1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiến tới kỉ niệm 31 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-Đại thắng mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi forza_vn, 18/11/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ta bước vào đợt 2, không được suôn sẻ lắm: một số nơi bị sượng ngay từ đầu; nhiều điểm then chốt không dứt điểm được, đánh viện cũng không gọn, tốc độ phát triển bị chững lại.
    Đêm 10 tháng 3, ở Vĩnh Tra, trung đoàn 3 mở màn không diệt được yếu khu Thày Phó, do liên đoàn bảo an 945 đóng giữ. Hôm sau, trung đoàn 2 quân đội Cộng hoà từ Cần Long tiến vào Vĩnh Xuân để tiếp viện cho yếu khu, thì tiểu đoàn 1 của ta lại đánh hụt, chỉ tiêu hao được vài chục tên. Mãi đến ba ngày sau, cả 2 trung đoàn mới đánh thiệt hại nặng được hai tiểu đoàn. Chiến sự kéo dài mãi đến ngày 17 tháng 3. Bị uy hiếp nặng, chúng mới chịu rút cả yếu khu Thày Phó chạy về Vĩnh Xuân, ta giải phóng 2 xã Hữu Thành và Thuận Thới.
    Đêm 11 tháng 3, quân khu tập trung 2 trung đoàn diệt yếu khu Ba Càng, chi khu Cái Vôn, cắt quốc lộ 4; nhưng chỉ diệt được một bộ phận nhỏ bên trong. Trong lúc đó, lực lượng tỉnh, kết hợp ba mũi giáp công, chuyển sang diệt các phân chi khu, giải phóng một số xã như My Thuận A-B; làm chủ tỉnh lộ 2 Cái Vôn-Ba Càng và Cái Vôn-Bến Bắc. Địch tập trung hai trung đoàn chủ lực, bốn tiểu đoàn bảo an, hai chi đoàn, hai chiến đoàn ra sức giải toả lộ nên ta chỉ làm chủ được từng đoạn, từng thời gian.
    Về phía tây, trung đoàn 20 mở màn không diệt được căn cứ Bà Đầm, chuyển sang diệt điểm Đồng Tháo, vây cụm Thái Lài để diệt viện, địch không đi, ta gỡ hơn 5 đồn, giải phóng hoàn toàn xã Trường Xuân, thị xã ô Môn, sát Thái Lai. Trung đoàn 10 và 2 tiểu đoàn của tỉnh Cần Thơ không diệt được chi khu 1.000, chuyển sang gỡ các đồn bốt tạo ra những lõm giải phóng ép dần đối phương lại? Như vậy tuy không diệt được như kế hoạch, nhưng tất cả các tiểu đoàn của sư đoàn 21 quân đội cộng hoà đều bị thiệt hại nạng. Ta đã áp sát lộ vòng cung, uy hiếp Cần Thơ. Sư đoàn 21 và 1 trung đoàn của sư đoàn 7, thiết đoàn 9 và 6 tiểu đoàn bảo an, hai giang đoàn phải co về giữ thị xã, bỏ Chương Thiện và hành lang đi K.8, tạo ra thế hết sức thuận lợi cho ta sau này.
    Tình hình chiến sự diễn ra như trên, phản ánh rất trung thực so sánh lực lượng đôi bên, trong lúc này, ở tại khu vực này. Ta chưa hơn đối phương về lực, chưa diệt gọn được đơn vị nào; nhưng tất cả đơn vị quân đội Cộng hoà từ chủ lực đến địa phương, ít nhiều đều bị thiệt hại nặng, trong cái thế chung, chúng rệu dần. Rệu và chưa rã hẳn, chúng còn cố gắng, còn lắm âm mưu.
    nếu Sài Gòn là đầu não của chính quyền Thiệu, thì đồng bằng sông Cửu Long là cái dạ dày. Vùng đồng bằng mầu mỡ này, không những chỉ cung cấp lúa gạo cho cả nước, mà còn là một nguồn nhân lực rất dồi dào. Đặc biệt khi cả giải đất miền Trung rơi vào tay Quân giải phóng, hết khu vực này đến khu vực khác, thì tầm quan trọng của vùng đồng bằng duy nhất còn lại này, càng được nâng cao thêm một bước nữa.
    Sau khi mất Tây Nguyên, Mỹ, Thiệu nghĩ ngay đến Cần Thơ. Thị xã này cũng nằm trong danh mục các mục tiêu của ta năm 1975, theo kế hoạch họ nắm được. Ngoài ra, Vĩnh Long, Mỹ Tho, quốc lộ 4 cũng đều có liên quan mật thiết với nhau.
    Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh mới vùng 4 chiến thuật, gấp rút bố trí lại lực lượng. Ngoài Cần Thơ ra, ông ta tập trung sư đoàn 9 giữ Kiến Tường, Gò Công Mỹ Tho, mà đối tượng chính là sư đoàn 5 Quân giải phóng, sư đoàn 7 giữ phần còn lại của Định Tường. Với các tỉnh còn lại: Châu Đốc, An Giang, Vĩnh Bình, Kiên Giang, Vĩnh Long, thì họ lại có sáng kiến tổ chức ra các bộ tư lệnh đặc nhiệm Quân đoàn 4, cònll thì lấy ở trong các liên đoàn bảo an ra. Khốn khổ cho các bộ tư lệnh này, có tiếng mà không có miếng, vì có còn lực lượng nào nữa đâu: 9 tiểu đoàn bảo an định lấy lên thì phải tăng cường ngay cho 9 trung đoàn của 3 sư đoàn chủ lực, để mỗi trung đoàn có được 4 tiểu đoàn và mỗi sư đoàn có được 4 trung đoàn; còn kế hoạch đôn 15 liên đoàn thành 15 trung đoàn độc lập trực thuộc quân đoàn, thì chỉ mới có trên giấy tờ; vì bắt không ra lính. Phong trào đấu tranh chính trị, binh vận đang lên mạnh. Vấn đề đôn quân xây dựng lực lượng như trên nếu đặt ra và thực hiện trước đây một năm, hay là 5, 7 tháng, thì có thể còn có kết quả chút ít; chứ bây giờ mới đề ra, thì đã quá muộn màng! Trong lúc đối phương đang rối như gà mắc tóc, phải lo đối phó với hoạt động của các lực lượng vũ trang của ta, thì làn sóng đấu tranh chính trị, binh vận cuồn cuộn đang dâng ở khắp nơi, khắp chốn, hãm chúng vào một tình thế không phương chống đỡ. Chủ trương rút bớt đồn bốt để tập trung lại, chiếm giữ các nơi quan trọng, mới xem ra thì rất hay; nhưng lại đưa ra giữa lúc đang có cao trào diệt đồn, phá bốt, mở rộng vùng giải phóng, với khẩu hiệu hừng hực khí thế tiến công: ?oXã giải phóng xa, huyện giải phóng huyện?, khác gì diều gặp gió, ngày cứ bốc lên cao. Vì vậy, mà chính họ cũng phải thừa nhận là tình hình an ninh của đồng bằng đang đi xuống nhanh chóng, có gia tốc. Đã thế, như ta thường nói: ?oTai hoạ không đến một mình?. Bộ Tổng tham mưu quân đội Cộng hoà, ngồi ở Sài Gòn, rất ít thông cảm với những khó khăn của dưới, nên cứ nay thì đòi rút, mai thì điều động hết đơn vị này đến đơn vị khác, làm cho ruột đã rỗng, càng rỗng thêm: quân khu mới dồn lên được 16 tiểu đoàn, 5 đại đội địa phương và một số kha khá trung đội nghĩa quân, thì lại phải đưa lên trên để làm quân bổ sung. Giữa lúc bê bối này, chừng ấy đơn vị chẳng thấm vào đâu, chẳng khác gì tiền vào nhà khó, gió vào nhà trống.
    Trong 7 tỉnh vùng đồng bằng: Cà Mau, Sóc Trăng, Rạch Giá, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ, liên tiếp nổ ra hàng nghìn cuộc đấu tranh trực diện với hàng chục vạn người tham gia. Cái mới lúc bấy giờ là có cả đồng bào dân tộc ít người và gia đình binh sĩ cùng tham gia. Ở Trà Vinh, có lần đã huy động gần hai vạn sư sãi-đa số là người Việt gốc Miên-ra đấu tranh, giành giật lại hàng trăm thanh niên bị bắt lính; bắt bồi thường hàng triệu đồng bạc đồng thời trừng trị những ác ôn có nợ máu. Trước thế tiến công quân sự, chính trị, các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo chặt chẽ một phong trào binh vận rộng lớn; ban đầu còn lẻ tẻ từng người, từng gia đình; nhưng về sau, hình thành những tập thể, thôn xóm, rồi lan rộng ra đến cả khu vực. Chẳng những chỉ có vận động, lôi kéo người thân về nhà làm ăn, mà còn hù dọa, làm tan rã hàng ngàn tên địch. Ở Trà Cú, đồng bào và sư sãi đã phá ra một làn cả 11 đồn bốt nguỵ. Bọn ác ôn bắn chết hai đồng bào Khơ Me. Bất chấp tục lệ cổ truyền, họ không đem thiêu xác mà lại đem chôn, cắm bia, phát động căm thù, tố cáo tội ác. Đàn áp, khủng bố cũng không uy hiếp nổi tinh thần của nhân dân, mà trái lại, chỉ như đổ thêm dầu vào lửa. Để cắt đứt đường giao thông thuỷ, đồng bào Khu 9 phát huy truyền thống và kinh nghiệm hồi kháng chiến chống Pháp, đã vận động một chiến thuật rất độc đáo: đắp cản-ngăn sông, chặn tàu địch, cắt những con đường vận chuyển có tính chất chiến lược của chúng như kênh Măng Thích ở Vĩnh Long, kênh Xáng Xẻo Rô ở Rạch Giá. Lấp sông không còn là một câu chuyện huyền thoại nữa rồi!
    Ở Long Xuyên, đồng bào Hoà hảo chống tăng thuế dưới chiêu bài ủng hộ những đồng bào bị nạn cộng sản, buộc đối phương phải nhượng bộ; vận động phòng vệ dân sự trả súng về nhà. Quyết liệt hơn nữa đồng bào Châu Thành dùng dao, búa, gậy gộc, chặn xe M.113 trên đường chúng đi càn quét phá hoại mùa màng.
    Phong trào tòng quân, gia nhập lực lượng vũ trang rất sôi nổi. Khác hẳn với những năm trước, bước vào năm 1975, lực lượng vũ trang ở đồng bằng phát triển rất nhanh. Ở Sóc Trăng, Lịch Hội thượng, tổ chức cơ sở vốn rất yếu, đến nay quần chúng tự nguyện đưa con em mình đến để xây dựng ba đại đội, trong một thời gian rất ngắn. Hàng ngàn quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng, phục vụ chiến đấu. Được bộ đội địa phương hỗ trợ, quần chúng đã diệt đồn Bằng Lăng, làm chủ cùng một lúc năm ấp chiến lược.
    Đây là những việc xưa nay chưa từng có.
    Như thế đó, trong lúc ở Trị Thiên, Khu 5, Tây Nguyên, ta giải phóng lần lượt hết nơi này đến nơi khác, thì trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, sự phối hợp cũng rất nhịp nhàng, buộc đối phường phải bị động đối phó, khi thì quay sang phía tây, khi thì chuyển sang phía đông, ngược lên phía bắc. Ta tạo thế gom dần đối phương lại, mở ra nhiều địa bàn đứng chân rất vững chắc, dần dần áp sát Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai lực lượng lớn sau này.
    Các tỉnh ở đồng bằng, tuy không có những trận thôi động, những đã kết hợp rất tài tình ba mũi giáp công, đẩy cuộc chiến tranh nhân dân lên đỉnh cao chưa từng có, làm ruỗng bên trong, kìm chặt chủ lực, không cho một người nào trong tổng số hơn 20 vạn quân, cả chủ lực lãn địa phương lọt được về Sài Gòn.
    Thực chất của khái niệm ?oung thối hoá?, như họ đã có lần nói đến là như vậy.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 16: Đường vào Nam Bộ
    Toàn bộ chiến trường miền Nam đang rung chuyển! Ngày 28 tháng 3 năm 1975, đồng chí Lê Đức Thọ lên đường vào Nam, mang theo nghị quyết của Bộ Chính trị ngay 25 tháng 3, với tinh thần là giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975, thì hôm sau 29 tháng 3, ta giải phóng Đà Nẵng.
    Bộ Chính trị lại họp, và đến ngày 1 tháng 4 năm 1975 có nhận định và quyết tâm mới:
    ?oChúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã thêm 35 phần trăm sinh lực địch trong một thời gian không đầy ba tuần lễ; lần đầu tiên tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hai quân đoàn địch, tiêu diệt trên dưới 40 phần trăm lực lượng các binh quân chủng kỹ thuật hiện đại của chúng, thu và phá huỷ trên 40 phần trăm cơ sở vật chất, hậu cần của địch, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng sốdân giải phóng lên gần 8 triệu người??
    Đặc biệt, trong chiến dịch Huế-Đà Nẵng, đã xuất hiện rõ hiện tượng kết hợp giữa tiến công quân sự và phần nào nổi dậy của quần chúng, trong tình hình nhân dân căm phẫn cao độ, chỉ chờ có cơ hội là tiến lên, và được tổ chức chặt chẽ, chuẩn bị tốt. Đại bộ phận binh lính địch đã mất tinh thần chiến đấu; nên mặc dù với lực lượng ít hơn, quân và dân ta đã kịp thời và táo bạo tiến công, nên đã nhanh chóng tiêu diệt căn cứ liên hiệp lớn vào bậc nhất, nhì ở miền Nam.
    Sau những thắng lợi nói trên, lực lượng chủ lực của ta lớn mạnh vược bậc, thương vong ít, lực lượng bổ sung dồi dào, vũ khí đạn được tiêu hao không đáng kể mà số thu được thì rất nhiều; tinh thần quyết chiến quyết thắng, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu cũng được nâng lên.
    Các lực lượng địa phương cũng theo cái đà chung ấy mà lớn lên như thổi. Các đại đội huyện, từ chỗ lèo tèo chỉ có vài ba chục người với vài mươi khẩu súng; các tiểu đoàn tỉnh quân số trên dưới 100, vũ khí trang bị toàn là súng trường và lựu đạn, hoạ hằn lắm mới được vài khẩu B.40, B.41 hay cối 81, thì nay tỉnh nào cũng có một, hai trung đoàn, có đơn vị trợ chiến, quân số đầy đủ; huyện có tiểu đoàn, trang bị đầy đủ. Kể về trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng lớn thì còn non, nhưng với nhiệm vụ truy quét tàn binh địch, giữ gìn trật tự trị an, thì không có thể đơn vị chủ lực nào sánh kịp, bởi lẽ họ thông thuộc địa hình, nơi nào cũng quen người, quen mặt. Ở vùng giải phóng, lực lượng này hoàn toàn có khả năng thay thế cho các đơn vị chủ lực, để những đơn vị này cơ động sang chiến trường khác. Nhìn chung, trên toàn bộ chiến trường, cả thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị của ta đã lớn mạnh, áp đảo đối phương; còn chúng thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ nhanh. Mỹ tỏ ra bất lực, và dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế nguy ngập này. Điện của Bộ Chính trị gửi cho Trung ương Cục và anh Tuấn có đoạn viết: ?oCuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn-Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu. Cách mạng ta đang trong thời kỳ phát triển sôi nổi nhất, với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm?.
    Quyết tâm của ta là:
    ?oNắm vững thời cơ chiến lược, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng Tư năm nay, không thể để chậm. Phải hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc.
    Phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược, kết hợp tiến công và nổi dậy, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra, trên từng hướng và trong từng trận, phải tập trung lực lượng áp đảo, tiêu diệt gọn, làm tan rã nhanh quân địch, tận dụng thời cơ và thuận lợi mới mà dồn dập tiến công, phát triển thắng lợi.
    Trước mắt, như trước đã định, nay cần phải làm nhanh hơn, gất rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4 và áp sát Sài Gòn; đồng thời phải nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông và đông nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu.
    Tổ chức sẵn sàng những đơn vị chủ lực, được trang bị binh khí kỹ thuật mạnh, để lúc thời cơ xuất hiện, thì đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm, thành phố Sài Gòn.
    Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thúc đẩy các lực lượng quân sự, chính trị của ta hành động mạnh bạo khẩn trương, phát triển tiến công và nổi dậy, tiêu diệt chi khu quận lỵ, phá banh từng mảng lớn hệ thống kìm kẹp của địch, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng ở các khu vực trọng điểm.
    Muốn thực hiện phương hướng chiến lược nói trên cho kịp thời gian, thì ngay bây giờ, cần vạch kế hoạch hành động táo bạo với lực lượng sẵn có tại chiến trường miền Đông.
    Quân uỷ Trung ương đã quyết định nhanh chóng chuyển quân đoàn Tây Nguyên cùng các binh khí kỹ thuật vào, đồng thời ra lệnh đưa quân đoàn Quyết Thắng vào. Những để tranh thủ thời gian, không nên chờ đợi lực lượng tăng cường đến nơi thật đầy đủ, cũng cần tránh điều động quân không hợp lý, làm ảnh hưởng đến kế hoạch đánh địch??.
    Cũng trong cuộc họp này, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ tư lệnh và Đảng uỷ mặt trận Sài Gòn-Gia Định để tập trung thống nhất lãnh đạo, chỉ huy. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí:
    Đại tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh trưởng.
    Đồng chí Phạm Hùng, chính uỷ.
    Các đồng chí: Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn phó tư lệnh. Lê Đức Anh, phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng, Lê Quang Hoà phó chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị.
    Do công tác bảo đảm vật chất cho chiến dịch sắp đến rất lớn và rất phức tạp, cần phải tập trung huy động sức mạnh tổng hợp của cả nước, Bộ Chính trị còn quyết định thành lập Hội đồng chi viện chiến trường do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị làm phó chủ tịch và một số khá đông các bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên các uỷ ban của Đảng và Nhà nước làm uỷ viên.
    Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng tham mưu của ông ta, lại có lập luận khác hẳn: ?oMặt trận đã lấy được 11 tỉnh ở miền Trung, thì ít ra cũng phải mất 11 trung đoàn để quản lý vùng mới giải phóng, sẽ không còn lực lượng đưa vào Nam Bộ. Mà muốn đưa lực lượng lớn từ miền Bắc vào thì phải có thời gian?. Sau những ?obiến cố? ở vùng 1, vùng 2, họ thừa nhận mới mất có 35 phần trăm lực lượng của một đội quân đông hơn 1 triệu người; và nếu chỉ tính riêng khu vực Sài Gòn-Gia Định và Phan Rang, thì còn những 30 vạn quân chủ lực, được trang bị tương đối khá. Cùng với gần 20 vạn chủ lực ở đồng bằng sông Cửu Long và trên 1 triệu dân vệ được vũ trang từ 1 phần 3 đến một nửa, thì lực cũng không đến nỗi nào. Vốn liếng hãy còn kha khá. Muốn tiến công vào toàn bộ lực lượng này. Quân giải phóng cần phải có những điều kiện gì? Họ đặt câu hỏi: ?~Mặt trận lấy đâu ra lực lượng và tiến công? Hơn nữa, để đảm bảo cho một lực lượng chiến đấu lớn như vậy, thì phải có một lực lượng phục vụ chiến đấu đông hơn gấp bội-có thể lên đến hàng triệu người-thì Mặt trận làm sao mà giải quyết được?. Và cũng tự trả lời luôn:
    ?oVới phương tiện hiện có của chúng ta (nguỵ) hùng hậu về máy bay, tàu vận tải và sẵn có kho tàng tại chỗ, Quân giải phóng cũng phải mất ít nhất một tháng mới điều động được một quân đoàn từ Đà Nẵng vào miền Đông Nam Bộ. ********* phải mất ít nhất 2 tháng, mới đưa được lực lượng vào đến đây. Và thời tiết sẽ ủng hộ chúng ta?.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 16: Đường vào Nam Bộ
    Toàn bộ chiến trường miền Nam đang rung chuyển! Ngày 28 tháng 3 năm 1975, đồng chí Lê Đức Thọ lên đường vào Nam, mang theo nghị quyết của Bộ Chính trị ngay 25 tháng 3, với tinh thần là giải phóng miền Nam trước mùa mưa năm 1975, thì hôm sau 29 tháng 3, ta giải phóng Đà Nẵng.
    Bộ Chính trị lại họp, và đến ngày 1 tháng 4 năm 1975 có nhận định và quyết tâm mới:
    ?oChúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã thêm 35 phần trăm sinh lực địch trong một thời gian không đầy ba tuần lễ; lần đầu tiên tiêu diệt và loại khỏi vòng chiến đấu hai quân đoàn địch, tiêu diệt trên dưới 40 phần trăm lực lượng các binh quân chủng kỹ thuật hiện đại của chúng, thu và phá huỷ trên 40 phần trăm cơ sở vật chất, hậu cần của địch, giải phóng 12 tỉnh, đưa tổng sốdân giải phóng lên gần 8 triệu người??
    Đặc biệt, trong chiến dịch Huế-Đà Nẵng, đã xuất hiện rõ hiện tượng kết hợp giữa tiến công quân sự và phần nào nổi dậy của quần chúng, trong tình hình nhân dân căm phẫn cao độ, chỉ chờ có cơ hội là tiến lên, và được tổ chức chặt chẽ, chuẩn bị tốt. Đại bộ phận binh lính địch đã mất tinh thần chiến đấu; nên mặc dù với lực lượng ít hơn, quân và dân ta đã kịp thời và táo bạo tiến công, nên đã nhanh chóng tiêu diệt căn cứ liên hiệp lớn vào bậc nhất, nhì ở miền Nam.
    Sau những thắng lợi nói trên, lực lượng chủ lực của ta lớn mạnh vược bậc, thương vong ít, lực lượng bổ sung dồi dào, vũ khí đạn được tiêu hao không đáng kể mà số thu được thì rất nhiều; tinh thần quyết chiến quyết thắng, kinh nghiệm chỉ huy và chiến đấu cũng được nâng lên.
    Các lực lượng địa phương cũng theo cái đà chung ấy mà lớn lên như thổi. Các đại đội huyện, từ chỗ lèo tèo chỉ có vài ba chục người với vài mươi khẩu súng; các tiểu đoàn tỉnh quân số trên dưới 100, vũ khí trang bị toàn là súng trường và lựu đạn, hoạ hằn lắm mới được vài khẩu B.40, B.41 hay cối 81, thì nay tỉnh nào cũng có một, hai trung đoàn, có đơn vị trợ chiến, quân số đầy đủ; huyện có tiểu đoàn, trang bị đầy đủ. Kể về trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng lớn thì còn non, nhưng với nhiệm vụ truy quét tàn binh địch, giữ gìn trật tự trị an, thì không có thể đơn vị chủ lực nào sánh kịp, bởi lẽ họ thông thuộc địa hình, nơi nào cũng quen người, quen mặt. Ở vùng giải phóng, lực lượng này hoàn toàn có khả năng thay thế cho các đơn vị chủ lực, để những đơn vị này cơ động sang chiến trường khác. Nhìn chung, trên toàn bộ chiến trường, cả thế chiến lược và lực lượng quân sự, chính trị của ta đã lớn mạnh, áp đảo đối phương; còn chúng thì đang đứng trước nguy cơ sụp đổ nhanh. Mỹ tỏ ra bất lực, và dù có tăng viện cũng không thể cứu vãn được tình thế nguy ngập này. Điện của Bộ Chính trị gửi cho Trung ương Cục và anh Tuấn có đoạn viết: ?oCuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam không những đã bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, mà thời cơ để mở tổng tiến công và nổi dậy tại Sài Gòn-Gia Định đã chín muồi. Từ giờ phút này, trận quyết chiến chiến lược cuối cùng của quân và dân ta đã bắt đầu. Cách mạng ta đang trong thời kỳ phát triển sôi nổi nhất, với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm?.
    Quyết tâm của ta là:
    ?oNắm vững thời cơ chiến lược, thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng Tư năm nay, không thể để chậm. Phải hành động thần tốc, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng. Phải tiến công ngay lúc địch hoang mang, suy sụp tập trung lực lượng lớn hơn nữa vào những mục tiêu chủ yếu trên từng hướng, trong từng lúc.
    Phát huy sức mạnh của ba đòn chiến lược, kết hợp tiến công và nổi dậy, từ ngoài đánh vào, từ trong đánh ra, trên từng hướng và trong từng trận, phải tập trung lực lượng áp đảo, tiêu diệt gọn, làm tan rã nhanh quân địch, tận dụng thời cơ và thuận lợi mới mà dồn dập tiến công, phát triển thắng lợi.
    Trước mắt, như trước đã định, nay cần phải làm nhanh hơn, gất rút tăng thêm lực lượng ở hướng tây Sài Gòn, thực hiện chia cắt và bao vây chiến lược, triệt hẳn đường số 4 và áp sát Sài Gòn; đồng thời phải nhanh chóng tập trung lực lượng ở hướng đông và đông nam, đánh chiếm những mục tiêu quan trọng, thực hiện bao vây, cô lập hoàn toàn Sài Gòn từ phía Long Khánh, Bà Rịa, Vũng Tàu.
    Tổ chức sẵn sàng những đơn vị chủ lực, được trang bị binh khí kỹ thuật mạnh, để lúc thời cơ xuất hiện, thì đánh chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở trung tâm, thành phố Sài Gòn.
    Ở đồng bằng sông Cửu Long, cần thúc đẩy các lực lượng quân sự, chính trị của ta hành động mạnh bạo khẩn trương, phát triển tiến công và nổi dậy, tiêu diệt chi khu quận lỵ, phá banh từng mảng lớn hệ thống kìm kẹp của địch, nhanh chóng mở rộng vùng giải phóng ở các khu vực trọng điểm.
    Muốn thực hiện phương hướng chiến lược nói trên cho kịp thời gian, thì ngay bây giờ, cần vạch kế hoạch hành động táo bạo với lực lượng sẵn có tại chiến trường miền Đông.
    Quân uỷ Trung ương đã quyết định nhanh chóng chuyển quân đoàn Tây Nguyên cùng các binh khí kỹ thuật vào, đồng thời ra lệnh đưa quân đoàn Quyết Thắng vào. Những để tranh thủ thời gian, không nên chờ đợi lực lượng tăng cường đến nơi thật đầy đủ, cũng cần tránh điều động quân không hợp lý, làm ảnh hưởng đến kế hoạch đánh địch??.
    Cũng trong cuộc họp này, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ tư lệnh và Đảng uỷ mặt trận Sài Gòn-Gia Định để tập trung thống nhất lãnh đạo, chỉ huy. Bộ tư lệnh chiến dịch gồm các đồng chí:
    Đại tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh trưởng.
    Đồng chí Phạm Hùng, chính uỷ.
    Các đồng chí: Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn phó tư lệnh. Lê Đức Anh, phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng, Lê Quang Hoà phó chính uỷ kiêm chủ nhiệm chính trị.
    Do công tác bảo đảm vật chất cho chiến dịch sắp đến rất lớn và rất phức tạp, cần phải tập trung huy động sức mạnh tổng hợp của cả nước, Bộ Chính trị còn quyết định thành lập Hội đồng chi viện chiến trường do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm chủ tịch, Phó Thủ tướng Lê Thanh Nghị làm phó chủ tịch và một số khá đông các bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên các uỷ ban của Đảng và Nhà nước làm uỷ viên.
    Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng tham mưu của ông ta, lại có lập luận khác hẳn: ?oMặt trận đã lấy được 11 tỉnh ở miền Trung, thì ít ra cũng phải mất 11 trung đoàn để quản lý vùng mới giải phóng, sẽ không còn lực lượng đưa vào Nam Bộ. Mà muốn đưa lực lượng lớn từ miền Bắc vào thì phải có thời gian?. Sau những ?obiến cố? ở vùng 1, vùng 2, họ thừa nhận mới mất có 35 phần trăm lực lượng của một đội quân đông hơn 1 triệu người; và nếu chỉ tính riêng khu vực Sài Gòn-Gia Định và Phan Rang, thì còn những 30 vạn quân chủ lực, được trang bị tương đối khá. Cùng với gần 20 vạn chủ lực ở đồng bằng sông Cửu Long và trên 1 triệu dân vệ được vũ trang từ 1 phần 3 đến một nửa, thì lực cũng không đến nỗi nào. Vốn liếng hãy còn kha khá. Muốn tiến công vào toàn bộ lực lượng này. Quân giải phóng cần phải có những điều kiện gì? Họ đặt câu hỏi: ?~Mặt trận lấy đâu ra lực lượng và tiến công? Hơn nữa, để đảm bảo cho một lực lượng chiến đấu lớn như vậy, thì phải có một lực lượng phục vụ chiến đấu đông hơn gấp bội-có thể lên đến hàng triệu người-thì Mặt trận làm sao mà giải quyết được?. Và cũng tự trả lời luôn:
    ?oVới phương tiện hiện có của chúng ta (nguỵ) hùng hậu về máy bay, tàu vận tải và sẵn có kho tàng tại chỗ, Quân giải phóng cũng phải mất ít nhất một tháng mới điều động được một quân đoàn từ Đà Nẵng vào miền Đông Nam Bộ. ********* phải mất ít nhất 2 tháng, mới đưa được lực lượng vào đến đây. Và thời tiết sẽ ủng hộ chúng ta?.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thực ra, thì với quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị, những con số mà họ ước tính, đưa ra như trên hãy còn là quá thấp. Ta không phải chỉ sử dụng có 12 sư đoàn bộ binh như kế hoạch ban đầu đề ra, mà Bộ Tổng tham mưu phải tập trung đủ 15 sư đoàn, không kể lực lượng dự bị từ xa đứng ở bắc vĩ tuyến 17, để đề phòng trường hợp Mỹ liều lĩnh nhảy vào một vài sư đoàn thuỷ quân lục chiến, lấy trong lực lượng răn đe, để cứu nguy cho Thiệu. So với chiến dịch nam Tây Nguyên, số đầu đơn vị chỉ gấp 5 lần, nhưng quân số thì lại tăng lên gấp 7 lần; binh khí, truy kích đưa ra sử dụng lần này, cũng gấp 10 lần; còn lực lượng vận tải thì tăng vọt lên rất nhiều. Lực lượng, khối lượng vật chất thì cứ tăng dần lên, mà thời gian thì cứ rút ngắn lại. Bao nhiêu cái khó khăn vất vả, đều từ đấy mà ra!
    Nhưng quyết tâm của Bộ Chính trị là quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân. Ý Đảng, lòng dân, là một.
    Được biết cuộc gặp gỡ giữa anh Lê Đức Thọ và các đồng chí lãnh đạo, các bộ tư lệnh ở các chiến trường miền Nam, trước đây định tổ chức tại Chư Leo vào đầu tháng 4 năm 1975 sẽ không có nữa, vì đồng chí Võ Chí Công vừa dẫn một đoàn cán bộ ở Khu 5 lên, định giúp cho tỉnh Đắc Lắc trong công tác tiếp quản. Đến Kon Tum phải cấp tốc quay trở về, vì chiến sự ở đồng bằng Khu 5 đang diễn ra rất khẩn truơng. Đồng chí Phạm Hùng ở Nam Bộ, cũng không ra được, vì lý do như trên. Anh Tuấn chỉ thị cho cơ quan A75.
    ?oTổ chức đưa toàn bộ Quân đoàn Tây Nguyên mới thành lập, và khối lượng vật chất hiện có ở đây vào Nam Bộ, càng sớm càng tốt. Đây là công tác trung tâm đột xuất của ta trong lúc này. Trước mắt, đưa ngay hai trung đoàn của sư đoàn 316 vào đứng ở nam Tây Ninh, chốt chặn, không chód 25 quân đội Cộng hoà về Sài Gòn. Chậm nhất, ngày 8 tháng 4, sư đoàn phải có mặt ở địa điểm quy định. Công việc ở đây, giao lại cho địa phương?.
    Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền đi trước, tranh thủ vào sớm để nắm tình hình, làm kế hoạch tác chiến; còn tôi thì ở lại làm kế hoạch chuyển quân, vật chất, rồi cùng vào với đoàn ngày hôm sau.
    Làm kế hoạch hành quân cho cả một quân đoàn đầy đủ, với bao nhiêu lực lượng tăng cường; vận chuyển toàn bộ một khối lượng vật chất khá lớn, từ Tây Nguyên vào Nam Bộ với những yêu cầu khá cụ thể, chính xác, mà tất cả mọi yếu tố đều ở ngoài tầm tay. Các sư đoàn đang trên đường truy kích địch, mỗi đơn vị đi theo một hướng. Sư đoàn 320 phải kéo dài đội hình gần 100 cây số từ Tây Nguyên đến Tuy Hoà; sư đoàn 10 đã vào đến Cam Ranh lại phải tìm và làm đường vòng qua núi để tránh địch ở Thành Sơn, rồi chuyển lên Đà Lạt, trên đường vào Nam Bộ. Riêng sư đoàn 316 thì còn ở lại trong tỉnh Đắc Lắc; nhưng các trung đoàn cũng phân tán mỗi đơn vị một ngả. Nói đến kho tàng, thì lại càng diệu vợi hơn, mỗi thứ một nơi: các loại đạn lớn của ta thì còn ở trong các kho ở phía bắc; đạn lớn của địch thứ thì Plây Cu, thứ thì ở Buôn Ma Thuột, nào đã ai kiểm kê để nắm được số lượng, chỉ biết một cách chung chung là khá nhiều, nhiều lắm, nhưng cũng chưa rõ là những loại gì. Phương tiện vận tải cũng còn nằm rải rác khắp núi rừng. Tai ác nhất là những trận mưa đầu mùa trên sườn phía tây dãy Trường Sơn đã bắt đầu. Giá như mọi lần thì phải mất cả tháng mới làm xong các kế hoạch nói trên nhưng bây giờ thì lại khác, thời gian phải tính bằng ngày bằng giờ. Thời gian là sức mạnh kia mà! Có những khó khăn, nhưng đồng thời cũng có những thuận lợi mới, trên những chặng đường, trong từng công tác. Địa bàn hoạt động của đoàn Trường Sơn không còn bó hẹp ở hai bên sườn núi phía đông và phía tây nữa; việc giải phóng Trị Thiên, đồng bằng Khu 5, đường quốc lộ 1 được khai thông, địa bàn hoạt động được mở rộng. Tổ chức vận chuyển phải thay đổi: một bộ phận lực lượng vận tải khá lớn dồn sang đường quốc lộ số 1.
    Cuối cùng rồi một kế hoạch cũng được phác thảo ra để phổ biến giao nhiệm vụ cho đơn vị và binh trạm vận tải trước khi đoàn lên đường vào Nam Bộ.
    Nghỉ đêm tại Đức Lập, trong một xóm đồng bào công giáo di cư vào Nam từ năm 1954. Tìm hiểu tình hình đồng bào ở đây, được viết có nhiều gia đình, có người thân đang công tác trong bộ máy chính quyền Thiệu, hay đi học ở bên Mỹ. Đặc biệt có cả gia đình một quận trưởng đương chức. Lần đầu tiên gặp anh em ta thái độ của nhiều người còn mặc cảm, giữ kẽ. Những người đứng tuổi thì tránh né, ít muốn tiếp chuyện với các ?oông cộng sản?. Những điều họ hiểu lầm về mình, trong những buổi đầu là rất bình thường. Qua những câu chuyện ngắn ngủi những câu trả lời nhát ngừng, hỏi đâu nói đấy, chúng tôi cũng được biết ít nhiều những luận điệu tuyên truyền của đối phương và các dấu ấn của nó đã in sâu vào tâm tư, tình cảm của đồng bào ta như thế nào. Đồng bào ở đây ít làm ruộng, sống chủ yếu dựa vào kinh tế vườn và rẫy. Hầu như nhà nào cũng có những mảnh vườn trồng cà phê, hồ tiêu và cây ăn quả. Sau trận mưa rào ban chiều, những hàng cà phê thẳng tắp, đơm bông trắng xoá, nổi bật lên màu xanh đậm của cây vườn, trông rất đẹp. Qua câu chuyện mới rõ thêm đồng bào có khả năng tự lo liệu lấy một phần khá lớn lương thực, và chỉ trong vài ba tháng nữa, sẽ bắt đầi thu hoạch mùa ngô sớm.
    Đêm nằm suy nghĩ, tôi vô cùng áy náy, lo cho anh em ở sư đoàn 316, trong những giờ phút khẩn trương này, đang gặp vô vàn khó khăn. Mang tiếng là một sư đoàn chủ lực của Bộ, hành quân đi chiến đấu, mà phương tiện vận tải thì lại thiếu, mặc dù vừa rồi mới được trang bị thêm một số xe chiến lợi phẩm. Cục hậu cần Quân đoàn Tây Nguyên thì đang lo bảo đảm cho sư đoàn 320 và sư đoàn 10 cũng đã khướt, nói gì đến sư đoàn này. Dù sao cũng là đơn vị mới được ghép vào biên chế của Quân đoàn được vài hôm nay. Tôi không bằng lòng với kế hoạch hành quân đã phổ biến cho đơn vị vì thấy quá sơ sài: toàn giả thiết cả. Tôi xin phép anh Tuấn được trở lại Buôn Ma Thuột, ở đấy thêm mấy hôm nữa, để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của sư đoàn được đến đâu và sẽ vào sau với đoàn anh Lê Đức Thọ. Được đồng ý ngay, vì chính anh Tuấn cũng chưa được an tâm về vấn đề này.
    Trên đường đi ra, tôi gặp bộ phận tiền trạm của sư đoàn 316. Hỏi ra mới biết là cả đơn vị còn nằm chết dí tại chỗ, chờ xe của binh trạm đưa xuống theo kế hoạch mà trông mãi chẳng thấy tăm hơi.
    Tôi tìm đến binh trạm bộ, tạm đặt trong một góc rừng cà phê thì được báo cáo là cả một đoàn mấy trăm xe tải còn đang nằm ở Hạ Lào, không cách gì được khỏi qua đèo An Bum, vì mấy trận mưa vô cùng tai ác vừa qua.
    -Phải chờ cho đường sá khô ráo mới đi được. Đó là câu trả lời cuối cùng của đồng chí binh trạm trưởng.
    Thế thì biết bao giờ đơn vị mới có mặt ở chiến trường? Nhất thiết phải thực hiện đúng mệnh lệnh, đưa toàn bộ sư đoàn vào đúng địa điểm và thời gian. Do ở cơ quan tham mưu, nên tôi còn được biết là các lực lượng chủ lực của Miền, từ trước đến nay hoạt động trên đường quốc lộ số 1 và số 22 ở nam Tây Ninh, sẽ chuyển sang hoạt động ở địa bàn khác. Do đó đường 22 nói trên sẽ bị bỏ ngỏ. Sư đoàn 25 sẽ dễ dàng cơ động nếu Sài Gòn hay một hướng nào khác hoạt động sớm hơn và mạnh hơn.
    Tôi đưa vấn đề này ra bàn với đồng chí Y Blốc, vừa được thăng cấp đại tá, Chủ tịch Uỷ ban quân quản và đồng chí Huỳnh Văn Mẫn, bí thư cùng các đồng chí ở trong tổ chức công đoàn của tỉnh. Mọi người đều tỏ ra băn khoăn lo lắng và quyết định tạm thời trưng dụng tất cả các xe vận tải của địa phương, hay bất kể của ai từ đâu đến, để dùng vào việc chở quân trước mắt. Ở trong địa bầnnỳ, số xe vận tải khong phải ít, nhất là xe kéo gỗ thì rất nhiều. Mấy ngày qua, máy bay địch đã nhiều lần đến ném bom, nên một số lớn chủ xe đưa cả gia đình đi sơ tán trong các khu rừng ở chung quanh thị xã, mỗi chiếc xe biến thành một cái nhà lưu động. Ban quân quản phải tổ chức nhiều tổ cán bộ tung ra trên các đường Khánh Dương, Đức Lập, Buôn Hồ, Lạc Thiện, thu nhặt từng chiếc một. Hăng hái và đắc lực nhất là các anh em công nhân lái xe. Ông chủ nào đưa vợ con đi sơ tán ở khu rừng nào, họ đều biết cả. Từ ngày thị xã được giải phóng, chưa có công việc làm, đời sống chưa ổn định, vợ con nheo nhóc, phải chạy ăn từng bữa, nhưng khi nghe nói bộ đội cần, là họ xung phong đi ngay, không hề đòi hỏi, không hề tính toán thiệt hơn. Nhiều người khi được gọi đến, đã tự động tìm kiếm thêm phụ tùng, thậm chí cả nhiên liệu để đưa đến phục vụ. Anh em đều biết rằng, đã đi ra mặt trận là có nguy hiểm, vì máy bay dịch còn đánh phá dọc đường hành lang, nhưng vẫn một mực kiên quyết ra đi. Chỉ sau mấy tiếng đồng hồ, tập trung đủ số xe, bảo đảm cho toànbọ sư đoàn xuất phát theo kế hoạch.
    Dễ muôn phần không dân cũng chịu,
    Khó vạn lần dân liệu cũng xong.
    Xâm xẩm tối, đồng bào thị xã kéo nha ra đứng chật hai bên đường, không ngớt vỗ tay hoan hô bộ đội. Những chiếc xe chuyên dùng, cõng trên lưng những khoang thuyền của đơn vị công binh nặng nề theo sau những đơn vị cuối cùng của sư đoàn 10 rẽ về hướng Ninh Hoà, vừa qua mặt, thì tiếp đến là những chiếc xe ca, xe tải, chở đầy bộ binh của sư đoàn 316, đi về hướng Lộc Ninh. Dù không nói ra, nhưng ai cũng đoán được hướng và mục tiêu tiến công của binh đoàn Tây Nguyên trong những ngày sắp đến. Thoáng thấy bóng những người quen thân ngồi trong buồng lái, đám trẻ con ý ới gọi nhau, chỉ trỏ, vẫy tay, gọi đích danh tên từng người. Đứng ở ngã ba đường, chen chúc giữa đám đông, tôi nhìn ánh đèn pha ửng lên trên bầu trời, phía đông rồi phía tây, mà lòng rạo rực bồi hồi. Mặc dù trong bao nhiêu năm sống trong vòng kìm kẹp, nhưng địch không tài nào bưng bít nổi, dập tắt lòng yêu nước của đồng bào. Trên mảnh đất hiền lành này, 29 năm về trước, thiếu tá Ra-vi-ê, trong đội quân viễn chinh Pháp, đã chỉ huy trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5, từ Nam Bộ, theo đường 14 tiến ra, bắt đầu cuộc chinh phục miền Trung. Ngã sáu, Đình Lạc Giao, còn ghi lại bao tội ác của chúng. Chính tại nơi tôi đang đứng, một trăm chiến sĩ Ba Tơ đã hy sinh đến người cuối cùng, nêu cao tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Bao nhiêu năm trời đã trôi qua, nhưng người dân vẫn tạc dạ ghi lòng. Hàng năm, đến ngày 27 tháng 10 âm lịch, vẫn hương, đèn cúng vái. Pháp đi, Mỹ đến. Chủ nghĩa thực dân cũ và mới rắp tâm cắt lìa các dân tộc ở đây ra khỏi đại gia đình các dân tộc Việt Nam, hòng vĩnh viễn ngự trị trên dải đất nam Đông Dương này. Họ quen mất một điều: những người mà họ đã nhồi nhét những lý tưởng chống cộng, trước hết họ là những người Việt Nam. Họ đã lầm khi đặt quá nhiều hy vọng vào sức chiến đấu của những người dân địa phương, những binh sĩ rã ngũ chống lại ta trong những vùng mới giải phóng. Trong đám nhân viên kỹ thuật đang ngồi trong ca bin xe, có rất nhiều người, mới cách đây mấy hôm, hãy còn ở trong hàng ngũ của họ. Nhưng chính nghĩa sáng ngời của ta đã có sức thuyết phục rất lớn, sức cảm hóa con người rất mạnh. Thật là không công bằng và thô bạo khi nói rẳng họ ra đi là vì sợ uy thế của cách mạng. Không, không, họ ra đi vì mang trong người dòng máu con Lạc cháu Hồng. Cho nên người ở lại cũng như kẻ ra đi, niềm vinh dự tự hào đều lộ ra trên nét mặt. Tất cả chan hoà trong khí thế tiến công.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thực ra, thì với quyết tâm chiến lược mới của Bộ Chính trị, những con số mà họ ước tính, đưa ra như trên hãy còn là quá thấp. Ta không phải chỉ sử dụng có 12 sư đoàn bộ binh như kế hoạch ban đầu đề ra, mà Bộ Tổng tham mưu phải tập trung đủ 15 sư đoàn, không kể lực lượng dự bị từ xa đứng ở bắc vĩ tuyến 17, để đề phòng trường hợp Mỹ liều lĩnh nhảy vào một vài sư đoàn thuỷ quân lục chiến, lấy trong lực lượng răn đe, để cứu nguy cho Thiệu. So với chiến dịch nam Tây Nguyên, số đầu đơn vị chỉ gấp 5 lần, nhưng quân số thì lại tăng lên gấp 7 lần; binh khí, truy kích đưa ra sử dụng lần này, cũng gấp 10 lần; còn lực lượng vận tải thì tăng vọt lên rất nhiều. Lực lượng, khối lượng vật chất thì cứ tăng dần lên, mà thời gian thì cứ rút ngắn lại. Bao nhiêu cái khó khăn vất vả, đều từ đấy mà ra!
    Nhưng quyết tâm của Bộ Chính trị là quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân. Ý Đảng, lòng dân, là một.
    Được biết cuộc gặp gỡ giữa anh Lê Đức Thọ và các đồng chí lãnh đạo, các bộ tư lệnh ở các chiến trường miền Nam, trước đây định tổ chức tại Chư Leo vào đầu tháng 4 năm 1975 sẽ không có nữa, vì đồng chí Võ Chí Công vừa dẫn một đoàn cán bộ ở Khu 5 lên, định giúp cho tỉnh Đắc Lắc trong công tác tiếp quản. Đến Kon Tum phải cấp tốc quay trở về, vì chiến sự ở đồng bằng Khu 5 đang diễn ra rất khẩn truơng. Đồng chí Phạm Hùng ở Nam Bộ, cũng không ra được, vì lý do như trên. Anh Tuấn chỉ thị cho cơ quan A75.
    ?oTổ chức đưa toàn bộ Quân đoàn Tây Nguyên mới thành lập, và khối lượng vật chất hiện có ở đây vào Nam Bộ, càng sớm càng tốt. Đây là công tác trung tâm đột xuất của ta trong lúc này. Trước mắt, đưa ngay hai trung đoàn của sư đoàn 316 vào đứng ở nam Tây Ninh, chốt chặn, không chód 25 quân đội Cộng hoà về Sài Gòn. Chậm nhất, ngày 8 tháng 4, sư đoàn phải có mặt ở địa điểm quy định. Công việc ở đây, giao lại cho địa phương?.
    Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền đi trước, tranh thủ vào sớm để nắm tình hình, làm kế hoạch tác chiến; còn tôi thì ở lại làm kế hoạch chuyển quân, vật chất, rồi cùng vào với đoàn ngày hôm sau.
    Làm kế hoạch hành quân cho cả một quân đoàn đầy đủ, với bao nhiêu lực lượng tăng cường; vận chuyển toàn bộ một khối lượng vật chất khá lớn, từ Tây Nguyên vào Nam Bộ với những yêu cầu khá cụ thể, chính xác, mà tất cả mọi yếu tố đều ở ngoài tầm tay. Các sư đoàn đang trên đường truy kích địch, mỗi đơn vị đi theo một hướng. Sư đoàn 320 phải kéo dài đội hình gần 100 cây số từ Tây Nguyên đến Tuy Hoà; sư đoàn 10 đã vào đến Cam Ranh lại phải tìm và làm đường vòng qua núi để tránh địch ở Thành Sơn, rồi chuyển lên Đà Lạt, trên đường vào Nam Bộ. Riêng sư đoàn 316 thì còn ở lại trong tỉnh Đắc Lắc; nhưng các trung đoàn cũng phân tán mỗi đơn vị một ngả. Nói đến kho tàng, thì lại càng diệu vợi hơn, mỗi thứ một nơi: các loại đạn lớn của ta thì còn ở trong các kho ở phía bắc; đạn lớn của địch thứ thì Plây Cu, thứ thì ở Buôn Ma Thuột, nào đã ai kiểm kê để nắm được số lượng, chỉ biết một cách chung chung là khá nhiều, nhiều lắm, nhưng cũng chưa rõ là những loại gì. Phương tiện vận tải cũng còn nằm rải rác khắp núi rừng. Tai ác nhất là những trận mưa đầu mùa trên sườn phía tây dãy Trường Sơn đã bắt đầu. Giá như mọi lần thì phải mất cả tháng mới làm xong các kế hoạch nói trên nhưng bây giờ thì lại khác, thời gian phải tính bằng ngày bằng giờ. Thời gian là sức mạnh kia mà! Có những khó khăn, nhưng đồng thời cũng có những thuận lợi mới, trên những chặng đường, trong từng công tác. Địa bàn hoạt động của đoàn Trường Sơn không còn bó hẹp ở hai bên sườn núi phía đông và phía tây nữa; việc giải phóng Trị Thiên, đồng bằng Khu 5, đường quốc lộ 1 được khai thông, địa bàn hoạt động được mở rộng. Tổ chức vận chuyển phải thay đổi: một bộ phận lực lượng vận tải khá lớn dồn sang đường quốc lộ số 1.
    Cuối cùng rồi một kế hoạch cũng được phác thảo ra để phổ biến giao nhiệm vụ cho đơn vị và binh trạm vận tải trước khi đoàn lên đường vào Nam Bộ.
    Nghỉ đêm tại Đức Lập, trong một xóm đồng bào công giáo di cư vào Nam từ năm 1954. Tìm hiểu tình hình đồng bào ở đây, được viết có nhiều gia đình, có người thân đang công tác trong bộ máy chính quyền Thiệu, hay đi học ở bên Mỹ. Đặc biệt có cả gia đình một quận trưởng đương chức. Lần đầu tiên gặp anh em ta thái độ của nhiều người còn mặc cảm, giữ kẽ. Những người đứng tuổi thì tránh né, ít muốn tiếp chuyện với các ?oông cộng sản?. Những điều họ hiểu lầm về mình, trong những buổi đầu là rất bình thường. Qua những câu chuyện ngắn ngủi những câu trả lời nhát ngừng, hỏi đâu nói đấy, chúng tôi cũng được biết ít nhiều những luận điệu tuyên truyền của đối phương và các dấu ấn của nó đã in sâu vào tâm tư, tình cảm của đồng bào ta như thế nào. Đồng bào ở đây ít làm ruộng, sống chủ yếu dựa vào kinh tế vườn và rẫy. Hầu như nhà nào cũng có những mảnh vườn trồng cà phê, hồ tiêu và cây ăn quả. Sau trận mưa rào ban chiều, những hàng cà phê thẳng tắp, đơm bông trắng xoá, nổi bật lên màu xanh đậm của cây vườn, trông rất đẹp. Qua câu chuyện mới rõ thêm đồng bào có khả năng tự lo liệu lấy một phần khá lớn lương thực, và chỉ trong vài ba tháng nữa, sẽ bắt đầi thu hoạch mùa ngô sớm.
    Đêm nằm suy nghĩ, tôi vô cùng áy náy, lo cho anh em ở sư đoàn 316, trong những giờ phút khẩn trương này, đang gặp vô vàn khó khăn. Mang tiếng là một sư đoàn chủ lực của Bộ, hành quân đi chiến đấu, mà phương tiện vận tải thì lại thiếu, mặc dù vừa rồi mới được trang bị thêm một số xe chiến lợi phẩm. Cục hậu cần Quân đoàn Tây Nguyên thì đang lo bảo đảm cho sư đoàn 320 và sư đoàn 10 cũng đã khướt, nói gì đến sư đoàn này. Dù sao cũng là đơn vị mới được ghép vào biên chế của Quân đoàn được vài hôm nay. Tôi không bằng lòng với kế hoạch hành quân đã phổ biến cho đơn vị vì thấy quá sơ sài: toàn giả thiết cả. Tôi xin phép anh Tuấn được trở lại Buôn Ma Thuột, ở đấy thêm mấy hôm nữa, để kiểm tra việc thực hiện kế hoạch của sư đoàn được đến đâu và sẽ vào sau với đoàn anh Lê Đức Thọ. Được đồng ý ngay, vì chính anh Tuấn cũng chưa được an tâm về vấn đề này.
    Trên đường đi ra, tôi gặp bộ phận tiền trạm của sư đoàn 316. Hỏi ra mới biết là cả đơn vị còn nằm chết dí tại chỗ, chờ xe của binh trạm đưa xuống theo kế hoạch mà trông mãi chẳng thấy tăm hơi.
    Tôi tìm đến binh trạm bộ, tạm đặt trong một góc rừng cà phê thì được báo cáo là cả một đoàn mấy trăm xe tải còn đang nằm ở Hạ Lào, không cách gì được khỏi qua đèo An Bum, vì mấy trận mưa vô cùng tai ác vừa qua.
    -Phải chờ cho đường sá khô ráo mới đi được. Đó là câu trả lời cuối cùng của đồng chí binh trạm trưởng.
    Thế thì biết bao giờ đơn vị mới có mặt ở chiến trường? Nhất thiết phải thực hiện đúng mệnh lệnh, đưa toàn bộ sư đoàn vào đúng địa điểm và thời gian. Do ở cơ quan tham mưu, nên tôi còn được biết là các lực lượng chủ lực của Miền, từ trước đến nay hoạt động trên đường quốc lộ số 1 và số 22 ở nam Tây Ninh, sẽ chuyển sang hoạt động ở địa bàn khác. Do đó đường 22 nói trên sẽ bị bỏ ngỏ. Sư đoàn 25 sẽ dễ dàng cơ động nếu Sài Gòn hay một hướng nào khác hoạt động sớm hơn và mạnh hơn.
    Tôi đưa vấn đề này ra bàn với đồng chí Y Blốc, vừa được thăng cấp đại tá, Chủ tịch Uỷ ban quân quản và đồng chí Huỳnh Văn Mẫn, bí thư cùng các đồng chí ở trong tổ chức công đoàn của tỉnh. Mọi người đều tỏ ra băn khoăn lo lắng và quyết định tạm thời trưng dụng tất cả các xe vận tải của địa phương, hay bất kể của ai từ đâu đến, để dùng vào việc chở quân trước mắt. Ở trong địa bầnnỳ, số xe vận tải khong phải ít, nhất là xe kéo gỗ thì rất nhiều. Mấy ngày qua, máy bay địch đã nhiều lần đến ném bom, nên một số lớn chủ xe đưa cả gia đình đi sơ tán trong các khu rừng ở chung quanh thị xã, mỗi chiếc xe biến thành một cái nhà lưu động. Ban quân quản phải tổ chức nhiều tổ cán bộ tung ra trên các đường Khánh Dương, Đức Lập, Buôn Hồ, Lạc Thiện, thu nhặt từng chiếc một. Hăng hái và đắc lực nhất là các anh em công nhân lái xe. Ông chủ nào đưa vợ con đi sơ tán ở khu rừng nào, họ đều biết cả. Từ ngày thị xã được giải phóng, chưa có công việc làm, đời sống chưa ổn định, vợ con nheo nhóc, phải chạy ăn từng bữa, nhưng khi nghe nói bộ đội cần, là họ xung phong đi ngay, không hề đòi hỏi, không hề tính toán thiệt hơn. Nhiều người khi được gọi đến, đã tự động tìm kiếm thêm phụ tùng, thậm chí cả nhiên liệu để đưa đến phục vụ. Anh em đều biết rằng, đã đi ra mặt trận là có nguy hiểm, vì máy bay dịch còn đánh phá dọc đường hành lang, nhưng vẫn một mực kiên quyết ra đi. Chỉ sau mấy tiếng đồng hồ, tập trung đủ số xe, bảo đảm cho toànbọ sư đoàn xuất phát theo kế hoạch.
    Dễ muôn phần không dân cũng chịu,
    Khó vạn lần dân liệu cũng xong.
    Xâm xẩm tối, đồng bào thị xã kéo nha ra đứng chật hai bên đường, không ngớt vỗ tay hoan hô bộ đội. Những chiếc xe chuyên dùng, cõng trên lưng những khoang thuyền của đơn vị công binh nặng nề theo sau những đơn vị cuối cùng của sư đoàn 10 rẽ về hướng Ninh Hoà, vừa qua mặt, thì tiếp đến là những chiếc xe ca, xe tải, chở đầy bộ binh của sư đoàn 316, đi về hướng Lộc Ninh. Dù không nói ra, nhưng ai cũng đoán được hướng và mục tiêu tiến công của binh đoàn Tây Nguyên trong những ngày sắp đến. Thoáng thấy bóng những người quen thân ngồi trong buồng lái, đám trẻ con ý ới gọi nhau, chỉ trỏ, vẫy tay, gọi đích danh tên từng người. Đứng ở ngã ba đường, chen chúc giữa đám đông, tôi nhìn ánh đèn pha ửng lên trên bầu trời, phía đông rồi phía tây, mà lòng rạo rực bồi hồi. Mặc dù trong bao nhiêu năm sống trong vòng kìm kẹp, nhưng địch không tài nào bưng bít nổi, dập tắt lòng yêu nước của đồng bào. Trên mảnh đất hiền lành này, 29 năm về trước, thiếu tá Ra-vi-ê, trong đội quân viễn chinh Pháp, đã chỉ huy trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5, từ Nam Bộ, theo đường 14 tiến ra, bắt đầu cuộc chinh phục miền Trung. Ngã sáu, Đình Lạc Giao, còn ghi lại bao tội ác của chúng. Chính tại nơi tôi đang đứng, một trăm chiến sĩ Ba Tơ đã hy sinh đến người cuối cùng, nêu cao tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Bao nhiêu năm trời đã trôi qua, nhưng người dân vẫn tạc dạ ghi lòng. Hàng năm, đến ngày 27 tháng 10 âm lịch, vẫn hương, đèn cúng vái. Pháp đi, Mỹ đến. Chủ nghĩa thực dân cũ và mới rắp tâm cắt lìa các dân tộc ở đây ra khỏi đại gia đình các dân tộc Việt Nam, hòng vĩnh viễn ngự trị trên dải đất nam Đông Dương này. Họ quen mất một điều: những người mà họ đã nhồi nhét những lý tưởng chống cộng, trước hết họ là những người Việt Nam. Họ đã lầm khi đặt quá nhiều hy vọng vào sức chiến đấu của những người dân địa phương, những binh sĩ rã ngũ chống lại ta trong những vùng mới giải phóng. Trong đám nhân viên kỹ thuật đang ngồi trong ca bin xe, có rất nhiều người, mới cách đây mấy hôm, hãy còn ở trong hàng ngũ của họ. Nhưng chính nghĩa sáng ngời của ta đã có sức thuyết phục rất lớn, sức cảm hóa con người rất mạnh. Thật là không công bằng và thô bạo khi nói rẳng họ ra đi là vì sợ uy thế của cách mạng. Không, không, họ ra đi vì mang trong người dòng máu con Lạc cháu Hồng. Cho nên người ở lại cũng như kẻ ra đi, niềm vinh dự tự hào đều lộ ra trên nét mặt. Tất cả chan hoà trong khí thế tiến công.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 17: Khách và khứa
    Cuộc họp ở Hạ nghị viện Mỹ, ngày 12 tháng 3 năm 1975 đã giáng một đòn sét đánh vào đầu tổng thống được bầu: G.Ford. Bằng 189 phiếu thuận tên 49 phiếu chống, hạ nghị viện Mỹ đã thông qua nghị quyết chống viện trợ quân sự thêm cho Việt Nam và Campuchia trước khi kết thúc tài khóa, và ngày hôm sau, cũng chính hạ viện này lạ bác bỏ luôn một đề nghị dung hoà xin thêm viện trợ ở mức thấp, mặc dù chính quyền Ford đã cố tình làm mình làm mẩy, ra sức kêu gào; thậm chí còn quy cả trách nhiệm để mất Buôn Ma Thuột cho những người có lẽ xưa này chưa hề biết đến tên cái thị xã xấu số này.
    Cuối tháng 3 năm 1975, giữa lúc chính quyền Sài Gòn rối như tơ, thì từ bên kia Thái Bình Dường, Ford cử cứu tinh sang Way End. Ông này đến đây làm gì? Mọi người đều biết khá rõ về ông ta. Vốn là viên tư lệnh cuối cùng của bộ chỉ huy MACV, nhờ đó, quen biết rất nhiều người. Từ những người chỉ huy quân sự cao cấp như Cao Văn Viên, Ngô Quang Trưởng, đến những kẻ tai to mặt lớn trong chính quyền Sài Gòn như Trần Văn Đôn, Trần Văn Hương; thậm chí đếnnhững người gọi là chống đối đang thu mình trong bóng tối chờ thời.
    Lịch sử không bao giờ lặp lại nguyên si, như cách nói của các nhà hiền triết Hy Lạp thuở xưa: người ta không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông. Cách đây hai năm, trong một ngày cuối xuân, 29 tháng 3 như thế này, chính tay Way End, trên cương vị là tư lệnh cuối cùng trong bộ chỉ huy MACV, đã lôi tuột lá cờ Mỹ từ trên đỉnh cột cờ nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất, nhét gọn vào valy, trong tiếng rên rỉ của giọng kèn đồng, rồi lặng lẽ leo lên máy bay để ra khỏi đất nước Việt Nam; thì hôm nay, cũng ngày 29 tháng 3, Way End lại đến, nhưng với một cương vị, một tư thế hoàn toàn khác. Way End muốn tìm cho ra câu trả lời. Vì sao mà cả cái gia tài kếch xù, mà Mỹ đã nửa công khai, nửa lén lút để lại cho Thiệu: hơn hai vạn cố vấn, còn nhiều hơn lúc sinh thời của Diệm-trên một triệu quân, hàng triệu tấn vũ khí, khí tài, phương tiện chỉ huy? Thế mà chỉ trong vòng 20 ngày, ngót gần một nửa số đó, đã tan biến đâu mất cả? Nguy hiểm cho thầy Mỹ, tất cả những thứ này lại rơi vào tay đối phương. Mối nguy cơ chẳng những chỉ cho những ngày trước mắt, mà sẽ còn cho một tương lai lâu dài, trong một không gian vô cùng rộng lớn.
    Có những người cho rằng, bị quốc hội ngăn cản việc cứu vãn tình thế, không chịu tăng cường viện trợ, cho nên tổng thống Ford phải phái cả Way End sang Việt Nam để tìm hiểu tình hình thực tế, tìm ra cái giải pháp, các phương án để lựa chọn. Đâu có thế! Trước khi bước lên máy bay, Way End đã được Kissinger rỉ tai, dặn dò kỹ lưỡng: ?oKhông được nóng lòng hay có thái độ bi quan, định kiến với chế độ Thiệu, không được để lạc hướng vì những trở ngại chính trị ở quốc hội, ở trong nước Mỹ hay bất cứ nơi nào khác. Nếu thấy B.52 có thể Đông Dương được vấn đề thì cứ đề xuất; nếu viện trợ Mỹ là thứ thuốc công hiệu nhất, thì cứu nói thẳng ra??
    Làm thế nào mà Way End có thể có thái độ khách quan được, vì chính ông ta, chứ chẳng phải là ai khác, là người đã dọn đường đưa đến vực thẳm Việt Nam hoá chiến tranh. Toàn bộ phái đoàn Mác-bốt đến Các Ve đều cùng một ý nghĩ như Way End cả. Họ tỏ ra rất xông xáo, đi hết nơi này đến nơi khác; vừa gặp Thiệu, Viên ở Sài Gòn xong, lại ra ngay Nha Trang để gặp Phú, nên mặc dù thời gian rất eo hẹp, Way End cũng đã phát hiện ra nhiều vấn đề chết người: bầy ngựa trong chuồng, trong cảnh nước sôi lửa bỏng này đã không như câu: ?oMột con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ?, mà hoàn toàn khác hẳn: một con ngựa đau, cả tàu mang dao thớt đến. Nhà ?ochính khách? Nguyễn Cao Kỳ chạy lăng nhăng hết chửi đổng lại họp với bọn tay chân để bàn chuyện đảo chính. Kỳ bộc lộ mưu đồ với Lê Minh Đảo, nhưng Đảo dè chừng, vì chưa hiểu thái độ của Bộ Tổng tham mưu, Kỳ lại mò đến Viên, nhưng Viên cứu ầm ừ cho qua chuyện, nửa muốn, nửa không. Thiệu biết được, tức Khiếm, vì nghi Khiêm biết nhiều vấn đề mà vẫn giữ kín như bưng. Do đó, khi Khiêm đệ đơn xin từ chức, Thiệu bằng lòng ngay tức khắc, cử Nguyễn Bá Cẩn lên thay.
    Trong hàng tướng tá lại nổi lên mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Sau Phước Long, Khiêm, Viên đề nghị tập trung sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến về quân khu 3 trước ngày 15 tháng 2 năm 1975, nhưng Thiệu bác bỏ ý kiến này. Ở Huế, Trưởng muốn giữ, nhưng Viên lại muốn chạy còn ở Phan Rang thì Thiệu lại muốn giữ nhưng Viên lại đòi rút lui. Nguy hiểm cho quan thầy Mỹ là tâm lý trong đám sỹ quan này: ?oHoa Kỳ thất ước, bất xứng trong vai trò lãnh đạo khối tự do!?. Đã có vài tin bay về đến Mỹ là cả đến Thiệu cũng đang bất mãn nặng với thầy và có ý định xin viện trợ của Nhật và Canada. Xưa nay, Way End vẫn tin rằng Thiệu, Trưởng, vốn là những tay rất hăng hái, chống cộng khét tiếng, nhưng chỉ huy nỗi gì mà sư đoàn 316, rùng rùng kéo từ Bắc vào Nam, đứng sát bên nách Buôn Ma Thuột bao nhiều ngày, mà chẳng ai hay biết tý gì, mặc dù Mỹ đã nhắc nhở đề phòng. Vì sao rút bỏ cả cái cao nguyên chiến lược, mà Thiệu chẳng hề hé răng cho Mỹ biết? Vì thiếu quân, thiếu tiền, thiếu vũ khí, trang bị; hay là lại một đòn chính trị đánh ngay vào Nhà Trắng và quốc hội Mỹ? Máy móc, vũ khí, hãy còn cả đấy, toàn là những loại cực kỳ hiện đại, tinh xảo, có khác gì khi còn trên nửa triệu quân Mỹ và chư hầu trên dải đất nhỏ hẹp này, thế mà để cho đối phương đánh cho tan tác, tiến như chẻ tre? Tăng thêm viện trợ, kêu gào quốc hội cấp thêm tiền, thêm vũ khí, để rồi đem nộp cả cho Quân giải phóng như ở Huế, ở Tây Nguyên v.v? cả hay sao? Mà nếu chấm dứt, không tăng thêm viện trợ nữa, thì ai kia, chứ với những người này thì họ có ngại gì mà không vứt bỏ tất cả cho đối phương, để thoát lấy thân? Mỹ đang ở vào thế đã đốn thì phải vác, đã đâm lao thì phải theo lao; nói gì thì nói, chứ cuối cùng lại cũng phải đưa ra bom đạn và tiền. Kết quả của cuộc công du là một bản tường trình gửi lên cho quốc hội và một kế hoạch chiến lược mới như sau:
    ?o1-Chiến lược này yêu cầu bảo vệ từ Khánh Hoà trở vào và những phần còn lại của các quân khu 3 và 4. Chiến lược này có triển vọng thành công với các điều kiện sau đây:
    a.Nếu có thể rút đi ít nhiều nguyên vẹn các lực lượng Việt Nam Cộng hoà ở quân khu I và II, đưa vào sử dụng ở phía nam;
    b.Nếu địch (Quân giải phóng) không tăng viện mạnh;
    c.Nếu Mỹ đưa ngay sang Việt Nam các trang bị, đạn được và vật tư cần thiết. Nếu thiếu các yếu tố này thì chắc chắn Việt Nam Cộng hoà sẽ thất bại trong vòng 90 ngày. Để bảo đảm cho việc phòng thủ thắng lợi, chỉ có một cách là sử dụng không quân chiến lược Mỹ ở Việt Nam??
    Báo cáo của Way End còn lớn tiếng đe dọa quốc hội Mỹ:
    ?oMột chiến dịch bao gồm nhiều sư đoàn Mỹ, với sự yểm trợ của máy bay chiến thuật, sẽ cần thiết để bảo đảm cho việc rút lui an toàn 6.000 người Mỹ và hàng vạn người Việt Nam mà chúng ta có nghĩa vụ phải đưa họ đi. Nếu không có sự chi viện nhanh chóng và rõ rệt của Mỹ, thì chúng ta phải bắt đầu vạch kế hoạch cho một cuộc di tản ồ ạt. Về kế hoạch triển khai thực hiện:
    ?oTrong vòng từ 20-40 ngày, ngoài sư đoàn 22 ra, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, một sư đoàn bộ binh, 3-4 liên đoàn biệt động quân, 9 tiểu đoàn pháo, 4 thiết đoàn xe tăng, có thể sẽ được triển khai và trong vòng 120 ngày, còn có thể sẽ có thêm 2 sư đoàn nữa?.
    Dự kiến trong thời gian tới:
    ?oNếu cộng sản cho phép Việt Nam Cộng hoà có từ 6-8 tuần chuẩn bị trước khi họ mở các trận tiến công lớn ở quân khu 3, chính phủ Việt Nam Cộng hoà có thể tổ chức được một tuyến phòng thủ thành công. Khu vực diễn ra trận đánh chính có thể là tỉnh Tây Ninh. Nếu Mỹ không dùng không quân chiến lược ở Nam Việt Nam thì thất bại ở quân khu 3 sẽ kéo theo sự sụp đổ chăc chắn của chính phủ Việt Nam Cộng hoà,t rong vòng từ 3 đến 6 tháng?.
    Way End kiến nghị chi 722 triệu đô la viện trợ quân sự khẩn cấp cho Sài Gòn. Ông ta còn lên giọng buộc tội quốc hội Mỹ: ?oCác chính phủ trên thế giới đã biết rõ quá khứ, nhưng chắc chắn họ sẽ kết luận rằng, bất kỳ sự thiếu sót nào hiện nay trong việc ủng hộ người Việt Nam khắc phục cuộc khủng hoảng hiện tại của họ là sự thiếu sót trong ý chí và quyết tâm của Mỹ. Uy tín liên tục của Mỹ trên phạm vi thế giới, xoay quanh vấn đề là liệu chúng ta có chịu nỗ lực hay không, chứ không phải xoay quanh việc thắng thua. Nếu chúng ta không nỗ lực, thì uy tín của chúng ta, với tư cách là một đồng minh, sẽ bị huỷ hoại, có thể đến hàng mấy thế hệ?
    Một hàm răng rụng không nhá được, vì chỉ thấy toàn nếu là nếu.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 17: Khách và khứa
    Cuộc họp ở Hạ nghị viện Mỹ, ngày 12 tháng 3 năm 1975 đã giáng một đòn sét đánh vào đầu tổng thống được bầu: G.Ford. Bằng 189 phiếu thuận tên 49 phiếu chống, hạ nghị viện Mỹ đã thông qua nghị quyết chống viện trợ quân sự thêm cho Việt Nam và Campuchia trước khi kết thúc tài khóa, và ngày hôm sau, cũng chính hạ viện này lạ bác bỏ luôn một đề nghị dung hoà xin thêm viện trợ ở mức thấp, mặc dù chính quyền Ford đã cố tình làm mình làm mẩy, ra sức kêu gào; thậm chí còn quy cả trách nhiệm để mất Buôn Ma Thuột cho những người có lẽ xưa này chưa hề biết đến tên cái thị xã xấu số này.
    Cuối tháng 3 năm 1975, giữa lúc chính quyền Sài Gòn rối như tơ, thì từ bên kia Thái Bình Dường, Ford cử cứu tinh sang Way End. Ông này đến đây làm gì? Mọi người đều biết khá rõ về ông ta. Vốn là viên tư lệnh cuối cùng của bộ chỉ huy MACV, nhờ đó, quen biết rất nhiều người. Từ những người chỉ huy quân sự cao cấp như Cao Văn Viên, Ngô Quang Trưởng, đến những kẻ tai to mặt lớn trong chính quyền Sài Gòn như Trần Văn Đôn, Trần Văn Hương; thậm chí đếnnhững người gọi là chống đối đang thu mình trong bóng tối chờ thời.
    Lịch sử không bao giờ lặp lại nguyên si, như cách nói của các nhà hiền triết Hy Lạp thuở xưa: người ta không bao giờ tắm hai lần trên một dòng sông. Cách đây hai năm, trong một ngày cuối xuân, 29 tháng 3 như thế này, chính tay Way End, trên cương vị là tư lệnh cuối cùng trong bộ chỉ huy MACV, đã lôi tuột lá cờ Mỹ từ trên đỉnh cột cờ nằm trong sân bay Tân Sơn Nhất, nhét gọn vào valy, trong tiếng rên rỉ của giọng kèn đồng, rồi lặng lẽ leo lên máy bay để ra khỏi đất nước Việt Nam; thì hôm nay, cũng ngày 29 tháng 3, Way End lại đến, nhưng với một cương vị, một tư thế hoàn toàn khác. Way End muốn tìm cho ra câu trả lời. Vì sao mà cả cái gia tài kếch xù, mà Mỹ đã nửa công khai, nửa lén lút để lại cho Thiệu: hơn hai vạn cố vấn, còn nhiều hơn lúc sinh thời của Diệm-trên một triệu quân, hàng triệu tấn vũ khí, khí tài, phương tiện chỉ huy? Thế mà chỉ trong vòng 20 ngày, ngót gần một nửa số đó, đã tan biến đâu mất cả? Nguy hiểm cho thầy Mỹ, tất cả những thứ này lại rơi vào tay đối phương. Mối nguy cơ chẳng những chỉ cho những ngày trước mắt, mà sẽ còn cho một tương lai lâu dài, trong một không gian vô cùng rộng lớn.
    Có những người cho rằng, bị quốc hội ngăn cản việc cứu vãn tình thế, không chịu tăng cường viện trợ, cho nên tổng thống Ford phải phái cả Way End sang Việt Nam để tìm hiểu tình hình thực tế, tìm ra cái giải pháp, các phương án để lựa chọn. Đâu có thế! Trước khi bước lên máy bay, Way End đã được Kissinger rỉ tai, dặn dò kỹ lưỡng: ?oKhông được nóng lòng hay có thái độ bi quan, định kiến với chế độ Thiệu, không được để lạc hướng vì những trở ngại chính trị ở quốc hội, ở trong nước Mỹ hay bất cứ nơi nào khác. Nếu thấy B.52 có thể Đông Dương được vấn đề thì cứ đề xuất; nếu viện trợ Mỹ là thứ thuốc công hiệu nhất, thì cứu nói thẳng ra??
    Làm thế nào mà Way End có thể có thái độ khách quan được, vì chính ông ta, chứ chẳng phải là ai khác, là người đã dọn đường đưa đến vực thẳm Việt Nam hoá chiến tranh. Toàn bộ phái đoàn Mác-bốt đến Các Ve đều cùng một ý nghĩ như Way End cả. Họ tỏ ra rất xông xáo, đi hết nơi này đến nơi khác; vừa gặp Thiệu, Viên ở Sài Gòn xong, lại ra ngay Nha Trang để gặp Phú, nên mặc dù thời gian rất eo hẹp, Way End cũng đã phát hiện ra nhiều vấn đề chết người: bầy ngựa trong chuồng, trong cảnh nước sôi lửa bỏng này đã không như câu: ?oMột con ngựa đau, cả tàu không ăn cỏ?, mà hoàn toàn khác hẳn: một con ngựa đau, cả tàu mang dao thớt đến. Nhà ?ochính khách? Nguyễn Cao Kỳ chạy lăng nhăng hết chửi đổng lại họp với bọn tay chân để bàn chuyện đảo chính. Kỳ bộc lộ mưu đồ với Lê Minh Đảo, nhưng Đảo dè chừng, vì chưa hiểu thái độ của Bộ Tổng tham mưu, Kỳ lại mò đến Viên, nhưng Viên cứu ầm ừ cho qua chuyện, nửa muốn, nửa không. Thiệu biết được, tức Khiếm, vì nghi Khiêm biết nhiều vấn đề mà vẫn giữ kín như bưng. Do đó, khi Khiêm đệ đơn xin từ chức, Thiệu bằng lòng ngay tức khắc, cử Nguyễn Bá Cẩn lên thay.
    Trong hàng tướng tá lại nổi lên mâu thuẫn sâu sắc với nhau. Sau Phước Long, Khiêm, Viên đề nghị tập trung sư đoàn dù, thuỷ quân lục chiến về quân khu 3 trước ngày 15 tháng 2 năm 1975, nhưng Thiệu bác bỏ ý kiến này. Ở Huế, Trưởng muốn giữ, nhưng Viên lại muốn chạy còn ở Phan Rang thì Thiệu lại muốn giữ nhưng Viên lại đòi rút lui. Nguy hiểm cho quan thầy Mỹ là tâm lý trong đám sỹ quan này: ?oHoa Kỳ thất ước, bất xứng trong vai trò lãnh đạo khối tự do!?. Đã có vài tin bay về đến Mỹ là cả đến Thiệu cũng đang bất mãn nặng với thầy và có ý định xin viện trợ của Nhật và Canada. Xưa nay, Way End vẫn tin rằng Thiệu, Trưởng, vốn là những tay rất hăng hái, chống cộng khét tiếng, nhưng chỉ huy nỗi gì mà sư đoàn 316, rùng rùng kéo từ Bắc vào Nam, đứng sát bên nách Buôn Ma Thuột bao nhiều ngày, mà chẳng ai hay biết tý gì, mặc dù Mỹ đã nhắc nhở đề phòng. Vì sao rút bỏ cả cái cao nguyên chiến lược, mà Thiệu chẳng hề hé răng cho Mỹ biết? Vì thiếu quân, thiếu tiền, thiếu vũ khí, trang bị; hay là lại một đòn chính trị đánh ngay vào Nhà Trắng và quốc hội Mỹ? Máy móc, vũ khí, hãy còn cả đấy, toàn là những loại cực kỳ hiện đại, tinh xảo, có khác gì khi còn trên nửa triệu quân Mỹ và chư hầu trên dải đất nhỏ hẹp này, thế mà để cho đối phương đánh cho tan tác, tiến như chẻ tre? Tăng thêm viện trợ, kêu gào quốc hội cấp thêm tiền, thêm vũ khí, để rồi đem nộp cả cho Quân giải phóng như ở Huế, ở Tây Nguyên v.v? cả hay sao? Mà nếu chấm dứt, không tăng thêm viện trợ nữa, thì ai kia, chứ với những người này thì họ có ngại gì mà không vứt bỏ tất cả cho đối phương, để thoát lấy thân? Mỹ đang ở vào thế đã đốn thì phải vác, đã đâm lao thì phải theo lao; nói gì thì nói, chứ cuối cùng lại cũng phải đưa ra bom đạn và tiền. Kết quả của cuộc công du là một bản tường trình gửi lên cho quốc hội và một kế hoạch chiến lược mới như sau:
    ?o1-Chiến lược này yêu cầu bảo vệ từ Khánh Hoà trở vào và những phần còn lại của các quân khu 3 và 4. Chiến lược này có triển vọng thành công với các điều kiện sau đây:
    a.Nếu có thể rút đi ít nhiều nguyên vẹn các lực lượng Việt Nam Cộng hoà ở quân khu I và II, đưa vào sử dụng ở phía nam;
    b.Nếu địch (Quân giải phóng) không tăng viện mạnh;
    c.Nếu Mỹ đưa ngay sang Việt Nam các trang bị, đạn được và vật tư cần thiết. Nếu thiếu các yếu tố này thì chắc chắn Việt Nam Cộng hoà sẽ thất bại trong vòng 90 ngày. Để bảo đảm cho việc phòng thủ thắng lợi, chỉ có một cách là sử dụng không quân chiến lược Mỹ ở Việt Nam??
    Báo cáo của Way End còn lớn tiếng đe dọa quốc hội Mỹ:
    ?oMột chiến dịch bao gồm nhiều sư đoàn Mỹ, với sự yểm trợ của máy bay chiến thuật, sẽ cần thiết để bảo đảm cho việc rút lui an toàn 6.000 người Mỹ và hàng vạn người Việt Nam mà chúng ta có nghĩa vụ phải đưa họ đi. Nếu không có sự chi viện nhanh chóng và rõ rệt của Mỹ, thì chúng ta phải bắt đầu vạch kế hoạch cho một cuộc di tản ồ ạt. Về kế hoạch triển khai thực hiện:
    ?oTrong vòng từ 20-40 ngày, ngoài sư đoàn 22 ra, sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, một sư đoàn bộ binh, 3-4 liên đoàn biệt động quân, 9 tiểu đoàn pháo, 4 thiết đoàn xe tăng, có thể sẽ được triển khai và trong vòng 120 ngày, còn có thể sẽ có thêm 2 sư đoàn nữa?.
    Dự kiến trong thời gian tới:
    ?oNếu cộng sản cho phép Việt Nam Cộng hoà có từ 6-8 tuần chuẩn bị trước khi họ mở các trận tiến công lớn ở quân khu 3, chính phủ Việt Nam Cộng hoà có thể tổ chức được một tuyến phòng thủ thành công. Khu vực diễn ra trận đánh chính có thể là tỉnh Tây Ninh. Nếu Mỹ không dùng không quân chiến lược ở Nam Việt Nam thì thất bại ở quân khu 3 sẽ kéo theo sự sụp đổ chăc chắn của chính phủ Việt Nam Cộng hoà,t rong vòng từ 3 đến 6 tháng?.
    Way End kiến nghị chi 722 triệu đô la viện trợ quân sự khẩn cấp cho Sài Gòn. Ông ta còn lên giọng buộc tội quốc hội Mỹ: ?oCác chính phủ trên thế giới đã biết rõ quá khứ, nhưng chắc chắn họ sẽ kết luận rằng, bất kỳ sự thiếu sót nào hiện nay trong việc ủng hộ người Việt Nam khắc phục cuộc khủng hoảng hiện tại của họ là sự thiếu sót trong ý chí và quyết tâm của Mỹ. Uy tín liên tục của Mỹ trên phạm vi thế giới, xoay quanh vấn đề là liệu chúng ta có chịu nỗ lực hay không, chứ không phải xoay quanh việc thắng thua. Nếu chúng ta không nỗ lực, thì uy tín của chúng ta, với tư cách là một đồng minh, sẽ bị huỷ hoại, có thể đến hàng mấy thế hệ?
    Một hàm răng rụng không nhá được, vì chỉ thấy toàn nếu là nếu.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bản báo cáo của phái đoàn quân sự, đã làm rất đẹp lòng Kissinger và Tổng thống Ford. Tuy thế, bên kia bờ Thái Bình Dường, ở Toà nhà trắng, ý kiến cũng không thống nhất. Trong cuộc họp báo sáng 2 tháng 4 năm 1975, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Sehelesinger đã đưa ra một ý kiến rất độc đáo, làm chấn động cả Lầu năm góc: ?oỞ Việt Nam, tương đối ít có chiến sự lớn?.
    Một sự nhầm lẫn gì đấy chăng? Không đâu! Sehelesinger còn nhắc lại ý kiến này một lần nữa trong mục: ?oĐối mặt với quốc dân? ngày 6 tháng 4. Ông ta nói: ?oRõ ràng một cuộc tiến công lớn chỉ là một cụm từ, phải nằm trong dấu ngoặc kép. Ở đấy, cái mà chúng ta thấy chỉ là sự sụp đổ từng bộ phận của lực lượng Nam Việt Nam với mức độ từ sau Buôn Ma Thuột, rất ít có trận đánh lớn và bản thân trận Buôn Ma Thuột cũng là một ngoại lệ??
    Ở Sài Gòn, khi nghe được tin này, tướng Smith, tuỳ viên quân sự Mỹ đã giãy nảy lên, lập tức đánh điện cho tổng tư lệnh Thái Bình Dường và một số nhân vật ở Washington, để cải chính ý kiếnnày. Ông ta cố đưa ra nhiều dẫn chứng để chứng minh cho tính chất ác liệt của trận đánh từ Phú Bài đến Hải Vân, từ đường 19 đến đường 21, để cho mọi người đánh giá lại cho đúng tinh thần chiến đấu rất ngoan cường của quân đội Cộng hoà. Cuối cùng bức điện viết:
    ?oKính mong đề nghị lên ngài chủ tịch, xin ngài hãy trình bày với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng những thực tế này, để ngài có thể trình bày chính xác với dân chúng Mỹ, những gì đã xảy ra. Hiện nay đã diễn ra một cuộc tiến công lớn?.
    Cùng đi trên chiếc máy bay chở phái đoàn Way End sang Sài Gòn hôm ấy, có cả Martin-đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam cùng một đám tuỳ tùng. Trong ngành ngoại giao, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, đều mang một ý nghĩa nhất định nào đó. Chắc chắn là Hoa Kỳ không bao giờ thiếu máy bay, hay thiếu xăng dầu, nên buộc phải kết hợp chuyến đi của hai nhà chính khách làm một, nhất định Kissinger cũng có sẵn ý định gì đây. Vì ông ta thừa biết cả Way End lẫn Martin, quan hệ giữa hai người này, tuy hai mà một, tuy một mà hai.
    Cũng như Kissinger, Martin muốn chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt; nhưng chấm dứt ở tư thế đứng, nghĩa là : ?oViệt Nam Cộng hoà có thể sống đàng hoàng về kinh tế, tự bảo vệ được mình bằng quân sự và có khả năng hoà giải được với miền Bắc?.
    Con người đã như thế, thì thường hay va chạm với giới báo chí, những hạng người hay ?ovạch lá tìm sâu?. Rõ đáng tội! Họ hết bị chụp mũ, lại bị cấm đoán, hạn chế đủ điều; nói gì đến việc phỏng vấn, tiếp xúc với ngài đại sứ. Tháng 2 năm 1975 tờ Thời báo New York, đưa ra một bằng chứng Mỹ vi phạm Hiệp định Paris trong việc viện trợ kỹ thuật tối tân cho Sài Gòn. Martin nói ngay rằng, người phóng viên đó là một cái loa của Hà Nội và cấm tiệt mọi cuộc tiếp xúc của nhân viên sứ quán với tờ Thời báo New York. Trong một bức thư gửi cho ban đối ngoại thượng nghị viện, ông ta viết: ?oTôi không hề tha thiết trả lời các phóng viên của các tờ báo đưa tin thắng lợi của Bắc Việt Nam, và việc đưa tin, đăng ảnh, xã luận của họ cộng lại là sự xuyên tạc thô bạo và trắng trợn đối với công chúng??.
    Như người từ trên trời rơi xuống, ông ta vừa chạm đất đã tuyên bố ngay, bất chấp vẻ ngơ ngác lộ ra trên nét mặt mọi người: ?oKhông, Quân khu 1 chẳng mất đâu. Không có nguy có gì đối với Sài Gòn cả?. Sau một vài ngày tìm hiểu, khi được người ta hỏi về ý đồ của Bắc Việt Nam, Martin thản nhiên trả lời: ?oTôi mong rằng quân Bắc Việt Nam sẽ mở một cuộc tiến công lớn trong vòng một tháng nữa. Lúc đầu quân Nam Việt Nam bị mất đất, nhưng chắc chắn là sau đó, họ sẽ đánh bại quân Bắc Việt Nam một cách quyết định như họ đã làm năm 1972?.
    Báo cáo của ông ta về Toà nhà trắng, có đoạn viết: ?oTrừ việc vùng đồng bằng ven biển, chung quanh Huế-Đà Nẵng, những lãnh thổ khác đã mất vừa rồi ở vùng I và vùng II là gánh nặng đối với Sài Gòn. Phần còn lại, xưa ki gọi là Nam Kỳ, vẫn còn là trung tâm của xứ sở. Về mặt kinh tế, nó có thể tồn tại được lâu dài??.
    Chỗ giống nhau với Way End là ở câu kết luận cuối cùng này, vì cả hai đều do một người mớm cho, trước khi lên máy bay: ?oNếu quốc hội chịu bỏ ra một tỷ đô la viện trợ khẩn cấp cho Thiệu về kinh tế và quốc phòng, thì mọi việc sẽ ổn thoả cả?. Chỗ khác nhau giữa hai người là biện pháp thực hiện: Way End thì tìm cách vực lại một đội quân đã nát như tương; còn Martin thì đi bằng con đường thương lượng. Suy cho cùng, cả hai người đều toát lên đường lối và phương pháp của nền ngoại giao Hoa Kỳ: cái gậy và củ cà rốt.
    Với cách nhìn, cách suy nghĩ và cách lập luận của một người như Martin, người đã từng nổi tiếng trong đám đồng nghiệp và bạn bè của ông ta là ?omiễn dịch với thực tế tình hình?, thì con đường đi đến thương lượng là lẽ tất nhiên. Lý lẽ của ông ta đưa ra thật là giản đơn và ngờ nghệch: ?oBác Việt Nam làm gì có đủ cán bộ để quản lý đất nước, nếu vạn nhất được giải phóng? Bắc Việt nhất định sẽ chọn lấy con đường thắng lợi rẻ tiền nhất, dù hơi lâu một ít, nghĩa là phải thông qua thương lượng, còn hơn là phải đổ máu hy sinh?.
    Các nhà ngoại giao Mỹ sung sướng biết bao nhiêu, khi được nghe lời tuyên bố sau đây, của đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời, tại giữa thủ đô Paris, đầu tháng 4 năm 1975: ?oChính phủ cách mạng sẵn sàng nói chuyện nếu Thiệu rút lui?. Mẩu tin nhỏ này, được các sứ quán nhắc lại, và trong chốc lát, đã lan truyền ra khắp thế giới. Khi người ta sắp chết đuối thì một cọng rơm nhỏ trôi lềnh bềnh, hay một làn khói mỏng đang chập chờn trước mặt, cũng tưởng ngay là đủ để cứu lấy mạng người.
    Sau khi có chỉ thị của Way End, Thiệu bắt đầu có chuyển biến. Ngày 6 tháng 4 năm 1975, ông ta gửi cho Bộ Tổng tham mưu nguỵ bản chỉ thị sau đây:
    ?o1-Nay có một nhu cầu thực sự giữa các quân khu, quân đoàn giáp ranh với nhau và hỗn hợp để đạt được kết quả tối đa;
    Nay, với diễn biến tình hình quân sự, lại có thêm nhu cầu cần thiết về chỉ huy phối hợp, liên quan đến sự vận dụng các lực lượng thuộc hải, lục, không quân được thêm hữu hiệu;
    Vì nhu cầu trên, đồng thời để ứng phó với hiệu năng tối đa và kịp thời với tình hình, tôi nhận định:
    Na, Bộ Tổng tham mưu nên cải tiến lại để, ngoài nhiệm vụ quân sự và tham mưu thông thường, sẽ đảm trách trực tiếp chỉ huy và phối hợp các cuộc hành quân xét ra vượt khả năng và giới hạn các quân khu, quân đoàn, kể cả việc sử dụng không hải quân trong vùng lãnh thổ các khu vực hiện hữu.
    2.Ngoài ra, với sự thu hẹp lãnh thổ hiện hữu và cho đến khi chúng ta có khả năng tái chiếm một cách đáng kể những phần đất đã mất, nếu thấy cần, thì đại tướng cứ cho nghiên cứu lại ranh giới các quân khu hiện hữu và đề nghị lên tôi. Ngay cả bên trong lãnh thổ mỗi quân khu, nếu xét rằng việc phân định thêm những vùng trách nhiệm hoặc mặt trận, để giao cho nhiều vị tư lệnh trực thuộc quân đoàn, quân khu đảm trách, sẽ mang lại hiệu năng, thì đại tướng cứ tuỳ quyết định, hoặc uỷ thác cho các tư lệnh quân khu, quân đoàn tự quyết định lấy.
    Tổng thống Việt Nam Cộng hoà
    Nguyễn Văn Thiệu

  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bản báo cáo của phái đoàn quân sự, đã làm rất đẹp lòng Kissinger và Tổng thống Ford. Tuy thế, bên kia bờ Thái Bình Dường, ở Toà nhà trắng, ý kiến cũng không thống nhất. Trong cuộc họp báo sáng 2 tháng 4 năm 1975, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Sehelesinger đã đưa ra một ý kiến rất độc đáo, làm chấn động cả Lầu năm góc: ?oỞ Việt Nam, tương đối ít có chiến sự lớn?.
    Một sự nhầm lẫn gì đấy chăng? Không đâu! Sehelesinger còn nhắc lại ý kiến này một lần nữa trong mục: ?oĐối mặt với quốc dân? ngày 6 tháng 4. Ông ta nói: ?oRõ ràng một cuộc tiến công lớn chỉ là một cụm từ, phải nằm trong dấu ngoặc kép. Ở đấy, cái mà chúng ta thấy chỉ là sự sụp đổ từng bộ phận của lực lượng Nam Việt Nam với mức độ từ sau Buôn Ma Thuột, rất ít có trận đánh lớn và bản thân trận Buôn Ma Thuột cũng là một ngoại lệ??
    Ở Sài Gòn, khi nghe được tin này, tướng Smith, tuỳ viên quân sự Mỹ đã giãy nảy lên, lập tức đánh điện cho tổng tư lệnh Thái Bình Dường và một số nhân vật ở Washington, để cải chính ý kiếnnày. Ông ta cố đưa ra nhiều dẫn chứng để chứng minh cho tính chất ác liệt của trận đánh từ Phú Bài đến Hải Vân, từ đường 19 đến đường 21, để cho mọi người đánh giá lại cho đúng tinh thần chiến đấu rất ngoan cường của quân đội Cộng hoà. Cuối cùng bức điện viết:
    ?oKính mong đề nghị lên ngài chủ tịch, xin ngài hãy trình bày với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng những thực tế này, để ngài có thể trình bày chính xác với dân chúng Mỹ, những gì đã xảy ra. Hiện nay đã diễn ra một cuộc tiến công lớn?.
    Cùng đi trên chiếc máy bay chở phái đoàn Way End sang Sài Gòn hôm ấy, có cả Martin-đại sứ Mỹ ở Nam Việt Nam cùng một đám tuỳ tùng. Trong ngành ngoại giao, mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, đều mang một ý nghĩa nhất định nào đó. Chắc chắn là Hoa Kỳ không bao giờ thiếu máy bay, hay thiếu xăng dầu, nên buộc phải kết hợp chuyến đi của hai nhà chính khách làm một, nhất định Kissinger cũng có sẵn ý định gì đây. Vì ông ta thừa biết cả Way End lẫn Martin, quan hệ giữa hai người này, tuy hai mà một, tuy một mà hai.
    Cũng như Kissinger, Martin muốn chấm dứt sự dính líu của Mỹ ở miền Nam Việt Nam càng sớm càng tốt; nhưng chấm dứt ở tư thế đứng, nghĩa là : ?oViệt Nam Cộng hoà có thể sống đàng hoàng về kinh tế, tự bảo vệ được mình bằng quân sự và có khả năng hoà giải được với miền Bắc?.
    Con người đã như thế, thì thường hay va chạm với giới báo chí, những hạng người hay ?ovạch lá tìm sâu?. Rõ đáng tội! Họ hết bị chụp mũ, lại bị cấm đoán, hạn chế đủ điều; nói gì đến việc phỏng vấn, tiếp xúc với ngài đại sứ. Tháng 2 năm 1975 tờ Thời báo New York, đưa ra một bằng chứng Mỹ vi phạm Hiệp định Paris trong việc viện trợ kỹ thuật tối tân cho Sài Gòn. Martin nói ngay rằng, người phóng viên đó là một cái loa của Hà Nội và cấm tiệt mọi cuộc tiếp xúc của nhân viên sứ quán với tờ Thời báo New York. Trong một bức thư gửi cho ban đối ngoại thượng nghị viện, ông ta viết: ?oTôi không hề tha thiết trả lời các phóng viên của các tờ báo đưa tin thắng lợi của Bắc Việt Nam, và việc đưa tin, đăng ảnh, xã luận của họ cộng lại là sự xuyên tạc thô bạo và trắng trợn đối với công chúng??.
    Như người từ trên trời rơi xuống, ông ta vừa chạm đất đã tuyên bố ngay, bất chấp vẻ ngơ ngác lộ ra trên nét mặt mọi người: ?oKhông, Quân khu 1 chẳng mất đâu. Không có nguy có gì đối với Sài Gòn cả?. Sau một vài ngày tìm hiểu, khi được người ta hỏi về ý đồ của Bắc Việt Nam, Martin thản nhiên trả lời: ?oTôi mong rằng quân Bắc Việt Nam sẽ mở một cuộc tiến công lớn trong vòng một tháng nữa. Lúc đầu quân Nam Việt Nam bị mất đất, nhưng chắc chắn là sau đó, họ sẽ đánh bại quân Bắc Việt Nam một cách quyết định như họ đã làm năm 1972?.
    Báo cáo của ông ta về Toà nhà trắng, có đoạn viết: ?oTrừ việc vùng đồng bằng ven biển, chung quanh Huế-Đà Nẵng, những lãnh thổ khác đã mất vừa rồi ở vùng I và vùng II là gánh nặng đối với Sài Gòn. Phần còn lại, xưa ki gọi là Nam Kỳ, vẫn còn là trung tâm của xứ sở. Về mặt kinh tế, nó có thể tồn tại được lâu dài??.
    Chỗ giống nhau với Way End là ở câu kết luận cuối cùng này, vì cả hai đều do một người mớm cho, trước khi lên máy bay: ?oNếu quốc hội chịu bỏ ra một tỷ đô la viện trợ khẩn cấp cho Thiệu về kinh tế và quốc phòng, thì mọi việc sẽ ổn thoả cả?. Chỗ khác nhau giữa hai người là biện pháp thực hiện: Way End thì tìm cách vực lại một đội quân đã nát như tương; còn Martin thì đi bằng con đường thương lượng. Suy cho cùng, cả hai người đều toát lên đường lối và phương pháp của nền ngoại giao Hoa Kỳ: cái gậy và củ cà rốt.
    Với cách nhìn, cách suy nghĩ và cách lập luận của một người như Martin, người đã từng nổi tiếng trong đám đồng nghiệp và bạn bè của ông ta là ?omiễn dịch với thực tế tình hình?, thì con đường đi đến thương lượng là lẽ tất nhiên. Lý lẽ của ông ta đưa ra thật là giản đơn và ngờ nghệch: ?oBác Việt Nam làm gì có đủ cán bộ để quản lý đất nước, nếu vạn nhất được giải phóng? Bắc Việt nhất định sẽ chọn lấy con đường thắng lợi rẻ tiền nhất, dù hơi lâu một ít, nghĩa là phải thông qua thương lượng, còn hơn là phải đổ máu hy sinh?.
    Các nhà ngoại giao Mỹ sung sướng biết bao nhiêu, khi được nghe lời tuyên bố sau đây, của đại diện Chính phủ cách mạng lâm thời, tại giữa thủ đô Paris, đầu tháng 4 năm 1975: ?oChính phủ cách mạng sẵn sàng nói chuyện nếu Thiệu rút lui?. Mẩu tin nhỏ này, được các sứ quán nhắc lại, và trong chốc lát, đã lan truyền ra khắp thế giới. Khi người ta sắp chết đuối thì một cọng rơm nhỏ trôi lềnh bềnh, hay một làn khói mỏng đang chập chờn trước mặt, cũng tưởng ngay là đủ để cứu lấy mạng người.
    Sau khi có chỉ thị của Way End, Thiệu bắt đầu có chuyển biến. Ngày 6 tháng 4 năm 1975, ông ta gửi cho Bộ Tổng tham mưu nguỵ bản chỉ thị sau đây:
    ?o1-Nay có một nhu cầu thực sự giữa các quân khu, quân đoàn giáp ranh với nhau và hỗn hợp để đạt được kết quả tối đa;
    Nay, với diễn biến tình hình quân sự, lại có thêm nhu cầu cần thiết về chỉ huy phối hợp, liên quan đến sự vận dụng các lực lượng thuộc hải, lục, không quân được thêm hữu hiệu;
    Vì nhu cầu trên, đồng thời để ứng phó với hiệu năng tối đa và kịp thời với tình hình, tôi nhận định:
    Na, Bộ Tổng tham mưu nên cải tiến lại để, ngoài nhiệm vụ quân sự và tham mưu thông thường, sẽ đảm trách trực tiếp chỉ huy và phối hợp các cuộc hành quân xét ra vượt khả năng và giới hạn các quân khu, quân đoàn, kể cả việc sử dụng không hải quân trong vùng lãnh thổ các khu vực hiện hữu.
    2.Ngoài ra, với sự thu hẹp lãnh thổ hiện hữu và cho đến khi chúng ta có khả năng tái chiếm một cách đáng kể những phần đất đã mất, nếu thấy cần, thì đại tướng cứ cho nghiên cứu lại ranh giới các quân khu hiện hữu và đề nghị lên tôi. Ngay cả bên trong lãnh thổ mỗi quân khu, nếu xét rằng việc phân định thêm những vùng trách nhiệm hoặc mặt trận, để giao cho nhiều vị tư lệnh trực thuộc quân đoàn, quân khu đảm trách, sẽ mang lại hiệu năng, thì đại tướng cứ tuỳ quyết định, hoặc uỷ thác cho các tư lệnh quân khu, quân đoàn tự quyết định lấy.
    Tổng thống Việt Nam Cộng hoà
    Nguyễn Văn Thiệu

  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Như chúng ta đã biết, mẫu thuẫn sâu sắc giữa Thiệu và các tướng tá là ở chỗ phương pháp điều hành chiến tranh của Thiệu. Chiến lược ?onặng đầu nhẹ đáy? vừa bộc lộ bản chất cực kỳ ********* của Thiệu, vừa nói lên tính đa nghi, bệnh chủ quan, ôm đồm, bao biện của một tên tay sai bất lực. Cho đến nay, khi gươm đã kề tận cổ, ông ta mới chịu nhả bớt quyền chỉ huy và kiểm soát trực tiếp các lực lượng tổng dự bị như dù, thuỷ quân lục chiến, các quân chủng hải quân cho Bộ Tổng tham mưu ?tuỳ nghi quyết định? và uỷ thác cho các tư lệnh khu vực quyền tự quyết định lấy giới tuyến chiến đấu cho các đơn vị thuộc quyền. Thông thường, trong chỉ đạo chiến tranh, việc thay đổi một chiến lược, đòi hỏi phải có thời gian để bố trí, thay quân, thay đổi giới tuyến chiến đấu, chuẩn bị cơ sở vật chất, thiết bị chiến trường, v.v? dù là thời bình chăng nữa, cũng không ai dám xám trộn đồng loạt; huống gì trong những lúc lâm nguy, vì chính đối phương thường chọn những lúc này làm thời cơ phát động tiến công. Những bài học ở Quảng Trị, Kon Tum năm 1972, chưa đủ để làm cho ông ta mở mắt ra ư?
    Đồng bào miền Nam đều biết mối quan hệ giữa tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu và tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên. Sở dĩ Thiệu chọn Viên, vì Viên ngoan ngoãn dễ bải, ít hiếu động như Nguyễn Cao Kỳ, mà phe cánh thì không đủ mạnh như Khiêm, Minh. Bề ngoài thì mọi việc đều có vẻ êm thấm, nhưng còn thực chất bên trong thì sao? Trong đống tư văn để lại, chưa kịp huỷ trước khi tháo chạy, còn có vài bản trong đó Viên bộc lộ tâm tình. Đánh giá về tình hình tháng 3 năm 1975 và sự lãnh đạo của Thiệu, Viên đã ngao ngán nhận xét: ?o-Không có lãnh đạo quân sự.
    -Xếp đặt sai lầm nhân sự trong các vị trí chỉ huy và tiếp tế.
    -Không tiên đoán được chính xác tình hình quân sự.
    -Tránh né vì e ngại các tướng tá hội họp, để tìm đóng góp sáng kiến và kinh nghiệm.
    -Bưng bít quá đáng quốc sự và tuyên truyền vụng về, khiến cho quần chúng bị lừa gạt nhiều lần, nên sinh ra hoang mang, lòng tin tan biến?.
    Bây giờ cờ đã về tay, Cao Văn Viên và Bộ Tổng tham mưu vạch ra kế hoạch mới, bố trí lực lượng, để đối phó với tình hình.
    Cả Way End và Martin đã hướng dẫn cụ thể: ?oHà Nội sẽ chịu thương thuyết trong hy vọng chiến thắng Việt Nam bằng chính trị?. Để có vốn mà thương lượng, phải giữ cho được hai cứ điểm đầu cầu của phòng tuyến đông tây, kéo dài từ Phan Rang, Đà Lạt đến Tây Ninh.
    Phan Rang là quê cha đất tổ của Thiệu. Còn đối với Tây Ninh, trong tình hình này, càng phải được phòng thủ tốt. Mất nơi này, chẳng những sẽ gây ra ảnh hưởng chính trị rất lớn và cũng rất nguy hiểm về mặt quân sự, vì quân đội cộng hoà sẽ bị hỗn loạn và sẽ chạy dài như kiểu Huế-Đà Nẵng.
    Giới tuyến chiến đấu được thay đổi lại: Viên cho sát nhập phần đất còn lại của quân khu 2 và 3 để cho việc chỉ huy và yểm trợ được dễ dàng, nhanh chóng hơn, đồng thời chỉ định luôn một tư lệnh tiền phương của quân khu 3 tại Phan Rang cử trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm tư lệnh, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang làm phó, với trách nhiệm là chỉ huy, kiểm soát hành quân các tiểu khu Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy và Long Khánh.
    Căn cứ vào đâu mà bản báo cáo của Way End, cũng như kế hoạch của Thiệu đã đề ra những dự kiến khá cụ thể về thời gian, cũng như lực lượng, để đối phó với ta? Theo họ nắm được-tất nhiên là con rất xa với thực tế-thì ra có 8 sư đoàn trên chiến trường Nam Bộ: hai sư đoàn bố trí ở phía Tây và Tây Nam (Long An và Gò Công); ba sư đoàn trên hướng đông ở Long Khánh; một sư đoàn ở Cần Thơ; bốn trung đoàn đặc công ở ven đô. Lực lượng dự bị có 2 sư đoàn 312 và 316. Vấn đề bảo đảm hậu cần, có nhiều khó khăn. Với lực lượng như vậy, thì không thể gọi là có ưu thế được, vì họ còn nắm trong tay được 6 sư đoàn, trang bị đầy đủ. Bộ Tổng tham mưu chỉ cần khôi phục lại trước mắt hai sư đoàn ở quân khu 1 và quân khu 2 mới chạy về, và xây dựng thêm trung đoàn thứ tư cho các sư đoàn là khắc phục được sự chênh lệch về binh lực. Về vũ khí, thì còn những hai vạn khẩu súng ở kho Cam Ranh. Ngoài ra, Mỹ đang dùng máy bay vận tải lớn, lấy trang bị vũ khí nặng ở các kho gần nhất trong khu vực Đông Nam Á này, đêm ngày ùn ùn đưa tới Sài Gòn.
    Theo kế hoạch phòng ngự cụ thể, trên hướng Tây Ninh, ngoài sư đoàn 25 ra, còn có 3 đến 4 trung đoàn địa phương. Lực lượng tổng dự bị cũng sẵn sàng tăng cường cho hướng này, vì là hướng phòng ngự chủ yếu, nên có thêm một lữ dù và lữ đoàn 3 thiết giáp. Với 3 sư đoàn, Mặt trận không phải dễ dàng gì tiến công vào những lực lượng nói trên.
    Trên hướng bắc mối đe dọa tạm thời có thể giảm bớt, vì họ biết được sư đoàn 7 Quân giải phóng, đã chuyển địa bàn hoạt động sang phía đông, sư đoàn 9 sang phía tây; chỉ còn có sư đoàn 341 và một sư đoàn nữa, chưa rõ phiên hiệu, ở miền Bắc mới vào, cho nên cũng chỉ có thể hoạt động đến Bình Dương là cùng. Họ đã có sẵn ở đây sư đoàn 5 và một đơn vị địa phương; nếu cần, còn có thể chi viện thêm một lữ đoàn dù. Để có thể chống trả một cách có hiệu quả hơn, họ có thể co tuyến phòng ngự lại một ít, rút bỏ Phú Giáo, còn Tân Uyên thì giao lại cho quân địa phương. Ở phía quân khu 3, việc phòng thủ Phan Rang đã được bảo đảm; còn để đối phó với đe dọa vào Xuân Lộc thì đã có sư đoàn 18. Việc điều động sư đoàn 7 và sư đoàn 9 ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long để đưua vê cứu nguy cho thủ đô, họ không đặt ra như năm 1972, vì quốc lộ 4 sẽ bị uy hiếp nặng và nếu rút cả sư đoàn 21 đi thì lại nguy hiểm cho Cần Thơ.
    Trong Bộ Tổng tham mưu nguỵ, cũng có người đưa ý kiến nên bỏ Phan Rang cả đến Long Khánh; chỉ nên để ở Xuân Lộc một đồn tiền tiêu, co đội hình về giữ Biên Hoà, Trảng Bom, Long Bình, đường 15, Vũng Tàu, O Cấp. Ở phía Bắc, thì bỏ cả Tây Ninh, mà lui về củng cố Trảng Bàng, Củ Chi. Như thế vẫn chưa được yên tâm, vì thấy cả Bộ Tổng tham mưu không còn lấy một tên quân dự bị, nên Nguyễn Văn Minh, tư lệnh biệt khu thủ đô mạnh dạn đề nghị với Thiệu, Viên, cho rút cả sư đoàn 18 về làm dự bị, đề phòng Mặt trận có thể thọc vào thủ đô.
    Đối với ý kiến trên, Thiệu bác bỏ thẳng thừng, cho đây là những giả thuyết chủ bại. Nếu kéo dài việc cầm cự được một tháng nữa là sẽ đến mùa mưa. Thời tiết sẽ không cho phép Mặt trận mở những cuộc tiến công lớn. Họ sẽ có đủ thời gian để xây dựng lại 4 sư đoàn và như vậy thì có khả năng dùng Tây Ninh, để làm bàn đạp tiến công ra hướng bắc, chiếm lại Tây Nguyên. Để phối hợp với đòn phản công chiến lược này, họ sẽ dùng không quân đến mức tối đa, để ngăn chặn đường tiếp viện, dùng hải quân phong toả không cho ta sử dụng các cảng Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang; tăng cường các chiến hạm có hoả lực hải pháo mạnh dọc bờ biển từ Nha Trang trở vào, một mặt để trực tiếp yểm trợ cho các tiểu khu Ninh Thuận, Bình Tuy; mặt khác, ráo riết tuần thám, nhằm ngăn chặn các cuộc thâm nhập từ miền Bắc vào?
    Mãi đến lúc này, họ mới nhận ra là trong cách tổ chức lực lượng có nhiều chỗ rập khuôn theo Mỹ một cách máy móc, không phù hợp với tình hình địa hình Việt Nam, nên phải gấp rút ?oViệt Nam hóa? quân ngũ trở lại. Nhiều tổ chức nặng nề không có hiệu lực như viện giám sát, pháp viện đặc biệt, đoàn nữ quân nhân lần lượt bị giải thể. Để lấy lại lòng tin của nhân dân và quân đội, phải làm ?oxúc động tâm lý toàn quốc?, kích động lòng yêu nước của toàn dân, họ thay đổi chế độ quân dịch, không xem đó như là một hình phạt, mà là để thực hiện công bằng xã hội. Thiệu ra sắc lệnh bãi bỏ luật động viên 17-18 tuổi, mà nêu cao danh dự, nâng cao quyền lợi cho binh sĩ, miền phí, tăng lương cho tất cả binh quân chủng nào, cấp bậc nào, để thực hiện chính sách ?ohuynh đệ chi binh?. Một trong những hành động cho tính quyết định đặc sắc nhất, trong những ngày tàn của cuộc đời làm chính trị của Thiệu là đóng cửa tất cả các tiệm rượu, các hộp đêm, nhà chứa ở Sài Gòn để tiết kiệm tiền, mua súng đạn.
    Khó khăn lớn nhất của quân đội Cộng hoà là vấn đề cán bộ và quân số. Nói đến các sĩ quan, Cao Văn Viên thú nhận: ?oTinh thần chiến bại ngày càng bộc lộ, phổ biến, tinh thần chiến đấu giảm sút rất nhanh chóng vì gia đình thất lạc, không có tin tức của thân nhân, nên không ai còn tâm trí để phục vụ?. Số lượng quân cần tuyển là 20 vạn, chỉ đề ra trên giấy tờ cho có chuyện, rất ít có khả năng đạt được 1 phần 10 của số nói trên. Đặc biệt, Viên vô cùng lo lắng cho số phận của không quân và hải quân. Về không quân, tổng số máy bay các loại còn lại thì rất lớnm số sân bay ở miền Trung đã lọt vào tay đối phương, nhưng số còn lại ở quân khu 3 và 4 cũng tạm đủ dùng; nhưng hệ thống ra đa, kiểm báo, nhân viên điều hành thì trốn tiệt; về hải quân, là quân chủng ít bị thiệt hịa nhất, tàu thuyền hãy còn đủ để yểm trợ nhu cầu của quân lực và còn có khả năng giữa các đường vận tải chính trên các sông ngòi và dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, xăng dầu trở nên khan hiếm, vì các bến cảng đều bị uy hiếp nặng. Đạn dược còn lại cũng không phải ít: đạn bộ binh còn đủ dùng được mấy tháng, riêng bom đạn của không quân, hải quân thì còn có thể kéo dài cuộc chiến đấu đến cả năm.
    Mọi nỗ lực, cố gắng trong lúc này, theo họ đề ra đều nhằm ?okhôi phục lại trong vòng ba tháng tình trạng bất phân thắng bại, để có được hoà đàm?. Họ muốn kiếm một ít vốn liếng trên bàn hội nghị. Trên chiến trường chính Mỹ chưa chịu thua, thì trên chính trường, Bộ Quốc phòng và Bộ ngoại giao Mỹ vẫn còn ra thông báo: ?oTrong khi Hà Nội đang chuẩn bị một đòn tiến công quân sự nhanh chóng, có tính chất quyết định, chúng ta vẫn tin rằng Hà Nội sẽ lựa chọn một giải pháp ít tốn kém, lại thích hợp hơn về mặt chính trị??.

Chia sẻ trang này