1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiến tới kỉ niệm 31 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-Đại thắng mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi forza_vn, 18/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Như chúng ta đã biết, mẫu thuẫn sâu sắc giữa Thiệu và các tướng tá là ở chỗ phương pháp điều hành chiến tranh của Thiệu. Chiến lược ?onặng đầu nhẹ đáy? vừa bộc lộ bản chất cực kỳ ********* của Thiệu, vừa nói lên tính đa nghi, bệnh chủ quan, ôm đồm, bao biện của một tên tay sai bất lực. Cho đến nay, khi gươm đã kề tận cổ, ông ta mới chịu nhả bớt quyền chỉ huy và kiểm soát trực tiếp các lực lượng tổng dự bị như dù, thuỷ quân lục chiến, các quân chủng hải quân cho Bộ Tổng tham mưu ?tuỳ nghi quyết định? và uỷ thác cho các tư lệnh khu vực quyền tự quyết định lấy giới tuyến chiến đấu cho các đơn vị thuộc quyền. Thông thường, trong chỉ đạo chiến tranh, việc thay đổi một chiến lược, đòi hỏi phải có thời gian để bố trí, thay quân, thay đổi giới tuyến chiến đấu, chuẩn bị cơ sở vật chất, thiết bị chiến trường, v.v? dù là thời bình chăng nữa, cũng không ai dám xám trộn đồng loạt; huống gì trong những lúc lâm nguy, vì chính đối phương thường chọn những lúc này làm thời cơ phát động tiến công. Những bài học ở Quảng Trị, Kon Tum năm 1972, chưa đủ để làm cho ông ta mở mắt ra ư?
    Đồng bào miền Nam đều biết mối quan hệ giữa tổng tư lệnh Nguyễn Văn Thiệu và tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên. Sở dĩ Thiệu chọn Viên, vì Viên ngoan ngoãn dễ bải, ít hiếu động như Nguyễn Cao Kỳ, mà phe cánh thì không đủ mạnh như Khiêm, Minh. Bề ngoài thì mọi việc đều có vẻ êm thấm, nhưng còn thực chất bên trong thì sao? Trong đống tư văn để lại, chưa kịp huỷ trước khi tháo chạy, còn có vài bản trong đó Viên bộc lộ tâm tình. Đánh giá về tình hình tháng 3 năm 1975 và sự lãnh đạo của Thiệu, Viên đã ngao ngán nhận xét: ?o-Không có lãnh đạo quân sự.
    -Xếp đặt sai lầm nhân sự trong các vị trí chỉ huy và tiếp tế.
    -Không tiên đoán được chính xác tình hình quân sự.
    -Tránh né vì e ngại các tướng tá hội họp, để tìm đóng góp sáng kiến và kinh nghiệm.
    -Bưng bít quá đáng quốc sự và tuyên truyền vụng về, khiến cho quần chúng bị lừa gạt nhiều lần, nên sinh ra hoang mang, lòng tin tan biến?.
    Bây giờ cờ đã về tay, Cao Văn Viên và Bộ Tổng tham mưu vạch ra kế hoạch mới, bố trí lực lượng, để đối phó với tình hình.
    Cả Way End và Martin đã hướng dẫn cụ thể: ?oHà Nội sẽ chịu thương thuyết trong hy vọng chiến thắng Việt Nam bằng chính trị?. Để có vốn mà thương lượng, phải giữ cho được hai cứ điểm đầu cầu của phòng tuyến đông tây, kéo dài từ Phan Rang, Đà Lạt đến Tây Ninh.
    Phan Rang là quê cha đất tổ của Thiệu. Còn đối với Tây Ninh, trong tình hình này, càng phải được phòng thủ tốt. Mất nơi này, chẳng những sẽ gây ra ảnh hưởng chính trị rất lớn và cũng rất nguy hiểm về mặt quân sự, vì quân đội cộng hoà sẽ bị hỗn loạn và sẽ chạy dài như kiểu Huế-Đà Nẵng.
    Giới tuyến chiến đấu được thay đổi lại: Viên cho sát nhập phần đất còn lại của quân khu 2 và 3 để cho việc chỉ huy và yểm trợ được dễ dàng, nhanh chóng hơn, đồng thời chỉ định luôn một tư lệnh tiền phương của quân khu 3 tại Phan Rang cử trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi làm tư lệnh, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang làm phó, với trách nhiệm là chỉ huy, kiểm soát hành quân các tiểu khu Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy và Long Khánh.
    Căn cứ vào đâu mà bản báo cáo của Way End, cũng như kế hoạch của Thiệu đã đề ra những dự kiến khá cụ thể về thời gian, cũng như lực lượng, để đối phó với ta? Theo họ nắm được-tất nhiên là con rất xa với thực tế-thì ra có 8 sư đoàn trên chiến trường Nam Bộ: hai sư đoàn bố trí ở phía Tây và Tây Nam (Long An và Gò Công); ba sư đoàn trên hướng đông ở Long Khánh; một sư đoàn ở Cần Thơ; bốn trung đoàn đặc công ở ven đô. Lực lượng dự bị có 2 sư đoàn 312 và 316. Vấn đề bảo đảm hậu cần, có nhiều khó khăn. Với lực lượng như vậy, thì không thể gọi là có ưu thế được, vì họ còn nắm trong tay được 6 sư đoàn, trang bị đầy đủ. Bộ Tổng tham mưu chỉ cần khôi phục lại trước mắt hai sư đoàn ở quân khu 1 và quân khu 2 mới chạy về, và xây dựng thêm trung đoàn thứ tư cho các sư đoàn là khắc phục được sự chênh lệch về binh lực. Về vũ khí, thì còn những hai vạn khẩu súng ở kho Cam Ranh. Ngoài ra, Mỹ đang dùng máy bay vận tải lớn, lấy trang bị vũ khí nặng ở các kho gần nhất trong khu vực Đông Nam Á này, đêm ngày ùn ùn đưa tới Sài Gòn.
    Theo kế hoạch phòng ngự cụ thể, trên hướng Tây Ninh, ngoài sư đoàn 25 ra, còn có 3 đến 4 trung đoàn địa phương. Lực lượng tổng dự bị cũng sẵn sàng tăng cường cho hướng này, vì là hướng phòng ngự chủ yếu, nên có thêm một lữ dù và lữ đoàn 3 thiết giáp. Với 3 sư đoàn, Mặt trận không phải dễ dàng gì tiến công vào những lực lượng nói trên.
    Trên hướng bắc mối đe dọa tạm thời có thể giảm bớt, vì họ biết được sư đoàn 7 Quân giải phóng, đã chuyển địa bàn hoạt động sang phía đông, sư đoàn 9 sang phía tây; chỉ còn có sư đoàn 341 và một sư đoàn nữa, chưa rõ phiên hiệu, ở miền Bắc mới vào, cho nên cũng chỉ có thể hoạt động đến Bình Dương là cùng. Họ đã có sẵn ở đây sư đoàn 5 và một đơn vị địa phương; nếu cần, còn có thể chi viện thêm một lữ đoàn dù. Để có thể chống trả một cách có hiệu quả hơn, họ có thể co tuyến phòng ngự lại một ít, rút bỏ Phú Giáo, còn Tân Uyên thì giao lại cho quân địa phương. Ở phía quân khu 3, việc phòng thủ Phan Rang đã được bảo đảm; còn để đối phó với đe dọa vào Xuân Lộc thì đã có sư đoàn 18. Việc điều động sư đoàn 7 và sư đoàn 9 ra khỏi đồng bằng sông Cửu Long để đưua vê cứu nguy cho thủ đô, họ không đặt ra như năm 1972, vì quốc lộ 4 sẽ bị uy hiếp nặng và nếu rút cả sư đoàn 21 đi thì lại nguy hiểm cho Cần Thơ.
    Trong Bộ Tổng tham mưu nguỵ, cũng có người đưa ý kiến nên bỏ Phan Rang cả đến Long Khánh; chỉ nên để ở Xuân Lộc một đồn tiền tiêu, co đội hình về giữ Biên Hoà, Trảng Bom, Long Bình, đường 15, Vũng Tàu, O Cấp. Ở phía Bắc, thì bỏ cả Tây Ninh, mà lui về củng cố Trảng Bàng, Củ Chi. Như thế vẫn chưa được yên tâm, vì thấy cả Bộ Tổng tham mưu không còn lấy một tên quân dự bị, nên Nguyễn Văn Minh, tư lệnh biệt khu thủ đô mạnh dạn đề nghị với Thiệu, Viên, cho rút cả sư đoàn 18 về làm dự bị, đề phòng Mặt trận có thể thọc vào thủ đô.
    Đối với ý kiến trên, Thiệu bác bỏ thẳng thừng, cho đây là những giả thuyết chủ bại. Nếu kéo dài việc cầm cự được một tháng nữa là sẽ đến mùa mưa. Thời tiết sẽ không cho phép Mặt trận mở những cuộc tiến công lớn. Họ sẽ có đủ thời gian để xây dựng lại 4 sư đoàn và như vậy thì có khả năng dùng Tây Ninh, để làm bàn đạp tiến công ra hướng bắc, chiếm lại Tây Nguyên. Để phối hợp với đòn phản công chiến lược này, họ sẽ dùng không quân đến mức tối đa, để ngăn chặn đường tiếp viện, dùng hải quân phong toả không cho ta sử dụng các cảng Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang; tăng cường các chiến hạm có hoả lực hải pháo mạnh dọc bờ biển từ Nha Trang trở vào, một mặt để trực tiếp yểm trợ cho các tiểu khu Ninh Thuận, Bình Tuy; mặt khác, ráo riết tuần thám, nhằm ngăn chặn các cuộc thâm nhập từ miền Bắc vào?
    Mãi đến lúc này, họ mới nhận ra là trong cách tổ chức lực lượng có nhiều chỗ rập khuôn theo Mỹ một cách máy móc, không phù hợp với tình hình địa hình Việt Nam, nên phải gấp rút ?oViệt Nam hóa? quân ngũ trở lại. Nhiều tổ chức nặng nề không có hiệu lực như viện giám sát, pháp viện đặc biệt, đoàn nữ quân nhân lần lượt bị giải thể. Để lấy lại lòng tin của nhân dân và quân đội, phải làm ?oxúc động tâm lý toàn quốc?, kích động lòng yêu nước của toàn dân, họ thay đổi chế độ quân dịch, không xem đó như là một hình phạt, mà là để thực hiện công bằng xã hội. Thiệu ra sắc lệnh bãi bỏ luật động viên 17-18 tuổi, mà nêu cao danh dự, nâng cao quyền lợi cho binh sĩ, miền phí, tăng lương cho tất cả binh quân chủng nào, cấp bậc nào, để thực hiện chính sách ?ohuynh đệ chi binh?. Một trong những hành động cho tính quyết định đặc sắc nhất, trong những ngày tàn của cuộc đời làm chính trị của Thiệu là đóng cửa tất cả các tiệm rượu, các hộp đêm, nhà chứa ở Sài Gòn để tiết kiệm tiền, mua súng đạn.
    Khó khăn lớn nhất của quân đội Cộng hoà là vấn đề cán bộ và quân số. Nói đến các sĩ quan, Cao Văn Viên thú nhận: ?oTinh thần chiến bại ngày càng bộc lộ, phổ biến, tinh thần chiến đấu giảm sút rất nhanh chóng vì gia đình thất lạc, không có tin tức của thân nhân, nên không ai còn tâm trí để phục vụ?. Số lượng quân cần tuyển là 20 vạn, chỉ đề ra trên giấy tờ cho có chuyện, rất ít có khả năng đạt được 1 phần 10 của số nói trên. Đặc biệt, Viên vô cùng lo lắng cho số phận của không quân và hải quân. Về không quân, tổng số máy bay các loại còn lại thì rất lớnm số sân bay ở miền Trung đã lọt vào tay đối phương, nhưng số còn lại ở quân khu 3 và 4 cũng tạm đủ dùng; nhưng hệ thống ra đa, kiểm báo, nhân viên điều hành thì trốn tiệt; về hải quân, là quân chủng ít bị thiệt hịa nhất, tàu thuyền hãy còn đủ để yểm trợ nhu cầu của quân lực và còn có khả năng giữa các đường vận tải chính trên các sông ngòi và dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, xăng dầu trở nên khan hiếm, vì các bến cảng đều bị uy hiếp nặng. Đạn dược còn lại cũng không phải ít: đạn bộ binh còn đủ dùng được mấy tháng, riêng bom đạn của không quân, hải quân thì còn có thể kéo dài cuộc chiến đấu đến cả năm.
    Mọi nỗ lực, cố gắng trong lúc này, theo họ đề ra đều nhằm ?okhôi phục lại trong vòng ba tháng tình trạng bất phân thắng bại, để có được hoà đàm?. Họ muốn kiếm một ít vốn liếng trên bàn hội nghị. Trên chiến trường chính Mỹ chưa chịu thua, thì trên chính trường, Bộ Quốc phòng và Bộ ngoại giao Mỹ vẫn còn ra thông báo: ?oTrong khi Hà Nội đang chuẩn bị một đòn tiến công quân sự nhanh chóng, có tính chất quyết định, chúng ta vẫn tin rằng Hà Nội sẽ lựa chọn một giải pháp ít tốn kém, lại thích hợp hơn về mặt chính trị??.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 18: Tia hy vọng cuối cùng
    Được thông báo trưa ngày 5 tháng 4, đồng chí Lê Đức Thọ sẽ đến Buôn Ma Thuột. Địa điểm đón tiếp được chọn là căn cứ huấn luyện của trung đoàn 45, ở phía đông thị xã, nơi đây bảo đảm an toàn, vừa đảm bảo bí mật và bề ngoài cũng có vẻ khang trang hơn các nơi khác. Đồng chí binh trạm trưởng, phần lo chuẩn bị cuộc đón tiếp, phần thì lo sơ tán chiến lợi phẩm từ trong kho Mai Hắc Đế ra các khu rừng cà phê, cao su ở chung quanh đề phòng oanh tạc, nào tập trung xe để bảo đảm, cho sư đoàn 320 đi vào chiến trường, nào vận tải một khối lượng hàng hóa khá lớn vào Nam Bộ nên chân không bén đất, chạy tới chạy lui hết nơi này đến nơi khác đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra. Đến gần trưa, mọi công tác chuẩn bị đón tiếp tạm xong. Bỗng một tiếng nổ long trời, làm rung chuyển các cửa chớp, phát ra từ trong đống giấy lộn đang cháy dở cạnh nhà. Liền sau đó là những tiếng nổ nhỏ hơn của đạn súng trường, thỉnh thoảng lại đêm vài tiếng nổ lớn của lựu đạn. Té ra là một kho đạn súng bộ binh ở ngay cạnh phòng khách, đang bị cháy nổ. Thật là húa vía! Lại phải cấp tốc tung người đi khắc nơi chạy nháo chạy nhào, tìm một địa điểm khác. Cuối cùng mới chọn được một ngôi nhà, nguyên là cơ quan của chính quyền trước kia. Xác mấy chiếc xe tăng còn nằm nguyên trước cổng, ngói, gạch, gỗ, sắt đổ vỡ lung tung. Chỉ còn lại được một chiếc giường. Không bàn mà cũng chẳng có ghế. Đoàn vừa đến nơi, đã thấy đồng chí Bùi San và mấy đồng chí trong tỉnh uỷ đến, vừa thăm hỏi, vừa xin chỉ thị công tác. Được gặp cấp trên để xin chỉ thị trong lúc này còn gì bằng! Cho nên, biết đoàn vừa ở xa đến, còn mệt nhưng tranh thủ thì vẫn cứ phải tranh thủ. Đành phải làm việc hết cả buổi trưa. Quảnh cảnh và phong cách làm việc sau ngày mới giải phóng, đâu đâu cũng đều tất bật như thế cả. Việc này chưa xong thì việc khác đã ập đến; hết đột xuất lại đến bất ngờ; hết tranh thủ lại đến kết hợp. Đầu óc lúc nào cũng thẳng, tay chân luôn luôn bận rộn; thế mà ai nấy vẫn luôn luôn phấn khởi, vui tươi. Mọi tính toán cá nhân đều gạt bỏ sang một bên, những vướng mắc riêng tư đều bị dẹp lại, trước mắt chỉ còn là trách nhiệm và lòng nhiệt tình, hăng say công tác.
    Đồng chí bác sĩ đi với đoàn cho tôi biết sức khỏe của ?oông già? dạo này chưa tốt lắm. Vì nóng lòng muốn vào sớm, nên luôn luôn phải vượt cung; đã thế, mỗi lần đến địa phương nào, cũng phải làm việc, chẳng kể ngày đêm, căng thẳng vô cùng.
    Trên đường vào Nam Bộ trong những ngày này, việc đi lại rất khó khăn, nhất là trên đoạn đường đi trên đất Campuchia. Không phải vì đèo cao, dốc đứng, cũng không có suối sâu, sông rộng; nhưng đường thì hẹp, mà các đơn vị binh khí kỹ thuật, đặc biệt là những đơn vị tên lửa, xe tăng, choán hết cả mặt đường, không tài nào vượt lên trước được. Những trận mưa đầu mùa làm cho việc đi đứng khó thêm. Vì vậy, đoàn phải đi theo đường 14. Điều đáng ngại nhất là trên những đoạn gần các vị trí cũ của địch như Đức Lập, Bu-prăng hãy còn rất nhiều mìn. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối, ngoài việc giao nhiệm vụ cho công binh phải rà phá kỹ lưỡng, binh trạm còn đưa mấy chiếc xe vận tải chở đầy gạo, đi trước mở đường; đồng thời quy định cho mọi người: tuyệt đối không được ra khỏi vệt bánh xe. Khi nghỉ, chỉ được đứng giữa đường.
    Từ Bù Gia Mập trở vào, người đi lại nhộn nhịp, đông vui như trẩy hội. Những khu rừng rậm, những bến vượt, đều biến thành những bãi để xe. Tuy chưa được cấp trên phổ biến, nhưng mọi người đều ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, về hướng vào mục tiêu chiến dịch sắp đến.
    Trạm đón tiếp của Trung ương Cục nằm dưới một lùm cây rậm. Gọi là trạm, nhưng chỉ lèo tèo có một lán nhỏ, không đủ che mưa, bốn bề gió lọt, với một cái bàn con, chân khập khễnh. Trông qua dấu vết trên mặt đường, cũng biết là xe cộ qua lại nơi đây khá nhiều; nhưng lại không hề có vẻ nhộn nhịp, ồn ào, náo hệit của một bãi xe thông thường. Tất cả các xe con, đều triệt để phân tán, ẩn dưới bóng cây, cả đến những người phục vụ cũng chia ra từng nhóm nhỏ ở rải rác chung quanh. Những người mới đến đều có ấn tượng rất tốt đẹp về việc chấp hành các qui định phòng không. Kể ra, thì từ đây vào đến chỗ Trung ương Cục, cũng chỉ có mấy cây số đường rừng thôi, bằng phẳng, rất dễ đi. Nhưng kỷ luẩ chiến trường không cho phép bất cứ ai được đánh xe ô tô con vào đến tận nơi ở và làm việc của các đồng chí lãnh đạo. Tất cả khách mới đến, dù là cấp gì, phải đi bằng phương tiện duy nhất: Honda ôm. Với những ai đã từng sống ở Trung ương Cục trước đây, thì so cái xe đẹp thồ trước kia, đều cảm thấy bây giờ là cả một sự tiến bộ rất dài. Đồng chí Lê Đức Thọ, vừa từ trên xe bước xuống, đồng chí trạm trưởng chạy đến báo cáo và theo sau, là một anh chiến sĩ giải phóng người vạm vỡ, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, khẩu AK vác chéo sau lưng. Vừa để tay lên vành mũ, anh chiến sĩ đã ôm choàng lấy đồng chí Lê Đức Thọ, bất chấp lễ tiết tác phong, trước những cặp mắt ngạc nhiên của mọi người.
    -Anh Sáu! Anh khỏe không anh Sáu! Anh Bảy (đồng chí Phạm Hùng) cho tôi ra đón anh đây. Trời đất ơi! Mấy hôm nay anh Bảy trông anh hết nói.
    Đồng chí Lê Đức Thọ tươi cười, vỗ vào vai anh giải phóng. Lần thứ hai, mọi người đều ngạc nhiên.
    -Ủa, Tư! Dạo này cậu công tác ở đây à? Đã gặp vợ con chưa?
    Vừa nói, anh vừa quàng chiếc khăn xà cột vào vai, rồi nhanh nhẹn leo lên chiếc xe honda, ngồi gọn sau lưng anh chiến sĩ giải phóng, rất tự nhiên.
    -Ta đi thôi.
    Các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục, anh Tuấn và một cán bộ đã đứng đón sẵn. Vừa xuống xe, đồng chí Lê Đức Thọ vội chạy đến ôm chầm lấy đồng chí Phạm Hùng và anh Tuấn. Họ hôn nhau, lâu hơn mọi lần, nghẹn ngào, chẳng nói lên lời. Chỉ mới xa nhau chưa được 100 ngày mà tình hình đã thay đổi bằng cả một đời người. Họ như những người vừa ra khỏi giấc mơ. Suốt cả cuộc đời vào tù ra tội, biết bao nhiêu lần đứng dưới máy chém nhìn lên, hay trong ngục tối nhìn ra, tính mạng như nghìn cân treo sợi tóc, có ai trong những người đứng đây nghĩ rằng có ngày họ cùng đứng bên nhau, để nhìn đời, sáng lạn như hôm nay, và tràn trề hy vọng về những ngày mai? Trong cuộc đời làm cách mạng của mình, mỗi người đã từng gánh vác nhiều trọng trách, nhưng có nhiệm vụ nào lớn lao hơn, vinh dự hơn là trách nhiệm mà Đảng giao cho các đồng chí trong những ngày này; chỉ huy một chiến dịch quy mô nhất, quan trọng nhất, để kết thúc thắng lợi sau gần 120 năm, cả dân tộc sống trong đêm dài nô lệ. Chiến dịch hãy còn thai nghén, nhưng thắng lợi dường như đã nắm chắc trong tay. Trong những cái hôn mặn nồng, thắm thiết, còn bộc lộ cả một ý chí sắt đá, một quyết tâm to lớn và một sự nhất trí cao.
    Ngay hôm sau, bắt tay vào làm việc. Nghiên cứu các chỉ thị hướng dẫn của Bộ, thượng tá Võ Quang Hồ cùng đi trong đoàn đồng chí Lê Đức Thọ mới vào, có cho tôi biết hai điểm: Quyết tâm của Bộ Chính trị đánh Sài Gòn-Gia Định rất cao, nhưng kế hoạch phải rất vững chắc nếu cần có thể tập trung lực lượng ở phía sau lên, và phải kết thúc chiến dịch như thời gian quy định.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 18: Tia hy vọng cuối cùng
    Được thông báo trưa ngày 5 tháng 4, đồng chí Lê Đức Thọ sẽ đến Buôn Ma Thuột. Địa điểm đón tiếp được chọn là căn cứ huấn luyện của trung đoàn 45, ở phía đông thị xã, nơi đây bảo đảm an toàn, vừa đảm bảo bí mật và bề ngoài cũng có vẻ khang trang hơn các nơi khác. Đồng chí binh trạm trưởng, phần lo chuẩn bị cuộc đón tiếp, phần thì lo sơ tán chiến lợi phẩm từ trong kho Mai Hắc Đế ra các khu rừng cà phê, cao su ở chung quanh đề phòng oanh tạc, nào tập trung xe để bảo đảm, cho sư đoàn 320 đi vào chiến trường, nào vận tải một khối lượng hàng hóa khá lớn vào Nam Bộ nên chân không bén đất, chạy tới chạy lui hết nơi này đến nơi khác đôn đốc, nhắc nhở, kiểm tra. Đến gần trưa, mọi công tác chuẩn bị đón tiếp tạm xong. Bỗng một tiếng nổ long trời, làm rung chuyển các cửa chớp, phát ra từ trong đống giấy lộn đang cháy dở cạnh nhà. Liền sau đó là những tiếng nổ nhỏ hơn của đạn súng trường, thỉnh thoảng lại đêm vài tiếng nổ lớn của lựu đạn. Té ra là một kho đạn súng bộ binh ở ngay cạnh phòng khách, đang bị cháy nổ. Thật là húa vía! Lại phải cấp tốc tung người đi khắc nơi chạy nháo chạy nhào, tìm một địa điểm khác. Cuối cùng mới chọn được một ngôi nhà, nguyên là cơ quan của chính quyền trước kia. Xác mấy chiếc xe tăng còn nằm nguyên trước cổng, ngói, gạch, gỗ, sắt đổ vỡ lung tung. Chỉ còn lại được một chiếc giường. Không bàn mà cũng chẳng có ghế. Đoàn vừa đến nơi, đã thấy đồng chí Bùi San và mấy đồng chí trong tỉnh uỷ đến, vừa thăm hỏi, vừa xin chỉ thị công tác. Được gặp cấp trên để xin chỉ thị trong lúc này còn gì bằng! Cho nên, biết đoàn vừa ở xa đến, còn mệt nhưng tranh thủ thì vẫn cứ phải tranh thủ. Đành phải làm việc hết cả buổi trưa. Quảnh cảnh và phong cách làm việc sau ngày mới giải phóng, đâu đâu cũng đều tất bật như thế cả. Việc này chưa xong thì việc khác đã ập đến; hết đột xuất lại đến bất ngờ; hết tranh thủ lại đến kết hợp. Đầu óc lúc nào cũng thẳng, tay chân luôn luôn bận rộn; thế mà ai nấy vẫn luôn luôn phấn khởi, vui tươi. Mọi tính toán cá nhân đều gạt bỏ sang một bên, những vướng mắc riêng tư đều bị dẹp lại, trước mắt chỉ còn là trách nhiệm và lòng nhiệt tình, hăng say công tác.
    Đồng chí bác sĩ đi với đoàn cho tôi biết sức khỏe của ?oông già? dạo này chưa tốt lắm. Vì nóng lòng muốn vào sớm, nên luôn luôn phải vượt cung; đã thế, mỗi lần đến địa phương nào, cũng phải làm việc, chẳng kể ngày đêm, căng thẳng vô cùng.
    Trên đường vào Nam Bộ trong những ngày này, việc đi lại rất khó khăn, nhất là trên đoạn đường đi trên đất Campuchia. Không phải vì đèo cao, dốc đứng, cũng không có suối sâu, sông rộng; nhưng đường thì hẹp, mà các đơn vị binh khí kỹ thuật, đặc biệt là những đơn vị tên lửa, xe tăng, choán hết cả mặt đường, không tài nào vượt lên trước được. Những trận mưa đầu mùa làm cho việc đi đứng khó thêm. Vì vậy, đoàn phải đi theo đường 14. Điều đáng ngại nhất là trên những đoạn gần các vị trí cũ của địch như Đức Lập, Bu-prăng hãy còn rất nhiều mìn. Để bảo đảm an toàn tuyệt đối, ngoài việc giao nhiệm vụ cho công binh phải rà phá kỹ lưỡng, binh trạm còn đưa mấy chiếc xe vận tải chở đầy gạo, đi trước mở đường; đồng thời quy định cho mọi người: tuyệt đối không được ra khỏi vệt bánh xe. Khi nghỉ, chỉ được đứng giữa đường.
    Từ Bù Gia Mập trở vào, người đi lại nhộn nhịp, đông vui như trẩy hội. Những khu rừng rậm, những bến vượt, đều biến thành những bãi để xe. Tuy chưa được cấp trên phổ biến, nhưng mọi người đều ý thức đầy đủ về trách nhiệm của mình, về hướng vào mục tiêu chiến dịch sắp đến.
    Trạm đón tiếp của Trung ương Cục nằm dưới một lùm cây rậm. Gọi là trạm, nhưng chỉ lèo tèo có một lán nhỏ, không đủ che mưa, bốn bề gió lọt, với một cái bàn con, chân khập khễnh. Trông qua dấu vết trên mặt đường, cũng biết là xe cộ qua lại nơi đây khá nhiều; nhưng lại không hề có vẻ nhộn nhịp, ồn ào, náo hệit của một bãi xe thông thường. Tất cả các xe con, đều triệt để phân tán, ẩn dưới bóng cây, cả đến những người phục vụ cũng chia ra từng nhóm nhỏ ở rải rác chung quanh. Những người mới đến đều có ấn tượng rất tốt đẹp về việc chấp hành các qui định phòng không. Kể ra, thì từ đây vào đến chỗ Trung ương Cục, cũng chỉ có mấy cây số đường rừng thôi, bằng phẳng, rất dễ đi. Nhưng kỷ luẩ chiến trường không cho phép bất cứ ai được đánh xe ô tô con vào đến tận nơi ở và làm việc của các đồng chí lãnh đạo. Tất cả khách mới đến, dù là cấp gì, phải đi bằng phương tiện duy nhất: Honda ôm. Với những ai đã từng sống ở Trung ương Cục trước đây, thì so cái xe đẹp thồ trước kia, đều cảm thấy bây giờ là cả một sự tiến bộ rất dài. Đồng chí Lê Đức Thọ, vừa từ trên xe bước xuống, đồng chí trạm trưởng chạy đến báo cáo và theo sau, là một anh chiến sĩ giải phóng người vạm vỡ, đội mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, khẩu AK vác chéo sau lưng. Vừa để tay lên vành mũ, anh chiến sĩ đã ôm choàng lấy đồng chí Lê Đức Thọ, bất chấp lễ tiết tác phong, trước những cặp mắt ngạc nhiên của mọi người.
    -Anh Sáu! Anh khỏe không anh Sáu! Anh Bảy (đồng chí Phạm Hùng) cho tôi ra đón anh đây. Trời đất ơi! Mấy hôm nay anh Bảy trông anh hết nói.
    Đồng chí Lê Đức Thọ tươi cười, vỗ vào vai anh giải phóng. Lần thứ hai, mọi người đều ngạc nhiên.
    -Ủa, Tư! Dạo này cậu công tác ở đây à? Đã gặp vợ con chưa?
    Vừa nói, anh vừa quàng chiếc khăn xà cột vào vai, rồi nhanh nhẹn leo lên chiếc xe honda, ngồi gọn sau lưng anh chiến sĩ giải phóng, rất tự nhiên.
    -Ta đi thôi.
    Các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục, anh Tuấn và một cán bộ đã đứng đón sẵn. Vừa xuống xe, đồng chí Lê Đức Thọ vội chạy đến ôm chầm lấy đồng chí Phạm Hùng và anh Tuấn. Họ hôn nhau, lâu hơn mọi lần, nghẹn ngào, chẳng nói lên lời. Chỉ mới xa nhau chưa được 100 ngày mà tình hình đã thay đổi bằng cả một đời người. Họ như những người vừa ra khỏi giấc mơ. Suốt cả cuộc đời vào tù ra tội, biết bao nhiêu lần đứng dưới máy chém nhìn lên, hay trong ngục tối nhìn ra, tính mạng như nghìn cân treo sợi tóc, có ai trong những người đứng đây nghĩ rằng có ngày họ cùng đứng bên nhau, để nhìn đời, sáng lạn như hôm nay, và tràn trề hy vọng về những ngày mai? Trong cuộc đời làm cách mạng của mình, mỗi người đã từng gánh vác nhiều trọng trách, nhưng có nhiệm vụ nào lớn lao hơn, vinh dự hơn là trách nhiệm mà Đảng giao cho các đồng chí trong những ngày này; chỉ huy một chiến dịch quy mô nhất, quan trọng nhất, để kết thúc thắng lợi sau gần 120 năm, cả dân tộc sống trong đêm dài nô lệ. Chiến dịch hãy còn thai nghén, nhưng thắng lợi dường như đã nắm chắc trong tay. Trong những cái hôn mặn nồng, thắm thiết, còn bộc lộ cả một ý chí sắt đá, một quyết tâm to lớn và một sự nhất trí cao.
    Ngay hôm sau, bắt tay vào làm việc. Nghiên cứu các chỉ thị hướng dẫn của Bộ, thượng tá Võ Quang Hồ cùng đi trong đoàn đồng chí Lê Đức Thọ mới vào, có cho tôi biết hai điểm: Quyết tâm của Bộ Chính trị đánh Sài Gòn-Gia Định rất cao, nhưng kế hoạch phải rất vững chắc nếu cần có thể tập trung lực lượng ở phía sau lên, và phải kết thúc chiến dịch như thời gian quy định.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 7 tháng 4 năm 1975, Thường vụ Trung ương Cục, Quân uỷ Miền họp, thông qua kế hoạch tác chiến. Có hai phương án:
    -Phương án 1, chủ yếu sử dụng lực lượng của Nam Bộ hiện có, được tăng cường thêm sư đoàn 316 và trung đoàn 95B mới từ chiến trường Tây Nguyên vào, thực hiện một số trận đánh lớn nhằm chia cắt quốc lộ 4 ở phía tây, quốc lộ 1 ở phía đông Sài Gòn. Về mặt chính trị, thì đưa quần chúng ven đô và một số nơi trong nội thành nổi dậy, làm chủ, diệt ác, thành lập chính quyền cơ sở. Nếu bước này đạt được thắng lợi giòn giã, chủ lực địch bịt thiệt hại nặng, quần chúng nổi dậy mạnh, thì tranh thủ thời cơ, đột kích vào Sài Gòn-Gia Định, nhằm vào một số mục tiêu chủ yếu như dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu v.v? Trên hướng đông, sẽ sử dụng hai sư đoàn đánh Xuân Lộc, một sư đoàn thọc sâu xuống quốc lộ 15, chiếm Bà Rịa-O Cấp; một sư ép sát Biên Hoà. Trong nội thành và vùng ven, đã có 7 trung đoàn đặc công và 60 tổ biệt động. Ở Quân khu 9, dùng hai trung đoàn, đánh sân bay Bình Thuỷ, bao vây Cần Thơ, hai trung đoàn cắt quốc lộ 4, chiếm Cái Vồn, Vĩnh Long.
    Nếu địch co cụm sớm về sát ven đô, thì chuyển sang phương án hai. Như vậy là phải đột phá bằng sức mạnh của binh chủng hợp thành và phải chờ cho đến khi Quyết định 3 và Quyết định 1 vào đủ, khoảng ngoại 20 tháng 4, mới bắt đầu nổ súng được.
    Thực hiện kế hoạch trên, ngày 9 tháng 4 năm 1975, Bộ tư lệnh Miền sử dụng sư đoàn 7 và sư đoàn 341 tiến công vào Xuân Lộc. Do địch đinh ninh rằng ta sẽ đánh Tây Ninh, nên trong những tháng 2, 3 và đầu tháng 4, họ gần như đem hết cả lực lượng chủ lực về phía ấy. Mặt trận phía đông bị bỏ ngỏ. Mãi cho đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Toàn mới phát hiện ra hướng tiến công chủ yếu của ta là hướng đông và Tây Ninh lại là hướng kìm chế, nghi binh để thu hút đối phương. Toàn vội vàng điều động lực lượng từ tây sang đông, chủ trương quyết giữ Long Khánh từ xa. Toàn giao cho Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18, phải giải toả quốc lộ 1 để nối liền với mặt trận Phan Rang, chiếm lại cho được núi Chứa Chan, một đài quan sát tuyệt vời ở miền Đông Nam Bộ, giữ vững Bình Tuy. Chủ trương này rất hợp với ý của Thiệu nhưng Lê Minh Đảo thì phản ứng mạnh. Theo Đảo thì trong tinh hình này, lực lượng cơ động không còn bao nhiêu, nên phải bỏ cả Bình Tuy, Xuân Lộc co về giữ Biên Hoà; nói gì đến chuyện vươn ra tận Phan Rang xa xôi. Đảo chấp hành mệnh lệnh một cách nửa vời; tập trung toàn bộ lực lượng của sư đoàn 18 và một thiết đoàn chỉ giữ Xuân Lộc thôi. Ngoài ra, còn có tiểu đoàn 82 biệt động quân mới xây dựng lại và nhiều đơn vị địa phương, hai khẩu pháo 175, 10 khẩu phảo 155 và 20 khẩu pháo 105 mm. Cách bố trí thì phân tán trên các mỏm đồi và ở cả trong rừng cao su. Trước ngày nổ súng, Lê Minh Đảo rất xảo quyệt, đã bí mật rời sở chỉ huy và trung tâm hành quân vào trung tâm thị xã, làm cho các đài quan sát tiền tiêu của ta bị mất hút. Về phía ta, sư đoàn 7 đã tác chiến liên tục từ đợt 1 đến nay và đã thu được nhiều thắng lợi lớn. Là đơn vị chủ công trong trận Phước Long, tiếp đến là Định Quán, giải phóng Bảo Lộc, Di Linh, mà quân số thì chưa được bổ sung, cho nên sức chiến đấu có bị giảm sút. Sư đoàn 6 thì mới hình thành, còn sư đoàn 341, thì chân ướt chân ráo mới đến chiến trường. Vấn đề bảo đảm vật chất trên hướng này, đối với cơ quan hậu cần của Miền, thật là vô cùng vất vả, vì đường vận chuyển vừa xa, lại vừa cách núi, ngăn sông, hậu phương trực tiếp rất nghèo nàn. Một chiếc xe vận tải chở vũ khí, đạn dược xuất phát từ Đồng Xoài, phải mất cả tuần lễ mới đến được nới tiếp nhận.
    Sau những loạt phát bắn chuẩn bị, trung đoàn 3 của sư đoàn 341, được xe tăng chi viện, tiến công từ phía bắc thị xã Xuân Lộc, phát triển thuận lợi, chiếm được dinh tỉnh trưởng, và đánh vào căn cứ biệt động quân. Đến ngày 10 tháng 4, đưa thêm một số tiểu đoàn vào để tăng thêm sức chiến đấu, chiếm được căn cứ này phía tây sân bay, khu vực chiến đoàn 45 và tập trung đánh phản kích. Trung đoàn 12 của sư đoàn 7, tiến công từ phía đông nhưng bị ngăn chặn, không mở được cửa, không thực hiện được việc chia cắt địch từ phía nam. Ngày hôm sau lại đưa nốt một bộ phận của trung đoàn 14 đến để cùng trung đoàn 11 cố đánh chiếm hậu cứu của chiến đoàn 52, đột phá vào hậu cứ của sư đoàn 18, chiến đoàn 43, nhưng tất cả đều bị ngăn chặn, không phát triển được vì đánh vào chỗ cứng trên một địa hình không thuận lợi. Sau ba ngày liên tục chiến đấu, bộ đội ta bị thương vong. Trên hướng sư đoàn 341, ngày đầu có thuận lợi như đã nói trên, nhưng đến ngày thứ ba cũng bị chặn lại. Bộ Tổng tham mưu quch nhận thấy tình hình trong lúc này mà để mất Xuân Lộc thì coi như qpg đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn rồi. Hơn nữa, họ đang muốn tìm kiếm một chiến thắng vang dội. Vì vậy càng phải dốc hết sức tàn lực kiệt vào mặt trận này: máy bay oanh tạc suốt ngày, pháo binh bắn dồn dập, đồng thời cấp tốc chuyển toàn bộ lữ đoàn 3 kỵ binh, một lữ đoàn dù, một chiến đoàn xe tăng, từ mặt trận phía tây sang. Chiều ngày 13 tháng 4, lữ đoàn dù và sáu khẩu pháo 105 mm đến ngã ba Tân Phong. Sáng hôm sau, cánh này đánh vòng lên phía bắc, định hình thành thế bao vây tiểu đoàn 7, trung đoàn 209 của ta. Thế trận giằng co. Trước sức chống cự quyết liệt của địch, một số đơn vị của ta vẫn giữ các mục tiêu quan trọng trong thị xã mới chiếm được, một số đơn vị khác, phải rút ra ngoài, chuẩn bị đánh phản kích. Bộ tư lệnh chiến dịch cử trung tướng Trần Văn Trà đến kiểm tra tại trận và hướng dẫn cách đánh cho phù hợp: từ trạng thái tiến công chuyển sang bao vây, đánh thiệt hại nặng quân địch ở vòng ngoài, và dùng pháo binh tiêu hao ở bên trong. Kết quả là sau mấy ngày chiến đấu, lữ đoàn 3 kỵ binh bị chặn đứng ở Bàu Cá không tiến lên được để giải toả quốc lộ 1, nối liền với Xuân Lộc, thậm chí đến việc bắt liên lạc với chiến đoàn 52 ở Dầu Dây cũng không thực hiện được, vì tiểu đoàn 3 của chiến này cũng bị đánh thiệt hại nặng ở đồi Móng Ngựa, và đến ngày 15 tháng 4 thì phải rút về Long Bình qua ngã bắc Bầu Hàm. Lữ đoàn dù 1 cũng không tiến lên được và bị đẩy dần về phía Trảng Bom, Biên Hoà, lần lượt Túc Trung, Kiểm Tận và Dầu Dây được giải phóng, Xuân Lộc ngày càng bị cô lập. Tuyến phòng thủ Hố Nai-Biên Hoà bị uy hiếp.
    Trên mặt trận phía tây, thực hiện chủ trương cắt quốc lộ 4, đoàn 232 do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy, điều chỉnh lại kế hoạch không đánh Mộc Hóa trên tuyếnbg, mà nhanh chóng thọc xuống la dùng sư đoàn 8 đánh Cai Lậy, cắt đường; sư đoàn 5 và một trung đoàn đánh Thủ Thừa, còn 3 trung đoàn khác thì áp sát Sài Gòn. Hai sư đoàn 3 và 9 sẵn sàng ở phí sau. Do đường sá lầy lội, phải vượt qua nhiều bưng sình, nên các đơn vị pháo binh, thiết giáp không theo kịp bộ binh. Để phối hợp kịp thời với Xuân Lộc, đêm 10 tháng 4, ta tiến công Tân An-Thủ Thừa. Vì không có hoả chi viện, trận đánh không thành công. Ta chuyển sang tiêu diệt các đồn bót nhỏ ở phía tây Tân An, mở rộng hành lang, củng cố vị trí đứng chân, tạo điều kiện để sau này đánh lớn.
    Những trận đánh Xuân Lộc, Tân An không dứt điểm được, đối phương tuy lâm vào bước đường cùng, nhưng chưa phải đã tháo chạy. Tuy nhiên, cũng đã có tác động lớn: những đơn vị trực tiếp bảo vệ Sài Gòn như lữ đoàn dù, sư đoàn 18 đều bị đánh thiệt hại nặng. Trong lúc đối phương đang phải lo đối phó với đòn chủ lực, thì lực lượng địa phương, tranh thủ mở vùng, mở mảng, áp sát ven đô, tạo ra những bàn đạp rất thuận lợi cho cuộc tiến công sau này. Các trung đoàn 88 và 24, hai tiểu đoàn ở Long An diệt 45 bốt, phân chi khu, giải phóng 12 xã thuộc huyện Châu Thành, Cần Giuộc, Cần Đước, Tân Trụ, kết hợp với lực lượng đặc công tạo ra chỗ đứng chân vững chắc ở phía nam thành phố.
    Lực lượng cơ động của quân đội Cộng hoà đã sạch. Chỉ sau vài ngày chiến đấu, các tiểu đoàn địa phương 301-322 và 330 bị thiệt hại nặng và trung đoàn 12 của sư đoàn 7 cũng mất sức chiến đấu. Ngày 12 tháng 4, đành phải đưa sư đoàn 22 mới ở miền Trung chạy về, ra be bờ. Kể ra thì sư đoàn này cũng tạm gọi là có máu mặt hơn các đơn vị khác. Ở trung tâm Vạn Kiếp, ở Vũng Tàu, nó còn được bổ sung 4.600 quân, phần lớn mới từ các địa phương lên, nhưng không còn lấy một khẩu pháo nào. Tội nghiệp! Đứa anh cả của nó là sư đoàn 1, trước đấy hùng hổ là thế, mà nay chỉ còn có 2 sĩ quan và 40 lính; còn sư đoàn 3 thì vét được 1.000 lính với 20 khẩu súng trường.
    Các cấp chỉ huy ở trên dường như chẳng nắm được tình trạng bi đát này. Vài ngày đầu, thấy tình hình ở Xuân Lộc, Tân An, loé lên một tia hy vọng, đã vội vui mừng. Ngày 13 tháng 4, tướng Smith, tuỳ viên quân sự Mỹ đã gửi cho C.Brown, chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân, một bức điện nói về trận Xuân Lộc như sau:
    ?o1.Chúng ta đã bước đầu giành thắng lợi. Trong trận Long Khánh, quân lực Việt Nam Cộng hoà rõ ràng đã tỏ ra quyết tâm, ý chí và lòng dũng cảm để chiến đấu, dù cho tình thế bất lợi cho họ. Dù trận đánh mới chỉ qua giai đoạn 1, nhưng chúng ta có thể nói rằng, quân lực Việt Nam Cộng hoà đã thắng ở hiệp một.
    2.Trận đánh giành quyền kiểm soát ngã ba Dầy Dây và tỉnh lỵ Xuân Lộc từ ngày 9 tháng 4, với trận hoả lực mở màn gồm 3.000 đạn pháo, rocket và cối. Lực lượng Việt Nam Cộng hoà bị áp đảo về số lượng, đã bị đánh bật khỏi thị xã và nhiều xã ấp dọc quốc lộ 20. Nhưng, họ đã nhanh chóng phản công và vào đêm đầu tiên, sau khi trận đánh bắt đầu, họ đã đẩy được phần lớn quân địch ra khỏi Xuân Lộc, mặc dù Bắc Việt còn chiếm nhiều ấp xã.
    3.Không quân Việt Nam đã bảo đảm liên tục không yểm gần. Thiệt hại của địch kinh khủng. Số địch bị chết bỏ lại trên chiến trường hơn 1.200 tên, gần 30 xe tăng bỏ lại trên chiến trường. Ta thu gần 200 vũ khí.
    4.Lòng dũng cảm va tính tích cực của binh sĩ Việt Nam Cộng hoà, nhất là lực lượng địa phương Long Khánh, chắc chắn chỉ ra rằng: những binh sĩ này, nếu được trang bị đầy đủ và lãnh đạo tốt, thì ưu việt hơn hẳn đối thủ của họ. Trận Xuân Lộc như vậy đã giải quyết được vấn đề: Quân lực Việt Nam Cộng hoà có chiến đấu được hay không??.
    Bước sang ngày 18 tháng 4, Nguyễn Văn Toàn phát hiện được trung đoàn 141 của sư đoàn 7 Quân giải phóng đang chuẩn bị bước vào chiến dịch, thì liền chiều hôm ấy, lệnh cho Lê Minh Đảo phải nhanh chóng bỏ Long Khánh, rút về phòng thủ Biên Hoà, sau khi Đảo vừa nhận được 400 quân bổ sung. Khác với cuộc rút lui ?oquân hồi vô phèng? ở Tây Nguyên một tháng trước đây, cuộc rút quân của tướng Đảo xem ra có vẻ bài bản hơn. Nhật ký chiến sự của sư đoàn 18 có ghi lại:
    Ngày 19: lữ đoàn dù và sư đoàn 18 tiếp tục phản công mạnh mẽ; chiến đoàn 48 hành quân mở đường tiếp tế nhưu thường lệ; nhưng kỳ thực nhằm mục đích nghi binh và bảo đảm an toàn từ Xuân Lộc đến Long Đạo. Sư đoàn lệnh cho quân địa phương rút khỏi xã Cẩm Mỹ để cho sư đoàn bí mật co đội hình về gần Long Đạo. Cố tránh giao tranh để khỏi tạo ra tình hình khẩn trườn trên đoạn đường này. Các chiến đoàn khác dùng tất cả các loại pháo với số lượng rộng rãi hơn, khác hẳn với những ngày trước.
    Ngày 20 tháng 4: 8 giờ sáng, tiểu đoàn dù được tăng cường một chiến đoàn xe bọc thép, một đại đội trinh sát, tiến công mạnh vào trung đoàn 141 Quân giải phóng. Pháo bắn mạnh vào các đơn vị chung quanh Núi Thị, di chuyển rầm rộ, làm như đến tăng cường cho tiểu đoàn 2, trung đoàn 43 đóng tại đây; kỳ thực là để vứt bớt pháo, vật liệt nặng. Trực thăng vận tải vẫn tiếp tục bay ra bay vào Xuân Lộc như mọi ngày, nhưng mang tiếp liệu vào mà là để mang vật liệu ra. Thời tiết xấu, nên chỉ được 3 làn chiếc ngày. Đến 20 giờ, trung đoàn 48 thiếu và ban chỉ huy cùng với 4 pháo, từ Núi Thị rút về Long Đao, triển khai đội hình, để sẵn sàng yểm hộ các đơn vị rút sau. Đến 22 giờ, trung đoàn 43 và tiểu đoàn 82 biệt động quân bắt đầu di chuyển, vượt qua đội hình của trung đoàn 48 và bố trí trên đoạn đường từ Cẩm Mỹ đến Xà Bang. Sau đó hai tiếng đồng hồ, trên 2.000 xe các loại của sư đoàn 18 và tiểu đoàn 2 của trung đoàn 52 và một đại đội trinh sát đi bảo vệ dọc đường. 3 giờ sáng ngày 21 tháng 4, tiểu đoàn ở Núi Thị rút sau cùng. Sau khi bắn liên tục để nghi binh, phá huỷ cả hai khẩu pháo 105 cuối cùng còn lại; đến 5 giờ thì đoàn cơ giới về phía Đức Thạnh. Các đơn vị lẻ tẻ cũng dần dần tập trung lại được ở đây; cho đến 12 giờ thì sư đoàn 18 về Long Bình; lữ đoàn 1 được tách ra khỏi sư đoàn để ở lại bảo vệ Bà Rịa??
    Ngồi ở Tân Sơn Nhất nhìn ra, là một nhà quân sự như tướng Smith, lẽ nào lại nhìn một cuộc rút lui, mặc dù có bài bản hoá thành một cuộc phản công. Thử hỏi: người ngồi bên kia Thái Bình Dường, thì còn sia lầm đến tận đâu?
    ---------------------------------
    Em đã gõ xong quyển Xuân giải phóng rùi, bác nào có nhu cầu đọc toàn bộ quyển thì cho em cái meo, em gửi cho, đỡ mất thời gian đọc trên này!
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Ngày 7 tháng 4 năm 1975, Thường vụ Trung ương Cục, Quân uỷ Miền họp, thông qua kế hoạch tác chiến. Có hai phương án:
    -Phương án 1, chủ yếu sử dụng lực lượng của Nam Bộ hiện có, được tăng cường thêm sư đoàn 316 và trung đoàn 95B mới từ chiến trường Tây Nguyên vào, thực hiện một số trận đánh lớn nhằm chia cắt quốc lộ 4 ở phía tây, quốc lộ 1 ở phía đông Sài Gòn. Về mặt chính trị, thì đưa quần chúng ven đô và một số nơi trong nội thành nổi dậy, làm chủ, diệt ác, thành lập chính quyền cơ sở. Nếu bước này đạt được thắng lợi giòn giã, chủ lực địch bịt thiệt hại nặng, quần chúng nổi dậy mạnh, thì tranh thủ thời cơ, đột kích vào Sài Gòn-Gia Định, nhằm vào một số mục tiêu chủ yếu như dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu v.v? Trên hướng đông, sẽ sử dụng hai sư đoàn đánh Xuân Lộc, một sư đoàn thọc sâu xuống quốc lộ 15, chiếm Bà Rịa-O Cấp; một sư ép sát Biên Hoà. Trong nội thành và vùng ven, đã có 7 trung đoàn đặc công và 60 tổ biệt động. Ở Quân khu 9, dùng hai trung đoàn, đánh sân bay Bình Thuỷ, bao vây Cần Thơ, hai trung đoàn cắt quốc lộ 4, chiếm Cái Vồn, Vĩnh Long.
    Nếu địch co cụm sớm về sát ven đô, thì chuyển sang phương án hai. Như vậy là phải đột phá bằng sức mạnh của binh chủng hợp thành và phải chờ cho đến khi Quyết định 3 và Quyết định 1 vào đủ, khoảng ngoại 20 tháng 4, mới bắt đầu nổ súng được.
    Thực hiện kế hoạch trên, ngày 9 tháng 4 năm 1975, Bộ tư lệnh Miền sử dụng sư đoàn 7 và sư đoàn 341 tiến công vào Xuân Lộc. Do địch đinh ninh rằng ta sẽ đánh Tây Ninh, nên trong những tháng 2, 3 và đầu tháng 4, họ gần như đem hết cả lực lượng chủ lực về phía ấy. Mặt trận phía đông bị bỏ ngỏ. Mãi cho đến ngày 5 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Toàn mới phát hiện ra hướng tiến công chủ yếu của ta là hướng đông và Tây Ninh lại là hướng kìm chế, nghi binh để thu hút đối phương. Toàn vội vàng điều động lực lượng từ tây sang đông, chủ trương quyết giữ Long Khánh từ xa. Toàn giao cho Lê Minh Đảo, tư lệnh sư đoàn 18, phải giải toả quốc lộ 1 để nối liền với mặt trận Phan Rang, chiếm lại cho được núi Chứa Chan, một đài quan sát tuyệt vời ở miền Đông Nam Bộ, giữ vững Bình Tuy. Chủ trương này rất hợp với ý của Thiệu nhưng Lê Minh Đảo thì phản ứng mạnh. Theo Đảo thì trong tinh hình này, lực lượng cơ động không còn bao nhiêu, nên phải bỏ cả Bình Tuy, Xuân Lộc co về giữ Biên Hoà; nói gì đến chuyện vươn ra tận Phan Rang xa xôi. Đảo chấp hành mệnh lệnh một cách nửa vời; tập trung toàn bộ lực lượng của sư đoàn 18 và một thiết đoàn chỉ giữ Xuân Lộc thôi. Ngoài ra, còn có tiểu đoàn 82 biệt động quân mới xây dựng lại và nhiều đơn vị địa phương, hai khẩu pháo 175, 10 khẩu phảo 155 và 20 khẩu pháo 105 mm. Cách bố trí thì phân tán trên các mỏm đồi và ở cả trong rừng cao su. Trước ngày nổ súng, Lê Minh Đảo rất xảo quyệt, đã bí mật rời sở chỉ huy và trung tâm hành quân vào trung tâm thị xã, làm cho các đài quan sát tiền tiêu của ta bị mất hút. Về phía ta, sư đoàn 7 đã tác chiến liên tục từ đợt 1 đến nay và đã thu được nhiều thắng lợi lớn. Là đơn vị chủ công trong trận Phước Long, tiếp đến là Định Quán, giải phóng Bảo Lộc, Di Linh, mà quân số thì chưa được bổ sung, cho nên sức chiến đấu có bị giảm sút. Sư đoàn 6 thì mới hình thành, còn sư đoàn 341, thì chân ướt chân ráo mới đến chiến trường. Vấn đề bảo đảm vật chất trên hướng này, đối với cơ quan hậu cần của Miền, thật là vô cùng vất vả, vì đường vận chuyển vừa xa, lại vừa cách núi, ngăn sông, hậu phương trực tiếp rất nghèo nàn. Một chiếc xe vận tải chở vũ khí, đạn dược xuất phát từ Đồng Xoài, phải mất cả tuần lễ mới đến được nới tiếp nhận.
    Sau những loạt phát bắn chuẩn bị, trung đoàn 3 của sư đoàn 341, được xe tăng chi viện, tiến công từ phía bắc thị xã Xuân Lộc, phát triển thuận lợi, chiếm được dinh tỉnh trưởng, và đánh vào căn cứ biệt động quân. Đến ngày 10 tháng 4, đưa thêm một số tiểu đoàn vào để tăng thêm sức chiến đấu, chiếm được căn cứ này phía tây sân bay, khu vực chiến đoàn 45 và tập trung đánh phản kích. Trung đoàn 12 của sư đoàn 7, tiến công từ phía đông nhưng bị ngăn chặn, không mở được cửa, không thực hiện được việc chia cắt địch từ phía nam. Ngày hôm sau lại đưa nốt một bộ phận của trung đoàn 14 đến để cùng trung đoàn 11 cố đánh chiếm hậu cứu của chiến đoàn 52, đột phá vào hậu cứ của sư đoàn 18, chiến đoàn 43, nhưng tất cả đều bị ngăn chặn, không phát triển được vì đánh vào chỗ cứng trên một địa hình không thuận lợi. Sau ba ngày liên tục chiến đấu, bộ đội ta bị thương vong. Trên hướng sư đoàn 341, ngày đầu có thuận lợi như đã nói trên, nhưng đến ngày thứ ba cũng bị chặn lại. Bộ Tổng tham mưu quch nhận thấy tình hình trong lúc này mà để mất Xuân Lộc thì coi như qpg đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn rồi. Hơn nữa, họ đang muốn tìm kiếm một chiến thắng vang dội. Vì vậy càng phải dốc hết sức tàn lực kiệt vào mặt trận này: máy bay oanh tạc suốt ngày, pháo binh bắn dồn dập, đồng thời cấp tốc chuyển toàn bộ lữ đoàn 3 kỵ binh, một lữ đoàn dù, một chiến đoàn xe tăng, từ mặt trận phía tây sang. Chiều ngày 13 tháng 4, lữ đoàn dù và sáu khẩu pháo 105 mm đến ngã ba Tân Phong. Sáng hôm sau, cánh này đánh vòng lên phía bắc, định hình thành thế bao vây tiểu đoàn 7, trung đoàn 209 của ta. Thế trận giằng co. Trước sức chống cự quyết liệt của địch, một số đơn vị của ta vẫn giữ các mục tiêu quan trọng trong thị xã mới chiếm được, một số đơn vị khác, phải rút ra ngoài, chuẩn bị đánh phản kích. Bộ tư lệnh chiến dịch cử trung tướng Trần Văn Trà đến kiểm tra tại trận và hướng dẫn cách đánh cho phù hợp: từ trạng thái tiến công chuyển sang bao vây, đánh thiệt hại nặng quân địch ở vòng ngoài, và dùng pháo binh tiêu hao ở bên trong. Kết quả là sau mấy ngày chiến đấu, lữ đoàn 3 kỵ binh bị chặn đứng ở Bàu Cá không tiến lên được để giải toả quốc lộ 1, nối liền với Xuân Lộc, thậm chí đến việc bắt liên lạc với chiến đoàn 52 ở Dầu Dây cũng không thực hiện được, vì tiểu đoàn 3 của chiến này cũng bị đánh thiệt hại nặng ở đồi Móng Ngựa, và đến ngày 15 tháng 4 thì phải rút về Long Bình qua ngã bắc Bầu Hàm. Lữ đoàn dù 1 cũng không tiến lên được và bị đẩy dần về phía Trảng Bom, Biên Hoà, lần lượt Túc Trung, Kiểm Tận và Dầu Dây được giải phóng, Xuân Lộc ngày càng bị cô lập. Tuyến phòng thủ Hố Nai-Biên Hoà bị uy hiếp.
    Trên mặt trận phía tây, thực hiện chủ trương cắt quốc lộ 4, đoàn 232 do đồng chí Lê Đức Anh chỉ huy, điều chỉnh lại kế hoạch không đánh Mộc Hóa trên tuyếnbg, mà nhanh chóng thọc xuống la dùng sư đoàn 8 đánh Cai Lậy, cắt đường; sư đoàn 5 và một trung đoàn đánh Thủ Thừa, còn 3 trung đoàn khác thì áp sát Sài Gòn. Hai sư đoàn 3 và 9 sẵn sàng ở phí sau. Do đường sá lầy lội, phải vượt qua nhiều bưng sình, nên các đơn vị pháo binh, thiết giáp không theo kịp bộ binh. Để phối hợp kịp thời với Xuân Lộc, đêm 10 tháng 4, ta tiến công Tân An-Thủ Thừa. Vì không có hoả chi viện, trận đánh không thành công. Ta chuyển sang tiêu diệt các đồn bót nhỏ ở phía tây Tân An, mở rộng hành lang, củng cố vị trí đứng chân, tạo điều kiện để sau này đánh lớn.
    Những trận đánh Xuân Lộc, Tân An không dứt điểm được, đối phương tuy lâm vào bước đường cùng, nhưng chưa phải đã tháo chạy. Tuy nhiên, cũng đã có tác động lớn: những đơn vị trực tiếp bảo vệ Sài Gòn như lữ đoàn dù, sư đoàn 18 đều bị đánh thiệt hại nặng. Trong lúc đối phương đang phải lo đối phó với đòn chủ lực, thì lực lượng địa phương, tranh thủ mở vùng, mở mảng, áp sát ven đô, tạo ra những bàn đạp rất thuận lợi cho cuộc tiến công sau này. Các trung đoàn 88 và 24, hai tiểu đoàn ở Long An diệt 45 bốt, phân chi khu, giải phóng 12 xã thuộc huyện Châu Thành, Cần Giuộc, Cần Đước, Tân Trụ, kết hợp với lực lượng đặc công tạo ra chỗ đứng chân vững chắc ở phía nam thành phố.
    Lực lượng cơ động của quân đội Cộng hoà đã sạch. Chỉ sau vài ngày chiến đấu, các tiểu đoàn địa phương 301-322 và 330 bị thiệt hại nặng và trung đoàn 12 của sư đoàn 7 cũng mất sức chiến đấu. Ngày 12 tháng 4, đành phải đưa sư đoàn 22 mới ở miền Trung chạy về, ra be bờ. Kể ra thì sư đoàn này cũng tạm gọi là có máu mặt hơn các đơn vị khác. Ở trung tâm Vạn Kiếp, ở Vũng Tàu, nó còn được bổ sung 4.600 quân, phần lớn mới từ các địa phương lên, nhưng không còn lấy một khẩu pháo nào. Tội nghiệp! Đứa anh cả của nó là sư đoàn 1, trước đấy hùng hổ là thế, mà nay chỉ còn có 2 sĩ quan và 40 lính; còn sư đoàn 3 thì vét được 1.000 lính với 20 khẩu súng trường.
    Các cấp chỉ huy ở trên dường như chẳng nắm được tình trạng bi đát này. Vài ngày đầu, thấy tình hình ở Xuân Lộc, Tân An, loé lên một tia hy vọng, đã vội vui mừng. Ngày 13 tháng 4, tướng Smith, tuỳ viên quân sự Mỹ đã gửi cho C.Brown, chủ tịch hội đồng tham mưu liên quân, một bức điện nói về trận Xuân Lộc như sau:
    ?o1.Chúng ta đã bước đầu giành thắng lợi. Trong trận Long Khánh, quân lực Việt Nam Cộng hoà rõ ràng đã tỏ ra quyết tâm, ý chí và lòng dũng cảm để chiến đấu, dù cho tình thế bất lợi cho họ. Dù trận đánh mới chỉ qua giai đoạn 1, nhưng chúng ta có thể nói rằng, quân lực Việt Nam Cộng hoà đã thắng ở hiệp một.
    2.Trận đánh giành quyền kiểm soát ngã ba Dầy Dây và tỉnh lỵ Xuân Lộc từ ngày 9 tháng 4, với trận hoả lực mở màn gồm 3.000 đạn pháo, rocket và cối. Lực lượng Việt Nam Cộng hoà bị áp đảo về số lượng, đã bị đánh bật khỏi thị xã và nhiều xã ấp dọc quốc lộ 20. Nhưng, họ đã nhanh chóng phản công và vào đêm đầu tiên, sau khi trận đánh bắt đầu, họ đã đẩy được phần lớn quân địch ra khỏi Xuân Lộc, mặc dù Bắc Việt còn chiếm nhiều ấp xã.
    3.Không quân Việt Nam đã bảo đảm liên tục không yểm gần. Thiệt hại của địch kinh khủng. Số địch bị chết bỏ lại trên chiến trường hơn 1.200 tên, gần 30 xe tăng bỏ lại trên chiến trường. Ta thu gần 200 vũ khí.
    4.Lòng dũng cảm va tính tích cực của binh sĩ Việt Nam Cộng hoà, nhất là lực lượng địa phương Long Khánh, chắc chắn chỉ ra rằng: những binh sĩ này, nếu được trang bị đầy đủ và lãnh đạo tốt, thì ưu việt hơn hẳn đối thủ của họ. Trận Xuân Lộc như vậy đã giải quyết được vấn đề: Quân lực Việt Nam Cộng hoà có chiến đấu được hay không??.
    Bước sang ngày 18 tháng 4, Nguyễn Văn Toàn phát hiện được trung đoàn 141 của sư đoàn 7 Quân giải phóng đang chuẩn bị bước vào chiến dịch, thì liền chiều hôm ấy, lệnh cho Lê Minh Đảo phải nhanh chóng bỏ Long Khánh, rút về phòng thủ Biên Hoà, sau khi Đảo vừa nhận được 400 quân bổ sung. Khác với cuộc rút lui ?oquân hồi vô phèng? ở Tây Nguyên một tháng trước đây, cuộc rút quân của tướng Đảo xem ra có vẻ bài bản hơn. Nhật ký chiến sự của sư đoàn 18 có ghi lại:
    Ngày 19: lữ đoàn dù và sư đoàn 18 tiếp tục phản công mạnh mẽ; chiến đoàn 48 hành quân mở đường tiếp tế nhưu thường lệ; nhưng kỳ thực nhằm mục đích nghi binh và bảo đảm an toàn từ Xuân Lộc đến Long Đạo. Sư đoàn lệnh cho quân địa phương rút khỏi xã Cẩm Mỹ để cho sư đoàn bí mật co đội hình về gần Long Đạo. Cố tránh giao tranh để khỏi tạo ra tình hình khẩn trườn trên đoạn đường này. Các chiến đoàn khác dùng tất cả các loại pháo với số lượng rộng rãi hơn, khác hẳn với những ngày trước.
    Ngày 20 tháng 4: 8 giờ sáng, tiểu đoàn dù được tăng cường một chiến đoàn xe bọc thép, một đại đội trinh sát, tiến công mạnh vào trung đoàn 141 Quân giải phóng. Pháo bắn mạnh vào các đơn vị chung quanh Núi Thị, di chuyển rầm rộ, làm như đến tăng cường cho tiểu đoàn 2, trung đoàn 43 đóng tại đây; kỳ thực là để vứt bớt pháo, vật liệt nặng. Trực thăng vận tải vẫn tiếp tục bay ra bay vào Xuân Lộc như mọi ngày, nhưng mang tiếp liệu vào mà là để mang vật liệu ra. Thời tiết xấu, nên chỉ được 3 làn chiếc ngày. Đến 20 giờ, trung đoàn 48 thiếu và ban chỉ huy cùng với 4 pháo, từ Núi Thị rút về Long Đao, triển khai đội hình, để sẵn sàng yểm hộ các đơn vị rút sau. Đến 22 giờ, trung đoàn 43 và tiểu đoàn 82 biệt động quân bắt đầu di chuyển, vượt qua đội hình của trung đoàn 48 và bố trí trên đoạn đường từ Cẩm Mỹ đến Xà Bang. Sau đó hai tiếng đồng hồ, trên 2.000 xe các loại của sư đoàn 18 và tiểu đoàn 2 của trung đoàn 52 và một đại đội trinh sát đi bảo vệ dọc đường. 3 giờ sáng ngày 21 tháng 4, tiểu đoàn ở Núi Thị rút sau cùng. Sau khi bắn liên tục để nghi binh, phá huỷ cả hai khẩu pháo 105 cuối cùng còn lại; đến 5 giờ thì đoàn cơ giới về phía Đức Thạnh. Các đơn vị lẻ tẻ cũng dần dần tập trung lại được ở đây; cho đến 12 giờ thì sư đoàn 18 về Long Bình; lữ đoàn 1 được tách ra khỏi sư đoàn để ở lại bảo vệ Bà Rịa??
    Ngồi ở Tân Sơn Nhất nhìn ra, là một nhà quân sự như tướng Smith, lẽ nào lại nhìn một cuộc rút lui, mặc dù có bài bản hoá thành một cuộc phản công. Thử hỏi: người ngồi bên kia Thái Bình Dường, thì còn sia lầm đến tận đâu?
    ---------------------------------
    Em đã gõ xong quyển Xuân giải phóng rùi, bác nào có nhu cầu đọc toàn bộ quyển thì cho em cái meo, em gửi cho, đỡ mất thời gian đọc trên này!
  6. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Cho em một bản với. Email của em là vinhhaan@yahoo.com
    Cảm ơn nhiều.
  7. lehahai

    lehahai Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    297
    Đã được thích:
    0
    Cho em một bản với. Email của em là vinhhaan@yahoo.com
    Cảm ơn nhiều.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 19: Thần tốc
    Một bộ phận của Quân đoàn Quyết Thắng đang giúp dân đắp đê sông Đáy, thì chiều 17 tháng 3, được lệnh vào nam Quân khu 4 bảo vệ tuyến giao thông vận tải chiến lược, từ Long Đại đến Bãi Hà; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cơ động. Sư đoàn bộ binh 320B của Quân đoàn và một số đơn vị binh khí kỹ thuật thì vào chiến trường trước. Gác lại một bên nào xẻng, cuốc, quanh, gánh, sọt, nắm chắc lại tay súng, chuẩn bị lên đường. Về mặt tổ chức, cũng có vấn đề cần phải giải quyết. Tiếng rằng quân đoàn phải luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhưng vừa qua, đã phải rút bớt một vài bộ phận đi tăng cường cho các mặt trận, cũng phải mất vài hôm mới bổ sung lại cho đầy đủ được.
    Đến ngày 24 tháng 3, thì lại có lệnh: toàn Quân đoàn thiếu sư đoàn 308, đi tham gia chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng. Toàn đơn vị như muốn bay lên phía trước. Muộn mất rồi, chưa đến nơi, thì Đà Nẵng đã giải phóng. Ngày 1 tháng 4, lại nhận lệnh mới: hành quân thần tốc, tập kết ở Đồng Xoài.
    Những người đứng ngoài cuộc có thể nghĩ rằng: cấp trên luôn luôn thay đổi quyết tâm như thế này, thì dưới khó chấp hành. Nhưng làm thế nào được? Chuyển biến trên toàn bộ chiến trường miền Nam trong tháng 3 năm 1975 quá nhanh, tình hình đổi thay từng giờ từng phút, không kịp lên bản đồ tình huống. Hôm trước, như thế là đúng, nhưng hôm sau thì lại không còn thích hợp nữa rồi. Trong một cuộc chiến tranh ?otheo quy ước? phòng tuyến xô tới, đẩy lùi là điều rất dễ hiểu; nhưng trong một cuộc chiến tranh nhân dân như thế này, trong cái thế cài răng lược không phòng tuyến thì diễn biến mới xem ra rất khác thường. Đối phương cứ yên trí là ta đánh từ vĩ tuyến 17 vào, thì lại mở màn từ Buôn Ma Thuột đánh ra; chưa kịp định thần, thì Quảng Trị xốc tới, Quảng Ngãi vùng lên, Đông Bắc sông Cửu Long nổi dậy. Nói như thế không có nghĩa là cuộc chiến tranh diễn biến không theo một quy luật nhất định nào. Cấp lãnh đạo, tất nhiên là đã nắm được lấy nó, đã dự kiến được tình hình và phải có biện pháp khắc phục. Đối với một binh đoàn, hàng mấy vạn người, xe cộ, phương tiện đi chật đường, chật sá; đang hành quân, bỗng đổi hướng, là một điều vô cùng phức ta. Ùn, tắc, lạc! Bộ Tổng tham mưu đãnhìn thấy trước vấn đề, nên cử một đoàn cán bộ khá đông, do đồng chí Thiếu thướng Phùng Thế Tài, Tổng tham mưu phó dẫn đầu, xuống giúp đỡ đơn vị, đôn đốc hành quân. Người ta thấy cả một đoàn cán bộ cấp cao ở các đơn vị, các trường, các viện tạm thời được trưng dụng về Bộ để cán bộ đốc chiến; đêm ngày chạy ngược chạy xuôi trong đội hình hành quân của Quân đoàn, kéo dài trên hàng trăm cây số, trên nhiều trục đường cách xa nhau, thúc trước đẩy sau, động viên, nhắc nhở. Vất vả vô cùng là đơn vị xe tăng, pháo binh, công binh, cao xạ, nhất là lúc phải rời trục đường quốc lộ 1, chuyển sang đường 9, để sang trục đường tây Trường Sơn, chưa được rải đá. Thông thường thì ở đây, đến tháng 5, mùa mưa mới bắt đầu. Nhưng năm nay, mưa lại đến sớm hơn. Những trận mưa đầu mùa đã biến những hố bụi thành những bãi lầy nhão nhoét, những vật cản đáng gờm nhất của các đơn vị xe, pháo, trên đường hành quân. Bụi có cái vất vả của bụi, còn bùn thì lại có cái vất vả của bùn; nền đường như có đá nam châm hút cứng lấy bánh xe, có khi hàng giờ không nhích lên được nửa thước. Lại kéo đẩy, kê kích; chiếc xe dấn lún ga, như muốn vỡ tung cả máy, vừa vượt được qua một hố bùn thì khẩu pháo kéo ở sau đuôi đã lao xuống đấy rồi. Trước đây, đã có lần ta đưa đi Nam Bộ, chỉ có một tiểu đoàn pháo và một tiểu đoàn xe tăng; mà phải mất ròng rã hai năm trời mới vào đến nơi, mà vẫn chưa đủ số. Xe pháo nằm ngổn ngang, rải rác dọc đường: giờ máy hết, xích hỏng, nhiên liệu cạn, phụ tùng thay thế sạch quẹt. Có trải qua cảnh ấy mới thấy được quyết tâm của bộ tư lệnh quân đoàn lầphỉ nâng tốc độ hành quân lên đến 150-200 cây số ngày, để kịp đến vị trí tập kết đúng theo mệnh lệnh quy đinh, là cả một sự nỗ lực phấn đấu phi thường.
    Trong lúc Quân đoàn Quyết Thắng phải vật lộn với mưa gió và đất đỏ ba dan, ở Lào và Tây Nguyên, thì Quân đoàn Hương Giang, hành quân theo đường quốc lộ số 1, cũng không kém phần vất vả.
    Sau Đà Nẵng giải phóng, ngày 1 tháng 4, quân đoàn nhận được lệnh sơ bộ phải chuẩn bị cho sư đoàn 325 cùng với lữ đoàn xe tăng 203 vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Trong thời gian đơn vị làm công tác chuẩn bị, thì Trung tướng Lê Trọng Tấn bay về Hà Nội họp với Quân uỷ Trung ương và nhận nhiệm vụ mới. Chỉ riêng việc nắm quân, thu quân trong lúc chờ lệnh cũng đã khó lắm rồi: các đơn vị còn ở rải rác cách xa nhau hàng trăm cây số, một nửa xe và pháo của sư đoàn cao xạ 673 còn bị mắc kẹt ở hu, trên các trục đường 73, 74, 14, tít trong rừng sâu; cơ quan của trung đoàn 245 thì còn lẹt đẹt ở Khe Sanh, trên quốc lộ 14. Đường sá bị tắc nghẽn vì mưa lũ, các tiểu đoàn bộ binh ở Thượng Đức trong tỉnh Quảng Nam, có nhiệm vụ đi vào nam lại phải vòng ra bắc Huế để theo đường số 1 đi vào. Gặp những trường hợp này, những người làm công tác tham mưu, nếu chỉ ngồi trong phòng, giở bản đồ mà đo đạc, tính toán để làm kế hoạch, thì nhất định sẽ bị phá sản. Còn đang loay hoay tính toán thì ngày 4 tháng 4, Trung tướng Lê Trọng Tấn và Trung tướng Lê Quang Hoà trên cương vị là Tư lệnh và Bí thư Ban cán sự binh đoàn Duyên Hải cũng vừa vào đến nơi, trực tiếp giao nhiệm vụ cho quân đoàn, cấp tốc hành quân vào Nam Bộ tham gia chiến dịch:
    -Trước mắt để lại sư đoàn 324 ở lại nam Quân khu 5 để bảo vệ hậu phương.
    -Được phối thuộc thêm sư đoàn 3 và lữ đoàn 52 Quân khu 5
    -Vừa đi vừa đánh, có khả năng phải đột phá Phan Rang, Phan Thiết.
    -Thời gian: trong vòng 13-15 ngày, phải có mặt ở Xuân Lộc.
    Trung tướng còn trao cho đơn vị bức thư động viên, đồng thời là hướng dẫn hoạt động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
    ?o-Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang!
    Cần hoạt động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Muốn vậy, chỉ huy và lãnh đạo phải luôn luôn nắm tình hình địch, ta; quán triệt tình thần hết sức tích cực, hết sức linh hoạt.
    Các đồng chí hãy nêu cao hơn nữa tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến đấu dũng cảm, đạp bằng mọi khó khăn trở ngại, cơ động nhanh, đột kích mạnh, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc?.
    Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam có một điểm rất đáng chú ý: những cuộc hành quân quy mô, thần tốc thường đưa đến những chiến thắng huy hoàn, mở ra những trang sử chói lọi nhất. Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, đều như thế cả. Phát huy truyền thống của cha ông, những con cháu của Bác cũng đang làm một việc như thế.
    Đường từ Đà Nẵng vào Sài Gòn dài trên 800 cây số, phải vượt khá nhiều đèo: Cù Mông, Đèo Cả, Rù Rì, Ro Tượng v.v? 50 con sông đó có 14 sông lớn, gần 600 cầu, cái dài nhất trên 1 cây số như cầu Đà Rằng qua sông Ba. Trước khi rút lui, đối phương đã phá hết các cầu trên đường quốc lộ 1. Chỉ tính riêng một đoạn trên 100 cây số, 6 cái cầu đã bị đánh gục: cầu Lâu, Bà Rén, Hương An, Kế Xuyên, Bà Bầu, An Tân. Như các đơn vị bạn, khó khăn rất lớn đối với quân đoàn là sức kéo thiếu nghiêm trọng, cố tập trung hết mức cũng chỉ bảo đảm cơ động được 30 phần trăm quân số. Còn một trở ngại nữa, là cụm địch ở Phan Rang tương đối mạnh. Như đã nói trên, Thiệu đã có lệnh là phải tử thủ nơi này; tổ chứ thành cụm chốt mạnh trên tuyến phòng thủ mới của quốc gia, để bảo vệ cho phần đất đai còn lại. Đối phương đã tập trung về đây một lực lượng khá đông: sư đoàn 2, từ Quảng Ngãi, Bình Định mới chạy về; lữ đoàn 2 dù, lữ đoàn 3 biệt động quân; sư đoàn 6 không quân. Tổng số lên đến trên 1 vạn chủ lực, ngoài ra còn lực lượng tại chỗ. Toàn bộ lực lượng nói trên, được sự chi viện rất mạnh của không quân và hải quân của quân đội Cộng hoà và còn có thể của Mỹ nữa. Với địa hình rất thuận lợi cho việc phòng thủ, với một chiến trường đã được chuẩn bị rất chu đáo, có sân bay, có bến cảng, có kho tàng; hệ thống đường sá khá tốt; quân đoàn đột phá qua cho được cửa ải này nào có phải dễ dàng gì. Trong khi đó, thì thời gian chuẩn bị lại quá ít, quân đoàn đáng đứng chân trên một địa bàn vừa mới giải phóng được vài hôm, trăm sự ngỡ ngàng.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 19: Thần tốc
    Một bộ phận của Quân đoàn Quyết Thắng đang giúp dân đắp đê sông Đáy, thì chiều 17 tháng 3, được lệnh vào nam Quân khu 4 bảo vệ tuyến giao thông vận tải chiến lược, từ Long Đại đến Bãi Hà; đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cơ động. Sư đoàn bộ binh 320B của Quân đoàn và một số đơn vị binh khí kỹ thuật thì vào chiến trường trước. Gác lại một bên nào xẻng, cuốc, quanh, gánh, sọt, nắm chắc lại tay súng, chuẩn bị lên đường. Về mặt tổ chức, cũng có vấn đề cần phải giải quyết. Tiếng rằng quân đoàn phải luôn luôn ở trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, nhưng vừa qua, đã phải rút bớt một vài bộ phận đi tăng cường cho các mặt trận, cũng phải mất vài hôm mới bổ sung lại cho đầy đủ được.
    Đến ngày 24 tháng 3, thì lại có lệnh: toàn Quân đoàn thiếu sư đoàn 308, đi tham gia chiến dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng. Toàn đơn vị như muốn bay lên phía trước. Muộn mất rồi, chưa đến nơi, thì Đà Nẵng đã giải phóng. Ngày 1 tháng 4, lại nhận lệnh mới: hành quân thần tốc, tập kết ở Đồng Xoài.
    Những người đứng ngoài cuộc có thể nghĩ rằng: cấp trên luôn luôn thay đổi quyết tâm như thế này, thì dưới khó chấp hành. Nhưng làm thế nào được? Chuyển biến trên toàn bộ chiến trường miền Nam trong tháng 3 năm 1975 quá nhanh, tình hình đổi thay từng giờ từng phút, không kịp lên bản đồ tình huống. Hôm trước, như thế là đúng, nhưng hôm sau thì lại không còn thích hợp nữa rồi. Trong một cuộc chiến tranh ?otheo quy ước? phòng tuyến xô tới, đẩy lùi là điều rất dễ hiểu; nhưng trong một cuộc chiến tranh nhân dân như thế này, trong cái thế cài răng lược không phòng tuyến thì diễn biến mới xem ra rất khác thường. Đối phương cứ yên trí là ta đánh từ vĩ tuyến 17 vào, thì lại mở màn từ Buôn Ma Thuột đánh ra; chưa kịp định thần, thì Quảng Trị xốc tới, Quảng Ngãi vùng lên, Đông Bắc sông Cửu Long nổi dậy. Nói như thế không có nghĩa là cuộc chiến tranh diễn biến không theo một quy luật nhất định nào. Cấp lãnh đạo, tất nhiên là đã nắm được lấy nó, đã dự kiến được tình hình và phải có biện pháp khắc phục. Đối với một binh đoàn, hàng mấy vạn người, xe cộ, phương tiện đi chật đường, chật sá; đang hành quân, bỗng đổi hướng, là một điều vô cùng phức ta. Ùn, tắc, lạc! Bộ Tổng tham mưu đãnhìn thấy trước vấn đề, nên cử một đoàn cán bộ khá đông, do đồng chí Thiếu thướng Phùng Thế Tài, Tổng tham mưu phó dẫn đầu, xuống giúp đỡ đơn vị, đôn đốc hành quân. Người ta thấy cả một đoàn cán bộ cấp cao ở các đơn vị, các trường, các viện tạm thời được trưng dụng về Bộ để cán bộ đốc chiến; đêm ngày chạy ngược chạy xuôi trong đội hình hành quân của Quân đoàn, kéo dài trên hàng trăm cây số, trên nhiều trục đường cách xa nhau, thúc trước đẩy sau, động viên, nhắc nhở. Vất vả vô cùng là đơn vị xe tăng, pháo binh, công binh, cao xạ, nhất là lúc phải rời trục đường quốc lộ 1, chuyển sang đường 9, để sang trục đường tây Trường Sơn, chưa được rải đá. Thông thường thì ở đây, đến tháng 5, mùa mưa mới bắt đầu. Nhưng năm nay, mưa lại đến sớm hơn. Những trận mưa đầu mùa đã biến những hố bụi thành những bãi lầy nhão nhoét, những vật cản đáng gờm nhất của các đơn vị xe, pháo, trên đường hành quân. Bụi có cái vất vả của bụi, còn bùn thì lại có cái vất vả của bùn; nền đường như có đá nam châm hút cứng lấy bánh xe, có khi hàng giờ không nhích lên được nửa thước. Lại kéo đẩy, kê kích; chiếc xe dấn lún ga, như muốn vỡ tung cả máy, vừa vượt được qua một hố bùn thì khẩu pháo kéo ở sau đuôi đã lao xuống đấy rồi. Trước đây, đã có lần ta đưa đi Nam Bộ, chỉ có một tiểu đoàn pháo và một tiểu đoàn xe tăng; mà phải mất ròng rã hai năm trời mới vào đến nơi, mà vẫn chưa đủ số. Xe pháo nằm ngổn ngang, rải rác dọc đường: giờ máy hết, xích hỏng, nhiên liệu cạn, phụ tùng thay thế sạch quẹt. Có trải qua cảnh ấy mới thấy được quyết tâm của bộ tư lệnh quân đoàn lầphỉ nâng tốc độ hành quân lên đến 150-200 cây số ngày, để kịp đến vị trí tập kết đúng theo mệnh lệnh quy đinh, là cả một sự nỗ lực phấn đấu phi thường.
    Trong lúc Quân đoàn Quyết Thắng phải vật lộn với mưa gió và đất đỏ ba dan, ở Lào và Tây Nguyên, thì Quân đoàn Hương Giang, hành quân theo đường quốc lộ số 1, cũng không kém phần vất vả.
    Sau Đà Nẵng giải phóng, ngày 1 tháng 4, quân đoàn nhận được lệnh sơ bộ phải chuẩn bị cho sư đoàn 325 cùng với lữ đoàn xe tăng 203 vào tham gia chiến dịch giải phóng Sài Gòn-Gia Định. Trong thời gian đơn vị làm công tác chuẩn bị, thì Trung tướng Lê Trọng Tấn bay về Hà Nội họp với Quân uỷ Trung ương và nhận nhiệm vụ mới. Chỉ riêng việc nắm quân, thu quân trong lúc chờ lệnh cũng đã khó lắm rồi: các đơn vị còn ở rải rác cách xa nhau hàng trăm cây số, một nửa xe và pháo của sư đoàn cao xạ 673 còn bị mắc kẹt ở hu, trên các trục đường 73, 74, 14, tít trong rừng sâu; cơ quan của trung đoàn 245 thì còn lẹt đẹt ở Khe Sanh, trên quốc lộ 14. Đường sá bị tắc nghẽn vì mưa lũ, các tiểu đoàn bộ binh ở Thượng Đức trong tỉnh Quảng Nam, có nhiệm vụ đi vào nam lại phải vòng ra bắc Huế để theo đường số 1 đi vào. Gặp những trường hợp này, những người làm công tác tham mưu, nếu chỉ ngồi trong phòng, giở bản đồ mà đo đạc, tính toán để làm kế hoạch, thì nhất định sẽ bị phá sản. Còn đang loay hoay tính toán thì ngày 4 tháng 4, Trung tướng Lê Trọng Tấn và Trung tướng Lê Quang Hoà trên cương vị là Tư lệnh và Bí thư Ban cán sự binh đoàn Duyên Hải cũng vừa vào đến nơi, trực tiếp giao nhiệm vụ cho quân đoàn, cấp tốc hành quân vào Nam Bộ tham gia chiến dịch:
    -Trước mắt để lại sư đoàn 324 ở lại nam Quân khu 5 để bảo vệ hậu phương.
    -Được phối thuộc thêm sư đoàn 3 và lữ đoàn 52 Quân khu 5
    -Vừa đi vừa đánh, có khả năng phải đột phá Phan Rang, Phan Thiết.
    -Thời gian: trong vòng 13-15 ngày, phải có mặt ở Xuân Lộc.
    Trung tướng còn trao cho đơn vị bức thư động viên, đồng thời là hướng dẫn hoạt động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
    ?o-Các đồng chí lên đường làm nhiệm vụ rất vẻ vang!
    Cần hoạt động thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng. Muốn vậy, chỉ huy và lãnh đạo phải luôn luôn nắm tình hình địch, ta; quán triệt tình thần hết sức tích cực, hết sức linh hoạt.
    Các đồng chí hãy nêu cao hơn nữa tinh thần quyết chiến quyết thắng, chiến đấu dũng cảm, đạp bằng mọi khó khăn trở ngại, cơ động nhanh, đột kích mạnh, hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc?.
    Trong lịch sử chiến tranh của dân tộc Việt Nam có một điểm rất đáng chú ý: những cuộc hành quân quy mô, thần tốc thường đưa đến những chiến thắng huy hoàn, mở ra những trang sử chói lọi nhất. Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, đều như thế cả. Phát huy truyền thống của cha ông, những con cháu của Bác cũng đang làm một việc như thế.
    Đường từ Đà Nẵng vào Sài Gòn dài trên 800 cây số, phải vượt khá nhiều đèo: Cù Mông, Đèo Cả, Rù Rì, Ro Tượng v.v? 50 con sông đó có 14 sông lớn, gần 600 cầu, cái dài nhất trên 1 cây số như cầu Đà Rằng qua sông Ba. Trước khi rút lui, đối phương đã phá hết các cầu trên đường quốc lộ 1. Chỉ tính riêng một đoạn trên 100 cây số, 6 cái cầu đã bị đánh gục: cầu Lâu, Bà Rén, Hương An, Kế Xuyên, Bà Bầu, An Tân. Như các đơn vị bạn, khó khăn rất lớn đối với quân đoàn là sức kéo thiếu nghiêm trọng, cố tập trung hết mức cũng chỉ bảo đảm cơ động được 30 phần trăm quân số. Còn một trở ngại nữa, là cụm địch ở Phan Rang tương đối mạnh. Như đã nói trên, Thiệu đã có lệnh là phải tử thủ nơi này; tổ chứ thành cụm chốt mạnh trên tuyến phòng thủ mới của quốc gia, để bảo vệ cho phần đất đai còn lại. Đối phương đã tập trung về đây một lực lượng khá đông: sư đoàn 2, từ Quảng Ngãi, Bình Định mới chạy về; lữ đoàn 2 dù, lữ đoàn 3 biệt động quân; sư đoàn 6 không quân. Tổng số lên đến trên 1 vạn chủ lực, ngoài ra còn lực lượng tại chỗ. Toàn bộ lực lượng nói trên, được sự chi viện rất mạnh của không quân và hải quân của quân đội Cộng hoà và còn có thể của Mỹ nữa. Với địa hình rất thuận lợi cho việc phòng thủ, với một chiến trường đã được chuẩn bị rất chu đáo, có sân bay, có bến cảng, có kho tàng; hệ thống đường sá khá tốt; quân đoàn đột phá qua cho được cửa ải này nào có phải dễ dàng gì. Trong khi đó, thì thời gian chuẩn bị lại quá ít, quân đoàn đáng đứng chân trên một địa bàn vừa mới giải phóng được vài hôm, trăm sự ngỡ ngàng.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bộ Tổng tham mưu cũng đã có dự kiến được khối lượng việc rất lớn của quân đoàn, nên đã cử một đoàn khá đông cán bộ, phái viên đốc chiến, theo sát giúp đỡ các đơn vị: thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, tư lệnh hải quân, thiếu tướng Giáp Văn Cương, Phó tổng tham mưu trưởng; đại tá Hoàng Ngọc Diêu phó tư lệnh Phòng không-không quân, đại tá Đinh Thiện, tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần, đại tá Ngô Hùng? Người ta thường nói: cái khó bó cái khôn. Nhưng ở đây, trong lúc này thì lại khác: cái khó ló cái khôn. Không ít người nước ngoài thưa nhận rằng: dân tộc Việt Nam, trong nghệ thuật quân sự, đã sử dụng vũ khí, tràn bị, phương tiện của địch để đánh địch, một cách đánh rất tài tình. Thật không ngoa tý nào! Để giải quyết tình trạng thiếu đạn lớn và thiếu sức kéo, sau khi được Bộ phê chuẩn, quân đoàn đã mạnh dạn lấy toàn bộ pháo 105 ly của địch, thay thế cho pháo 122 ly ở các sư đoàn, vì hai loại này, tính năng tác dụng tương đương nhau. Pháo địch có cái tốt là rất sẵn đạn, tìm đâu cũng có, rất tiện cho công tác bảo đảm, mà việc chuyển loại sử dụng, không mất nhiều thời gian. Tuy nhiên tuyệt đối không được máy móc, mà phải có sự lựa chọn thích hợp, với pháo cấp chiến dịch thì lại khác. Mặc dù thu được khá nhiều loại pháo 175, mà quân đội Cộng hoà hết lời ca tụng, đặt cho cái tên rất kêu ?ovua chiến trường?, thì bộ đội ta lại xếp cả lại một bên, đưa về phía sau, để giành cho các nhà bảo tàng sau này. Sơ tốc lớn, tầm bắn xa, không đủ để khắc phục những nhược điểm quá lớn của loại pháo này. Pháo chiến dịch của ta-những loại pháo 122 nòng dài, 130 ly, ưu việt hơn nhiều vì có sức cơ động lớn, rất hợp với chiến trường Việt Nam. Để khắc phục tình hình thiếu sức kéo, đồng thời giảm bớt những phức tạp về mặt kỹ thuật, các loại xe kéo pháo có bánh xích, đều được thay thế bằng các đầu máy kéo, các bánh xe cao su, vừa rất sẵn có, lại vừa cơ động hơn, và cũng ít phức tạp hơn trong công tác bảo đảm kỹ thuật. Toàn đơn vị như dấy lên một phong trào thi đua tận thu và tận dụng chiến lợi phẩm, có chọn lọc rất kỹ, để tăng cường thêm sức chiến đấu cho quân đoàn. Sáng kiến của lữ đoàn 164 trong việc sử dụng máy thông tin gắn trên xe có công suất lớn, đã giải quyết được khó khăn cho các cấp chỉ huy trong cuộc hành quân này.
    Để nâng thêm sức cơ động, Bộ còn phối thuộc cho đơn vị toàn bộ sư đoàn 517 vận tải, đơn vị Anh hùng
    Những sự thay đổi về mặt tổ chức, trang bị như trên không có ảnh hưởng gì lớn đến sức chiến đấu của quân đoàn. Nếu sư đoàn 324 là đơn vị có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, nhất là trong những năm gần đây liên tục tác chiến trên chiến trường Trị Thiên, nên rất dạn dày với bom đạn, phải ở lại để bảo vệ hậu phương, thì sư đoàn 3 của Quân khu 5 mới được phối thuộc cho quân đoàn cũng đã được thử thách rất nhiều trên dải đất miền Trung Trung Bộ.
    Mệnh lệnh của bộ còn nói rõ: Khi cần thiết phải đột phá vào Phan Rang. Như vật có nghĩa là: lần này khác hẳn với những lần trước, phải vừa hành quân-hành quân thần tốc-lại vừa phải tác chiến. Vì vậy, việc tổ chức chỉ huy lần này cũng có những chỗ khác thường: Toàn quân đoàn được tổ chức ra làm nhiều khối, mỗi khối là một đơn vị binh chủng hợp thành, được tăng cường chỉ huy để có khả năng đọc lập giải quyết các mục tiêu trên đường đi. Công tác bảo đảm đường sá khá phức tạp, thì được phối thuộc bằng một trung đoàn thuyền của Đoàn Trường Sơn, nằm luôn trong đội hình của đoàn tiền trạm; cầu bê tông bị đánh hỏng, thì đã có sẵn cầu bê-lây của Mỹ lắp vào, rất nhanh, rất gọn; đường hỏng thì nhân dân địa phương đổ ra làm đường vòng, đường tránh, sông rộng thì ghép phà lớn như An Tân, Bà Bàu; sông hẹp thì dùng bao cát, vỏ thùng phi, nguyên vật liệu sẵn có ở các địa phương để làm ngầm cho xe qua. Công tác bảo đảm ky cho một cuộc hành quân đường dài của một binh đoàn lớn, có đầy đủ binh khí, kỹ thuật cũng được giải quyết rất ổn thoả: mỗi lái xe, thợ sửa chữa, đều mang theo túi đồ nghề, có đầy đủ phụ tùng dự phòng. Mỗi khi đến trạm nghỉ, từ trưởng xe, nhân viên kỹ thuật, đến lái chính, lái phụ, đều bày biện dụng cụ ra làm công tác bảo dưỡng. Sinh hoạt của đơn vị cũng khác thường, mỗi xe là một lán trại, một hội trường, một lớp học để cho các chiến sĩ nghe tin chiến thắng, học tập nghị quyết, đấu tranh phê bình tự phê bình và cũng là một câu lạc bộ đẻ vui chơi ca hát. Xe còn lại bếp ăn, có đủ lương thực, thực phẩm, nồi niêu, xoong chảo, thậm chí đến cả củi đun nữa. Theo quy định chung, cứ mỗi lần dừng lại nửa tiếng đồng hồ, là phải có cái ăn ngay. Cảm động nhất và cũng lý thú nhất là cuộc hành quân thần tốc của trung đoàn 9. Vì không đủ xe, nên đơn vị phải đi bằng tầu biển từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn. Ở đây, đã có sẵn hàng trăm xe của đồng bào vùng mới giải phóng. Cũng như ở Đắc Lắc, được các đảng bộ địa phương giáo dục và cổ vũ, rất nhiều bà con cô bác tình nguyện gia nhập vào đội hình hành quân của quân đoàn. Có xe, chồng là lái chính, con là lái phụ, vợ là nấu ăn, cả gia đình cùng chia sẻ nỗi gian lao vất vả với bộ đội và cùng nhau reo mừng, chia nhau niềm tự hào và niềm vui chiến thắng. Bất chấp cả bom đạn, không ai chịu bỏ cuộc. Kết thúc đợt chuyển quân, gần 50 gia đình còn xin cấp trên được ở lại phục vụ bộ đội, chờ đến ngày xong chiến dịch mới trở về.
    Thị xã Phan Rang nằm trên đường quốc lộ số 1, trên ngã ba đường đi Đà Lạt, cách Sài Gòn 350 cây số. Ngày 1 tháng 4, sau khi đối phương tháo chạy khỏi Nha Trang, thì họ cũng bỏ luôn cả cái thị trấn nhỏ bé này. Nhưng Thiệu lại ra lệnh phải ở lại và đưa đến đấy một lực lượng khá đông để tử thủ.
    Đường từ hướng bắc đi vào thị xã, phải đi ven theo bờ biển, một bên là núi cao. Tiếp đến là một thung lũng hẹp, kẹp giữa hai sườn núi. CÒn nắm được trong tay một lực lượng không quân khá lớn, một lực lượng hải quân chưa bị sứt mẻ bao nhiêu, nên Thiệu đặt nhiều tin tưởng vào khu vực phòng thủ này. Ngày 13, 14 tháng 4, sư đoàn 3 của Quân khu 5 và trung đoàn 25 mở đợt tiến công vào sân bay Thành Sơn, nhưng cũng chỉ mới chiếm được một vài điểm nhỏ ở rìa bên ngoài trên phía bắc. Tối ngày hôm ấy, đại quân đến. Sư đoàn 325, được lệnh tổ chức ra cụm pháo, tiến vào Du Long, để chi viện cho sư đoàn 3. Ý định của quân đoàn là đột phá trong hành tiến, đánh chiếm ngay thị xã và cảng Ninh Chữ, đồng thời phối hợp với sư đoàn 3, tiến công vào Thành Sơn. Cũng cần phải nói lên cho mọi người biết: gọi là chấm dứt mọi sự can thiệp bằng quân sự, nhưng mấy ngày trước đó, chiếc tàu mang tên Durnam của Mỹ đã lén lút chở quân đến để tăng cường cho Phan Rang và đã bốc đi 1.500 người. Đánh vào cảng Ninh Chữ là nhằm mục đích cắt đường rút lui của đối phương bằng đường biển và cũng là một đòn cảnh cáo đế quốc Mỹ.

Chia sẻ trang này