nhơn, Huế, Đà Nẵng, đến bây giờ Thiệu lại hô hào tử thủ Nha Trang. Trong mệnh lệnh có nhấn mạnh ?oPhải cố thủ khu vực Nha Trang và sẽ có lực lượng hùng hậu đển giải vây, tác chiến dưới quyền chỉ huy của tướng Oánh. Lực lượng hùng hậu lấy ở đâu ra? Trên thực tế, tất cả chỉ là giấy tờ. Lực lượng mới tổ chức lại, có người mà không có súng, vì bao nhiêu kho tàng, đã bị Quân giải phóng chiếm sạch. Trong lúc Oánh đang khóc giở mếu giở thì may quá, đến 20 giờ ngày 1 tháng 4 bỗng nhiên Phú xuất hiện. Ông ta đến đây chỉ có một mục đích duy nhất là dùng dây nói để thuyết phục cấp trên thấy rõ tình cảnh bi đát của ông ta hiện nay, để trên chấp thuận cho đưa toàn bộ cơ quan chỉ huy vào phi trường để di tản.
    Nhưng lệnh của Đổng Văn Khuyển ở Bộ Tổng tham mưu, là phú ở lại Nha Trang với ?oanh em? vì ở đây còn có các căn cứ không quân và hải quân, các trường trại v.v? Phú là người chỉ huy cao nhất nên không được đi đâu cả.
    Cao Văn Viên thì nói thẳng thừng:
    -Tổng thống bảo không được rút lui Nha Trang, phải tiêu diệt địch tối đa, không bằng bộ binh thì bằng hoả lực của không quân và hải quân. Khốn nỗi! Trong lúc thế tàn lực kiệt thì lệnh của tổng thống còn có hiệu lực gì nữa? Sẵn có chiếc trực thăng trong tay Phú hết đi mây về gió, nhởn nhơ trên bầu trời suốt cả ngày, để lại dưới đất một đám chuẩn tưởng: nào Lương, nào Oánh, nào Châu, cá mè một lứa chẳng ai chỉ huy ai.
    Người ta thấy mới 5 giờ sáng ngày 2 tháng 4 Phú đã bay từ Cam Ranh đến Nha Trang và sau đó đã có mặt ở Phan Thiết. Đến 14 giờ gặp tư lệnh phó Quân đoàn 3, Nguyễn Văn Hiếu cho biết: theo lệnh của Thiệu phần đất còn lại của vùng 2 được sát nhập vào quân khu 3, còn Phú thì về trình diện trung ương. Thoát nợ.
    Khi trình bày nguyên nhân thất bại, bản đệ trình của Phú đã kết luận rất ngon lành. Phú còn đổ trách nhiệm cho trên:
    ?oViệc rút cao nguyên, gặp hoả lực mạnh của địch, gây thiệt hại cho quân và dân nên bị hỗn loạn.
    Lực lượng địch quá đông. Ta không có lực lượng tổng trù bị. Quân số phải phân tán trên nhiều mặt trận.
    Dân chiến nạn, từ quân khu 1 kéo vào, gây ra sự hỗn loạn, làm sai kế hoạch của quân khu. Trình phó thủ tướng Phan Quang Đán nhưng không được giải quyết.
    Trung ương chỉ huy trực tiếp các chính quyền địa phương, làm cho quân khu bị tê liệt.
    Quân trú phòng Nha Trang mât tinh thần khi lữ đoàn 3 dù bị chọc thủng phòng tuyến.
    Dân chúng hoang mang vì có lời đồn đại, và các cơ sở Hoa Kỳ di chuyển??.
    Thế là Phú thoát chết và cũng thoát cả tội. Ông ta không hề nhắc đến chuyện: trong suốt ba tuần lễ, từ Buôn Ma Thuột đến Plây Cu, Quy Nhơn, Nha Trang, Phú chỉ có mặt trước khi bị tấn công, nhưng lúc bão lửa ập đến, thì Phú đã chuồn sớm bao giờ. Ở Đà Nẵng thì tướng tìm quân, ở Nha Trang thì quân tìm tướng. Quân với tướng đều một mực đổ trách nhiệm lên đầu nhau.
    Chính quyền trốn chạy, quân sĩ bỏ đi. Trong lúc đang tháo chạy nháo nhác, thì viên tổng lãnh sự Mỹ ở Nha Trang M.Spear vẫn tỏ ra thản nhiên, bình chân như vại, ít nhất là vẻ bề ngoài. Ông ta sợ bọn tay sai mất tinh thần nếu Mỹ rút đi trước như Plây Cu chăng, hay là ông ra vẫn còn đặt nhiều tin tưởng vào quân đội Cộng hoà, mà ông ra thừa biết là số lượng này còn khá đông, trên mảnh đất Nha Trang này? Có lẽ là như thế này thì đúng hơn: hạm đội 7 với mấy trăm tàu chiến, mấy tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đang diễu võ dương oai ở sát gần đấy. Họng súng lăm lăm chĩa vào bờ.
    Trong lúc lực tàn vật mạt như thế này, họ lại muốn giở cái trò ?oăn cháo đá bát?, xử tệ với quan thầy. Sau ngày miền Nam giải phóng, CIA mới phát giác ra rằng: ngày 28 tháng 3, Phạm Văn Phú đã gặp tư lệnh sư đoàn không quân Quân đoàn 2 và báo cáo cho nhau biết là sẽ bỏ Nha Trang. Việc gấp rút điều động trung đoàn 40 từ Khánh Dương về Diên Khánh, cốt là để bảo đảm an ninh cho cuộc rút lui ấy. Ấy thế mà, đối với Mỹ, Phú giấu tiệt. Thậm chí ngày 29 tháng 3, khi Wayend từ Mỹ, chân ướt chân ráo mới đến Sài Gòn, đã cấp tốc đến sở chỉ huy của Phú ở Nha Trang, xem tận mắt cuộc khủng hoảng, thì Phú hãy còn liến thoắng, nào là: ?oNgười Việt Nam không bị sa sút tinh thần theo bất kỳ nghĩa nào của từ nay?; nào là ?ođang thiết lập một tuyến phòng thủ ở phía bắc thành phố?. Trùm CIA Archer đã tâm sự: ?oTôi cảm thấy thật sự đau lòng khi nghe người tị nạn nói là Hoa Kỳ đã bỏ rơi họ. Ở Nha Trang, họ đang phản bội và bỏ rơi chúng ta (Mỹ). Các viên tuớng của họ không chịu nói với chúng ta về kế hoạch của họ và khi bắt đầu rút lui, thì ai ai cũng khăng khăng đòi lôi theo tất cả cô, dì, chú bác, ông bà??T
    Ai bỏ rơi ai? Xin hãy nghe đồng nghiệp của ngài Archer kể lại:
    ?oKhi có tin Mỹ rút lan ra trong thành phố, những đám đông bên ngoài cổng, trước cửa lãnh sự quán, tăng lên đến hàng ngàn người. Lúc đầu, lính quân cảnh thuỷ quân lục chiến Mỹ cư xử với họ lịch thiệp, nhẹ nhàng? nhưng khi có nhiều người trong đám đông vượt qua hàng rào lãnh sự quán, thì lính quân cảnh thuỷ quân lục chiến Mỹ, rút dùi cui ra và hành động dữ dội. Khi những cái đầu bị đập trúng, và những người rơi từ hàng xuống, nhưng những con ruồi gãy cánh, thì những đám đông ngoài đường phố, mặt đầy sắc khí nhìn vào?
    Và khi chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi Nha Trang, một cảnh thương tâm đã diễn ra:
    ? Chiếc máy bay thứ hai sau đó đến ngày. Khi viên phi công nổ máy và chuẩn bị cất cánh, thì một ông già người Việt Nam ẵm đứa trẻ trong tay, khập khiễng ra khỏi đám đông và nâng đứa trẻ lên buồng máy, cầu khẩn với người Mỹ cho nó lên máy bay. Một trong những ngườì bạn Mỹ đã đi ra chặn cửa và lấy gót giầy nện vào mặt ông già. Đứa trẻ rơi xuống đất và gần như đúng lúc, chiếc trực thăng cuối cùng ra khỏi lãnh sự quán, gầm rú và bay lên bầu trời??
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 15: Rệu và rã
    Chi khu Dầu Tiếng là mọt cụm cứ điểm mạnh, nằm trong hệ thống phòng ngự phía bắc Sài Gòn. Ở đây có ba tiểu đoàn bảo an, tiểu đàn 351, trên hướng đông bắc, tiểu đoàn 312 ở Cầu Tào, và Bến Củi, tiểu đoàn 354 ở giữa. Xa hơn một ít, có tiểu đoàn 313 ở suối ông Hùng và ngã ba Đất Sét. Trên đường 20 từ Cầu Tào đến ngã ba Đất Sét, có đến 5 vị trí để bảo vệ giao thông và kiểm soát vùng đông dân này.
    Trong kế hoạch, đối phương có chiến đoàn 46 thuộc sư đoàn 25, được giao nhiệm vụ sẵn sàng chi viện cho chi khu Dầu Tiếng, nhưng vì mải lo đối phó với ta trên núi Tây Ninh, các chiến đoàn của sư đoàn 25 luôn luôn thay phiên nhau đi giải toả núi Bà Đen, nên trên hướng chi khu, có phần nào sơ hở. Trái với dự đoán của địch, sang đợt 2 của mùa khô, để phối hợp với Tây Nguyên, ta bỏ qua Tây Ninh, khoét sâu vào chỗ sơ hở này.
    5 giờ 30 ngày 11 tháng 3, sư đoàn 9 Quân giải phóng bắt đầu tiến công chi khu Dầu Tiếng, sau Buôn Ma Thuột 24 tiếng đồng hồ. Trên hướng chủ yếu, trung đoàn 2 luồn được vào bên trong, áp sát vào phía đông của chi khu, nhưng bị chặn lại. Ở phía bắc, trung đoàn 3 phát triển thuận lợi, chiếm tây Cầu Tào. Cùng ngày, trung đoàn 16 diệt vị trí suối ông Hùng, đánh lui nhiều đợt phản kích của lữ 3 kỵ binh. Sáng hôm sau, ta đưa thêm xe tăng lên tham gia tiến công, chiếm được chi khu. Địch tan vỡ, tháo chạy. Nguyễn Văn Toàn vội vàng điều động lực lượng đặc nhệim 318 gồm lữ 3 kỵ binh và tiểu đoàn biệt động 33 đến phối hợp với sư đoàn 25, địch mở cuộc hành quân chiếm lại chi khu. Ta chuyển hướng tiến công sang đường 26 và đường 22, cắt đoạn Trà Võ, Cẩm Giàng, diệt vị trí Cầu Khởi, mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi, đánh lui nhiều đợt phản kích. Kế hoạch chiếm lại Dầu Tiếng, nối lại đường 26 bị thất bại hoàn toàn. Chỉ trong vòng mấy ngày, ta diệt trên 2.000, bắt sống 1.000, thu 2.000 súng, bắn rơi 11 máy bay.
    Đề phòng ta đánh dọc theo sông Sài Gòn, Toàn cho triển khai toàn bộ lữ đoàn 3, rút các tiểu đoàn quân biệt động 61, 92 từ Biên Hoà; trung đoàn 48 từ Long Bình, tiểu đoàn 3 của trung đoàn 7 từ Lai Khê, sang tăng cường cho tuyến phòng thủ. Ngày 23 tháng 3, đánh nhau to ở Truồng Mít. Tiểu đoàn 3 bị tiêu diệt gần hết, phải rút về Bình Dương, trả lại cho sư đoàn 5.
    Cùng trong thời gian này, một cánh quân khác của ta gồm có trung đoàn 6 và trung đoàn 174 của sư đoàn 5 từ đất Campuchia đánh sang Bến Cầu, Quéo Ba ở phía nam, mở thông hành lang xuống Khu 8. Lại cùng như trên hướng Tân Ninh, điều mà họ dự kiến là ta sẽ tiến công vào Mộc Hóa, trên biên giới Việt Nam-Campuchia, lại không hề xảy ra. Hai tiểu đoàn của trung đoàn 48 nguỵ, chiến đấu quyết liệt với cánh quân này ở Gò Dầu Hạ, tây sông Vàm Cỏ Tây. Ngày 21 tháng 3, sau khi ta chiếm Đức Huệ, tuyến phòng thủ Hậu Nghĩa trên hướng tây bắc Sài Gòn bị chọc thủng; đối phương bị dồn ra đến tận sông Vàm Cỏ Đông.
    Có được bao nhiêu vốn liếng trong tay, kể cả các tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến 14, 16 mới thành lập lại ở Long An, chúng cũng dồn hết ra đây, quyết tâm bảo vệ quốc lộ 1.
    Trong lúc trên hướng tây, tây bắc Sài Gòn, tiếng súng phối hợp chiến trường trên toàn Miền nổ giòn giã, thì trên hướng bắc, tình hình cũng khẩn trương không kém. Viên phụ tá sư đoàn 5 nguỵ sau này thú nhận: ?oSau khi mất Buôn Ma Thuột, quân khu 3 nhận định, Quân giải phóng sẽ thừa thắng đánh xuống Quảng Đức rồi chọc thẳng vào Bình Dương, uy hiếp mặt bắc Sài Gòn. Chúng cũng vừa phát hiện được sư đoàn 341 mới từ miền Bắc vào. Thần hồn nát thần tình, địch ra lệnh cho 6 tiểu đoàn địa phương, ba chân bốn cẳng rút khỏi quốc lộ 13, bỏ cả An Lộc, để lại cho Quân giải phóng 5 khẩu pháo 155 ly chưa kịp phá.
    Rất nhạy bén trong chỉ đạo, chỉ huy, Quân uỷ và Bộ tư lệnh Miền, giao nhiệm vụ cho Quân đoàn, nhanh chóng dùng trung đoàn 2 của sư đoàn 9 cơ động từ hướng đường 26, Tây Ninh sang, lập tức bao vây chi khu Chơn Thành. Tại đây, địch có 2 liên đoàn biệt động quân 31 và 32. Ta vưa tiến quân vừa chuẩn bị. Bắt đầu tiến công từ mờ sáng ngày 24 tháng 3, không dứt điểm được, vì hoả lực của xe tăng và pháo tầm xa chi viện rất mạnh. Công sự ở các cứ điểm này, tương đối kiên cố, vì đây là những cứ điểm cũ của Mỹ để lại. Trận chiến đấu kéo dài đến sáng 28 tháng 3, chuyển sang bao vây. Ngày 31 tháng 3, ta sử dụng toàn bộ sư đoàn 341, được xe tăng chi viện, tiếp tục tiến công vào Chơn Thành, nhưng vẫn không phát triển hơn được. Đối với địch, cuộc chiến đấu ở đây đã trở nên vô vọng. Cả một dải đất miền Trung còn không giữ nổi, huống gì một cứ điểm cô lập như Chơn Thành. Sau khi dùng 52 phi vụ ném bom yểm hộ, ngày 1 tháng 4, tháo chạy: liên đoàn 31 thì rút về Khiêm Hạnh bằng đường không, cònld 31 thì rút về Lai Khê, Bầu Bàng bằng đường bộ. Như vậy là ta đã tạo ra được một bàn đạp vô cùng thuận lợi để sau này tiến công vào Sài Gòn.
    Thế ta là thế đứng trên đầu thù.
    Trong lúc này, mối đe dọa không những từ phương bắc đến, mà còn từ hướng đông lại nữa. Nguy hiểm quá! Trung đoàn 48, trước nay vẫn hoạt động trên địa bàn này, vừa rồi đã bị Toàn điều sang tăng pháo cho sư đoàn 25 trên hướng Tây Ninh mất rồi! Giữa đêm đông, một tấm chăn nhỏ, đắp sao cho đủ ấm, được đầu thì hở chân. Ngày 17 tháng 3, trung đoàn 14 của sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công vào chi khu Định Quán. Ta chỉ chiếm được 3 phần 4 mục tiêu; địch co cụm vào trong các hang đá và cao điểm 258 ở phía tây chi khu. Chiến sự diễn ra ácliệt, nhưng sau bốn ngày liên tục tiến công, sư đoàn 7 cũng diệt được hoàn toàn chi khu này, đánh thiệt hại tiểu đoàn 2, trung đoàn 43, tiểu đoàn 67 bảo an và chiến đoàn 43 của sư đoàn 18 mới tăng cường đến; giải phóng hoàn toàn quốc lộ 20 từ cầu La Ngà đến Phương Lâm.
    Cuộc tiến công vẫn tiếp tục. Hướng phát triển mới: Lâm Đồng.
    Một trung đoàn, được trang bị gọn nhẹ, bí mật vượt lên phía trước, làm nhiệm vụ vu hồi từ phía bắc thị xã này. Sư đoàn thiếu còn lại, ngồi trên xe ô tô, tiến theo sau một đơn vị xe tăng, nhanh chóng lướt qua các đồn bốt nhỏ dọc đường, chỉ một đêm, thọc sâu trên 50 cây số. Sáng ra, vừa đến nơi, xông vào đánh ngay, phối hợp rất đẹp với đơn vị phái đi trước và trung đoàn địa phương 812 của Quân khu 6; ngay từ phút đầu, gói gọn thị xã này trong vòng vây, chỉ sau vài tiếng đồng hồ, ngày 28 tháng 3 giải quyết gọn Lâm Đồng rồi nhanh chóng phát triển về Di Linh-Đà Lạt.
    Tiểu khu Tuyên Đức vội vàng tung ra ba tiểu đoàn địa phương để làm trì hoãn thế tiến công như chẻ tre của Quân giải phóng. Sau một ngày chiến đấu, một tiểu đoàn địa phương bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, một phi cơ L.19 bị trúng đạn, phải hạ cánh khẩn cấp, đúng 16 giờ ngày 31 tháng 3, lực lượng phòng thủ, rút về phía bắc cầu Đại Ninh, và phá sập cầu qua sông Đa Nhim. Ngày 1 tháng 4, chỉ huy trường võ bị quốc gia và tiểu khu Tuyên Đức quyết định triệt thoái khỏi thị xã Đà Lạt. mệnh lệnh đặt chất nổ vào đài truyền tin Lang Biêng, tổng đài điện thoại tự động, kho xăng, kho đạn v.v? đều không ai thực hiện. Nhờ vậy mà ngày 21 tháng 4 ta tiếp thu nguyên vẹn.
    Khác hẳn với miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long bước vào đợt hai, không rầm rộ, sôi nổi như những đợt khác. Thế của địch đã xuống nhiều; nhưng lực chúng hãy còn đông, nên chúng còn ngoan cố. Chúng vẫn đinh ninh rằng, ta chưa có khả năng tiến công lớn vào mục tiêu. Do đó, kế hoạch hoạt động mùa khô 74-75 của địch, hãy còn mang nặng nhiều tham vọng: phải khôi phục trạng thái trước mùa mưa 1974?
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 15: Rệu và rã
    Chi khu Dầu Tiếng là mọt cụm cứ điểm mạnh, nằm trong hệ thống phòng ngự phía bắc Sài Gòn. Ở đây có ba tiểu đoàn bảo an, tiểu đàn 351, trên hướng đông bắc, tiểu đoàn 312 ở Cầu Tào, và Bến Củi, tiểu đoàn 354 ở giữa. Xa hơn một ít, có tiểu đoàn 313 ở suối ông Hùng và ngã ba Đất Sét. Trên đường 20 từ Cầu Tào đến ngã ba Đất Sét, có đến 5 vị trí để bảo vệ giao thông và kiểm soát vùng đông dân này.
    Trong kế hoạch, đối phương có chiến đoàn 46 thuộc sư đoàn 25, được giao nhiệm vụ sẵn sàng chi viện cho chi khu Dầu Tiếng, nhưng vì mải lo đối phó với ta trên núi Tây Ninh, các chiến đoàn của sư đoàn 25 luôn luôn thay phiên nhau đi giải toả núi Bà Đen, nên trên hướng chi khu, có phần nào sơ hở. Trái với dự đoán của địch, sang đợt 2 của mùa khô, để phối hợp với Tây Nguyên, ta bỏ qua Tây Ninh, khoét sâu vào chỗ sơ hở này.
    5 giờ 30 ngày 11 tháng 3, sư đoàn 9 Quân giải phóng bắt đầu tiến công chi khu Dầu Tiếng, sau Buôn Ma Thuột 24 tiếng đồng hồ. Trên hướng chủ yếu, trung đoàn 2 luồn được vào bên trong, áp sát vào phía đông của chi khu, nhưng bị chặn lại. Ở phía bắc, trung đoàn 3 phát triển thuận lợi, chiếm tây Cầu Tào. Cùng ngày, trung đoàn 16 diệt vị trí suối ông Hùng, đánh lui nhiều đợt phản kích của lữ 3 kỵ binh. Sáng hôm sau, ta đưa thêm xe tăng lên tham gia tiến công, chiếm được chi khu. Địch tan vỡ, tháo chạy. Nguyễn Văn Toàn vội vàng điều động lực lượng đặc nhệim 318 gồm lữ 3 kỵ binh và tiểu đoàn biệt động 33 đến phối hợp với sư đoàn 25, địch mở cuộc hành quân chiếm lại chi khu. Ta chuyển hướng tiến công sang đường 26 và đường 22, cắt đoạn Trà Võ, Cẩm Giàng, diệt vị trí Cầu Khởi, mở rộng vùng giải phóng, tạo điều kiện thuận lợi, đánh lui nhiều đợt phản kích. Kế hoạch chiếm lại Dầu Tiếng, nối lại đường 26 bị thất bại hoàn toàn. Chỉ trong vòng mấy ngày, ta diệt trên 2.000, bắt sống 1.000, thu 2.000 súng, bắn rơi 11 máy bay.
    Đề phòng ta đánh dọc theo sông Sài Gòn, Toàn cho triển khai toàn bộ lữ đoàn 3, rút các tiểu đoàn quân biệt động 61, 92 từ Biên Hoà; trung đoàn 48 từ Long Bình, tiểu đoàn 3 của trung đoàn 7 từ Lai Khê, sang tăng cường cho tuyến phòng thủ. Ngày 23 tháng 3, đánh nhau to ở Truồng Mít. Tiểu đoàn 3 bị tiêu diệt gần hết, phải rút về Bình Dương, trả lại cho sư đoàn 5.
    Cùng trong thời gian này, một cánh quân khác của ta gồm có trung đoàn 6 và trung đoàn 174 của sư đoàn 5 từ đất Campuchia đánh sang Bến Cầu, Quéo Ba ở phía nam, mở thông hành lang xuống Khu 8. Lại cùng như trên hướng Tân Ninh, điều mà họ dự kiến là ta sẽ tiến công vào Mộc Hóa, trên biên giới Việt Nam-Campuchia, lại không hề xảy ra. Hai tiểu đoàn của trung đoàn 48 nguỵ, chiến đấu quyết liệt với cánh quân này ở Gò Dầu Hạ, tây sông Vàm Cỏ Tây. Ngày 21 tháng 3, sau khi ta chiếm Đức Huệ, tuyến phòng thủ Hậu Nghĩa trên hướng tây bắc Sài Gòn bị chọc thủng; đối phương bị dồn ra đến tận sông Vàm Cỏ Đông.
    Có được bao nhiêu vốn liếng trong tay, kể cả các tiểu đoàn thuỷ quân lục chiến 14, 16 mới thành lập lại ở Long An, chúng cũng dồn hết ra đây, quyết tâm bảo vệ quốc lộ 1.
    Trong lúc trên hướng tây, tây bắc Sài Gòn, tiếng súng phối hợp chiến trường trên toàn Miền nổ giòn giã, thì trên hướng bắc, tình hình cũng khẩn trương không kém. Viên phụ tá sư đoàn 5 nguỵ sau này thú nhận: ?oSau khi mất Buôn Ma Thuột, quân khu 3 nhận định, Quân giải phóng sẽ thừa thắng đánh xuống Quảng Đức rồi chọc thẳng vào Bình Dương, uy hiếp mặt bắc Sài Gòn. Chúng cũng vừa phát hiện được sư đoàn 341 mới từ miền Bắc vào. Thần hồn nát thần tình, địch ra lệnh cho 6 tiểu đoàn địa phương, ba chân bốn cẳng rút khỏi quốc lộ 13, bỏ cả An Lộc, để lại cho Quân giải phóng 5 khẩu pháo 155 ly chưa kịp phá.
    Rất nhạy bén trong chỉ đạo, chỉ huy, Quân uỷ và Bộ tư lệnh Miền, giao nhiệm vụ cho Quân đoàn, nhanh chóng dùng trung đoàn 2 của sư đoàn 9 cơ động từ hướng đường 26, Tây Ninh sang, lập tức bao vây chi khu Chơn Thành. Tại đây, địch có 2 liên đoàn biệt động quân 31 và 32. Ta vưa tiến quân vừa chuẩn bị. Bắt đầu tiến công từ mờ sáng ngày 24 tháng 3, không dứt điểm được, vì hoả lực của xe tăng và pháo tầm xa chi viện rất mạnh. Công sự ở các cứ điểm này, tương đối kiên cố, vì đây là những cứ điểm cũ của Mỹ để lại. Trận chiến đấu kéo dài đến sáng 28 tháng 3, chuyển sang bao vây. Ngày 31 tháng 3, ta sử dụng toàn bộ sư đoàn 341, được xe tăng chi viện, tiếp tục tiến công vào Chơn Thành, nhưng vẫn không phát triển hơn được. Đối với địch, cuộc chiến đấu ở đây đã trở nên vô vọng. Cả một dải đất miền Trung còn không giữ nổi, huống gì một cứ điểm cô lập như Chơn Thành. Sau khi dùng 52 phi vụ ném bom yểm hộ, ngày 1 tháng 4, tháo chạy: liên đoàn 31 thì rút về Khiêm Hạnh bằng đường không, cònld 31 thì rút về Lai Khê, Bầu Bàng bằng đường bộ. Như vậy là ta đã tạo ra được một bàn đạp vô cùng thuận lợi để sau này tiến công vào Sài Gòn.
    Thế ta là thế đứng trên đầu thù.
    Trong lúc này, mối đe dọa không những từ phương bắc đến, mà còn từ hướng đông lại nữa. Nguy hiểm quá! Trung đoàn 48, trước nay vẫn hoạt động trên địa bàn này, vừa rồi đã bị Toàn điều sang tăng pháo cho sư đoàn 25 trên hướng Tây Ninh mất rồi! Giữa đêm đông, một tấm chăn nhỏ, đắp sao cho đủ ấm, được đầu thì hở chân. Ngày 17 tháng 3, trung đoàn 14 của sư đoàn 7 Quân giải phóng tiến công vào chi khu Định Quán. Ta chỉ chiếm được 3 phần 4 mục tiêu; địch co cụm vào trong các hang đá và cao điểm 258 ở phía tây chi khu. Chiến sự diễn ra ácliệt, nhưng sau bốn ngày liên tục tiến công, sư đoàn 7 cũng diệt được hoàn toàn chi khu này, đánh thiệt hại tiểu đoàn 2, trung đoàn 43, tiểu đoàn 67 bảo an và chiến đoàn 43 của sư đoàn 18 mới tăng cường đến; giải phóng hoàn toàn quốc lộ 20 từ cầu La Ngà đến Phương Lâm.
    Cuộc tiến công vẫn tiếp tục. Hướng phát triển mới: Lâm Đồng.
    Một trung đoàn, được trang bị gọn nhẹ, bí mật vượt lên phía trước, làm nhiệm vụ vu hồi từ phía bắc thị xã này. Sư đoàn thiếu còn lại, ngồi trên xe ô tô, tiến theo sau một đơn vị xe tăng, nhanh chóng lướt qua các đồn bốt nhỏ dọc đường, chỉ một đêm, thọc sâu trên 50 cây số. Sáng ra, vừa đến nơi, xông vào đánh ngay, phối hợp rất đẹp với đơn vị phái đi trước và trung đoàn địa phương 812 của Quân khu 6; ngay từ phút đầu, gói gọn thị xã này trong vòng vây, chỉ sau vài tiếng đồng hồ, ngày 28 tháng 3 giải quyết gọn Lâm Đồng rồi nhanh chóng phát triển về Di Linh-Đà Lạt.
    Tiểu khu Tuyên Đức vội vàng tung ra ba tiểu đoàn địa phương để làm trì hoãn thế tiến công như chẻ tre của Quân giải phóng. Sau một ngày chiến đấu, một tiểu đoàn địa phương bị loại ra khỏi vòng chiến đấu, một phi cơ L.19 bị trúng đạn, phải hạ cánh khẩn cấp, đúng 16 giờ ngày 31 tháng 3, lực lượng phòng thủ, rút về phía bắc cầu Đại Ninh, và phá sập cầu qua sông Đa Nhim. Ngày 1 tháng 4, chỉ huy trường võ bị quốc gia và tiểu khu Tuyên Đức quyết định triệt thoái khỏi thị xã Đà Lạt. mệnh lệnh đặt chất nổ vào đài truyền tin Lang Biêng, tổng đài điện thoại tự động, kho xăng, kho đạn v.v? đều không ai thực hiện. Nhờ vậy mà ngày 21 tháng 4 ta tiếp thu nguyên vẹn.
    Khác hẳn với miền Trung, đồng bằng sông Cửu Long bước vào đợt hai, không rầm rộ, sôi nổi như những đợt khác. Thế của địch đã xuống nhiều; nhưng lực chúng hãy còn đông, nên chúng còn ngoan cố. Chúng vẫn đinh ninh rằng, ta chưa có khả năng tiến công lớn vào mục tiêu. Do đó, kế hoạch hoạt động mùa khô 74-75 của địch, hãy còn mang nặng nhiều tham vọng: phải khôi phục trạng thái trước mùa mưa 1974?
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ta bước vào đợt 2, không được suôn sẻ lắm: một số nơi bị sượng ngay từ đầu; nhiều điểm then chốt không dứt điểm được, đánh viện cũng không gọn, tốc độ phát triển bị chững lại.
    Đêm 10 tháng 3, ở Vĩnh Tra, trung đoàn 3 mở màn không diệt được yếu khu Thày Phó, do liên đoàn bảo an 945 đóng giữ. Hôm sau, trung đoàn 2 quân đội Cộng hoà từ Cần Long tiến vào Vĩnh Xuân để tiếp viện cho yếu khu, thì tiểu đoàn 1 của ta lại đánh hụt, chỉ tiêu hao được vài chục tên. Mãi đến ba ngày sau, cả 2 trung đoàn mới đánh thiệt hại nặng được hai tiểu đoàn. Chiến sự kéo dài mãi đến ngày 17 tháng 3. Bị uy hiếp nặng, chúng mới chịu rút cả yếu khu Thày Phó chạy về Vĩnh Xuân, ta giải phóng 2 xã Hữu Thành và Thuận Thới.
    Đêm 11 tháng 3, quân khu tập trung 2 trung đoàn diệt yếu khu Ba Càng, chi khu Cái Vôn, cắt quốc lộ 4; nhưng chỉ diệt được một bộ phận nhỏ bên trong. Trong lúc đó, lực lượng tỉnh, kết hợp ba mũi giáp công, chuyển sang diệt các phân chi khu, giải phóng một số xã như My Thuận A-B; làm chủ tỉnh lộ 2 Cái Vôn-Ba Càng và Cái Vôn-Bến Bắc. Địch tập trung hai trung đoàn chủ lực, bốn tiểu đoàn bảo an, hai chi đoàn, hai chiến đoàn ra sức giải toả lộ nên ta chỉ làm chủ được từng đoạn, từng thời gian.
    Về phía tây, trung đoàn 20 mở màn không diệt được căn cứ Bà Đầm, chuyển sang diệt điểm Đồng Tháo, vây cụm Thái Lài để diệt viện, địch không đi, ta gỡ hơn 5 đồn, giải phóng hoàn toàn xã Trường Xuân, thị xã ô Môn, sát Thái Lai. Trung đoàn 10 và 2 tiểu đoàn của tỉnh Cần Thơ không diệt được chi khu 1.000, chuyển sang gỡ các đồn bốt tạo ra những lõm giải phóng ép dần đối phương lại? Như vậy tuy không diệt được như kế hoạch, nhưng tất cả các tiểu đoàn của sư đoàn 21 quân đội cộng hoà đều bị thiệt hại nạng. Ta đã áp sát lộ vòng cung, uy hiếp Cần Thơ. Sư đoàn 21 và 1 trung đoàn của sư đoàn 7, thiết đoàn 9 và 6 tiểu đoàn bảo an, hai giang đoàn phải co về giữ thị xã, bỏ Chương Thiện và hành lang đi K.8, tạo ra thế hết sức thuận lợi cho ta sau này.
    Tình hình chiến sự diễn ra như trên, phản ánh rất trung thực so sánh lực lượng đôi bên, trong lúc này, ở tại khu vực này. Ta chưa hơn đối phương về lực, chưa diệt gọn được đơn vị nào; nhưng tất cả đơn vị quân đội Cộng hoà từ chủ lực đến địa phương, ít nhiều đều bị thiệt hại nặng, trong cái thế chung, chúng rệu dần. Rệu và chưa rã hẳn, chúng còn cố gắng, còn lắm âm mưu.
    nếu Sài Gòn là đầu não của chính quyền Thiệu, thì đồng bằng sông Cửu Long là cái dạ dày. Vùng đồng bằng mầu mỡ này, không những chỉ cung cấp lúa gạo cho cả nước, mà còn là một nguồn nhân lực rất dồi dào. Đặc biệt khi cả giải đất miền Trung rơi vào tay Quân giải phóng, hết khu vực này đến khu vực khác, thì tầm quan trọng của vùng đồng bằng duy nhất còn lại này, càng được nâng cao thêm một bước nữa.
    Sau khi mất Tây Nguyên, Mỹ, Thiệu nghĩ ngay đến Cần Thơ. Thị xã này cũng nằm trong danh mục các mục tiêu của ta năm 1975, theo kế hoạch họ nắm được. Ngoài ra, Vĩnh Long, Mỹ Tho, quốc lộ 4 cũng đều có liên quan mật thiết với nhau.
    Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh mới vùng 4 chiến thuật, gấp rút bố trí lại lực lượng. Ngoài Cần Thơ ra, ông ta tập trung sư đoàn 9 giữ Kiến Tường, Gò Công Mỹ Tho, mà đối tượng chính là sư đoàn 5 Quân giải phóng, sư đoàn 7 giữ phần còn lại của Định Tường. Với các tỉnh còn lại: Châu Đốc, An Giang, Vĩnh Bình, Kiên Giang, Vĩnh Long, thì họ lại có sáng kiến tổ chức ra các bộ tư lệnh đặc nhiệm Quân đoàn 4, cònll thì lấy ở trong các liên đoàn bảo an ra. Khốn khổ cho các bộ tư lệnh này, có tiếng mà không có miếng, vì có còn lực lượng nào nữa đâu: 9 tiểu đoàn bảo an định lấy lên thì phải tăng cường ngay cho 9 trung đoàn của 3 sư đoàn chủ lực, để mỗi trung đoàn có được 4 tiểu đoàn và mỗi sư đoàn có được 4 trung đoàn; còn kế hoạch đôn 15 liên đoàn thành 15 trung đoàn độc lập trực thuộc quân đoàn, thì chỉ mới có trên giấy tờ; vì bắt không ra lính. Phong trào đấu tranh chính trị, binh vận đang lên mạnh. Vấn đề đôn quân xây dựng lực lượng như trên nếu đặt ra và thực hiện trước đây một năm, hay là 5, 7 tháng, thì có thể còn có kết quả chút ít; chứ bây giờ mới đề ra, thì đã quá muộn màng! Trong lúc đối phương đang rối như gà mắc tóc, phải lo đối phó với hoạt động của các lực lượng vũ trang của ta, thì làn sóng đấu tranh chính trị, binh vận cuồn cuộn đang dâng ở khắp nơi, khắp chốn, hãm chúng vào một tình thế không phương chống đỡ. Chủ trương rút bớt đồn bốt để tập trung lại, chiếm giữ các nơi quan trọng, mới xem ra thì rất hay; nhưng lại đưa ra giữa lúc đang có cao trào diệt đồn, phá bốt, mở rộng vùng giải phóng, với khẩu hiệu hừng hực khí thế tiến công: ?oXã giải phóng xa, huyện giải phóng huyện?, khác gì diều gặp gió, ngày cứ bốc lên cao. Vì vậy, mà chính họ cũng phải thừa nhận là tình hình an ninh của đồng bằng đang đi xuống nhanh chóng, có gia tốc. Đã thế, như ta thường nói: ?oTai hoạ không đến một mình?. Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà, ngồi ở Sài Gòn, rất ít thông cảm với những khó khăn của dưới, nên cứ nay thì đòi rút, mai thì điều động hết đơn vị này đến đơn vị khác, làm cho ruột đã rỗng, càng rỗng thêm: quân khu mới dồn lên được 16 tiểu đoàn, 5 đại đội địa phương và một số kha khá trung đội nghĩa quân, thì lại phải đưa lên trên để làm quân bổ sung. Giữa lúc bê bối này, chừng ấy đơn vị chẳng thấm vào đâu, chẳng khác gì tiền vào nhà khó, gió vào nhà trống.
    Trong 7 tỉnh vùng đồng bằng: Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, liên tiếp nổ ra hàng nghìn cuộc đấu tranh trực diện với hàng chục vạn người tham gia. Cái mới lúc bấy giờ là có cả đồng bào dân tộc ít người và gia đình binh sĩ cùng tham gia. Ở Trà Vinh, có lần đã huy động gần hai vạn sư sãi-đa số là người Việt gốc Miên-ra đấu tranh, giành giật lại hàng trăm thanh niên bị bắt lính; bắt bồi thường hàng triệu đồng bạc đồng thời trừng trị những ác ôn có nợ máu. Trước thế tiến công quân sự, chính trị, các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo chặt chẽ một phong trào binh vận rộng lớn; ban đầu còn lẻ tẻ từng người, từng gia đình; nhưng về sau, hình thành những tập thể, thôn xóm, rồi lan rộng ra đến cả khu vực. Chẳng những chỉ có vận động, lôi kéo người thân về nhà làm ăn, mà còn hù dọa, làm tan rã hàng ngàn tên địch. Ở Trà Cú, đồng bào và sư sãi đã phá ra một làn cả 11 đồn bốt nguỵ. Bọn ác ôn bắn chết hai đồng bào Khơ Me. Bất chấp tục lệ cổ truyền, họ không đem thiêu xác mà lại đem chôn, cắm bia, phát động căm thù, tố cáo tội ác. Đàn áp, khủng bố cũng không uy hiếp nổi tinh thần của nhân dân, mà trái lại, chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Để cắt đứt đường giao thông thuỷ, đồng bào Khu 9 phát huy truyền thống và kinh nghiệm hồi kháng chiến chống Pháp, đã vận động một chiến thuật rất độc đáo: đắp cản-ngăn sông, chặn tàu địch, cắt những con đường vận chuyển có tính chất chiến lược của chúng như kênh Măng Thích ở Vĩnh Long, kênh Xáng Xẻo Rô ở Rạch Giá. Lấp sông không còn là một câu chuyện huyền thoại nữa rồi!
    Ở Long Xuyên, đồng bào Hoà hảo chống tăng thuế dưới chiêu bài ủng hộ những đồng bào bị nạn cộng sản, buộc đối phương phải nhượng bộ; vận động phòng vệ dân sự trả súng về nhà. Quyết liệt hơn nữa đồng bào Châu Thành dùng dao, búa, gậy gộc, chặn xe M.113 trên đường chúng đi càn quét phá hoại mùa màng.
    Phong trào tòng quân, gia nhập lực lượng vũ trang rất sôi nổi. Khác hẳn với những năm trước, bước vào năm 1975, lực lượng vũ trang ở đồng bằng phát triển rất nhanh. Ở Sóc Trăng, Lịch Hội thượng, tổ chức cơ sở vốn rất yếu, đến nay quần chúng tự nguyện đưa con em mình đến để xây dựng ba đại đội, trong một thời gian rất ngắn. Hàng ngàn quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng, phục vụ chiến đấu. Được bộ đội địa phương hỗ trợ, quần chúng đã diệt đồn Bằng Lăng, làm chủ cùng một lúc năm ấp chiến lược.
    Đây là những việc xưa nay chưa từng có.
    Như thế đó, trong lúc ở Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, ta giải phóng lần lượt hết nơi này đến nơi khác, thì trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, sự phối hợp cũng rất nhịp nhàng, buộc đối phường phải bị động đối phó, khi thì quay sang phía tây, khi thì chuyển sang phía đông, ngược lên phía bắc. Ta tạo thế gom dần đối phương lại, mở ra nhiều địa bàn đứng chân rất vững chắc, dần dần áp sát Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai lực lượng lớn sau này.
    Các tỉnh ở đồng bằng, tuy không có những trận thôi động, những đã kết hợp rất tài tình ba mũi giáp công, đẩy cuộc chiến tranh nhân dân lên đỉnh cao chưa từng có, làm ruỗng bên trong, kìm chặt chủ lực, không cho một người nào trong tổng số hơn 20 vạn quân, cả chủ lực lãn địa phương lọt được về Sài Gòn.
    Thực chất của khái niệm ?oung thối hoá?, như họ đã có lần nói đến là như vậy.

Chia sẻ trang này