1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiến tới kỉ niệm 31 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-Đại thắng mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi forza_vn, 18/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bộ Tổng tham mưu cũng đã có dự kiến được khối lượng việc rất lớn của quân đoàn, nên đã cử một đoàn khá đông cán bộ, phái viên đốc chiến, theo sát giúp đỡ các đơn vị: thiếu tướng Nguyễn Bá Phát, tư lệnh hải quân, thiếu tướng Giáp Văn Cương, Phó tổng tham mưu trưởng; đại tá Hoàng Ngọc Diêu phó tư lệnh Phòng không-không quân, đại tá Đinh Thiện, tham mưu trưởng Tổng cục Hậu cần, đại tá Ngô Hùng? Người ta thường nói: cái khó bó cái khôn. Nhưng ở đây, trong lúc này thì lại khác: cái khó ló cái khôn. Không ít người nước ngoài thưa nhận rằng: dân tộc Việt Nam, trong nghệ thuật quân sự, đã sử dụng vũ khí, tràn bị, phương tiện của địch để đánh địch, một cách đánh rất tài tình. Thật không ngoa tý nào! Để giải quyết tình trạng thiếu đạn lớn và thiếu sức kéo, sau khi được Bộ phê chuẩn, quân đoàn đã mạnh dạn lấy toàn bộ pháo 105 ly của địch, thay thế cho pháo 122 ly ở các sư đoàn, vì hai loại này, tính năng tác dụng tương đương nhau. Pháo địch có cái tốt là rất sẵn đạn, tìm đâu cũng có, rất tiện cho công tác bảo đảm, mà việc chuyển loại sử dụng, không mất nhiều thời gian. Tuy nhiên tuyệt đối không được máy móc, mà phải có sự lựa chọn thích hợp, với pháo cấp chiến dịch thì lại khác. Mặc dù thu được khá nhiều loại pháo 175, mà quân đội Cộng hoà hết lời ca tụng, đặt cho cái tên rất kêu ?ovua chiến trường?, thì bộ đội ta lại xếp cả lại một bên, đưa về phía sau, để giành cho các nhà bảo tàng sau này. Sơ tốc lớn, tầm bắn xa, không đủ để khắc phục những nhược điểm quá lớn của loại pháo này. Pháo chiến dịch của ta-những loại pháo 122 nòng dài, 130 ly, ưu việt hơn nhiều vì có sức cơ động lớn, rất hợp với chiến trường Việt Nam. Để khắc phục tình hình thiếu sức kéo, đồng thời giảm bớt những phức tạp về mặt kỹ thuật, các loại xe kéo pháo có bánh xích, đều được thay thế bằng các đầu máy kéo, các bánh xe cao su, vừa rất sẵn có, lại vừa cơ động hơn, và cũng ít phức tạp hơn trong công tác bảo đảm kỹ thuật. Toàn đơn vị như dấy lên một phong trào thi đua tận thu và tận dụng chiến lợi phẩm, có chọn lọc rất kỹ, để tăng cường thêm sức chiến đấu cho quân đoàn. Sáng kiến của lữ đoàn 164 trong việc sử dụng máy thông tin gắn trên xe có công suất lớn, đã giải quyết được khó khăn cho các cấp chỉ huy trong cuộc hành quân này.
    Để nâng thêm sức cơ động, Bộ còn phối thuộc cho đơn vị toàn bộ sư đoàn 517 vận tải, đơn vị Anh hùng
    Những sự thay đổi về mặt tổ chức, trang bị như trên không có ảnh hưởng gì lớn đến sức chiến đấu của quân đoàn. Nếu sư đoàn 324 là đơn vị có nhiều kinh nghiệm chiến đấu, nhất là trong những năm gần đây liên tục tác chiến trên chiến trường Trị Thiên, nên rất dạn dày với bom đạn, phải ở lại để bảo vệ hậu phương, thì sư đoàn 3 của Quân khu 5 mới được phối thuộc cho quân đoàn cũng đã được thử thách rất nhiều trên dải đất miền Trung Trung Bộ.
    Mệnh lệnh của bộ còn nói rõ: Khi cần thiết phải đột phá vào Phan Rang. Như vật có nghĩa là: lần này khác hẳn với những lần trước, phải vừa hành quân-hành quân thần tốc-lại vừa phải tác chiến. Vì vậy, việc tổ chức chỉ huy lần này cũng có những chỗ khác thường: Toàn quân đoàn được tổ chức ra làm nhiều khối, mỗi khối là một đơn vị binh chủng hợp thành, được tăng cường chỉ huy để có khả năng đọc lập giải quyết các mục tiêu trên đường đi. Công tác bảo đảm đường sá khá phức tạp, thì được phối thuộc bằng một trung đoàn thuyền của Đoàn Trường Sơn, nằm luôn trong đội hình của đoàn tiền trạm; cầu bê tông bị đánh hỏng, thì đã có sẵn cầu bê-lây của Mỹ lắp vào, rất nhanh, rất gọn; đường hỏng thì nhân dân địa phương đổ ra làm đường vòng, đường tránh, sông rộng thì ghép phà lớn như An Tân, Bà Bàu; sông hẹp thì dùng bao cát, vỏ thùng phi, nguyên vật liệu sẵn có ở các địa phương để làm ngầm cho xe qua. Công tác bảo đảm ky cho một cuộc hành quân đường dài của một binh đoàn lớn, có đầy đủ binh khí, kỹ thuật cũng được giải quyết rất ổn thoả: mỗi lái xe, thợ sửa chữa, đều mang theo túi đồ nghề, có đầy đủ phụ tùng dự phòng. Mỗi khi đến trạm nghỉ, từ trưởng xe, nhân viên kỹ thuật, đến lái chính, lái phụ, đều bày biện dụng cụ ra làm công tác bảo dưỡng. Sinh hoạt của đơn vị cũng khác thường, mỗi xe là một lán trại, một hội trường, một lớp học để cho các chiến sĩ nghe tin chiến thắng, học tập nghị quyết, đấu tranh phê bình tự phê bình và cũng là một câu lạc bộ đẻ vui chơi ca hát. Xe còn lại bếp ăn, có đủ lương thực, thực phẩm, nồi niêu, xoong chảo, thậm chí đến cả củi đun nữa. Theo quy định chung, cứ mỗi lần dừng lại nửa tiếng đồng hồ, là phải có cái ăn ngay. Cảm động nhất và cũng lý thú nhất là cuộc hành quân thần tốc của trung đoàn 9. Vì không đủ xe, nên đơn vị phải đi bằng tầu biển từ Đà Nẵng vào Quy Nhơn. Ở đây, đã có sẵn hàng trăm xe của đồng bào vùng mới giải phóng. Cũng như ở Đắc Lắc, được các đảng bộ địa phương giáo dục và cổ vũ, rất nhiều bà con cô bác tình nguyện gia nhập vào đội hình hành quân của quân đoàn. Có xe, chồng là lái chính, con là lái phụ, vợ là nấu ăn, cả gia đình cùng chia sẻ nỗi gian lao vất vả với bộ đội và cùng nhau reo mừng, chia nhau niềm tự hào và niềm vui chiến thắng. Bất chấp cả bom đạn, không ai chịu bỏ cuộc. Kết thúc đợt chuyển quân, gần 50 gia đình còn xin cấp trên được ở lại phục vụ bộ đội, chờ đến ngày xong chiến dịch mới trở về.
    Thị xã Phan Rang nằm trên đường quốc lộ số 1, trên ngã ba đường đi Đà Lạt, cách Sài Gòn 350 cây số. Ngày 1 tháng 4, sau khi đối phương tháo chạy khỏi Nha Trang, thì họ cũng bỏ luôn cả cái thị trấn nhỏ bé này. Nhưng Thiệu lại ra lệnh phải ở lại và đưa đến đấy một lực lượng khá đông để tử thủ.
    Đường từ hướng bắc đi vào thị xã, phải đi ven theo bờ biển, một bên là núi cao. Tiếp đến là một thung lũng hẹp, kẹp giữa hai sườn núi. CÒn nắm được trong tay một lực lượng không quân khá lớn, một lực lượng hải quân chưa bị sứt mẻ bao nhiêu, nên Thiệu đặt nhiều tin tưởng vào khu vực phòng thủ này. Ngày 13, 14 tháng 4, sư đoàn 3 của Quân khu 5 và trung đoàn 25 mở đợt tiến công vào sân bay Thành Sơn, nhưng cũng chỉ mới chiếm được một vài điểm nhỏ ở rìa bên ngoài trên phía bắc. Tối ngày hôm ấy, đại quân đến. Sư đoàn 325, được lệnh tổ chức ra cụm pháo, tiến vào Du Long, để chi viện cho sư đoàn 3. Ý định của quân đoàn là đột phá trong hành tiến, đánh chiếm ngay thị xã và cảng Ninh Chữ, đồng thời phối hợp với sư đoàn 3, tiến công vào Thành Sơn. Cũng cần phải nói lên cho mọi người biết: gọi là chấm dứt mọi sự can thiệp bằng quân sự, nhưng mấy ngày trước đó, chiếc tàu mang tên Durnam của Mỹ đã lén lút chở quân đến để tăng cường cho Phan Rang và đã bốc đi 1.500 người. Đánh vào cảng Ninh Chữ là nhằm mục đích cắt đường rút lui của đối phương bằng đường biển và cũng là một đòn cảnh cáo đế quốc Mỹ.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    5 giờ sáng ngày 14 tháng 4, trung đoàn 101, sư đoàn 325 cùng với 20 xe tăng, hai tiểu đoàn pháo 105 tiến công vào thị xã Phan Rang. Địch tổ chức ngăn chặn quyết liệt tại cầu Phước Nhơn, trên đường vào thị xã. Pháo mặt đất và pháo biển bắn chặn từ Phước Nhơn đến Gò Đen, phối hợp rất chặt chẽ với máy bay ném bom, bắn rocket. Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 25 cùng xe tăng, thiết giáp đánh địch trên cầu Hội Diêm. Sau 30 phút, phát triển vào đến khu vực nhà thờ ở phía bắc thị xã, thì chạm súng với lữ đoàn 31 biệt động quân. Tiểu đoàn 1 lần lượt diệt các điểm chốt phòng ngự từ Hội Diêm đến ngã ba Ninh Chữ, đánh tan nhiều đợt phản kích và chiếm được khu trường bắn, một vị trí phòng thủ khá vững chắc ở bắc thị xã 2 cây số.
    Trời sáng dần, máy bay hoạt động càng quyết liệt hơn, phối hợp hoả lực của súng máy đặt trên các nhà tầng, bắn như đổ đạn vào đội hình của đại đội đi đầu. Phối hợp chặt chẽ với quân phòng ngự ở chính diện, một cánh bộ binh khác vừa mới hồi phục lại, từ An Xuân, An Nhơn đánh tạt ngang với ý định chia cắt đội hình tiến công của ta. Từ 6 giờ đến 9 giờ sáng, gần 40 lần chiếc A37 điên cuồng ném bom, bắn phá vào đội hình ta. Ta bắn rơi một chiếc. Nhưng thương vong mỗi lúc một tăng dần. Trung đoàn trưởng Nguyên Văn Giảng, nắm lại đội hình, dùng tiểu đoàn 1 bộ binh và tiểu đoàn 4 thiết giáp, tổ chức thành 3 mũi tiến công, vượt qua lưới lửa, thọc nhanh vào trung tâm thị xã, đánh chiếm tiểu khu Phan Rang, toà hành hcính tỉnh và khu trung tâm thông tin. Trước hành động quả cảm, nhanh và mạnh của ta, hoả lực chi viện của địch mất hẳn tác dụng, địch nhanh chóng tan vỡ, 15 phút sau, đại đội 1 đã cắm cờ lên nóc toà nhà hành chính. Quân ta tràn vào thị xã như nước vỡ bờ. Nhân dân đổ ra đường, bất chấp lửa đạn, hò reo đón mừng bộ đội giải phóng. Trung đoàn được lệnh cho một bộ phận phát triển tiến công về phía cảng. Một chiếc tàu lớn, hốt hoảng chưa kịp rời bến, đã bị bắn cháy. Các đường rút lui đều bị cắt đứt. Cách đối phó đáng kể nhất của địch còn lại là dùng máy bay bắn bừa bãi vào xóm làng xung quanh.
    Trên hướng sân bay Thành Sơn, sư đoàn 3 và trung đoàn 25 đang gặp khó khăn. Hoả lực của địch vừa mạnh lại vừa có tổ chức, kết hợp chặt chẽ với hệ thống công sự khá vững chắc. Chả là cách đây nửa tháng, địch đã phát hiện sư đoàn 10 với toàn bộ binh, xe tăng, pháo binh đã vào đến Dư Long, ở phía bắc thị xã, rồi lại vòng về phía tây, vào chiến khu Bác Ái. Họ đoán là ta đánh chuẩn bị tiến công vào sân bay, nên có bao nhiêu bom đạn đều tập trung vào khu vực này. Nắm được tình hình này, bộ tư lệnh quân đoàn lệnh cho sư đoàn 325 dùng tiểu đoàn 2, tổ chức một mũi tiến công lên hướng sân bay để phối hợp. Vừa tiến ra khỏi ngã ba một cây số, đơn vị đã bị máy bay oanh tạc vào đúng giữa đội hình, cháy 4 xe. Đến gần trưa, 16 tháng 4, tiểu đoàn 1 cùng với xe tăng đang tiến về quận lỵ Tháp Chàm thì gặp địch, lập tức chia làm cánh: một cánh nhanh chóng chiếm quận lỵ, một cánh đánh dọc theo đường quốc lộ 11 rồi thọc vào sân bay từ phía nam. Bị đánh từ phía sau tới, địch tan vỡ, bỏ cả xe M113 chạy toán loạn. Vừa lúc ấy thì trung đoàn 25 cũng từ hướng bắc đánh xuống. Trong nháy mắt, ta hoàn toàn làm chủ sân bay, thu hơn 40 chiếc còn nguyên vẹn.
    Vì đặt quá nhiều tin tưởng vào kế hoạch tử thủ của Thiệu, nên chỉ trước đây vài hôm, CIA ở Sài Gòn còn phái ra Phan Rang một cán bộ cỡ bự, tên là Lew James, có thể là để phục vụ cho một âm mưu lâu dài sau này. Khốn nỗi! Trò chết, thày cũng chìm theo. Trong số tù binh lôi từ đám ruộng mía ra, có cả 3 người: trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Sang và người Mỹ nói trên. Nghi và Sang đã nhanh trí vứt cả áo lính có đính sao, cố để giấu biệt tung tích; nhưng cái mũi lõ, và mái tóc quăn của Lew James, thì không viứt vào đâu được. Các chiến sĩ giải phóng đã cất được một mẻ lưới vô cùng đánh giá.
    Giao công tác tiếp quản lại cho địa phương, Binh đoàn lại tiếp tục dong ruổi. Hơn 12 tiếng đồng hồ sau, bộ phận đi đầu đã vào cách Phan Rang 20 cây số. Hàng chục chiếc tàu chiến đã dàn sẵn dọc theo bờ biển, nã pháo, bắn chặn từ Vĩnh Hào vào đến Tuy Phong. Một trận đấu pháo lại diễn ra. Các đơn vị pháo 120 ly nòng dài và 130 ly lập tức hạ càng, chiến đấu. Chỉ mới mấy loạt đạn đầu khá chính xác, đã nhận chìm và bắn cháy 3 tàu. Đến Phan Thiết gần nửa đêm. Được địa phương cho biết có một số địch đang cụm lại ở ven sông. Để tranh thủ thời gian, ta tổ chức tiến công trong hành tiến. Đơn vị thiết giáp phái đi trước xông lên bắn mạnh vào các ổ đề kháng, nhanh chóng vượt qua cầu, chiếm hết các điểm quan trọng. Nhân dân cùng bộ đội tổ chức truy quét cho đến sáng hôm sau.
    Ngày 21 tháng 4, toàn bộ binh đoàn đã lần lượt vào tập kết ở Suối Cát, cách Xuân Lộc 15 cây số về phía bắc. Chưa kịp ăn uống gì, thì lại được lệnh phải quay lại giải phóng Hàm Tân. Địch ở đây là tàn quân của trung đoàn 40 và một số khá đông binh lính ở các đơn vị khác kéo về tổng số trên 5.000 tên. Suốt mấy ngày qua, bị lực lượng địa phương bao vây, kêu gọi, vẫn chưa chịu đầu hàng. Trước tình hình đó, sư đoàn 304 buộc phải phái ra trung đoàn 66, tiểu đoàn 5 thiết giáp và một tiểu đoàn lựu pháo để phối hợp. Biết có chủ lực ta đến, chỉ sau mấy loạt pháo bắn chuẩn bị, xe tăng và bộ binh xung phong lên, bọn địch đứa tháo chạy, đứa đầu hàng, 23 giờ ngày 22 tháng 4, ta đã hoàn toàn làm chủ thị trấn này.
    Trải qua 17 ngày đêm liên tục chiến đấu, với tốc độ đột phá trong hành tiến là 40 cây số ngày; tốc độ hành quân bình thường là 100 cây số ngày, qua 8 tỉnh, 18 thị xã, thị trấn, đánh 5 trận có hợp đồng binh chủng lứon, 3 trận đánh tàu, 9 trận đánh máy bay, cánh quân Duyên Hải đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Chỉ tính riêng sư đoàn cao xạ 673 của binh đoàn, trên chặng đường hành quân thần tốc này, đã đánh 36 trận, bắn rơi 11 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 2 tàu.
    Điều rất đáng mừng là số thương vong đã ít, mà trang bị hao hụt cũng chẳng có bao nhiêu. Toàn binh đoàn, từ cán bộ đến chiến sĩ, ai ai cũng cảm thấy lớn lên về nhiều mặt, vững tin ở sức chiến đấu của đơn vị, hăm hở chờ đón những nhiệm vụ nặng nề hơn trong những ngày sắp đến.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    5 giờ sáng ngày 14 tháng 4, trung đoàn 101, sư đoàn 325 cùng với 20 xe tăng, hai tiểu đoàn pháo 105 tiến công vào thị xã Phan Rang. Địch tổ chức ngăn chặn quyết liệt tại cầu Phước Nhơn, trên đường vào thị xã. Pháo mặt đất và pháo biển bắn chặn từ Phước Nhơn đến Gò Đen, phối hợp rất chặt chẽ với máy bay ném bom, bắn rocket. Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 25 cùng xe tăng, thiết giáp đánh địch trên cầu Hội Diêm. Sau 30 phút, phát triển vào đến khu vực nhà thờ ở phía bắc thị xã, thì chạm súng với lữ đoàn 31 biệt động quân. Tiểu đoàn 1 lần lượt diệt các điểm chốt phòng ngự từ Hội Diêm đến ngã ba Ninh Chữ, đánh tan nhiều đợt phản kích và chiếm được khu trường bắn, một vị trí phòng thủ khá vững chắc ở bắc thị xã 2 cây số.
    Trời sáng dần, máy bay hoạt động càng quyết liệt hơn, phối hợp hoả lực của súng máy đặt trên các nhà tầng, bắn như đổ đạn vào đội hình của đại đội đi đầu. Phối hợp chặt chẽ với quân phòng ngự ở chính diện, một cánh bộ binh khác vừa mới hồi phục lại, từ An Xuân, An Nhơn đánh tạt ngang với ý định chia cắt đội hình tiến công của ta. Từ 6 giờ đến 9 giờ sáng, gần 40 lần chiếc A37 điên cuồng ném bom, bắn phá vào đội hình ta. Ta bắn rơi một chiếc. Nhưng thương vong mỗi lúc một tăng dần. Trung đoàn trưởng Nguyên Văn Giảng, nắm lại đội hình, dùng tiểu đoàn 1 bộ binh và tiểu đoàn 4 thiết giáp, tổ chức thành 3 mũi tiến công, vượt qua lưới lửa, thọc nhanh vào trung tâm thị xã, đánh chiếm tiểu khu Phan Rang, toà hành hcính tỉnh và khu trung tâm thông tin. Trước hành động quả cảm, nhanh và mạnh của ta, hoả lực chi viện của địch mất hẳn tác dụng, địch nhanh chóng tan vỡ, 15 phút sau, đại đội 1 đã cắm cờ lên nóc toà nhà hành chính. Quân ta tràn vào thị xã như nước vỡ bờ. Nhân dân đổ ra đường, bất chấp lửa đạn, hò reo đón mừng bộ đội giải phóng. Trung đoàn được lệnh cho một bộ phận phát triển tiến công về phía cảng. Một chiếc tàu lớn, hốt hoảng chưa kịp rời bến, đã bị bắn cháy. Các đường rút lui đều bị cắt đứt. Cách đối phó đáng kể nhất của địch còn lại là dùng máy bay bắn bừa bãi vào xóm làng xung quanh.
    Trên hướng sân bay Thành Sơn, sư đoàn 3 và trung đoàn 25 đang gặp khó khăn. Hoả lực của địch vừa mạnh lại vừa có tổ chức, kết hợp chặt chẽ với hệ thống công sự khá vững chắc. Chả là cách đây nửa tháng, địch đã phát hiện sư đoàn 10 với toàn bộ binh, xe tăng, pháo binh đã vào đến Dư Long, ở phía bắc thị xã, rồi lại vòng về phía tây, vào chiến khu Bác Ái. Họ đoán là ta đánh chuẩn bị tiến công vào sân bay, nên có bao nhiêu bom đạn đều tập trung vào khu vực này. Nắm được tình hình này, bộ tư lệnh quân đoàn lệnh cho sư đoàn 325 dùng tiểu đoàn 2, tổ chức một mũi tiến công lên hướng sân bay để phối hợp. Vừa tiến ra khỏi ngã ba một cây số, đơn vị đã bị máy bay oanh tạc vào đúng giữa đội hình, cháy 4 xe. Đến gần trưa, 16 tháng 4, tiểu đoàn 1 cùng với xe tăng đang tiến về quận lỵ Tháp Chàm thì gặp địch, lập tức chia làm cánh: một cánh nhanh chóng chiếm quận lỵ, một cánh đánh dọc theo đường quốc lộ 11 rồi thọc vào sân bay từ phía nam. Bị đánh từ phía sau tới, địch tan vỡ, bỏ cả xe M113 chạy toán loạn. Vừa lúc ấy thì trung đoàn 25 cũng từ hướng bắc đánh xuống. Trong nháy mắt, ta hoàn toàn làm chủ sân bay, thu hơn 40 chiếc còn nguyên vẹn.
    Vì đặt quá nhiều tin tưởng vào kế hoạch tử thủ của Thiệu, nên chỉ trước đây vài hôm, CIA ở Sài Gòn còn phái ra Phan Rang một cán bộ cỡ bự, tên là Lew James, có thể là để phục vụ cho một âm mưu lâu dài sau này. Khốn nỗi! Trò chết, thày cũng chìm theo. Trong số tù binh lôi từ đám ruộng mía ra, có cả 3 người: trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, chuẩn tướng Sang và người Mỹ nói trên. Nghi và Sang đã nhanh trí vứt cả áo lính có đính sao, cố để giấu biệt tung tích; nhưng cái mũi lõ, và mái tóc quăn của Lew James, thì không viứt vào đâu được. Các chiến sĩ giải phóng đã cất được một mẻ lưới vô cùng đánh giá.
    Giao công tác tiếp quản lại cho địa phương, Binh đoàn lại tiếp tục dong ruổi. Hơn 12 tiếng đồng hồ sau, bộ phận đi đầu đã vào cách Phan Rang 20 cây số. Hàng chục chiếc tàu chiến đã dàn sẵn dọc theo bờ biển, nã pháo, bắn chặn từ Vĩnh Hào vào đến Tuy Phong. Một trận đấu pháo lại diễn ra. Các đơn vị pháo 120 ly nòng dài và 130 ly lập tức hạ càng, chiến đấu. Chỉ mới mấy loạt đạn đầu khá chính xác, đã nhận chìm và bắn cháy 3 tàu. Đến Phan Thiết gần nửa đêm. Được địa phương cho biết có một số địch đang cụm lại ở ven sông. Để tranh thủ thời gian, ta tổ chức tiến công trong hành tiến. Đơn vị thiết giáp phái đi trước xông lên bắn mạnh vào các ổ đề kháng, nhanh chóng vượt qua cầu, chiếm hết các điểm quan trọng. Nhân dân cùng bộ đội tổ chức truy quét cho đến sáng hôm sau.
    Ngày 21 tháng 4, toàn bộ binh đoàn đã lần lượt vào tập kết ở Suối Cát, cách Xuân Lộc 15 cây số về phía bắc. Chưa kịp ăn uống gì, thì lại được lệnh phải quay lại giải phóng Hàm Tân. Địch ở đây là tàn quân của trung đoàn 40 và một số khá đông binh lính ở các đơn vị khác kéo về tổng số trên 5.000 tên. Suốt mấy ngày qua, bị lực lượng địa phương bao vây, kêu gọi, vẫn chưa chịu đầu hàng. Trước tình hình đó, sư đoàn 304 buộc phải phái ra trung đoàn 66, tiểu đoàn 5 thiết giáp và một tiểu đoàn lựu pháo để phối hợp. Biết có chủ lực ta đến, chỉ sau mấy loạt pháo bắn chuẩn bị, xe tăng và bộ binh xung phong lên, bọn địch đứa tháo chạy, đứa đầu hàng, 23 giờ ngày 22 tháng 4, ta đã hoàn toàn làm chủ thị trấn này.
    Trải qua 17 ngày đêm liên tục chiến đấu, với tốc độ đột phá trong hành tiến là 40 cây số ngày; tốc độ hành quân bình thường là 100 cây số ngày, qua 8 tỉnh, 18 thị xã, thị trấn, đánh 5 trận có hợp đồng binh chủng lứon, 3 trận đánh tàu, 9 trận đánh máy bay, cánh quân Duyên Hải đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Chỉ tính riêng sư đoàn cao xạ 673 của binh đoàn, trên chặng đường hành quân thần tốc này, đã đánh 36 trận, bắn rơi 11 máy bay, bắn chìm và bắn cháy 2 tàu.
    Điều rất đáng mừng là số thương vong đã ít, mà trang bị hao hụt cũng chẳng có bao nhiêu. Toàn binh đoàn, từ cán bộ đến chiến sĩ, ai ai cũng cảm thấy lớn lên về nhiều mặt, vững tin ở sức chiến đấu của đơn vị, hăm hở chờ đón những nhiệm vụ nặng nề hơn trong những ngày sắp đến.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 20: Sóng gió biển Đông
    Dưới con mắt của bọn thực dân Pháp trước kia, cũng như theo cách nhìn của Mỹ Thiệu ngày nay, những dảo và quần đảo trong vùng biển Việt Nam là những nơi từ bao đời nay nổi tiéng trên thiết giáp, không phải là nhở có rừng vàng, biển bạc, mà chủ yếu là vì có những nhà tù, những chuồng cọp hiếm thấy ở trần gian, như ở Phú Quốc, Côn Sơn?
    Những từng từng lớp lớp kẽm gai, những lô cốt bê tông cốt thép, tường cao, luỹ dày, tưởng như chưa đủ để ngăn chặn những cuộc vượt ngục, dẹp yên được những cụoc bạo loạn của tù nhân. Thiên nhiên là trở ngại lớn nhất đối với những ai mong mỏi thoát cảnh từ đày. Sóng gầm, gió rít, đã át hẳn tiếng hò hét đấu tranh, của những người mà thể xác đã bị đọa đầy đi đến chỗ chết dần chết mòn. Tường thành ở đây còn làm cho những người bị giam giữ, vốn đã bị cách ly, càng thêm cách ly với cái thế giới nhỏ bé bên ngoài: thị trấn Côn Sơn. Vì vậy trong ngôn ngữ Việt Nam, mỗi khi nói đến đảo, thông thường người ta liên tưởng ngay đến những nơi hoang vắn ở chân trời góc biển, đã đi đến đó là chẳng có ngày về.
    Chúng ta nhìn vấn đề hoàn toàn khác hẳn.
    Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! Đất nước yêu quý của ta được những vành đai đảo và quần đảo chở che, xếp thành hàng lá chắn, án ngữ trước mặt, làm cho thêm đẹp, thêm giàu. Chúng ta vô cùng biết ơn tổ tiên mình đã sớm xác định chủ quyền trên những đảo và quần đảo lớn nhỏ, rải rác từ Bạch Long Vĩ đến Hoàng Sa, Trường Sa, đến tận Côn Sơn, Phú Quốc, mở rộng phạm vi lãnh thổ, vừa làm cho thế đứng của ta trên biển Đông thêm vững vàng, vừa làm cho nền kinh tế thêm phong phú, đa dạng, hứa hẹn cho đất nước một tương lai hạnh phúc ấm no.
    Cũng tại nơi này, ý chí đấu tranh của con người Việt Nam đã từng được đưa ra thử thách và đã từng chiến thắng: bọn đế quốc với dã tâm muốn đưa những bậc tiền bối của chúng ta đến đây để biến họ thành những thân tàn ma dại, nhưng họ lại biến nơi này thành trường học, để tôi luyện ý chí đấu tranh, để sau này, quật lại quân thù.
    Ngày nay và những ngày sắp đến, cồn cao, sóng dữ chưa phải đã êm, thiên nhiên hãy còn khắc nghiệt, và người ngoài hãy còn dòm ngó, sỉa sói. Nhưng theo gương của ông cha thuở trước, chúng ta và con cháu chúng ta sau này, không bao giờ tơ hào của ai một tấc đất, nhưng cũng quyết giữ trọn lời tuyên bố nghìn năm thuở trước: Nam quốc sơn hà nam đế cư?
    Trên tinh thần ấy, trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Bộ Tổng tham mưu đã đi sâu nghiên cứu kế hoạch giải phóng các đảo và quần đảo, còn nằm trong tay đối phương.
    Có rất nhiều vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu:
    Trên mảnh đất miền Trung, họ đang tháo chạy, toàn bộ lục địa sớm muộn rồi cũng sẽ được giải phóng hoàn toàn, nhưng liệu họ có ngoan cố tới mức, liều chết bám chặt các đảo kia không? Lịch sử trên thế giới chẳng đã cho thấy những bọn *********, sau khi bị tiêu diệt ở đất liền, còn dựa vào thế lực và ngoại bang, cố sống cố chết bám vào rẻo đất cuối cùng này, những hòn đảo xa xôi, để nuôi dưỡng giấc mộng phục thù, một ngày nào đó sẽ trở lại, khôi phục cơ đồ đó sao? Phương chi Mỹ đã từng rêu rao thành tích là đã xây dựng cho quân đội nguỵ một lực lượng hải quân rất hùng hậu, đứng vào hàng thứ tư trong thế giới tự do. Trong giờ phút này, tuy lực quân đã bị tan tác, nhưng hải quân hãy còn gần như nguyên vẹn. Lại nữa, hạm đội 7, với bao nhiêu tàu chiến và cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, hết vào lại ra, liệu chúng có mượn cớ để bảo đảm an ninh và giở trò khiêu khích gì chăng? Trên mặt bể, ưu thế của Mỹ đã rõ ràng.
    Từ lâu, các nhà địa chất đã xác định một khu vực dầu khí có trữ lượng lớn đang nằm ngủ yên dưới thềm lục địa này. Nếu có đánh nhau giằng co ở đây, không khéo lại diễn ra cái trò cò nghêo co kéo trong chuyện ngụ ngôn để cho ngư ông tóm cổ cả đôi, hưởng lợi, vui mừng.
    Ngày 4 tháng 4 năm 1975, Trung tướng Lê Trọng Tấn, thay mặt Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân và Bộ tư lệnh Quân khu 5 phải bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất, giải phóng các đảo. Hành động phải hết sức kiên quyết. Tuyệt đối không được để bất cứ một lực lượng nào khác chiếm đảo trước ta. Đoàn 125 và 126 của hải quân thì chiếm các đảo xa, các lực lượng của quân khu giải phóng các đảo gần.
    Sau 5 ngày ráo riết chuẩn bị, ngày 10 tháng 4, 3 tàu rẽ sóng ra khơi! Bao nhiêu năm làm công tác vận tải, chi viện cho miền Nam, các tàu của đoàn 125 đều không mang số, thế mà lần này, đi đánh nhau, mỗi tàu lại mang một cái biển số to tướng: 673, 674 và 675.
    Trong công tác chi viện trước đó, ngoài kết quả lớn lao và thiết thực là ta đã được một số súng đạn, khá nhiều vào các chiến trường Nam Bộ, tạo điều kiện cho đồng bằng sông Cửu Long nổi sóng, còn có tác dụng là đào tạo cho hải quân Việt Nam một đội ngũ khá đông trưởng tàu và thuỷ thủ. Mỗi lần đi là một lần thử thách, nâng cao thêm bản lĩnh chỉ huy trong cách xử trí, đối phó với những tình huống vô cùng phức tạp diễn ra trên biển, đồng thời cũng là một dịp để rèn luyện nghiệp vụ hàng hải cho toàn đoàn.
    Các cán bộ và chiến sĩ hải quân đã có dịp làm quen với quần đảo Trường Sa, với các đảo Song Tử Tây, Vĩnh Viễn, Sơn Ca, Nam Yết, An Bang, Trường Sa v.v? trên bản đồ hàng hải của Mỹ, cả vùng biển này đều nằm trong ?okhu vực nguy hiểm? vì có rất nhiều đá ngầm, gió bão lại bất thường. Rải rác đó đây, xác một chiếc tàu bị mắc cạn tự bao giờ, nằm nghếch mũi lên, phơi xác trên bãi san hô giữa đại dương mênh mông, như nhắc nhủ những người gan góc nhất chớ có liều lĩnh, bén mảng đến nơi này. Hạm đội 7 của Mỹ, dù có hiện đại đến mấy, cũng phải kiêng nể những vật chướng ngại thiên nhiên, mọc ngầm dưới nước. Phát hiện được chỗ nhược điểm này của đối phương theo chỉ thị của đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Võ Nguyên Giáp, ta đã nhanh chóng tổ chức những nơi này thành những kho trung chuyển hàng hóa tuyệt vời: vừa thuận tiện, lại vừa bí mật. Đi lại nhiều lần, cán bộ và chiến sĩ của các đoàn 125, 371 thuộc lòng vùng biển; đá ngầm, bãi san hô không còn là vật chướng ngại nguy hiểm nữa, ngược lại nó trở thành những vật che chở, bảo đảm cho công tác được an toàn. Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch cùng với các thuỷ thủ từng trải của anh trở lại Trường Sa như về quê hương Cái Nước Năm Căn. Từng động cát, từng bụi cây, từng tảng đá, đều đã quen thuộc quá rồi.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 20: Sóng gió biển Đông
    Dưới con mắt của bọn thực dân Pháp trước kia, cũng như theo cách nhìn của Mỹ Thiệu ngày nay, những dảo và quần đảo trong vùng biển Việt Nam là những nơi từ bao đời nay nổi tiéng trên thiết giáp, không phải là nhở có rừng vàng, biển bạc, mà chủ yếu là vì có những nhà tù, những chuồng cọp hiếm thấy ở trần gian, như ở Phú Quốc, Côn Sơn?
    Những từng từng lớp lớp kẽm gai, những lô cốt bê tông cốt thép, tường cao, luỹ dày, tưởng như chưa đủ để ngăn chặn những cuộc vượt ngục, dẹp yên được những cụoc bạo loạn của tù nhân. Thiên nhiên là trở ngại lớn nhất đối với những ai mong mỏi thoát cảnh từ đày. Sóng gầm, gió rít, đã át hẳn tiếng hò hét đấu tranh, của những người mà thể xác đã bị đọa đầy đi đến chỗ chết dần chết mòn. Tường thành ở đây còn làm cho những người bị giam giữ, vốn đã bị cách ly, càng thêm cách ly với cái thế giới nhỏ bé bên ngoài: thị trấn Côn Sơn. Vì vậy trong ngôn ngữ Việt Nam, mỗi khi nói đến đảo, thông thường người ta liên tưởng ngay đến những nơi hoang vắn ở chân trời góc biển, đã đi đến đó là chẳng có ngày về.
    Chúng ta nhìn vấn đề hoàn toàn khác hẳn.
    Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi! Đất nước yêu quý của ta được những vành đai đảo và quần đảo chở che, xếp thành hàng lá chắn, án ngữ trước mặt, làm cho thêm đẹp, thêm giàu. Chúng ta vô cùng biết ơn tổ tiên mình đã sớm xác định chủ quyền trên những đảo và quần đảo lớn nhỏ, rải rác từ Bạch Long Vĩ đến Hoàng Sa, Trường Sa, đến tận Côn Sơn, Phú Quốc, mở rộng phạm vi lãnh thổ, vừa làm cho thế đứng của ta trên biển Đông thêm vững vàng, vừa làm cho nền kinh tế thêm phong phú, đa dạng, hứa hẹn cho đất nước một tương lai hạnh phúc ấm no.
    Cũng tại nơi này, ý chí đấu tranh của con người Việt Nam đã từng được đưa ra thử thách và đã từng chiến thắng: bọn đế quốc với dã tâm muốn đưa những bậc tiền bối của chúng ta đến đây để biến họ thành những thân tàn ma dại, nhưng họ lại biến nơi này thành trường học, để tôi luyện ý chí đấu tranh, để sau này, quật lại quân thù.
    Ngày nay và những ngày sắp đến, cồn cao, sóng dữ chưa phải đã êm, thiên nhiên hãy còn khắc nghiệt, và người ngoài hãy còn dòm ngó, sỉa sói. Nhưng theo gương của ông cha thuở trước, chúng ta và con cháu chúng ta sau này, không bao giờ tơ hào của ai một tấc đất, nhưng cũng quyết giữ trọn lời tuyên bố nghìn năm thuở trước: Nam quốc sơn hà nam đế cư?
    Trên tinh thần ấy, trong những ngày đầu tháng 4 năm 1975, Bộ Tổng tham mưu đã đi sâu nghiên cứu kế hoạch giải phóng các đảo và quần đảo, còn nằm trong tay đối phương.
    Có rất nhiều vấn đề cần phải đặt ra nghiên cứu:
    Trên mảnh đất miền Trung, họ đang tháo chạy, toàn bộ lục địa sớm muộn rồi cũng sẽ được giải phóng hoàn toàn, nhưng liệu họ có ngoan cố tới mức, liều chết bám chặt các đảo kia không? Lịch sử trên thế giới chẳng đã cho thấy những bọn *********, sau khi bị tiêu diệt ở đất liền, còn dựa vào thế lực và ngoại bang, cố sống cố chết bám vào rẻo đất cuối cùng này, những hòn đảo xa xôi, để nuôi dưỡng giấc mộng phục thù, một ngày nào đó sẽ trở lại, khôi phục cơ đồ đó sao? Phương chi Mỹ đã từng rêu rao thành tích là đã xây dựng cho quân đội nguỵ một lực lượng hải quân rất hùng hậu, đứng vào hàng thứ tư trong thế giới tự do. Trong giờ phút này, tuy lực quân đã bị tan tác, nhưng hải quân hãy còn gần như nguyên vẹn. Lại nữa, hạm đội 7, với bao nhiêu tàu chiến và cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ, hết vào lại ra, liệu chúng có mượn cớ để bảo đảm an ninh và giở trò khiêu khích gì chăng? Trên mặt bể, ưu thế của Mỹ đã rõ ràng.
    Từ lâu, các nhà địa chất đã xác định một khu vực dầu khí có trữ lượng lớn đang nằm ngủ yên dưới thềm lục địa này. Nếu có đánh nhau giằng co ở đây, không khéo lại diễn ra cái trò cò nghêo co kéo trong chuyện ngụ ngôn để cho ngư ông tóm cổ cả đôi, hưởng lợi, vui mừng.
    Ngày 4 tháng 4 năm 1975, Trung tướng Lê Trọng Tấn, thay mặt Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân và Bộ tư lệnh Quân khu 5 phải bám sát tình hình, tranh thủ thời cơ có lợi nhất, giải phóng các đảo. Hành động phải hết sức kiên quyết. Tuyệt đối không được để bất cứ một lực lượng nào khác chiếm đảo trước ta. Đoàn 125 và 126 của hải quân thì chiếm các đảo xa, các lực lượng của quân khu giải phóng các đảo gần.
    Sau 5 ngày ráo riết chuẩn bị, ngày 10 tháng 4, 3 tàu rẽ sóng ra khơi! Bao nhiêu năm làm công tác vận tải, chi viện cho miền Nam, các tàu của đoàn 125 đều không mang số, thế mà lần này, đi đánh nhau, mỗi tàu lại mang một cái biển số to tướng: 673, 674 và 675.
    Trong công tác chi viện trước đó, ngoài kết quả lớn lao và thiết thực là ta đã được một số súng đạn, khá nhiều vào các chiến trường Nam Bộ, tạo điều kiện cho đồng bằng sông Cửu Long nổi sóng, còn có tác dụng là đào tạo cho hải quân Việt Nam một đội ngũ khá đông trưởng tàu và thuỷ thủ. Mỗi lần đi là một lần thử thách, nâng cao thêm bản lĩnh chỉ huy trong cách xử trí, đối phó với những tình huống vô cùng phức tạp diễn ra trên biển, đồng thời cũng là một dịp để rèn luyện nghiệp vụ hàng hải cho toàn đoàn.
    Các cán bộ và chiến sĩ hải quân đã có dịp làm quen với quần đảo Trường Sa, với các đảo Song Tử Tây, Vĩnh Viễn, Sơn Ca, Nam Yết, An Bang, Trường Sa v.v? trên bản đồ hàng hải của Mỹ, cả vùng biển này đều nằm trong ?okhu vực nguy hiểm? vì có rất nhiều đá ngầm, gió bão lại bất thường. Rải rác đó đây, xác một chiếc tàu bị mắc cạn tự bao giờ, nằm nghếch mũi lên, phơi xác trên bãi san hô giữa đại dương mênh mông, như nhắc nhủ những người gan góc nhất chớ có liều lĩnh, bén mảng đến nơi này. Hạm đội 7 của Mỹ, dù có hiện đại đến mấy, cũng phải kiêng nể những vật chướng ngại thiên nhiên, mọc ngầm dưới nước. Phát hiện được chỗ nhược điểm này của đối phương theo chỉ thị của đồng chí Lê Đức Thọ và đồng chí Võ Nguyên Giáp, ta đã nhanh chóng tổ chức những nơi này thành những kho trung chuyển hàng hóa tuyệt vời: vừa thuận tiện, lại vừa bí mật. Đi lại nhiều lần, cán bộ và chiến sĩ của các đoàn 125, 371 thuộc lòng vùng biển; đá ngầm, bãi san hô không còn là vật chướng ngại nguy hiểm nữa, ngược lại nó trở thành những vật che chở, bảo đảm cho công tác được an toàn. Thuyền trưởng Dương Tấn Kịch cùng với các thuỷ thủ từng trải của anh trở lại Trường Sa như về quê hương Cái Nước Năm Căn. Từng động cát, từng bụi cây, từng tảng đá, đều đã quen thuộc quá rồi.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Biết được khả năng này của đơn vị bạn, trung tá Mai Năng, người chỉ huy trận đánh đặc biệt sắp đến, rất yên lòng về mặt hàng hải, nhưng không phải đã hết băn khoăn. Gần một tuần lễ nay, từ khi nhận nhiệm vụ, đêm ngày làm công tác chuẩn bị, từ người chỉ huy đến chiến sĩ, ai nấy cũng đều hồi hộp lo âu: trận chiến đấu sẽ diễn ra như thế nào? Đánh chiếm một mục tiêu là một hòn đảo, thì dùng chiến thuật gì? Bí mật tiếp cận, bí mật đổ bộ, rồi dùng chiến thuật đánh công sự vững chắc như xưa nay ta đã từng làm, hay là dùng pháo bắn chuẩn bị, bắn phá hoại, diệt cho kỳ hết các ổ đề kháng, rồi nhảy lên xung phong chiếm lĩnh? Là một đơn vị có nhiều kinh nghiệm tác chiến trên biển nhưng nhiệm vụ tác chiến theo kiểu này, kinh nghiệm hãy còn ít.
    Trước giờ xuất phát, thiếu tướng Hải quân Nguyễn Bá Phát, trong lúc giao nhiệm vụ và động viên anh em, đã không quên nhắc nhở, phải tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe cho tốt, để dành sức cho những trận chiến đấu sắp đến. Trời không trăng nhưng đầy sao, người chiến sĩ hải quân nắm chặt tay lái, ra khơi lòng đầy haâ hoan tin tưởng. Tiếng máy tàu, tiếng sóng rẽ nước trước mũi tàu vang lên đều đều giữa đêm khuya. Nhìn về phía tây, bóng núi nhoà dần giữa màn đêm. Ánh điện của thành phố, lúc này hãy còn là một vệt trắng, cũng nhạt dần dưới chân trời.
    Qua ngày đầu hành quân, sóng yên biển lặng. Các chiến sĩ của đoàn 126, khi ở dưới nước thì vùng vẫy như cá kình, nhưng chưa quen đi tầu biển dài ngày nên sức khỏe hơi xuống. Đến nửa đêm 12 tháng 4, khi đến gần hạm đội 7, một chiếc máy bay lướt qua đội hình, lượn hai vòng, và bắn một loạt pháo sáng trước mũi tàu. Báo động toàn đoàn. Các chiến sĩ bật người dậy, lao vào các ụ súng. Xin chỉ thị cấp trên, được Bộ tư lệnh khu 5 trả lời tức khắc: ?oKiên quyết đánh bất cứ ai?. Đây chẳng qua là một thủ đoạn răn đe, dọa dẫm, thử thách tinh thần nhau thôi, chứ đến lúc này, sự can thiệp của Mỹ đã chấm dứt rồi.
    Sáng hôm sau, gặp sự cố mới: cái giá đòn gánh xu-páp của tàu 674 gẫy, tốc độ chậm lại. Lệnh của trên: ?oTàu 673 của chỉ huy trưởng Mai Năng bứt lên trước, nhanh chóng chiếm cho được đảo Song Tử Tây để làm bàn đạp, sau đó sẽ phát triển xuống phía nam chiếm Sơn Ca, Nam Yết?. Vừa lúc ấy, tin kỹ thuật cho biết: một tàu lạ đang trên đường ra đảo. Một cuộc chạy đua từ hai hướng cùng lao đến một mục tiêu đang diễn ra trên mặt biển Đông. Mờ sáng, tàu 673 chỉ còn cách đảo 10 hải lý. Qua ống nhòm có bội số lớn, phát hiện có bóng người đi lại trên đảo: lá cờ vàng, ba sọc đỏ vẫn còn phấp phới bay. Địch chưa tháo chạy, chúng đang chờ lệnh. Dự kiến trận đánh sẽ gay go, quyết liệt. Trong lúc chờ đợi tàu 674, trung tá Mai Năng cho tàu mình chạy một vòng quanh đảo, để tìm hiểu thêm tình hình: phía bắc Song Tử Đông có một tàu đang mắc cạn; phía nam một tàu khác đang neo. Thì ra, không phải chỉ có quân đội nguỵ Sài Gòn mà cả quân đội Philippin trên đảo Song Tử Đông cũng báo động đề phòng.
    Kết hợp những điều đã phát hiện về phía địch trong ngày của Mai Năng và sự hiểu biết về địa hình của Dương Tấn Kịch, kế hoạch tiến công được vạch ra nhanh chóng.
    Càng về khuya, gió càng lạnh. Đến 1 giờ ngày 14, sóng đã đến cấp 4. Chung quanh đảo, bọt bể trắng xoá và lân tinh sáng ngời. Mũi chính do đồng chí Huống và trung uý Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy, bị dạt ra khỏi nơi quy định khá xa; thuyền chi viện của hoả lực bị chìm khi đến gần bờ, vì va phải đá ngầm. Pháo sáng trên đảo bắn liên tục. Địch bắn rất rát trong vòng 30 phút. Vừa động viên nhau, giữ vững quyết tâm, vừa vận dụng kinh nghiệm chiến đấu cũ, bất chấp cồn cao sóng dữ, cuối cùng các mũi đều áp sát được mục tiêu. Trận chiến đấu bắt đầu lúc 4 giờ 30 ngày 14 tháng 4 kết thúc nhanh chóng trong vòng 30 phút. Bấy giờ cũng là lúc thấy xuất hiện một tàu của hải quân nguỵ vừa ra đến nơi neo cách đảo không xa. Trâu chậm uống nước đục! Lá cờ nửa đỏ nửa xanh vừa được kéo lên đỉnh cột giữa, đang phấp phới tung bay.
    Các đơn vị khẩn trương điều chỉnh lại cách bố trí tổ chức mạng thông tin liên lạc, tranh thủ xây đắp tạm công sự; để củng cố dần dần thành bàn đạp vững chắc, dựa vào đó đẻ sau này sẽ giải phóng tất cả các đảo còn lại.
    Sau ngày 30 tháng 4, tại bộ tư lệnh hải quân Cộng hoà Việt Nam trên đường Bạch Đằng, ta bắt được một quyển ?onhật ký chiến sự?, có ghi lại tình hình trên mặt biển, những ngày sau khi mất đảo Song Tử Tây:
    ?oNgày 14 tháng 4-tàu HQ 402 được lệnh khởi hành từ Vũng Tàu đi Trường Sa, rồi thẳng ra luôn Song Tử Tây để nắm tình hình và báo cáo về vì sao mất liên lạc.
    Ngày 15 tháng 4 phát hiện thấy hai tàu lạ ở gần đảo Sơn Ca. Lệnh cho các nơi, đặc biệt đảo Nam Yết phải chuẩn bị chiến đấu, đồng thời lệnh cho HQ 16 ra ngay Song Tử Tây, dùng vận tốc tối đa, nhanh chóng bắt liên lạc với HQ 402.
    Ngày 16 tháng 4, các tàu từ Cam Ranh trở vào phải yểm hộ cho Phan Rang, trong lúc ba khu trục Mỹ sẵn sàng ở Đông Phan Thiết.
    Ngày 17 tháng 4, HQ 402 báo cáo xác minh là Song Tử Tây đã bị chiếm. Hải quân đang tìm cách đổ bộ để lấy lại nhưng không được vì lực lượng ít, lên thì rất nguy hiểm, nên đã rút về Nam Yết lúc 20 giờ?.
    Cũng theo nhật ký này ghi lại, suốt cả mấy ngày sau đó, tình hình trên đảo Nam Yết rất căng thẳng. Vài ba chiếc tàu lạ thả xuống tiếp cận. Địch trên đảo phải bắn suốt cả đêm, tàu lạ mới chịu lùi ra xa.
    Ngày 24 tháng 4, họ nhận định: ?oVới sự xuất hiện nhiều tàu lạ trong khu vực Nam Yết-Sơn Ca, tàu HQ 17 yêu cầu xét đến việc rút khỏi các đảo này, vì không có khả năng đương đầu với những cuộc tiến công lớn sắp đến. Hạm trưởng ốm suốt mấy ngày liền, không ăn uống gì được, kỹ thuật kém, rada của HQ 14 hỏng, nếu không cho rút, có thể mất cả người lẫn tàu. Nếu quyết định giữ Nam Yết thì cần ba tuần dương hạm có đủ tiếp tế, đủ bác sĩ có khả năng giải phẫu và có đủ máy bay yểm trợ cho tàu?.
    Có được một bàn đạp vững chắc như Song Tử Tây, ngày 21 tháng 4, ta phát động tiến công đợt hai, giải phóng toàn bộ số đảo còn lại. Một tuần sau nhiệm vụ này mới hoàn thành.
    ------------------------
    Những bác nhắn em lấy Xuân giải phóng thì em đã gửi xong rùi! Bác nào đã chưa nhận được thì báo em để em gửi lại!
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Biết được khả năng này của đơn vị bạn, trung tá Mai Năng, người chỉ huy trận đánh đặc biệt sắp đến, rất yên lòng về mặt hàng hải, nhưng không phải đã hết băn khoăn. Gần một tuần lễ nay, từ khi nhận nhiệm vụ, đêm ngày làm công tác chuẩn bị, từ người chỉ huy đến chiến sĩ, ai nấy cũng đều hồi hộp lo âu: trận chiến đấu sẽ diễn ra như thế nào? Đánh chiếm một mục tiêu là một hòn đảo, thì dùng chiến thuật gì? Bí mật tiếp cận, bí mật đổ bộ, rồi dùng chiến thuật đánh công sự vững chắc như xưa nay ta đã từng làm, hay là dùng pháo bắn chuẩn bị, bắn phá hoại, diệt cho kỳ hết các ổ đề kháng, rồi nhảy lên xung phong chiếm lĩnh? Là một đơn vị có nhiều kinh nghiệm tác chiến trên biển nhưng nhiệm vụ tác chiến theo kiểu này, kinh nghiệm hãy còn ít.
    Trước giờ xuất phát, thiếu tướng Hải quân Nguyễn Bá Phát, trong lúc giao nhiệm vụ và động viên anh em, đã không quên nhắc nhở, phải tranh thủ thời gian nghỉ ngơi, giữ gìn sức khỏe cho tốt, để dành sức cho những trận chiến đấu sắp đến. Trời không trăng nhưng đầy sao, người chiến sĩ hải quân nắm chặt tay lái, ra khơi lòng đầy haâ hoan tin tưởng. Tiếng máy tàu, tiếng sóng rẽ nước trước mũi tàu vang lên đều đều giữa đêm khuya. Nhìn về phía tây, bóng núi nhoà dần giữa màn đêm. Ánh điện của thành phố, lúc này hãy còn là một vệt trắng, cũng nhạt dần dưới chân trời.
    Qua ngày đầu hành quân, sóng yên biển lặng. Các chiến sĩ của đoàn 126, khi ở dưới nước thì vùng vẫy như cá kình, nhưng chưa quen đi tầu biển dài ngày nên sức khỏe hơi xuống. Đến nửa đêm 12 tháng 4, khi đến gần hạm đội 7, một chiếc máy bay lướt qua đội hình, lượn hai vòng, và bắn một loạt pháo sáng trước mũi tàu. Báo động toàn đoàn. Các chiến sĩ bật người dậy, lao vào các ụ súng. Xin chỉ thị cấp trên, được Bộ tư lệnh khu 5 trả lời tức khắc: ?oKiên quyết đánh bất cứ ai?. Đây chẳng qua là một thủ đoạn răn đe, dọa dẫm, thử thách tinh thần nhau thôi, chứ đến lúc này, sự can thiệp của Mỹ đã chấm dứt rồi.
    Sáng hôm sau, gặp sự cố mới: cái giá đòn gánh xu-páp của tàu 674 gẫy, tốc độ chậm lại. Lệnh của trên: ?oTàu 673 của chỉ huy trưởng Mai Năng bứt lên trước, nhanh chóng chiếm cho được đảo Song Tử Tây để làm bàn đạp, sau đó sẽ phát triển xuống phía nam chiếm Sơn Ca, Nam Yết?. Vừa lúc ấy, tin kỹ thuật cho biết: một tàu lạ đang trên đường ra đảo. Một cuộc chạy đua từ hai hướng cùng lao đến một mục tiêu đang diễn ra trên mặt biển Đông. Mờ sáng, tàu 673 chỉ còn cách đảo 10 hải lý. Qua ống nhòm có bội số lớn, phát hiện có bóng người đi lại trên đảo: lá cờ vàng, ba sọc đỏ vẫn còn phấp phới bay. Địch chưa tháo chạy, chúng đang chờ lệnh. Dự kiến trận đánh sẽ gay go, quyết liệt. Trong lúc chờ đợi tàu 674, trung tá Mai Năng cho tàu mình chạy một vòng quanh đảo, để tìm hiểu thêm tình hình: phía bắc Song Tử Đông có một tàu đang mắc cạn; phía nam một tàu khác đang neo. Thì ra, không phải chỉ có quân đội nguỵ Sài Gòn mà cả quân đội Philippin trên đảo Song Tử Đông cũng báo động đề phòng.
    Kết hợp những điều đã phát hiện về phía địch trong ngày của Mai Năng và sự hiểu biết về địa hình của Dương Tấn Kịch, kế hoạch tiến công được vạch ra nhanh chóng.
    Càng về khuya, gió càng lạnh. Đến 1 giờ ngày 14, sóng đã đến cấp 4. Chung quanh đảo, bọt bể trắng xoá và lân tinh sáng ngời. Mũi chính do đồng chí Huống và trung uý Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy, bị dạt ra khỏi nơi quy định khá xa; thuyền chi viện của hoả lực bị chìm khi đến gần bờ, vì va phải đá ngầm. Pháo sáng trên đảo bắn liên tục. Địch bắn rất rát trong vòng 30 phút. Vừa động viên nhau, giữ vững quyết tâm, vừa vận dụng kinh nghiệm chiến đấu cũ, bất chấp cồn cao sóng dữ, cuối cùng các mũi đều áp sát được mục tiêu. Trận chiến đấu bắt đầu lúc 4 giờ 30 ngày 14 tháng 4 kết thúc nhanh chóng trong vòng 30 phút. Bấy giờ cũng là lúc thấy xuất hiện một tàu của hải quân nguỵ vừa ra đến nơi neo cách đảo không xa. Trâu chậm uống nước đục! Lá cờ nửa đỏ nửa xanh vừa được kéo lên đỉnh cột giữa, đang phấp phới tung bay.
    Các đơn vị khẩn trương điều chỉnh lại cách bố trí tổ chức mạng thông tin liên lạc, tranh thủ xây đắp tạm công sự; để củng cố dần dần thành bàn đạp vững chắc, dựa vào đó đẻ sau này sẽ giải phóng tất cả các đảo còn lại.
    Sau ngày 30 tháng 4, tại bộ tư lệnh hải quân Cộng hoà Việt Nam trên đường Bạch Đằng, ta bắt được một quyển ?onhật ký chiến sự?, có ghi lại tình hình trên mặt biển, những ngày sau khi mất đảo Song Tử Tây:
    ?oNgày 14 tháng 4-tàu HQ 402 được lệnh khởi hành từ Vũng Tàu đi Trường Sa, rồi thẳng ra luôn Song Tử Tây để nắm tình hình và báo cáo về vì sao mất liên lạc.
    Ngày 15 tháng 4 phát hiện thấy hai tàu lạ ở gần đảo Sơn Ca. Lệnh cho các nơi, đặc biệt đảo Nam Yết phải chuẩn bị chiến đấu, đồng thời lệnh cho HQ 16 ra ngay Song Tử Tây, dùng vận tốc tối đa, nhanh chóng bắt liên lạc với HQ 402.
    Ngày 16 tháng 4, các tàu từ Cam Ranh trở vào phải yểm hộ cho Phan Rang, trong lúc ba khu trục Mỹ sẵn sàng ở Đông Phan Thiết.
    Ngày 17 tháng 4, HQ 402 báo cáo xác minh là Song Tử Tây đã bị chiếm. Hải quân đang tìm cách đổ bộ để lấy lại nhưng không được vì lực lượng ít, lên thì rất nguy hiểm, nên đã rút về Nam Yết lúc 20 giờ?.
    Cũng theo nhật ký này ghi lại, suốt cả mấy ngày sau đó, tình hình trên đảo Nam Yết rất căng thẳng. Vài ba chiếc tàu lạ thả xuống tiếp cận. Địch trên đảo phải bắn suốt cả đêm, tàu lạ mới chịu lùi ra xa.
    Ngày 24 tháng 4, họ nhận định: ?oVới sự xuất hiện nhiều tàu lạ trong khu vực Nam Yết-Sơn Ca, tàu HQ 17 yêu cầu xét đến việc rút khỏi các đảo này, vì không có khả năng đương đầu với những cuộc tiến công lớn sắp đến. Hạm trưởng ốm suốt mấy ngày liền, không ăn uống gì được, kỹ thuật kém, rada của HQ 14 hỏng, nếu không cho rút, có thể mất cả người lẫn tàu. Nếu quyết định giữ Nam Yết thì cần ba tuần dương hạm có đủ tiếp tế, đủ bác sĩ có khả năng giải phẫu và có đủ máy bay yểm trợ cho tàu?.
    Có được một bàn đạp vững chắc như Song Tử Tây, ngày 21 tháng 4, ta phát động tiến công đợt hai, giải phóng toàn bộ số đảo còn lại. Một tuần sau nhiệm vụ này mới hoàn thành.
    ------------------------
    Những bác nhắn em lấy Xuân giải phóng thì em đã gửi xong rùi! Bác nào đã chưa nhận được thì báo em để em gửi lại!
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các bác đừng nóng, làm tạm ly bia hạ nhiệt đã
    Chương 21: Chập chờn
    Những dải rừng nhiệt đới ở cuối dãy Trường Sơn trải rộng về phía nam, nối liền với những khu rừng cao su bạt ngàn, kéo dài đến sát bờ sông Đồng Nai. Địa hình trên phía tây và nam thành phố thì khác hẳn. Loại trừ khu Vĩnh Lộc hơi cao ráo một chút, còn lại là sông rạch, bưng sình. ?oHòn ngọc Viễn Đông? được những con sông lớn viền lấy bốn chung quanh, như những vòng hào quanh đem lại cho thành phố bầu không khí trong lành mát mẻ, dòng nước ngọt tưới khắp nơi làm cho vành đai ven đô thêm mầu mỡ, bốn màu cây xanh tươi, nặng trĩu hoa thơm quả ngọt nổi tiếng khắp cả nước, với măng cụt ở Lái Thiêu, với bưởi Biên Hoà?
    Cái tên ?ohòn ngọc Viên Đông? đã có từ thời thực dân Pháp, chỉ nói lên được sự hấp dẫn của một thành phố vừa đẹp, vừa giầu. Với những người Việt Nam chúng ta, cái tên ấy rõ ràng là chưa đủ. Tuy Sài Gòn-Gia Định, không có lịch sử gần 1000 năm như Hà Nội, với những tên làm rạo rực lòng người như Thăng Long, Đông Đô, nhưng bước vào thế kỷ 20, không ai còn lạ gì với bến Nhà Rồng, nơi Bác cất chân ra đi tìm cách mạng, mười tám thôn Vườn Trầu, Bà Điểm, Bàn Cơ. Những dòng máu của các bậc cha anh tưới trên mảnh đất này đã viết lên những trang sử vẻ vang trong cuộc đấu tranh một mất một còn với chủ nghĩa thực dân cũ. Có lẽ vì thế, mà người Việt Nam chúng ta đã dành riêng cho thành phố này cái vinh dự được mang tên đẹp nhất: thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc trên toàn đất nước Việt Nam, núi rừng đang chuyển động, cả dân tộc hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, nhất tề xông lên, dốc toàn lực cho trận quyết chiến cuối cùng với khí thế triều dâng thác đổ, thì ở Sài Gòn-Gia Định, đối phương, một mặt gấp rút co về phòng thủ theo kế hoạch mới nhất, mặt khác, lo tháo gỡ ngòi nổ chỗ này, luồn luỵ nơi khác, hòng cứ vãn tình hình.
    Sau những thất bại liên tiếp ở quân khu 1 và 2 và gần đấy nhất, sau các trận Xuân Lộc, Tân An, lực lượng trong khu vực Sài Gòn-Gia Định còn lại cũng khá đông: hơn 15 vạn quân chủ lực, hơn 9 vạn quân địa phương, trên nửa triệu dân vệ, biên chế thành 6 sư đoàn và 5 trung đoàn chủ lực bằng 80 tiểu đoàn, 40 đại đội và gần 1.000 trung đội dân vệ, trên 400 khẩu pháo, 600 xe tăng, 800 máy bay và ngót 1.000 tàu chiến. Lực lượng cảnh sát ác ôn ở các nơi chạy về còn trên 10 vạn. Đấy là chưa tính đến trên 17 vạn chủ lực và địa phương, một số khá nhiều binh quân chủng ở vùng 4, tuy có bị đánh, nhưng chưa bị sứt mẻ nhiều, và còn có khả năng đôn quân bắt lính.
    Vì vậy, cho đến trung tuần tháng 4 năm 1975, trong số chóp bu của nguỵ quyền Sài Gòn, trong toà đại sứ Mỹ, còn có nhiều kẻ đinh ninh rằng chế độ còn có thể ngoắc ngoải kéo dài đến mùa mưa, và lối thoát cuối cùng hầm sẽ là một cái bàn tròn có phủ thảm xanh.
    Để thực hiện ý đồ chiến lược này, tiếp đến việc phân chia lại giới tuyến chiến đấu như đã nói trên, kế hoạch phòng thủ được điều chỉnh lại như sau:
    Sư đoàn 18 co về phụ trách Bầu Cá, Trảng Bom, Suối Đỉa.
    Sư đoàn thuỷ quân lục chiến về Long Bình; lữ 3 kỵ binh làm dự bị đứng ở Gò Vấp, Lái Thiêu.
    Sư đoàn 25 và mấy trung đoàn vẫn còn nằm chết cứng ở Tây Ninh.
    Sát ven đô, do một lữ đoàn dù, sư đoàn biệt động quân mới thành lập và lực lượng tại chỗ trấn giữ, tổ chức thành 4 khu vực phòng thủ:
    Khu bắc bao gồm Hóc Môn-Cầu Bông trở vào Tân Sơn Nhất thì do tiểu đoàn 9 biệt động quân và trung tâm huấn luyện Quang Trung phụ trách.
    Khu tây gồm Vĩnh Lộc, Châu Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh trở vào do hai liên đoàn biệt động quân số 7, số 8 và liên đoàn bảo an 239 phụ trách.
    Khu dông Gò Vấp-quận 9 thì do lữ đoàn 4 dù và liên đoàn 951 bảo an phụ trách.
    Khu nam gồm Nhà Bè, Nhơn Trạch thì giao cho lực lượng bảo an.
    Nội đô tổ chứ thành 5 liên khu, mỗi liên khu có 2 quận: 1 và 3, 2 và 4, 6 và 7, 10 và 11, tất cả đều do lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự đảm nhiệm. Đây là lực lượng chính để chống xâm nhập và nổi dậy. Những nơi quan trọng vẫn giữ hình thức yếu khu như Nhà Bè, Tân Sơn Nhất, Bình Phước, Bộ Tổng tham mưu, Cát Lái. Riêng dinh tổng thống coi như một cứ điểm độc lập, có một bộ phận liên đoàn an ninh thủ đô phụ trách, được tăng cường thêm 1 lữ đoàn dù.
    Vẫn còn chưa được an tâm vì không còn một tên quân dự bị nào nữa, Thiệu quyết định thành lập thêm lực lượng tại chỗ: ở ngoại thành, tổ chức cấp tốc 8 đại đội địa phương cho các quận, còn bên trong mỗi khóm xây dựng 1 trung đội nghĩa quân, tổng số lên đến 300 trung đội.
    Âm mưu cơ bản của Thiệu là cố kéo dài cuộc chiến tranh trong vòng một tháng nữa thôi, nên có bao nhiêu vốn liếng trong tay đều dàn cả lên tuyến 1, dựa vào các cụm chốt của Mỹ để lại: Đồng Dù, Lai Khê, Biên Hoà, Long Bình. Đằng sau tấm lá chắn ấy, từ ngoại ô trở vào đến trung tâm thành phố thì giao cho lực lượng chống nổi loạn. Đời xưa có người đưa quân ra ngăn chặn địch, bố trí trận địa quay lưng về sông sâu. Lý lẽ là: đưa quân sĩ đứng trước cái chết để chúng tìm ra lẽ sống. Thì ra, cuối thế kỷ 20 này, mà Mỹ-Thiệu cũng đem ra vận dụng kinh nghiệm của thời xa xưa ấy. Những cụm chốt Mỹ rất cứng, rất mạnh, chung quanh Sài Gòn, đều xoay lưng về những con sông lớn. Nếu dùng để làm bàn đạp đi tiến công, đi tìm diệt, thì rất thuận lợi; nhưng để tử thủ cho Sài Gòn-Gia Định thì thật là trái khoáy; nhất là binh lính chốt giữ lại là những người sẵn đã mất tinh thần. Những chướng ngại vật thiên nhiên vô cùng quý giá cho công tác phòng thut lại chẳng kết hợp được tí gì với hoả lực và tác dụng của những chiếc cầu lớn trên sông, làm cho số lính bại trận rộng đường tháo chạy hơn là để phản kích, phản công. Có thể là lúc bấy giờ, thì không cho phép để nghiên cứu kỹ về mặc quân sự, nên cả thầy lẫn trò quên khuấy những nguyên tắc cơ bản của chiến đấu phòng ngự chăng?
    Quân sự thì thế, dường như người ta đổ xô vào mặt chính trị. Với toàn bộ vốn liếng còn lại, những tay đầu cơ chính trị lại được dịp thi thố tài năng. Người ta thấy xuất hiện ở Sài Gòn thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, nói là mới ở Pháp về. Đôn rêu rao là có gặp cả thủ tướng J.Sirac. Ông này cho Đôn biết là Bắc Việt đã chấp thuận giải pháp, và Đôn có thể thay Thiệu. Công việc phải giải quyết xong đâu đấy trong vòng 8 ngày thông qua vai trò trung gian của Pháp.
    Lịch sử quá trớ trêu: 20 năm về trước, Mỹ hất cẳng Pháp nhẹ nhàng và tàn nhẫn, thế mà gìơ đây, giữa lúc canh bạc đang tàn, người ta bỗng thấy quan hệ giữa hai vị đại sứ trở nên khăng khít lạ thường. Martin còn có sáng kiến cho phá hẳn bức tường ngắn cách hai sứ quán để hai bên qua lại dễ dàng. Hơn nữa để đỡ lộ bí mật, một đường dây điện thoại trực tiếp được nối liền hai phòng của hai vị đại sứ, càng tiện cho việc trao đổi với nhau về những vấn đề trọng đại giữa hai quốc gia.
    Những cuộc trao đổi ý kiến giữa hai vị đại sứ, dù có bưng bít đến đâu, cũng bị lọt ra ngoài và Thiệu đã đánh hơi biết được. Lập tức Thiệu ra lệnh đình chỉ ngay mọi sự tiếp xúc với đại sứ quán Pháp.
    Ngồi trong Nhà Trắng, Ford nói cứng. Ông ta cố xin cho được 722 triệu đô la viện trợ quân sự và 250 triệu đô la viện trợ kinh tế khẩn cấp. Theo ông ta, số tiền đó là cần thiết để Sài Gòn có cơ hội tự cứu, và tranh thủ thời gian cho giải pháp chính trị. So với Ford, Kissinger còn hăng hái hơn nhiều. Ngày 8 tháng 4, chính Kissinger lại một lần nữa đề nghị quốc hội đưa quân Mỹ sang để bảo vệ những người di tản; đồng thời tăng thêm viện trợ quân sự cho Thiệu. Được mớm lời, trong số đại biểu quốc hội đã có người lên tiếng đòi cho đổ bộ lên bờ biển Việt Nam vài sư đoàn để cứu các công dân Mỹ.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các bác đừng nóng, làm tạm ly bia hạ nhiệt đã
    Chương 21: Chập chờn
    Những dải rừng nhiệt đới ở cuối dãy Trường Sơn trải rộng về phía nam, nối liền với những khu rừng cao su bạt ngàn, kéo dài đến sát bờ sông Đồng Nai. Địa hình trên phía tây và nam thành phố thì khác hẳn. Loại trừ khu Vĩnh Lộc hơi cao ráo một chút, còn lại là sông rạch, bưng sình. ?oHòn ngọc Viễn Đông? được những con sông lớn viền lấy bốn chung quanh, như những vòng hào quanh đem lại cho thành phố bầu không khí trong lành mát mẻ, dòng nước ngọt tưới khắp nơi làm cho vành đai ven đô thêm mầu mỡ, bốn màu cây xanh tươi, nặng trĩu hoa thơm quả ngọt nổi tiếng khắp cả nước, với măng cụt ở Lái Thiêu, với bưởi Biên Hoà?
    Cái tên ?ohòn ngọc Viên Đông? đã có từ thời thực dân Pháp, chỉ nói lên được sự hấp dẫn của một thành phố vừa đẹp, vừa giầu. Với những người Việt Nam chúng ta, cái tên ấy rõ ràng là chưa đủ. Tuy Sài Gòn-Gia Định, không có lịch sử gần 1000 năm như Hà Nội, với những tên làm rạo rực lòng người như Thăng Long, Đông Đô, nhưng bước vào thế kỷ 20, không ai còn lạ gì với bến Nhà Rồng, nơi Bác cất chân ra đi tìm cách mạng, mười tám thôn Vườn Trầu, Bà Điểm, Bàn Cơ. Những dòng máu của các bậc cha anh tưới trên mảnh đất này đã viết lên những trang sử vẻ vang trong cuộc đấu tranh một mất một còn với chủ nghĩa thực dân cũ. Có lẽ vì thế, mà người Việt Nam chúng ta đã dành riêng cho thành phố này cái vinh dự được mang tên đẹp nhất: thành phố Hồ Chí Minh. Trong lúc trên toàn đất nước Việt Nam, núi rừng đang chuyển động, cả dân tộc hưởng ứng lời kêu gọi của Trung ương Đảng, nhất tề xông lên, dốc toàn lực cho trận quyết chiến cuối cùng với khí thế triều dâng thác đổ, thì ở Sài Gòn-Gia Định, đối phương, một mặt gấp rút co về phòng thủ theo kế hoạch mới nhất, mặt khác, lo tháo gỡ ngòi nổ chỗ này, luồn luỵ nơi khác, hòng cứ vãn tình hình.
    Sau những thất bại liên tiếp ở quân khu 1 và 2 và gần đấy nhất, sau các trận Xuân Lộc, Tân An, lực lượng trong khu vực Sài Gòn-Gia Định còn lại cũng khá đông: hơn 15 vạn quân chủ lực, hơn 9 vạn quân địa phương, trên nửa triệu dân vệ, biên chế thành 6 sư đoàn và 5 trung đoàn chủ lực bằng 80 tiểu đoàn, 40 đại đội và gần 1.000 trung đội dân vệ, trên 400 khẩu pháo, 600 xe tăng, 800 máy bay và ngót 1.000 tàu chiến. Lực lượng cảnh sát ác ôn ở các nơi chạy về còn trên 10 vạn. Đấy là chưa tính đến trên 17 vạn chủ lực và địa phương, một số khá nhiều binh quân chủng ở vùng 4, tuy có bị đánh, nhưng chưa bị sứt mẻ nhiều, và còn có khả năng đôn quân bắt lính.
    Vì vậy, cho đến trung tuần tháng 4 năm 1975, trong số chóp bu của nguỵ quyền Sài Gòn, trong toà đại sứ Mỹ, còn có nhiều kẻ đinh ninh rằng chế độ còn có thể ngoắc ngoải kéo dài đến mùa mưa, và lối thoát cuối cùng hầm sẽ là một cái bàn tròn có phủ thảm xanh.
    Để thực hiện ý đồ chiến lược này, tiếp đến việc phân chia lại giới tuyến chiến đấu như đã nói trên, kế hoạch phòng thủ được điều chỉnh lại như sau:
    Sư đoàn 18 co về phụ trách Bầu Cá, Trảng Bom, Suối Đỉa.
    Sư đoàn thuỷ quân lục chiến về Long Bình; lữ 3 kỵ binh làm dự bị đứng ở Gò Vấp, Lái Thiêu.
    Sư đoàn 25 và mấy trung đoàn vẫn còn nằm chết cứng ở Tây Ninh.
    Sát ven đô, do một lữ đoàn dù, sư đoàn biệt động quân mới thành lập và lực lượng tại chỗ trấn giữ, tổ chức thành 4 khu vực phòng thủ:
    Khu bắc bao gồm Hóc Môn-Cầu Bông trở vào Tân Sơn Nhất thì do tiểu đoàn 9 biệt động quân và trung tâm huấn luyện Quang Trung phụ trách.
    Khu tây gồm Vĩnh Lộc, Châu Hiệp, Bà Hom, Bình Chánh trở vào do hai liên đoàn biệt động quân số 7, số 8 và liên đoàn bảo an 239 phụ trách.
    Khu dông Gò Vấp-quận 9 thì do lữ đoàn 4 dù và liên đoàn 951 bảo an phụ trách.
    Khu nam gồm Nhà Bè, Nhơn Trạch thì giao cho lực lượng bảo an.
    Nội đô tổ chứ thành 5 liên khu, mỗi liên khu có 2 quận: 1 và 3, 2 và 4, 6 và 7, 10 và 11, tất cả đều do lực lượng cảnh sát, phòng vệ dân sự đảm nhiệm. Đây là lực lượng chính để chống xâm nhập và nổi dậy. Những nơi quan trọng vẫn giữ hình thức yếu khu như Nhà Bè, Tân Sơn Nhất, Bình Phước, Bộ Tổng tham mưu, Cát Lái. Riêng dinh tổng thống coi như một cứ điểm độc lập, có một bộ phận liên đoàn an ninh thủ đô phụ trách, được tăng cường thêm 1 lữ đoàn dù.
    Vẫn còn chưa được an tâm vì không còn một tên quân dự bị nào nữa, Thiệu quyết định thành lập thêm lực lượng tại chỗ: ở ngoại thành, tổ chức cấp tốc 8 đại đội địa phương cho các quận, còn bên trong mỗi khóm xây dựng 1 trung đội nghĩa quân, tổng số lên đến 300 trung đội.
    Âm mưu cơ bản của Thiệu là cố kéo dài cuộc chiến tranh trong vòng một tháng nữa thôi, nên có bao nhiêu vốn liếng trong tay đều dàn cả lên tuyến 1, dựa vào các cụm chốt của Mỹ để lại: Đồng Dù, Lai Khê, Biên Hoà, Long Bình. Đằng sau tấm lá chắn ấy, từ ngoại ô trở vào đến trung tâm thành phố thì giao cho lực lượng chống nổi loạn. Đời xưa có người đưa quân ra ngăn chặn địch, bố trí trận địa quay lưng về sông sâu. Lý lẽ là: đưa quân sĩ đứng trước cái chết để chúng tìm ra lẽ sống. Thì ra, cuối thế kỷ 20 này, mà Mỹ-Thiệu cũng đem ra vận dụng kinh nghiệm của thời xa xưa ấy. Những cụm chốt Mỹ rất cứng, rất mạnh, chung quanh Sài Gòn, đều xoay lưng về những con sông lớn. Nếu dùng để làm bàn đạp đi tiến công, đi tìm diệt, thì rất thuận lợi; nhưng để tử thủ cho Sài Gòn-Gia Định thì thật là trái khoáy; nhất là binh lính chốt giữ lại là những người sẵn đã mất tinh thần. Những chướng ngại vật thiên nhiên vô cùng quý giá cho công tác phòng thut lại chẳng kết hợp được tí gì với hoả lực và tác dụng của những chiếc cầu lớn trên sông, làm cho số lính bại trận rộng đường tháo chạy hơn là để phản kích, phản công. Có thể là lúc bấy giờ, thì không cho phép để nghiên cứu kỹ về mặc quân sự, nên cả thầy lẫn trò quên khuấy những nguyên tắc cơ bản của chiến đấu phòng ngự chăng?
    Quân sự thì thế, dường như người ta đổ xô vào mặt chính trị. Với toàn bộ vốn liếng còn lại, những tay đầu cơ chính trị lại được dịp thi thố tài năng. Người ta thấy xuất hiện ở Sài Gòn thượng nghị sĩ Trần Văn Đôn, nói là mới ở Pháp về. Đôn rêu rao là có gặp cả thủ tướng J.Sirac. Ông này cho Đôn biết là Bắc Việt đã chấp thuận giải pháp, và Đôn có thể thay Thiệu. Công việc phải giải quyết xong đâu đấy trong vòng 8 ngày thông qua vai trò trung gian của Pháp.
    Lịch sử quá trớ trêu: 20 năm về trước, Mỹ hất cẳng Pháp nhẹ nhàng và tàn nhẫn, thế mà gìơ đây, giữa lúc canh bạc đang tàn, người ta bỗng thấy quan hệ giữa hai vị đại sứ trở nên khăng khít lạ thường. Martin còn có sáng kiến cho phá hẳn bức tường ngắn cách hai sứ quán để hai bên qua lại dễ dàng. Hơn nữa để đỡ lộ bí mật, một đường dây điện thoại trực tiếp được nối liền hai phòng của hai vị đại sứ, càng tiện cho việc trao đổi với nhau về những vấn đề trọng đại giữa hai quốc gia.
    Những cuộc trao đổi ý kiến giữa hai vị đại sứ, dù có bưng bít đến đâu, cũng bị lọt ra ngoài và Thiệu đã đánh hơi biết được. Lập tức Thiệu ra lệnh đình chỉ ngay mọi sự tiếp xúc với đại sứ quán Pháp.
    Ngồi trong Nhà Trắng, Ford nói cứng. Ông ta cố xin cho được 722 triệu đô la viện trợ quân sự và 250 triệu đô la viện trợ kinh tế khẩn cấp. Theo ông ta, số tiền đó là cần thiết để Sài Gòn có cơ hội tự cứu, và tranh thủ thời gian cho giải pháp chính trị. So với Ford, Kissinger còn hăng hái hơn nhiều. Ngày 8 tháng 4, chính Kissinger lại một lần nữa đề nghị quốc hội đưa quân Mỹ sang để bảo vệ những người di tản; đồng thời tăng thêm viện trợ quân sự cho Thiệu. Được mớm lời, trong số đại biểu quốc hội đã có người lên tiếng đòi cho đổ bộ lên bờ biển Việt Nam vài sư đoàn để cứu các công dân Mỹ.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cho đến giờ phút này, Kissinger còn lớn tiếng kêu gào với quốc hội Mỹ: ?oTôi nghĩ rằng người Việt Nam có thể th được các điều khoản của Hiệp định Paris quy định, có một hội đồng hoà giải, hoà hợp dân tộc?. Way End thì khẳng định: Nếu không có viện trợ thì Nam Việt Nam sẽ sụp đổ trong vòng một tháng. Cần phải có một vài thay đổi chính phủ, mở rộng ra nội các, cho một số phần tử ôn hoà vào.
    Chỉ có một số người thật sự miễn dịch với tình hình: Đó là quốc hội Mỹ. Họ bỏ qua những lời kêu gào của Ford, Kissinger, Martin. Như trong nhiều vấn đề khác, Ford chỉ biết có tiền và sức mạnh, ông ta khăng khăng đòi quốc hội khẳng định lại cho ông ta quyền dùng lực lượng quân sự, trong trường hợp có cuộc di tản đại quy mô. Ford nói: ?oNếu có chuyện gì hết sức tệ hải xảy ra, thì sự rộng lượng này, ít ra cũng cho phép tiến hành một cuộc di tản có trật tự những người Mỹ và những người Việt Nam lâm nguy, mà con số này đông có tới hàng vạn người?. Kissinger không hoàn toàn như vậy. Ông ta cho là việc rút người Mỹ ra khỏi Việt Nam là không cần thiết, mà còn làm yếu thêm cho thế đứng của Thiệu. Kissinger nói: ?oChớ có làm một việc gì để cho thế giới thấy rằng Mỹ không ủng hộ Thiệu?. Martin thì già trái mà non hạt, bề ngoài làm ra vẻ ít quan tâm đến vấn đề này trong lúc những người Mỹ xung quanh lo sốt vó. Kinh nghiệm khá chua xót gần đây nhất, ở Plây Cu, Đà Nẵng, Nha Trang là sau khi người Mỹ vừa rút đến đâu, thì ở đấy, các cấp chính quyền cũng theo chân thầy, sụp đổ ngay. Thậm chí cũng đã có kẻ xấu bụng còn cho rằng, những người Mỹ yếu bóng vía kia, chính là những kẻ đầu têu cho việc tháo chạy. Nếu ở Sài Gòn, vạn nhất có vấn đề như vậy xảy ra thì còn biết chạy vào đâu? Cho nên, Martin thấy cần phải tỏ rõ cho mọi người biết là Mỹ quyết tâm giữ Sài Gòn, giữ Thiệu đến cùng. Ai lại đại sứ vừa mới chân ướt chân ráo sang đây, mà bắt phải xông vào giải quyết cái vấn đề di tản hóc búa này, thì có khác gì tát vào mặt ông ta; hóa ra sang đây lần này, là để lo chuyện trốn sao? Lại còn một khía cạnh nữa, Martin cũng đã có nghĩ đến nhưng chưa dám hé răng: sự cứng nhắc của quốc hội, có thể làm cho nhiều người Việt Nam thất vọng, sự phản bội của người Mỹ sẽ làm cho họ tức giận, và biết đâu, chính những người mà Mỹ đã bỏ công, bỏ của ra nuôi dưỡng, dạy dỗ bấy lâu nay, lại không quay ngoắt một trăm tám mươi độ, lấy bạn làm thù, lấy sinh mệnh của hàng vạn người Mỹ hiện còn đang sống trên phần còn lại trên đất nước Việt Nam này để làm con tin, hoặc chí ít lấy sinh mạng của họ để đánh đổi mấy trăm triệu đô la viện trợ? Martin còn lạ gì bản chất của những người như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, đầy rẫy trong chính quyền Thiệu? Lý lẽ, nghìa tình gì nữa, trong giờ phút nước sôi lửa bỏng này?
    Trong lúc đại sứ vẻ bề ngoài cố thản nhiên như không thì cả hai cơ quan tình báo trung ương mỹ CIA và DIA tìm đủ mọi cách để đưa người ra đi. Họ ít quan tâm đến việc Thiệu đổ hay còn, vì qua tin tức nắm trong tay, họ thừa biết rằng giờ cáo chung của Thiệu đã điểm-mà tập trung vào việc tính toán đến con đường làm ăn lâu dài sau này, trên một đất nước Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng và thống nhất. Từ ngày 2 tháng 4, Washington đã tổ chức một chiến dịch di tản: 2.000 trẻ em tỵ nạn được tung ra khắp thế giới để tranh thủ cảm tình, kích động dư luận. Cũng không ai buồn tra khảo, lật tẩy cái trò lừa bịp này làm gì. Chủ trương này rất phù hợp với chủ trương của DAO. Đây là một dịp để họ đưa bớt người đi khỏi Sài Gòn một cách hợp pháp, tất nhiên là qua mặt Martin. Nửa giờ sau khi có thông báo, các bà vợ, nhân viên và thư ký của DAO lên đường, gọi là đi phục vụ cho những đứa trẻ đầu tiên được hưởng ân huệ của Hoa Kỳ. Chiếc máy bay C5A-Galaxi của không quân Mỹ, loại máy bay vận tải lớn nhất thế giưới, mấy ngày gần đây, chuyên dùng để chở dịch vụ chiến tranh đến Sài Gòn, trên đường trở về Philippin mang theo 250 ?oem tỵ nạn? và 44 nhân viên. Sau khi rời khỏi Sài Gòn 30 phút, chiếc đèn đỏ bên cạnh bảng điều khiển nhấp nháy, báo hiệu có trục trặc về kỹ thuật, xin quay trở lại Tân Sơn Nhất. Lúc sắp hạ cánh, một tiếng nổ làm rung chuyển máy bay, phần bụng tung mất, tạo ra một áp suất thấp trong khoang hành khách. Cánh cửa bật mở, người bắn ra ngoài. Máy bay trượt ra khỏi đường băng. ?oToán trẻ em giống như những mảng giẻ rách nhũn trong tay chúng tôi? một nhân viên y tế cấp cứu kể lại như thế đấy.
    Để được nhẹ tội, dồn trách nhiệm lên đầu người khác, ông đại sứ làm ra vẻ giận dữ và tuyên bố vuốt đuôi một câu ?otrách nhiệm thuộc về cơ quan DAO. Họ đã bí mật tổ chức cuộc di tản này, không hề báo cáo cho tôi biết. Nếu được báo cáo đầy đủ, chắc chắn là số gần 300 sinh mệnh kia đã được cứu sống rồi?.
    Có phải đâu vì lòng nhân đạo, để tránh những cuộc tắm máu tưởng tượng mà Mỹ bày ra trò di tản này. Gần 300 em bé mồ côi kia đã làm gì nên tội mà phải chịu cảnh tắm máu, trả thù? Thực ra, đây chỉ là những em bé đáng thương ở các trại mồ côi, còn các nhân viên phục vụ thì chẳng ai khác là vợ con, nhân tình, nhân ngãi của những người Mỹ trong cơ quan DAO mà thôi.
    Không biết từ đâu ra, Trần Văn Đôn lại còn đưa ra những tin tức làm cho Martin càng thêm do dự, ngập ngừng:
    ?oCộng sản sẽ không can thiệp vào việc di tản người Việt Nam được lựa chọn và Mỹ có thể duy trì một sứ quan nhỏ ở Sài Gòn, nghĩa là những người Mỹ chính thức phải rút lui?.
    Dù điều đó có thật đi chăng nữa, thì ai cũng hiểu một cách nôm na là ?onguỵ phải nhào, Mỹ phải cút?. Nhưng đại sứ Martin thì cố tìm hiểu ra một cách khác. Ông ta tập trung các chuyên gia để nghiên cứu các ý định của Chính phủ cách mạng lâm thời khi nói đến những người Mỹ chính thức. Những người ấy là ai? Có phải là những người muốn lưu lại trên đất này trong cái toà đại sứ đồ sộ kia với một nhóm CIA, và gọi đó là dân thường, không hề có dính dấp gì đến cuộc chiến tranh bẩn thỉu này ư? Kissinger lại phái người đi thăm dò hoà bình nhưng chẳng đem lại kết quả gì. Gạo đã thành cơm rồi.
    Ngày 16 tháng 4, được hiểu rõ thêm một chi tiết: các lực lượng giải phóng sẽ bảo đảm việc rút lui an toàn và tức khắc các cố vấn Mỹ. Chính phủ cách mạng còn tuyên bố với các phóng viên New York thời báo: ?oSẽ không cản trở nếu Mỹ rút hai vạn rưởi cố vấn quân sự ở Sài Gòn?. Chẳng cần phải hỏi lại cho lôi thôi, nhất định là Martin phải có trong số người này rồi.
    Số phận người Mỹ như thế là đã quá rõ, còn đối với những người Việt thì sao? Trong kế hoạch chính thức chọn người di tản, người Mỹ có đề ra các thỉ tiêu cụ thể, theo tứ tự ưu tiên, và có tính toán rất kỹ càng.
    Trước tiên là những nhân viên làm việc cho Mỹ, với mục đích là giữ bí mật cho Mỹ, để bịt các đầu mối sau này. Tiếp đến là chất xám những nhân viên kỹ thuật của các ngành không quân, hải quân, điện tử, bác sĩ, kỹ sư các ngành. Đứng vào hàng thứ ba là các tổng, bộ trưởng đã từng cộng tác với Mỹ, và đã cầm trong tay một số tài nguyên ?otiền bạc, châu báu?, gửi ở các ngân hàng ngoại quốc rồi. Để Mỹ nắm được toàn bộ của cải nói trên, những người chủ của nó bắt buộc phải nhập quốc tịch Mỹ. Cuối cùng là các chuyên gia giàu có, lắm vàng, lắm đô la.
    Lý do nhân đạo, bảo vệ nhân quyền, không giấu nổi dã tâm của những người thực dụng. Những chỉ tiêu lựa chọn nói trên càng phơi bày bản chất thực dân. Lẽ ra thì những người đáng di tản nhất là những nạn nhân của cuộc chiến tranh bẩn thỉu mà Mỹ đã gây ra, những người mang tật nguyền suốt đời vì chất độc da cam, những thương phế binh, những vợ góa, con côi, những đứa bé mang trong người nửa phần máu Mỹ, những người mà Mỹ cầm chắc rằng suốt đời sống này sẽ rất chật vật, bấp bênh, do chính Mỹ gây ra.
    Những ai đã nắm được những bí mật trong các vấn đề kỹ thuật của Mỹ, chưa hẳn đã được trọng dụng, xem như là của quý của Hoa Kỳ. Câu chuyện sau đây xảy ra ở Cần Thơ, sẽ giúp chúng ta càng hiểu rõ thêm người Mỹ hơn.
    Tuỳ viên quân sự Mỹ Xoen Xơn và phụ tá của ông ta là Mít-sen đã nhiều lần bí mật bay đến sân bay Bình Thuỷ để họp với chỉ huy trưởng sư đoàn 4 không quân. Nội dung các cuộc họp đều hết sức giữ bí mật. Chính Nguyễn Văn Thiệu cũng không biết, mà Nguyễn Khoa Nam ở ngay đấy cũng không hay. Bọn này vạch ra một kế hoạch di tản máy bay như sau:
    -A37 sẽ bay từ Bình Thuỷ đi Utapao, nhờ có đủ xăng dầu bay được xa.
    -L.19 sẽ bay từ Bình Thuỷ-An Thới-Utapao
    -Trực trăng: Bình Thuỷ-Utapao
    An Thới là một sân bay nhỏ trên đảo Phú Quốc, sẽ có một đơn vị thuỷ quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên chiếm trước nơi này, để bảo đảm cho phi cơ hạ cánh, tiếp tế xăng dầu.
    Biết được có một số tướng tá không quân nguỵ thắc mắc, vì đã trót đưa gia đình từ Cần Thơ về Sài Gòn để đi Guam từ mấy hôm trước, Mít-sen hỏi Xoen Xơn:
    -Đối với những người này, sau khi đến An Thới, nếu không được đi Guam để gặp gia đình, họ sẽ nổi loạn.
    -Việc gặp lại vợ con hay không, sẽ không còn là thẩm quyền của họ nữa. Trường hợp đến An Thới mà nổi loạn thì sẽ cho trực thăng bao vây, bắn phá, không cho cuộc nổi liạn lan rộng ra ngoài, rồi dùng A37 ném bom phá huỷ tất cả mọi dấu vết.
    Trong các trận Bầu bàng, Bông Trang, Nhà Đỏ trước đây, sau khi bộ binh Mỹ tháo chạy, để lại chiến trường nhiều thương binh, tử sĩ. Cách xử tri của Mỹ cũng gần như thế đấy: dùng máy bay bắn phá, rải xăng đối cháy sạch, rồi dùng máy bay lấp ủi tất cả mọi dấu vết.
    Nhanh, gọn hết chỗ nói! Nhưng rất vô nhân đạo.

Chia sẻ trang này