1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiến tới kỉ niệm 31 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước-Đại thắng mùa xuân 1975

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi forza_vn, 18/11/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cho đến giờ phút này, Kissinger còn lớn tiếng kêu gào với quốc hội Mỹ: ?oTôi nghĩ rằng người Việt Nam có thể th được các điều khoản của Hiệp định Paris quy định, có một hội đồng hoà giải, hoà hợp dân tộc?. Way End thì khẳng định: Nếu không có viện trợ thì Nam Việt Nam sẽ sụp đổ trong vòng một tháng. Cần phải có một vài thay đổi chính phủ, mở rộng ra nội các, cho một số phần tử ôn hoà vào.
    Chỉ có một số người thật sự miễn dịch với tình hình: Đó là quốc hội Mỹ. Họ bỏ qua những lời kêu gào của Ford, Kissinger, Martin. Như trong nhiều vấn đề khác, Ford chỉ biết có tiền và sức mạnh, ông ta khăng khăng đòi quốc hội khẳng định lại cho ông ta quyền dùng lực lượng quân sự, trong trường hợp có cuộc di tản đại quy mô. Ford nói: ?oNếu có chuyện gì hết sức tệ hải xảy ra, thì sự rộng lượng này, ít ra cũng cho phép tiến hành một cuộc di tản có trật tự những người Mỹ và những người Việt Nam lâm nguy, mà con số này đông có tới hàng vạn người?. Kissinger không hoàn toàn như vậy. Ông ta cho là việc rút người Mỹ ra khỏi Việt Nam là không cần thiết, mà còn làm yếu thêm cho thế đứng của Thiệu. Kissinger nói: ?oChớ có làm một việc gì để cho thế giới thấy rằng Mỹ không ủng hộ Thiệu?. Martin thì già trái mà non hạt, bề ngoài làm ra vẻ ít quan tâm đến vấn đề này trong lúc những người Mỹ xung quanh lo sốt vó. Kinh nghiệm khá chua xót gần đây nhất, ở Plây Cu, Đà Nẵng, Nha Trang là sau khi người Mỹ vừa rút đến đâu, thì ở đấy, các cấp chính quyền cũng theo chân thầy, sụp đổ ngay. Thậm chí cũng đã có kẻ xấu bụng còn cho rằng, những người Mỹ yếu bóng vía kia, chính là những kẻ đầu têu cho việc tháo chạy. Nếu ở Sài Gòn, vạn nhất có vấn đề như vậy xảy ra thì còn biết chạy vào đâu? Cho nên, Martin thấy cần phải tỏ rõ cho mọi người biết là Mỹ quyết tâm giữ Sài Gòn, giữ Thiệu đến cùng. Ai lại đại sứ vừa mới chân ướt chân ráo sang đây, mà bắt phải xông vào giải quyết cái vấn đề di tản hóc búa này, thì có khác gì tát vào mặt ông ta; hóa ra sang đây lần này, là để lo chuyện trốn sao? Lại còn một khía cạnh nữa, Martin cũng đã có nghĩ đến nhưng chưa dám hé răng: sự cứng nhắc của quốc hội, có thể làm cho nhiều người Việt Nam thất vọng, sự phản bội của người Mỹ sẽ làm cho họ tức giận, và biết đâu, chính những người mà Mỹ đã bỏ công, bỏ của ra nuôi dưỡng, dạy dỗ bấy lâu nay, lại không quay ngoắt một trăm tám mươi độ, lấy bạn làm thù, lấy sinh mệnh của hàng vạn người Mỹ hiện còn đang sống trên phần còn lại trên đất nước Việt Nam này để làm con tin, hoặc chí ít lấy sinh mạng của họ để đánh đổi mấy trăm triệu đô la viện trợ? Martin còn lạ gì bản chất của những người như Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, đầy rẫy trong chính quyền Thiệu? Lý lẽ, nghìa tình gì nữa, trong giờ phút nước sôi lửa bỏng này?
    Trong lúc đại sứ vẻ bề ngoài cố thản nhiên như không thì cả hai cơ quan tình báo trung ương mỹ CIA và DIA tìm đủ mọi cách để đưa người ra đi. Họ ít quan tâm đến việc Thiệu đổ hay còn, vì qua tin tức nắm trong tay, họ thừa biết rằng giờ cáo chung của Thiệu đã điểm-mà tập trung vào việc tính toán đến con đường làm ăn lâu dài sau này, trên một đất nước Việt Nam đã hoàn toàn được giải phóng và thống nhất. Từ ngày 2 tháng 4, Washington đã tổ chức một chiến dịch di tản: 2.000 trẻ em tỵ nạn được tung ra khắp thế giới để tranh thủ cảm tình, kích động dư luận. Cũng không ai buồn tra khảo, lật tẩy cái trò lừa bịp này làm gì. Chủ trương này rất phù hợp với chủ trương của DAO. Đây là một dịp để họ đưa bớt người đi khỏi Sài Gòn một cách hợp pháp, tất nhiên là qua mặt Martin. Nửa giờ sau khi có thông báo, các bà vợ, nhân viên và thư ký của DAO lên đường, gọi là đi phục vụ cho những đứa trẻ đầu tiên được hưởng ân huệ của Hoa Kỳ. Chiếc máy bay C5A-Galaxi của không quân Mỹ, loại máy bay vận tải lớn nhất thế giưới, mấy ngày gần đây, chuyên dùng để chở dịch vụ chiến tranh đến Sài Gòn, trên đường trở về Philippin mang theo 250 ?oem tỵ nạn? và 44 nhân viên. Sau khi rời khỏi Sài Gòn 30 phút, chiếc đèn đỏ bên cạnh bảng điều khiển nhấp nháy, báo hiệu có trục trặc về kỹ thuật, xin quay trở lại Tân Sơn Nhất. Lúc sắp hạ cánh, một tiếng nổ làm rung chuyển máy bay, phần bụng tung mất, tạo ra một áp suất thấp trong khoang hành khách. Cánh cửa bật mở, người bắn ra ngoài. Máy bay trượt ra khỏi đường băng. ?oToán trẻ em giống như những mảng giẻ rách nhũn trong tay chúng tôi? một nhân viên y tế cấp cứu kể lại như thế đấy.
    Để được nhẹ tội, dồn trách nhiệm lên đầu người khác, ông đại sứ làm ra vẻ giận dữ và tuyên bố vuốt đuôi một câu ?otrách nhiệm thuộc về cơ quan DAO. Họ đã bí mật tổ chức cuộc di tản này, không hề báo cáo cho tôi biết. Nếu được báo cáo đầy đủ, chắc chắn là số gần 300 sinh mệnh kia đã được cứu sống rồi?.
    Có phải đâu vì lòng nhân đạo, để tránh những cuộc tắm máu tưởng tượng mà Mỹ bày ra trò di tản này. Gần 300 em bé mồ côi kia đã làm gì nên tội mà phải chịu cảnh tắm máu, trả thù? Thực ra, đây chỉ là những em bé đáng thương ở các trại mồ côi, còn các nhân viên phục vụ thì chẳng ai khác là vợ con, nhân tình, nhân ngãi của những người Mỹ trong cơ quan DAO mà thôi.
    Không biết từ đâu ra, Trần Văn Đôn lại còn đưa ra những tin tức làm cho Martin càng thêm do dự, ngập ngừng:
    ?oCộng sản sẽ không can thiệp vào việc di tản người Việt Nam được lựa chọn và Mỹ có thể duy trì một sứ quan nhỏ ở Sài Gòn, nghĩa là những người Mỹ chính thức phải rút lui?.
    Dù điều đó có thật đi chăng nữa, thì ai cũng hiểu một cách nôm na là ?onguỵ phải nhào, Mỹ phải cút?. Nhưng đại sứ Martin thì cố tìm hiểu ra một cách khác. Ông ta tập trung các chuyên gia để nghiên cứu các ý định của Chính phủ cách mạng lâm thời khi nói đến những người Mỹ chính thức. Những người ấy là ai? Có phải là những người muốn lưu lại trên đất này trong cái toà đại sứ đồ sộ kia với một nhóm CIA, và gọi đó là dân thường, không hề có dính dấp gì đến cuộc chiến tranh bẩn thỉu này ư? Kissinger lại phái người đi thăm dò hoà bình nhưng chẳng đem lại kết quả gì. Gạo đã thành cơm rồi.
    Ngày 16 tháng 4, được hiểu rõ thêm một chi tiết: các lực lượng giải phóng sẽ bảo đảm việc rút lui an toàn và tức khắc các cố vấn Mỹ. Chính phủ cách mạng còn tuyên bố với các phóng viên New York thời báo: ?oSẽ không cản trở nếu Mỹ rút hai vạn rưởi cố vấn quân sự ở Sài Gòn?. Chẳng cần phải hỏi lại cho lôi thôi, nhất định là Martin phải có trong số người này rồi.
    Số phận người Mỹ như thế là đã quá rõ, còn đối với những người Việt thì sao? Trong kế hoạch chính thức chọn người di tản, người Mỹ có đề ra các thỉ tiêu cụ thể, theo tứ tự ưu tiên, và có tính toán rất kỹ càng.
    Trước tiên là những nhân viên làm việc cho Mỹ, với mục đích là giữ bí mật cho Mỹ, để bịt các đầu mối sau này. Tiếp đến là chất xám những nhân viên kỹ thuật của các ngành không quân, hải quân, điện tử, bác sĩ, kỹ sư các ngành. Đứng vào hàng thứ ba là các tổng, bộ trưởng đã từng cộng tác với Mỹ, và đã cầm trong tay một số tài nguyên ?otiền bạc, châu báu?, gửi ở các ngân hàng ngoại quốc rồi. Để Mỹ nắm được toàn bộ của cải nói trên, những người chủ của nó bắt buộc phải nhập quốc tịch Mỹ. Cuối cùng là các chuyên gia giàu có, lắm vàng, lắm đô la.
    Lý do nhân đạo, bảo vệ nhân quyền, không giấu nổi dã tâm của những người thực dụng. Những chỉ tiêu lựa chọn nói trên càng phơi bày bản chất thực dân. Lẽ ra thì những người đáng di tản nhất là những nạn nhân của cuộc chiến tranh bẩn thỉu mà Mỹ đã gây ra, những người mang tật nguyền suốt đời vì chất độc da cam, những thương phế binh, những vợ góa, con côi, những đứa bé mang trong người nửa phần máu Mỹ, những người mà Mỹ cầm chắc rằng suốt đời sống này sẽ rất chật vật, bấp bênh, do chính Mỹ gây ra.
    Những ai đã nắm được những bí mật trong các vấn đề kỹ thuật của Mỹ, chưa hẳn đã được trọng dụng, xem như là của quý của Hoa Kỳ. Câu chuyện sau đây xảy ra ở Cần Thơ, sẽ giúp chúng ta càng hiểu rõ thêm người Mỹ hơn.
    Tuỳ viên quân sự Mỹ Xoen Xơn và phụ tá của ông ta là Mít-sen đã nhiều lần bí mật bay đến sân bay Bình Thuỷ để họp với chỉ huy trưởng sư đoàn 4 không quân. Nội dung các cuộc họp đều hết sức giữ bí mật. Chính Nguyễn Văn Thiệu cũng không biết, mà Nguyễn Khoa Nam ở ngay đấy cũng không hay. Bọn này vạch ra một kế hoạch di tản máy bay như sau:
    -A37 sẽ bay từ Bình Thuỷ đi Utapao, nhờ có đủ xăng dầu bay được xa.
    -L.19 sẽ bay từ Bình Thuỷ-An Thới-Utapao
    -Trực trăng: Bình Thuỷ-Utapao
    An Thới là một sân bay nhỏ trên đảo Phú Quốc, sẽ có một đơn vị thuỷ quân lục chiến Mỹ đổ bộ lên chiếm trước nơi này, để bảo đảm cho phi cơ hạ cánh, tiếp tế xăng dầu.
    Biết được có một số tướng tá không quân nguỵ thắc mắc, vì đã trót đưa gia đình từ Cần Thơ về Sài Gòn để đi Guam từ mấy hôm trước, Mít-sen hỏi Xoen Xơn:
    -Đối với những người này, sau khi đến An Thới, nếu không được đi Guam để gặp gia đình, họ sẽ nổi loạn.
    -Việc gặp lại vợ con hay không, sẽ không còn là thẩm quyền của họ nữa. Trường hợp đến An Thới mà nổi loạn thì sẽ cho trực thăng bao vây, bắn phá, không cho cuộc nổi liạn lan rộng ra ngoài, rồi dùng A37 ném bom phá huỷ tất cả mọi dấu vết.
    Trong các trận Bầu bàng, Bông Trang, Nhà Đỏ trước đây, sau khi bộ binh Mỹ tháo chạy, để lại chiến trường nhiều thương binh, tử sĩ. Cách xử tri của Mỹ cũng gần như thế đấy: dùng máy bay bắn phá, rải xăng đối cháy sạch, rồi dùng máy bay lấp ủi tất cả mọi dấu vết.
    Nhanh, gọn hết chỗ nói! Nhưng rất vô nhân đạo.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 22: Nghe chim tu hú gọi
    Cho đến giữa tháng 4 năm 1975, khi các đơn vị chưa đến đầy đủ, lực lượng ta trên chiến trường miền Đông Nam Bộ vẫn chưa có ưu thế hơn đối phương. Sư đoàn 10 của binh đoàn Tây Nguyên đang phải đi vòng cao nguyên Lạng Biện. Đường hành quân xa xôi, mà không được tổ chức gì bảo đảm: đường sá, cầu cống, vượt sông, đều phải tự lo lấy. Lương thực, xăng dầu chẳng cơ quan nào, địa phương nào cấp phát. Trên cơ quan tham mưu chiến dịch, hàng ngày, vẫn có nhận được báo cáo đều đặn, vẽ lên bản đồ toàn bộ đội hình hành quân của sư đoàn, đơn vị ở đâu, tưởng như là nắm chắc lắm. Nhưng giá trên có hỏi bao giờ đến vị trí tập kết, có khó khăn gì cần phải giải quyết dọc đường, v.v? thì cũng chỉ có thể báo cáo một cách chung chung, phán đoán trên bản đồ, trên cảm tính mà thôi. Với Quân đoàn Quyết Thắng, thì cũng gần như vậy thôi. Chỉ biết được ngày xuất phát; được tin đang đi vào theo đường quốc lộ 1, thì lại nghe báo cáo chuyển trục hành quân từ đông sang tây, nhưng có đơn vị thì lại từ tây sang đông. Với Quân đoàn Hương Giang thì theo dõi được chặt chẽ hơn, nhưng lại còn biết bao nhiêu điều gì sẽ xảy ra: vượt qua mấy cái chốt ở Phan Rang, Phan Thiết thế nào? Liệu có đến được miền Đông Nam Bộ theo thời gian quy định hay không? Tình hình trong vùng 3, nhất là chung quanh Sài Gòn-Gia Định cũng thay đổi từng ngày một lực lượng vũ trang của thành, các đoàn đặc công, các đơn vị tự vệ, kết hợp chặt chẽ với lực lượng chính trị diệt nhiều đồn bốt ở Củ Chi-Hóc Môn-Bình Chánh-Thủ Đức, La Thành, Nhơn Trạch; thậm chí còn tập kích vào trạm kiểm soát Sa Cảng, Phú Lâm; trạm tuyển lính ở ngã tư Bảy Hiền. Việc giải phóng 7 xã gần hai vạn dân ở ngay cửa ô Sài Gòn đã tạo ra những bàn đạp vô cùng thuận lợi cho các đơn vị chủ lực của thành và lực lượng đặc công, biệt động.
    Trong lúc cơ quan tham mưu làm việc tất bật, thì việc chuẩn bị đòn nổi dậy cũng nhộn nhịp khác thường. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh và các đồng chí trong thành Sài Gòn-Gia Định, hàng nghìn đoàn viên, đảng viên với hơn 2 vạn rưởi quần chúng, đã xây dựng được 40 lõm chính trị ngay trong nội thành, đồng thời tạo ra được những hành lang nối liền với các bàn đạp ở ngoại ô. Nhờ đó mà phong trào phát triển rất nhanh, lực lượng chính trị chr trong một thời gian ngắn, đã lớn lên gấp 5, 7 lần; tinh thần quần chúng càng lên cao, thì tinh thần đối phương càng hoang mang, dao động dữ. Ngày lại ngày, ngày sau cao hơn ngày trước, cứ cuồn cuộn sôi nổi với khí thế của những ngày trước khởi nghĩa. Đã nhiều nơi ở ngoại thành, nhân dân đã th quyền làm chủ cả đêm lẫn ngày.
    Khi bắt tay vào làm kế hoạch, đã có người lo lắng: yếu tố bất ngờ của chiến dịch thế là không còn nữa; địch sẽ tháo chạy như ở miền Trung, ta sẽ không bao vây kịp, nên không có cơ hội tiêu diệt được nhiều địch, chúng sẽ kéo về đồng bằng sông Cửu Long: mà ở đây không xe tăng, pháo lớn, thì giải quyết các thành phố, thị xã như thế nào? v.v?
    Các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến sĩ theo dõi hàng ngày, hướng dẫn kịp thời. Có lần anh Tuấn đã giải thích cho một chiến sĩ sư đoàn 316:
    -Sài Gòn-Gia Định không phải như Huế-Đà Nẵng đâu. Mất nơi này là mất hết. Vì vậy, địch không thể bỏ đây một cách dễ dàng, nhất định nó phải giữ đến cùng. Về phần mình, ta phải buộc chúng giữ nguyên trạng thái bố trí như hiện nay. Ngay từ bây giờ phải thực hành bao bây chiến dịch, sư đoàn đồng chí phải chốt chặn dài ngày trên đường quốc lộ 1, 22, tuyệt đối không cho sư đoàn 25 nguỵ hay bất cứ một lực lượng nào khác co về, tăng cường cho vành đai phòng thủ bên ngoài như Đồng Dù, Củ Chi.
    Cũng nhua vậy, đồng chí Lê Đức Thọ nhắc nhở cơ quan tham mưu:
    -Phải chỉ thị cho quân khu 8, quân khu 9, cách đánh địch ở đồng bằng sông Cửu Long trong lúc này. Không phải như ở quốc lộ 5 vừa rồi đâu. Không nêndùng lực lượng chủ lực của quân khu đánh vào giải phóng các thị xã như Cần Thiư, Mỹ Tho, Vĩnh Lon v.v? như ta đã làm ở Huế, Đà Nẵng mà trái lại, ở đây, trong lúc này, phải dùng chủ lực để cắt đường, nhất thiết không được để cho ba sư đoàn chủ lực và các đơn vị binh khí truy kích của địch co cụm về Sài Gòn. Cứ để cho chúng rải rác quân ra ở Mộc Hóa, để ngăn chặn tuyến biên giới Campuchia, trong lúc ta đã lọt sâu vào bên trong. Đến khi ta đánh vào Sài Gòn, lực lượng của chúng sẽ tan rã. Lúc đó chúng ta đánh vào các đô thị thì rất thuận lợi, rất ít tổn thương. Thế nhưng, đối với lực lượng của địa phương thì lại khác; nơi nào giải phóng được dân thì cứ làm, càng giải phóng được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, đồng chí nói:
    -Hễ đánh ngã Sài Gòn-Gia Định rồi làm ăn tất cả, mà lại ăn nhanh hơn nữa là khác. Trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, việc nắm và vận dụng phương châm cũng phải hết sức linh hoạt.
    Sau Xuân Lộc, thấy các quân đoàn đến chậm hơn dự kiến, ai nấy đang lo, thì được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: ?oCần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng cả Quân đoàn Tây Nguyên và Quân đoàn Quyết Thắng (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu tiến công lớn, chưa nên làm ngay bây giờ?.
    Bộ Chính trị còn hướng dẫn thêm:
    ?oKế hoạch tiến công lớn và toàn diện cần bảo đảm, một khi đã phát động thì phải tiến công thật mạnh và liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng. Vừa phát động tiến công ở ngoại vi, vừa có lực lượng đã chuẩn bị, sẵn sàng nắm thời cơ, thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng. Th từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy, khong chia làm hai bước. Trong điều kiện này, thần tốc, táo bạo, bất ngờ là chỗ đó. Đó là phương hướng cơ bản và chắc thắng nhất (điếnố L7 ngày 9 tháng 4, BCT gửi Trung ương Cục) .
    Xem xong bức điện này, anh Tuấn rất phẩn khởi. Những ý kiến hướng dẫn này rất phù hợp với sự suy nghĩ của các anh trong này mấy ngày qua, và cũng đã có giải đáp thắc mắc, lo lắng của cơ quan tham mưu. Được công tác lâu ngày trong Bộ Tổng tham mưu, anh em đều biết trong các chiến dịch, anh Tuấn rất quan tâm đến yếu tố bất ngờ, thường chỉ thị cho cán bộ dưới hãy luôn luôn động não, nghiên cứu tìm cách đổi mới cách đánh. Muốn chắc thắng thì phải hành động bất ngờ, nhưng muốn chắc thắng thì phải tập trung lực lượng ưu thế hơn đối phương. Hai yếu tố này thường mâu thuẫn với nhau, vì kéo dài thời gian để tập trung cho đủ lực lượng thì càng dễ lộ bí mật. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì lại không thế. Sau những ngày cuối tháng 3 năm 1975, sau Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, ai mà không đoán ra là sẽ đến lượt Sài Gòn, Gia Định? Bất ngờ có nhiều cách, bây giờ đây là cách đánh và thời gian đánh. Ở Buôn Ma Thuột, ta diệt được cơ quan đầu não địch ngay từ đầu. Đánh như vậy, sẽ làm cho sự chỉ huy của địch rối loạn, không còn khả năng đối phó với ta. Nhưng Sài Gòn, Gia Định đâu phải như Buôn Ma Thuột? Ngay từ phút đầu, làm thế nào đưa được xe tăng vào sâu bên trong để dùng pháo bắn thẳng, nã vào địch được không? Với cách bố trí phòng ngự như đã nói trên, dồn hết lực lượng ra ngoài, có thể chúng đinh ninh rằng ta sẽ dùng lối đánh bóc vỏ như ta đã làm ở Điện Biên Phủ trước đây. Họ sẽ lui dần từng bước, lùi đến đấu, phá huỷ cầu cống đến đó, chiếm lĩnh các vị trí, địa hình khống chế, có công sự kiên cố lắp sắn, để kéo dài cuộc chiến đấu. Cầm cự lâu thì khó, chứ kéo dài một vài tháng hay đến mùa mưa thì họ tin là có thể làm được, và mọi việc sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác. Điều mà chúng rất bất ngờ là chỉ trong một số ít ngày, ta lại tập trung được một lực lượng rất lớn, lớn nhất từ trước đến nay đột nhiên thay đổi so sánh lực lượng, để vừa đủ sức đánh mạnh ở vòng ngoài, tiêu diệt và làm tan rã đối phương ở đây, đồng thời có sức mạnh thọc vào bên trong. Cho dù rằng họ phát hiện ta được từ xa, cách trung tâm thành phố 40-50 cây số, lại còn phải vượt qua biết bao nhiêu sông rạch mới vào được nội thành, cũng không cách gì đối phó nỏi, vì phải lo đối phó với vòng ngoài. Điều lý thú nhất đối với một người cán bộ tham mưu tác chiến là trong lúc ta chủ động tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, thì ngược lại đối phương lại không thể làm được như vậy đối với ta; lực lượng của chúng trước sau cũng chỉ có chừng ấy đơn vị; ta đã nắm bắt được tất cả phiên hiệu, vị trí, nhiệm vụ của từng đơn vị một. Rõ ràng là trong tung thâm, không còn có tý lực lượng dự bị nào để phản kích lớn một khi ta đã diệt được địch ở bên ngoài. Vì vậy, việc chiếm lĩnh trước các cầu là vô cùng quan trọng, bất cứ với cách đánh nào. Nhiệm vụ này đã giao cho binh chủng đặc công và bộ đội địa phương, trang bị gọn gàng. Nhưng chiễm thì dễ, mà giữ mới khó. Thế nào dịch cũng cố sống cố chết, giành đi giật lại các cầu này, vì đây là con đường rút lui sinh tử của chúng. Khi lập kế hoạch phải tính toán rất kỹ lưỡng, tổ chức chiệp đồng rất chặt chẽ, vì sớm muộn một tý, đều thành vấn đề cả.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chương 22: Nghe chim tu hú gọi
    Cho đến giữa tháng 4 năm 1975, khi các đơn vị chưa đến đầy đủ, lực lượng ta trên chiến trường miền Đông Nam Bộ vẫn chưa có ưu thế hơn đối phương. Sư đoàn 10 của binh đoàn Tây Nguyên đang phải đi vòng cao nguyên Lạng Biện. Đường hành quân xa xôi, mà không được tổ chức gì bảo đảm: đường sá, cầu cống, vượt sông, đều phải tự lo lấy. Lương thực, xăng dầu chẳng cơ quan nào, địa phương nào cấp phát. Trên cơ quan tham mưu chiến dịch, hàng ngày, vẫn có nhận được báo cáo đều đặn, vẽ lên bản đồ toàn bộ đội hình hành quân của sư đoàn, đơn vị ở đâu, tưởng như là nắm chắc lắm. Nhưng giá trên có hỏi bao giờ đến vị trí tập kết, có khó khăn gì cần phải giải quyết dọc đường, v.v? thì cũng chỉ có thể báo cáo một cách chung chung, phán đoán trên bản đồ, trên cảm tính mà thôi. Với Quân đoàn Quyết Thắng, thì cũng gần như vậy thôi. Chỉ biết được ngày xuất phát; được tin đang đi vào theo đường quốc lộ 1, thì lại nghe báo cáo chuyển trục hành quân từ đông sang tây, nhưng có đơn vị thì lại từ tây sang đông. Với Quân đoàn Hương Giang thì theo dõi được chặt chẽ hơn, nhưng lại còn biết bao nhiêu điều gì sẽ xảy ra: vượt qua mấy cái chốt ở Phan Rang, Phan Thiết thế nào? Liệu có đến được miền Đông Nam Bộ theo thời gian quy định hay không? Tình hình trong vùng 3, nhất là chung quanh Sài Gòn-Gia Định cũng thay đổi từng ngày một lực lượng vũ trang của thành, các đoàn đặc công, các đơn vị tự vệ, kết hợp chặt chẽ với lực lượng chính trị diệt nhiều đồn bốt ở Củ Chi-Hóc Môn-Bình Chánh-Thủ Đức, La Thành, Nhơn Trạch; thậm chí còn tập kích vào trạm kiểm soát Sa Cảng, Phú Lâm; trạm tuyển lính ở ngã tư Bảy Hiền. Việc giải phóng 7 xã gần hai vạn dân ở ngay cửa ô Sài Gòn đã tạo ra những bàn đạp vô cùng thuận lợi cho các đơn vị chủ lực của thành và lực lượng đặc công, biệt động.
    Trong lúc cơ quan tham mưu làm việc tất bật, thì việc chuẩn bị đòn nổi dậy cũng nhộn nhịp khác thường. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí Nguyễn Văn Linh và các đồng chí trong thành Sài Gòn-Gia Định, hàng nghìn đoàn viên, đảng viên với hơn 2 vạn rưởi quần chúng, đã xây dựng được 40 lõm chính trị ngay trong nội thành, đồng thời tạo ra được những hành lang nối liền với các bàn đạp ở ngoại ô. Nhờ đó mà phong trào phát triển rất nhanh, lực lượng chính trị chr trong một thời gian ngắn, đã lớn lên gấp 5, 7 lần; tinh thần quần chúng càng lên cao, thì tinh thần đối phương càng hoang mang, dao động dữ. Ngày lại ngày, ngày sau cao hơn ngày trước, cứ cuồn cuộn sôi nổi với khí thế của những ngày trước khởi nghĩa. Đã nhiều nơi ở ngoại thành, nhân dân đã th quyền làm chủ cả đêm lẫn ngày.
    Khi bắt tay vào làm kế hoạch, đã có người lo lắng: yếu tố bất ngờ của chiến dịch thế là không còn nữa; địch sẽ tháo chạy như ở miền Trung, ta sẽ không bao vây kịp, nên không có cơ hội tiêu diệt được nhiều địch, chúng sẽ kéo về đồng bằng sông Cửu Long: mà ở đây không xe tăng, pháo lớn, thì giải quyết các thành phố, thị xã như thế nào? v.v?
    Các đồng chí trong Bộ tư lệnh chiến sĩ theo dõi hàng ngày, hướng dẫn kịp thời. Có lần anh Tuấn đã giải thích cho một chiến sĩ sư đoàn 316:
    -Sài Gòn-Gia Định không phải như Huế-Đà Nẵng đâu. Mất nơi này là mất hết. Vì vậy, địch không thể bỏ đây một cách dễ dàng, nhất định nó phải giữ đến cùng. Về phần mình, ta phải buộc chúng giữ nguyên trạng thái bố trí như hiện nay. Ngay từ bây giờ phải thực hành bao bây chiến dịch, sư đoàn đồng chí phải chốt chặn dài ngày trên đường quốc lộ 1, 22, tuyệt đối không cho sư đoàn 25 nguỵ hay bất cứ một lực lượng nào khác co về, tăng cường cho vành đai phòng thủ bên ngoài như Đồng Dù, Củ Chi.
    Cũng nhua vậy, đồng chí Lê Đức Thọ nhắc nhở cơ quan tham mưu:
    -Phải chỉ thị cho quân khu 8, quân khu 9, cách đánh địch ở đồng bằng sông Cửu Long trong lúc này. Không phải như ở quốc lộ 5 vừa rồi đâu. Không nêndùng lực lượng chủ lực của quân khu đánh vào giải phóng các thị xã như Cần Thiư, Mỹ Tho, Vĩnh Lon v.v? như ta đã làm ở Huế, Đà Nẵng mà trái lại, ở đây, trong lúc này, phải dùng chủ lực để cắt đường, nhất thiết không được để cho ba sư đoàn chủ lực và các đơn vị binh khí truy kích của địch co cụm về Sài Gòn. Cứ để cho chúng rải rác quân ra ở Mộc Hóa, để ngăn chặn tuyến biên giới Campuchia, trong lúc ta đã lọt sâu vào bên trong. Đến khi ta đánh vào Sài Gòn, lực lượng của chúng sẽ tan rã. Lúc đó chúng ta đánh vào các đô thị thì rất thuận lợi, rất ít tổn thương. Thế nhưng, đối với lực lượng của địa phương thì lại khác; nơi nào giải phóng được dân thì cứ làm, càng giải phóng được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu, đồng chí nói:
    -Hễ đánh ngã Sài Gòn-Gia Định rồi làm ăn tất cả, mà lại ăn nhanh hơn nữa là khác. Trong giai đoạn kết thúc chiến tranh, việc nắm và vận dụng phương châm cũng phải hết sức linh hoạt.
    Sau Xuân Lộc, thấy các quân đoàn đến chậm hơn dự kiến, ai nấy đang lo, thì được Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị: ?oCần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến khi phần lớn lực lượng cả Quân đoàn Tây Nguyên và Quân đoàn Quyết Thắng (cả bộ binh và binh khí kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu tiến công lớn, chưa nên làm ngay bây giờ?.
    Bộ Chính trị còn hướng dẫn thêm:
    ?oKế hoạch tiến công lớn và toàn diện cần bảo đảm, một khi đã phát động thì phải tiến công thật mạnh và liên tục, dồn dập cho đến toàn thắng. Vừa phát động tiến công ở ngoại vi, vừa có lực lượng đã chuẩn bị, sẵn sàng nắm thời cơ, thọc sâu vào trung tâm Sài Gòn từ nhiều hướng. Th từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tạo điều kiện cho đồng bào nổi dậy, khong chia làm hai bước. Trong điều kiện này, thần tốc, táo bạo, bất ngờ là chỗ đó. Đó là phương hướng cơ bản và chắc thắng nhất (điếnố L7 ngày 9 tháng 4, BCT gửi Trung ương Cục) .
    Xem xong bức điện này, anh Tuấn rất phẩn khởi. Những ý kiến hướng dẫn này rất phù hợp với sự suy nghĩ của các anh trong này mấy ngày qua, và cũng đã có giải đáp thắc mắc, lo lắng của cơ quan tham mưu. Được công tác lâu ngày trong Bộ Tổng tham mưu, anh em đều biết trong các chiến dịch, anh Tuấn rất quan tâm đến yếu tố bất ngờ, thường chỉ thị cho cán bộ dưới hãy luôn luôn động não, nghiên cứu tìm cách đổi mới cách đánh. Muốn chắc thắng thì phải hành động bất ngờ, nhưng muốn chắc thắng thì phải tập trung lực lượng ưu thế hơn đối phương. Hai yếu tố này thường mâu thuẫn với nhau, vì kéo dài thời gian để tập trung cho đủ lực lượng thì càng dễ lộ bí mật. Tuy nhiên, trong trường hợp này thì lại không thế. Sau những ngày cuối tháng 3 năm 1975, sau Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, ai mà không đoán ra là sẽ đến lượt Sài Gòn, Gia Định? Bất ngờ có nhiều cách, bây giờ đây là cách đánh và thời gian đánh. Ở Buôn Ma Thuột, ta diệt được cơ quan đầu não địch ngay từ đầu. Đánh như vậy, sẽ làm cho sự chỉ huy của địch rối loạn, không còn khả năng đối phó với ta. Nhưng Sài Gòn, Gia Định đâu phải như Buôn Ma Thuột? Ngay từ phút đầu, làm thế nào đưa được xe tăng vào sâu bên trong để dùng pháo bắn thẳng, nã vào địch được không? Với cách bố trí phòng ngự như đã nói trên, dồn hết lực lượng ra ngoài, có thể chúng đinh ninh rằng ta sẽ dùng lối đánh bóc vỏ như ta đã làm ở Điện Biên Phủ trước đây. Họ sẽ lui dần từng bước, lùi đến đấu, phá huỷ cầu cống đến đó, chiếm lĩnh các vị trí, địa hình khống chế, có công sự kiên cố lắp sắn, để kéo dài cuộc chiến đấu. Cầm cự lâu thì khó, chứ kéo dài một vài tháng hay đến mùa mưa thì họ tin là có thể làm được, và mọi việc sẽ diễn biến theo một chiều hướng khác. Điều mà chúng rất bất ngờ là chỉ trong một số ít ngày, ta lại tập trung được một lực lượng rất lớn, lớn nhất từ trước đến nay đột nhiên thay đổi so sánh lực lượng, để vừa đủ sức đánh mạnh ở vòng ngoài, tiêu diệt và làm tan rã đối phương ở đây, đồng thời có sức mạnh thọc vào bên trong. Cho dù rằng họ phát hiện ta được từ xa, cách trung tâm thành phố 40-50 cây số, lại còn phải vượt qua biết bao nhiêu sông rạch mới vào được nội thành, cũng không cách gì đối phó nỏi, vì phải lo đối phó với vòng ngoài. Điều lý thú nhất đối với một người cán bộ tham mưu tác chiến là trong lúc ta chủ động tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác, thì ngược lại đối phương lại không thể làm được như vậy đối với ta; lực lượng của chúng trước sau cũng chỉ có chừng ấy đơn vị; ta đã nắm bắt được tất cả phiên hiệu, vị trí, nhiệm vụ của từng đơn vị một. Rõ ràng là trong tung thâm, không còn có tý lực lượng dự bị nào để phản kích lớn một khi ta đã diệt được địch ở bên ngoài. Vì vậy, việc chiếm lĩnh trước các cầu là vô cùng quan trọng, bất cứ với cách đánh nào. Nhiệm vụ này đã giao cho binh chủng đặc công và bộ đội địa phương, trang bị gọn gàng. Nhưng chiễm thì dễ, mà giữ mới khó. Thế nào dịch cũng cố sống cố chết, giành đi giật lại các cầu này, vì đây là con đường rút lui sinh tử của chúng. Khi lập kế hoạch phải tính toán rất kỹ lưỡng, tổ chức chiệp đồng rất chặt chẽ, vì sớm muộn một tý, đều thành vấn đề cả.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Phương châm tác chiến trên đề ra là hoàn toàn chính xác. Nhanh chóng, táo bạo, thần tốc, bất ngờ, chắc thắng quyện vào nhau một cách hữu cơ, cái nọ tạo điều kiện cho cái kia.
    Hôm nào ở Buôn Ma Thuột, anh Tuấn khi đi xem lại chiến trường, khen trận đánh vừa hay lại vừa đẹp, vì diệt địch nhanh gọn, và thị xã vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Trong chiến sĩ này càng phải hay, phải đẹp hơn. Sẽ đánh vào Sài Gòn-Gia Định như thế nào để khỏi gây tổn thất cho đồng bào, gìn giữ những cái gì cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa sau này, mà không ảnh hưởng đến việc tiêu diệt quân thù một cách triệt để và nhanh gọn. Cũng có người nói rằng, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, nhất là những ngày tàn của địch, chúng đã lâm vào bước đường cùng rồi, thì không cần phải có những trận đánh quyết liệt làm gì, trước sau rồi cũng giải quyết được vấn đề. Thực tế đã chứng tỏ rằng, sự chống đối của đối phương vẫn còn hết sức quyết liệt, cho đến phút cuối cùng. Tránh khỏi được cảnh điêu tàn đổ nát, tránh khỏi những sự nhầm lẫm thương vong vô ích là do cách đánh của ta. Vì thế việc lựa chọn từng mục tiêu trong nội thành để tiến công đã được đưa ra thảo luận rất kỹ và được các đồng chí trong Bộ tư lệnh cân nhắc từng ly từng tý. Mục tiêu hàng đầu đối với bộ binh là dinh Độc Lập rồi đến Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát. Dinh Độc Lập là nơi đầu não của chính quyền Sài Gòn. Đánh vào các mục tiêu nói trên, thì sẽ ngã nhanh, đồng thời bảo đảm an toàn đồng bào ở các nơi khác.
    Thấy cán bộ tham mưu lúng túng trong việc lập kế hoạch phối hợp giữa đòn tiến công và đòn nổi dậy, đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Phạm Hùng giải thích:
    ?oCác đồng chí phải hiểu đặc điểm của Sài Gòn-Gia Định. Với hơn hai vạn cảnh sát sẵn có, với hàng chục vạn phượng hoàng, ác ôn từ các nơi chạy về, cộng thêm bộ máy kìm kẹp như ta đã biết thì quần chúng nổi dậy thế nào cho đúng? Bọn nó giờ đây tuy hoang mang nhưng đề phòng chúng có thể điên cuồng, mất hết tính người. Trước đây, có mít tinh, xuống đường, thì chúng đối phó bằng hơi cay, dùi cui; nhưng sắp đến, khi ta nổ súng, còn đánh vào vòng ngoài, bộ phận thọc sâu chưa vào kịp mà làm như thế thì chúng có thể thẳng tay đàn áp vì chúng đã đến bước đường cùng. Nói như vậy, khong phải là không có đấu tranh chính trị phối hợp, nhưng hình thức đấu tranh thì phải khác; cuối cùng rồi cũng sẽ làm cho đối phương mất sức chiến đấu và tan rã nhanh chóng. Lực lượng chủ lực của ta chỉ đánh vào 5 mục tiêu thôi, còn các lực lượng vũ trang khác cảnh sát, ác ôn, bọn kìm kẹp thì có lực lượng của địa phương, còn đặc công, biệt động của Sài Gòn thì chiếm giữ các cầu, không để địch phá hoại để chủ lực ta có thể tiến thẳng vào các vị trí trung tâm của Sài Gòn như đã định. Công nhân sẽ đứng lên chặn bàn tay của địch, không cho chúng phá hoại các nhà máy, các xí nghiệp khác nữa?.
    Các đồng chí quân báo phát hiện có nguồn tin cho biết một lực lượng lớn của Mỹ gồm có 35 tàu chiến, 4 tàu chở sân bay đang rình rập ngoài khơi Vũng Tàu mấy hôm nay.
    Những tin tức như vậy, không làm cho một ai trong cơ quan tham mưu bận lòng, phải lo ngại. Năm xưa, cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã chẳng làn nên trò trống gì ở Vạn Tường, trước vài tiểu đoàn chủ lực và mấy đại đội địa phương dân quân du kích; huống gì ngay nay,lực lượng ta như thế này, thì vài sư đoàn Mỹ làm thế nào mà đổ bộ lên được. Còn với con ngoáo ộp B52 thì quân chủng phòng không không quân đã bố trí sẵn mấy đơn vị tên lửa, với những kinh nghiệm nóng hổi nhất từ Hà Nội mới đưa vào, mấy hôm nay đã triển khai xong, ăn chực nằm chờ ở phía bắc Biên Hoà. Đối với những lời đe dọa của Kissinger, anh em trong sở chỉ huy không ai lạ gì.
    Gần như đã thành quy luật, trong khi bàn kế hoạch, vấn đề bảo đảm vật chất thường là sôi nhổi nhất, chiếm nhiều gờ và cũng đau đầu nhất. Trong chiến dịch này, cả nước lên đường, đại hậu phương xa xôi đã vươn dài đến sát phía trước, nối liền với hậu phương chiến dịch. Ngành hậu cần của Trung ương Cục, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí thiếu tướng Bùi Phùng, đã sớm hình thành nhiều khu vực bảo đảm, trên một địa bàn vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. Cách tổ chứ này, rất sáng tạo, khoa học cho phép khai thác và tận dụng được sức người, sức của tại chỗ, đồng thời đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến của từng đơn vị.
    Xăng dầu, gạo, đạn nói chung thì không có vấn đề gì; nhưng rắc rối nhất là đạn pháo lớn và đạn chống tăng. Có đâu mà như ở Việt Nam, chẳng phải chỉ có cán bộ tham mưu hay hậu cần, kỹ thuật mới phải bận tâm đến số đạn dược của từng loại pháo, mà trong sổ tay cũng như trong trí nhớ của từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị cũng có ghi đầy đủ những con số này. Đồng chí thiếu tướng Doãn Tuế, là tư lệnh pháo binh của toàn chiến dịch. Ngoài nhiệm vụ chỉ huy chỉ đạo pháo binh các cấp, đồng chí còn đặc trách chỉ huy cụm pháo binh ở Hiếu Liêm, bắc sân bay Biên Hoà và cụm pháo chiến dịch có nhiệm vụ bắn vào Tân Sơn Nhất. Chưa nói đến việc diệt địch, chỉ riêng việc kìm chế các trận địa pháo địch ở rải rác xung quanh sở chỉ huy, bảo đảm không cho một quả đạn nào rơi xuống khu vực này, cũng đã cần đến một số đạn rất lớn rồi. Thế mà đồng chí chỉ nhận được một con số tối thiểu. Giữa lúc ấy thì được tin Nguyễn Thành Trung vừa mới lái chiếc máy bay F5E của không quân Việt Nam Cộng hoà, ném bom dinh Độc Lập và bay ra vùng giải phóng. Chính Nguyễn Thành Trung đã báo cáo với đồng chí Tuế phương pháp khống chế các sân bay với số lượng đạn ít nhất và hiệu quả nhất.
    Kinh nghiệm này tức khắc được phổ biến rộng rãi cho các nơi và đạt hiệu quả cao.
    Đồng chí Đỗ Văn Đức, tham mưu phó chiến dịch và tôi, phân công nhau đi kiểm tra tình hình trên các cánh tây và cánh bắc về báo cáo, càng làm cho các đồng chí trong Bộ tư lệnh thêm lo lắng. Thời gian chuẩn bị chẳng còn bao lâu nữa, mà trên cánh tây, đoàn hậu cần tập kết vật chất chưa được đầy đủ. Trên cánh đông bắc của Quân đoàn Quyết Thắng, tình hình cũng không lấy gì làm sáng sủa lắm. Tình hình của Quân đoàn Tây Nguyên, khá hơn nhiều, vì đơn vị này ngoài trang bị sẵn có, còn mang theo một số khá nhiều chiến lợi phẩm ngoài kế hoạch.
    Trong một buổi giao ban, đồng chí Lê Đức Thọ sau kế hoạch nghe báo cáo, quay sang hỏi tôi:
    -Đồng chí có biện pháo gì không?
    -Sở dĩ các loại đạn pháo lớn và đạn chống tăng ít vì từ trước đến nay, chiến trường Nam Bộ ít có những loại đạn pháo này, mà trong số đạn chiến lợi phẩm mới thu được thì lại hoàn toà không có. Đánh vào đô thị, cũng như đánh vào công sự vững chắc, mà thiếu những loại này, thì rất khó khăn. Theo tôi được biết, ở chiến trườn Trị Thiên, Khu 5 các loại đạn này còn khá nhiều, vì vừa qua, ta giải quyết nhanh, tiêu thụ ít. Đề nghị Bộ Chính trị cho hai nơi ấy, cấp tốc vét đưa vào.
    -Liệu có kịp không?
    -Thông thường phải mất cả tháng, vì theo chỗ tôi biết, thì các loại đạn này còn nằm trong các kho đặt ơ trong các hậu cứ, sâu trong núi, rải rác mỗi nơi một ít. Tập trung lại cho đủ số, lựa chọn cho đúng lô, liều, mất rất nhiều thì giờ. Nhưng nếu cố gắng, hết sức may ra cũng có thể được.
    Qua ánh mắt, tôi thấy đồng chí rất băn khoăn. Đồng chí đã nói lên tâm trạng của mình, giữa những ngày này trong một bài thơi ngắn. Và đây cũng là tâm trạng của mọi người:
    Suốt đêm qua không ngủ,
    Nằm đếm tiếng mưa rơi.
    Lo cho anh bộ đội,
    Lầy lội quãng đường dài.
    Hết tăng rồi lại pháo,
    Mong chẳng thấy tăm hơi.
    Chiến trường chờ từng phút,
    Đừng mưa nữa mưa ơi.
    Để đường mau khô ráo,
    Cho xe vào tới nơi?

    ?oMưa rơi? Lộc Ninh
    9-4-1975
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Phương châm tác chiến trên đề ra là hoàn toàn chính xác. Nhanh chóng, táo bạo, thần tốc, bất ngờ, chắc thắng quyện vào nhau một cách hữu cơ, cái nọ tạo điều kiện cho cái kia.
    Hôm nào ở Buôn Ma Thuột, anh Tuấn khi đi xem lại chiến trường, khen trận đánh vừa hay lại vừa đẹp, vì diệt địch nhanh gọn, và thị xã vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Trong chiến sĩ này càng phải hay, phải đẹp hơn. Sẽ đánh vào Sài Gòn-Gia Định như thế nào để khỏi gây tổn thất cho đồng bào, gìn giữ những cái gì cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa sau này, mà không ảnh hưởng đến việc tiêu diệt quân thù một cách triệt để và nhanh gọn. Cũng có người nói rằng, trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, nhất là những ngày tàn của địch, chúng đã lâm vào bước đường cùng rồi, thì không cần phải có những trận đánh quyết liệt làm gì, trước sau rồi cũng giải quyết được vấn đề. Thực tế đã chứng tỏ rằng, sự chống đối của đối phương vẫn còn hết sức quyết liệt, cho đến phút cuối cùng. Tránh khỏi được cảnh điêu tàn đổ nát, tránh khỏi những sự nhầm lẫm thương vong vô ích là do cách đánh của ta. Vì thế việc lựa chọn từng mục tiêu trong nội thành để tiến công đã được đưa ra thảo luận rất kỹ và được các đồng chí trong Bộ tư lệnh cân nhắc từng ly từng tý. Mục tiêu hàng đầu đối với bộ binh là dinh Độc Lập rồi đến Bộ Tổng tham mưu, sân bay Tân Sơn Nhất, biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát. Dinh Độc Lập là nơi đầu não của chính quyền Sài Gòn. Đánh vào các mục tiêu nói trên, thì sẽ ngã nhanh, đồng thời bảo đảm an toàn đồng bào ở các nơi khác.
    Thấy cán bộ tham mưu lúng túng trong việc lập kế hoạch phối hợp giữa đòn tiến công và đòn nổi dậy, đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Phạm Hùng giải thích:
    ?oCác đồng chí phải hiểu đặc điểm của Sài Gòn-Gia Định. Với hơn hai vạn cảnh sát sẵn có, với hàng chục vạn phượng hoàng, ác ôn từ các nơi chạy về, cộng thêm bộ máy kìm kẹp như ta đã biết thì quần chúng nổi dậy thế nào cho đúng? Bọn nó giờ đây tuy hoang mang nhưng đề phòng chúng có thể điên cuồng, mất hết tính người. Trước đây, có mít tinh, xuống đường, thì chúng đối phó bằng hơi cay, dùi cui; nhưng sắp đến, khi ta nổ súng, còn đánh vào vòng ngoài, bộ phận thọc sâu chưa vào kịp mà làm như thế thì chúng có thể thẳng tay đàn áp vì chúng đã đến bước đường cùng. Nói như vậy, khong phải là không có đấu tranh chính trị phối hợp, nhưng hình thức đấu tranh thì phải khác; cuối cùng rồi cũng sẽ làm cho đối phương mất sức chiến đấu và tan rã nhanh chóng. Lực lượng chủ lực của ta chỉ đánh vào 5 mục tiêu thôi, còn các lực lượng vũ trang khác cảnh sát, ác ôn, bọn kìm kẹp thì có lực lượng của địa phương, còn đặc công, biệt động của Sài Gòn thì chiếm giữ các cầu, không để địch phá hoại để chủ lực ta có thể tiến thẳng vào các vị trí trung tâm của Sài Gòn như đã định. Công nhân sẽ đứng lên chặn bàn tay của địch, không cho chúng phá hoại các nhà máy, các xí nghiệp khác nữa?.
    Các đồng chí quân báo phát hiện có nguồn tin cho biết một lực lượng lớn của Mỹ gồm có 35 tàu chiến, 4 tàu chở sân bay đang rình rập ngoài khơi Vũng Tàu mấy hôm nay.
    Những tin tức như vậy, không làm cho một ai trong cơ quan tham mưu bận lòng, phải lo ngại. Năm xưa, cả một sư đoàn lính thuỷ đánh bộ Mỹ đã chẳng làn nên trò trống gì ở Vạn Tường, trước vài tiểu đoàn chủ lực và mấy đại đội địa phương dân quân du kích; huống gì ngay nay,lực lượng ta như thế này, thì vài sư đoàn Mỹ làm thế nào mà đổ bộ lên được. Còn với con ngoáo ộp B52 thì quân chủng phòng không không quân đã bố trí sẵn mấy đơn vị tên lửa, với những kinh nghiệm nóng hổi nhất từ Hà Nội mới đưa vào, mấy hôm nay đã triển khai xong, ăn chực nằm chờ ở phía bắc Biên Hoà. Đối với những lời đe dọa của Kissinger, anh em trong sở chỉ huy không ai lạ gì.
    Gần như đã thành quy luật, trong khi bàn kế hoạch, vấn đề bảo đảm vật chất thường là sôi nhổi nhất, chiếm nhiều gờ và cũng đau đầu nhất. Trong chiến dịch này, cả nước lên đường, đại hậu phương xa xôi đã vươn dài đến sát phía trước, nối liền với hậu phương chiến dịch. Ngành hậu cần của Trung ương Cục, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí thiếu tướng Bùi Phùng, đã sớm hình thành nhiều khu vực bảo đảm, trên một địa bàn vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. Cách tổ chứ này, rất sáng tạo, khoa học cho phép khai thác và tận dụng được sức người, sức của tại chỗ, đồng thời đáp ứng kịp thời yêu cầu tác chiến của từng đơn vị.
    Xăng dầu, gạo, đạn nói chung thì không có vấn đề gì; nhưng rắc rối nhất là đạn pháo lớn và đạn chống tăng. Có đâu mà như ở Việt Nam, chẳng phải chỉ có cán bộ tham mưu hay hậu cần, kỹ thuật mới phải bận tâm đến số đạn dược của từng loại pháo, mà trong sổ tay cũng như trong trí nhớ của từng đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị cũng có ghi đầy đủ những con số này. Đồng chí thiếu tướng Doãn Tuế, là tư lệnh pháo binh của toàn chiến dịch. Ngoài nhiệm vụ chỉ huy chỉ đạo pháo binh các cấp, đồng chí còn đặc trách chỉ huy cụm pháo binh ở Hiếu Liêm, bắc sân bay Biên Hoà và cụm pháo chiến dịch có nhiệm vụ bắn vào Tân Sơn Nhất. Chưa nói đến việc diệt địch, chỉ riêng việc kìm chế các trận địa pháo địch ở rải rác xung quanh sở chỉ huy, bảo đảm không cho một quả đạn nào rơi xuống khu vực này, cũng đã cần đến một số đạn rất lớn rồi. Thế mà đồng chí chỉ nhận được một con số tối thiểu. Giữa lúc ấy thì được tin Nguyễn Thành Trung vừa mới lái chiếc máy bay F5E của không quân Việt Nam Cộng hoà, ném bom dinh Độc Lập và bay ra vùng giải phóng. Chính Nguyễn Thành Trung đã báo cáo với đồng chí Tuế phương pháp khống chế các sân bay với số lượng đạn ít nhất và hiệu quả nhất.
    Kinh nghiệm này tức khắc được phổ biến rộng rãi cho các nơi và đạt hiệu quả cao.
    Đồng chí Đỗ Văn Đức, tham mưu phó chiến dịch và tôi, phân công nhau đi kiểm tra tình hình trên các cánh tây và cánh bắc về báo cáo, càng làm cho các đồng chí trong Bộ tư lệnh thêm lo lắng. Thời gian chuẩn bị chẳng còn bao lâu nữa, mà trên cánh tây, đoàn hậu cần tập kết vật chất chưa được đầy đủ. Trên cánh đông bắc của Quân đoàn Quyết Thắng, tình hình cũng không lấy gì làm sáng sủa lắm. Tình hình của Quân đoàn Tây Nguyên, khá hơn nhiều, vì đơn vị này ngoài trang bị sẵn có, còn mang theo một số khá nhiều chiến lợi phẩm ngoài kế hoạch.
    Trong một buổi giao ban, đồng chí Lê Đức Thọ sau kế hoạch nghe báo cáo, quay sang hỏi tôi:
    -Đồng chí có biện pháo gì không?
    -Sở dĩ các loại đạn pháo lớn và đạn chống tăng ít vì từ trước đến nay, chiến trường Nam Bộ ít có những loại đạn pháo này, mà trong số đạn chiến lợi phẩm mới thu được thì lại hoàn toà không có. Đánh vào đô thị, cũng như đánh vào công sự vững chắc, mà thiếu những loại này, thì rất khó khăn. Theo tôi được biết, ở chiến trườn Trị Thiên, Khu 5 các loại đạn này còn khá nhiều, vì vừa qua, ta giải quyết nhanh, tiêu thụ ít. Đề nghị Bộ Chính trị cho hai nơi ấy, cấp tốc vét đưa vào.
    -Liệu có kịp không?
    -Thông thường phải mất cả tháng, vì theo chỗ tôi biết, thì các loại đạn này còn nằm trong các kho đặt ơ trong các hậu cứ, sâu trong núi, rải rác mỗi nơi một ít. Tập trung lại cho đủ số, lựa chọn cho đúng lô, liều, mất rất nhiều thì giờ. Nhưng nếu cố gắng, hết sức may ra cũng có thể được.
    Qua ánh mắt, tôi thấy đồng chí rất băn khoăn. Đồng chí đã nói lên tâm trạng của mình, giữa những ngày này trong một bài thơi ngắn. Và đây cũng là tâm trạng của mọi người:
    Suốt đêm qua không ngủ,
    Nằm đếm tiếng mưa rơi.
    Lo cho anh bộ đội,
    Lầy lội quãng đường dài.
    Hết tăng rồi lại pháo,
    Mong chẳng thấy tăm hơi.
    Chiến trường chờ từng phút,
    Đừng mưa nữa mưa ơi.
    Để đường mau khô ráo,
    Cho xe vào tới nơi?

    ?oMưa rơi? Lộc Ninh
    9-4-1975
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau này được biết, vừa nhận được điện của anh Sáu Thọ, các đồng chí Võ Chí Công và thượng tướng Chu Huy Mân đã họp ngay cơ quan lại để bàn việc thực hiện. Tuy bận rất nhiều công việc, nào phải lo tiếp quản các tỉnh và thành phố, ổn định đời sống cho hàng mấy triệu dân ở vùng giải phóng, Khu uỷ Khu 5 vẫn đặt vấn đề chi viện đạn dược cho chiến dịch lên hàng đầu. Quân uỷ Khu uỷ đã tập trung tất cả cán bộ, phương tiện, khả năng sẵn có, lập ra ban kiểm tra đạn pháo, và từng ngày ngày, từng giờ đôn đốc việc thực hiện. Kết quả là mấy hôm sau, thiếu tướng Võ Thứ, phó tư lệnh khu và đồng chí Giang chủ nhiệm hậu cần quân khu 5 đang kẻ trước người sau, áp tải một đoàn xe hàng trăm chiếc, chở đầy đạn dược, đúng theo yêu cầu, đến bàn giao cho Quân đoàn Quyết Thắng giữa tiếng reo hò của toàn đơn vị, vì giờ xuất kích sắp đến nơi rồi, mà chỉ còn không đầy một cơ số đạn dược mang theo. Nắng hạn gặp mưa rào!
    Những trận mưa đầu mùa, đã bắt đầu gây khó khăn cho việc tập kết lực lượng. Trên cánh tây nam, một khó khăn nữa của Đoàn 232 là phải vượt sông Vàm Cỏ. Theo kế hoạch đến giờ nổ súng, sư đoàn 3 phải vượt sông, mở cửa, đánh chiếm đầu cầu ở An Ninh, Lộc Giang, để bảo đảm cho sư đoàn 9 và các đơn vị binh khí kỹ thuật sang sông, kịp đưa đội hình lên đánh vào thành phố. Trong lúc này đối phương đã đề phòng, họ lại có sẵn phi pháo, còn các binh khí kỹ thuật của ta thì nặng nề, khi tài thiếu, đường sá ít, lại xấu, tai ác nhất là bưng sình, bùn lầy nhiều. Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu và toàn bộ cơ quan tham mưu, kỹ thuật, hậu cần, từ cán bộ đến chiến sĩ, đếm ngày túc trực ở bãi sông, chỉ huy từng chuyến phà để kịp thời đưa toàn bộ lực lượng vượt sông an toàn. Trên hướng bắc, đứng giữa ngầm Bến Bầu, nhìn những đám mây đen, mỗi buổi chiều ùn ùn trên phía thượng nguồn Sông Bé, cả Bộ tư lệnh Quân đoàn Quyết Thắng ngồi đứng không yên. Nước sông cứ dâng lên từng phút một, gần lút cả bánh xe, chỉ cần lên cao vài tấc nữa, có lẽ toàn quân đoàn sẽ bị chôn chân ở phía bắc sông, vì không còn có con đường nào nữa để vòng tránh mà vào vị trí tập kết được. Lực lượng công binh, dù đoàn Trường Sơn đã tận tình giúp đỡ, tăng cường thêm máy móc, cũng không thể bắc cầu, hay ghép phà, vì lòng sông hẹp, bờ cao nhất nước chảy rất xiết. Thỉnh thoảng một vài chiếc máy bay A37 đến ném bom. May thay trời cũng chiều người, trước giờ xuất kích, toàn bộ đội hình đã xuống hết phía nam sông, sẵn sàng chờ lệnh.
    Chiều ngày 12 tháng 4, Bộ tư lệnh Quân đoàn Tây Nguyên đến sở chỉ huy chiến dịch nhận nhiệm vụ. Mới xa nhau hơn nửa tháng trời, mà trông đồng chí nào cũng gầy sọm lại, da rám nắng, đen nhưng lại rắn rỏi hơn. Vẻ mặt ai nấy đều hân hoan, phấn khởi. Bắt tay đồng chí Đặng Vũ Hiệp, hai chúng tôi chào nhau bằng một tiếng lóng: ?oYên chí!?. Như thế có nghĩa là các anh cứ việc đánh đi, mọi việc đã có tôi la. Bê ngoài thì nói thế thôi, nhưng trong lòng thì lại sốt ruột: công tác chuẩn bị, bảo đảm các mặt cho quân đoàn, lần này không được đầy đủ như ở Buôn Ma Thuột trước đây.
    Vừa ngồi xuống ghế, anh Tuấn hỏi ngay:
    -Có tin tức gì về Hồ Đệ không?-tức là sư đoàn 10. Đi chiến dịch, anh emt hường lấy tên của tư lệnh thay cho tên của đơn vị.
    -Báo cáo đang làm đường vòng lên đường quốc lộ 11. Mấy hôm vừa rồi, máy bay ở Thành Sơn lùng sục bắn phá cả ngãy lẫn đêm, để ngăn chặn hoặc đề phòng ta đánh vào sân bay. Nhưng ra vẫn an toàn, chúng không đánh trúng.
    -Liệu bao giờ thì đến đây?
    -Khoảng mười ngày nữa, hay hơn một ít, nếu không gặp trở ngại gì lớn.
    Hôm nay, hầu hết các đồng chí trong bộ tư lệnh chiến dịch đều có mặt, kể cả đồng chí Lê Đức Thọ. Một tấm bản đồ một trăm phần nghìn, treo đứng, dăng ra quá nửa chiều ngang của phòng họp khá rộng. Phía trên cùng viết đậm nét dòng chữ: ?oQuyết tâm chiến dịch Sài Gòn-Gia Định?.
    Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, quyền tham mưu trưởng chiến dịch báo cáo toàn bộ kế hoạch và đề nghị Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho Quân đoàn. Đồng chí nói qua về tình hình địch, nêu lên một vài chi tiết thay đổi vừa mới nhận được, và đi thẳng vào vấn đề:
    -Nhìn chung, hướng bắc là hướng đột phá chính. Nhưng trên hướng này có hai hướng: tây bắc và đông bắc. Giữa hai hướng này thì tây bắc là hướng đột phá chủ yếu, do Quân đoàn Tây Nguyên đảm nhiệm.
    Trên đường tiến về Sài Gòn-Gia Định, Quân đoàn phải giải quyết một loạt các căn cứ lớn: Củ Chi, Đồng Dù. Trong tung thâm, còn phải giải quyết trại Quang Trung, một trung tâm huấn luyện, rồi mới thọc được vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là mục tiêu chủ yếu của quân đoàn, nhưng chưa phải là cuối cùng. Làm xong nhiệm vụ này, nếu có điều kiện, thì phát triển sang Bộ Tổng tham mưu, phối hợp với các đơn vị bạn, từ phía đông bắc đánh xuống và cuối cùng, phái một mũi thọc sâu vào dinh Độc Lập.
    Vốn đã từng công tác với nhau lâu ngày ở Cục tác chiến và cũng đã cùng tham gia nhiều chiến dịch lớn trước đây: Quảng Trị, Đường 9-Nam Lào, Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, nên anh em đều biết thiếu tướng Vũ Lăng là người rất ?okhó tính? cái khó tính của một người chỉ huy giầu kinh nghiệm. Anh tìm hiểu rất kỹ, suy tính, cân nhắc các mặt, từng ly từng tý một. Cơ quan tham mưu chiến dịch, sẵn sàng chờ đón những câu hỏi hắc búa của anh, chẳng hạn như: sơ đồ các vị trí địch, tình hình công sự, cách bố phòng, quy luật hoạt động, quy luật tiếp viện, tình hình các đơn vị đặc công được cấp trên phối thuộc cho Quân đoàn, các mặt bảo đảm cho Quân đoàn v.v? Giá có hỏi thì cũng chẳng có thể trả lời hết được, vì anh em trong cơ quan cũng đều chân ướt chân ráo mới đến đây như các anh cả thôi. Quân, tướng thì còn ở đâu đâu; đạn dược thì cũng chỉ mới nắm được trên kế hoạch, qua điện đài, chưa nhìn tận mắt, chưa sờ tận tay.
    Cũng không ai còn lạ gì cách làm việc của Bộ tư lệnh Quân đoàn nữa. Vừa vào đến nơi tập kết, mới được trên khêu gợi quân đoàn sẽ đảm nhiệm hướng tây bắc thành phố Sài Gòn, Bộ tư lệnh đã tranh thủ tiến hành ngay công tác điều tra các vị trí, đường sá, nhất là cầy Bông, cầu Sáng và những trở ngại chủ yếu nhất trên hướng này rồi. Thực ra, thì cũng chẳng phải chỉ có quân đoàn mới tranh thủ triển khai công tác song song với trên mà thôi; cả đến sư đoàn, trung đoàn, cấp nào cũng tranh thủ từng giờ từng phút, sớm tý nào hay tý ấy. Thậm chí các đồng chí Bộ tư lệnh sư đoàn 10, trong lúc đơn vị còn đang lang thang trên đường hành quân, cũng đã phái một số cán bộ bứt lên trước để nhận, tìm hiểu, nhiệm vụ, và cũng bắt đầu triển khai công tác chuẩn bị. Cán bộ ta, tuy chưa phải tất cả được qua các trường đào tạo chính quy, nhưng nhờ kinh nghiệm qua tác chiến nhiều năm, nên rất hiểu tình hình, tác phong công tác và chiến đấu của nhau và cũng đã xây dựng được nền nếp công tác vừa chặt chẽ, vừa có hiệu quả. Bây giờ không phải là công tác thammưu hai ba cấp song song mà thôi; mà tất cả mọi cấp đều tiến hành cùng một lúc, theo một phương án chung, nên rút ngắn được rất nhiều thời gian chuẩn bị.
    Khi thông qua kế hoạch tác chiến, lần này anh Tuấn không nói đến cách tổ chức chiến đấu của từng cánh quân, đội hình chiến đấu ra sao, mà thấy nhắc nhiều đến vấn đề nắm chắc lực lượng, đôn đốc công tác chuẩn bị và kỷ luật bộ đội khi vào thành phố. Nghe giọng nói và nhìn qua ánh mắt, thấy bừng lên một niềm tin vững chắc: cái mục tiêu to lớn kia cũng là mục tiêu cuối cùng của chiến dịch và của cả cuộc chiến tranh đằng đẵng bấy nhiêu năm, nhất định sẽ giải quyết được. Thật là khác hẳn với hồi đánh Buôn Ma Thuột. Lúc ấy sắp đến giờ nổ súng rồi, mà còn phải cứ thấp thỏm nghe ngóng: có đơn vị biệt động quân, hay đơn vị dù nào bất thình lình đến tăng cường cho thị xã này thì sao, phương án 1 hay là phương án 2 đây??
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Sau này được biết, vừa nhận được điện của anh Sáu Thọ, các đồng chí Võ Chí Công và thượng tướng Chu Huy Mân đã họp ngay cơ quan lại để bàn việc thực hiện. Tuy bận rất nhiều công việc, nào phải lo tiếp quản các tỉnh và thành phố, ổn định đời sống cho hàng mấy triệu dân ở vùng giải phóng, Khu uỷ Khu 5 vẫn đặt vấn đề chi viện đạn dược cho chiến dịch lên hàng đầu. Quân uỷ Khu uỷ đã tập trung tất cả cán bộ, phương tiện, khả năng sẵn có, lập ra ban kiểm tra đạn pháo, và từng ngày ngày, từng giờ đôn đốc việc thực hiện. Kết quả là mấy hôm sau, thiếu tướng Võ Thứ, phó tư lệnh khu và đồng chí Giang chủ nhiệm hậu cần quân khu 5 đang kẻ trước người sau, áp tải một đoàn xe hàng trăm chiếc, chở đầy đạn dược, đúng theo yêu cầu, đến bàn giao cho Quân đoàn Quyết Thắng giữa tiếng reo hò của toàn đơn vị, vì giờ xuất kích sắp đến nơi rồi, mà chỉ còn không đầy một cơ số đạn dược mang theo. Nắng hạn gặp mưa rào!
    Những trận mưa đầu mùa, đã bắt đầu gây khó khăn cho việc tập kết lực lượng. Trên cánh tây nam, một khó khăn nữa của Đoàn 232 là phải vượt sông Vàm Cỏ. Theo kế hoạch đến giờ nổ súng, sư đoàn 3 phải vượt sông, mở cửa, đánh chiếm đầu cầu ở An Ninh, Lộc Giang, để bảo đảm cho sư đoàn 9 và các đơn vị binh khí kỹ thuật sang sông, kịp đưa đội hình lên đánh vào thành phố. Trong lúc này đối phương đã đề phòng, họ lại có sẵn phi pháo, còn các binh khí kỹ thuật của ta thì nặng nề, khi tài thiếu, đường sá ít, lại xấu, tai ác nhất là bưng sình, bùn lầy nhiều. Thiếu tướng Nguyễn Minh Châu và toàn bộ cơ quan tham mưu, kỹ thuật, hậu cần, từ cán bộ đến chiến sĩ, đếm ngày túc trực ở bãi sông, chỉ huy từng chuyến phà để kịp thời đưa toàn bộ lực lượng vượt sông an toàn. Trên hướng bắc, đứng giữa ngầm Bến Bầu, nhìn những đám mây đen, mỗi buổi chiều ùn ùn trên phía thượng nguồn Sông Bé, cả Bộ tư lệnh Quân đoàn Quyết Thắng ngồi đứng không yên. Nước sông cứ dâng lên từng phút một, gần lút cả bánh xe, chỉ cần lên cao vài tấc nữa, có lẽ toàn quân đoàn sẽ bị chôn chân ở phía bắc sông, vì không còn có con đường nào nữa để vòng tránh mà vào vị trí tập kết được. Lực lượng công binh, dù đoàn Trường Sơn đã tận tình giúp đỡ, tăng cường thêm máy móc, cũng không thể bắc cầu, hay ghép phà, vì lòng sông hẹp, bờ cao nhất nước chảy rất xiết. Thỉnh thoảng một vài chiếc máy bay A37 đến ném bom. May thay trời cũng chiều người, trước giờ xuất kích, toàn bộ đội hình đã xuống hết phía nam sông, sẵn sàng chờ lệnh.
    Chiều ngày 12 tháng 4, Bộ tư lệnh Quân đoàn Tây Nguyên đến sở chỉ huy chiến dịch nhận nhiệm vụ. Mới xa nhau hơn nửa tháng trời, mà trông đồng chí nào cũng gầy sọm lại, da rám nắng, đen nhưng lại rắn rỏi hơn. Vẻ mặt ai nấy đều hân hoan, phấn khởi. Bắt tay đồng chí Đặng Vũ Hiệp, hai chúng tôi chào nhau bằng một tiếng lóng: ?oYên chí!?. Như thế có nghĩa là các anh cứ việc đánh đi, mọi việc đã có tôi la. Bê ngoài thì nói thế thôi, nhưng trong lòng thì lại sốt ruột: công tác chuẩn bị, bảo đảm các mặt cho quân đoàn, lần này không được đầy đủ như ở Buôn Ma Thuột trước đây.
    Vừa ngồi xuống ghế, anh Tuấn hỏi ngay:
    -Có tin tức gì về Hồ Đệ không?-tức là sư đoàn 10. Đi chiến dịch, anh emt hường lấy tên của tư lệnh thay cho tên của đơn vị.
    -Báo cáo đang làm đường vòng lên đường quốc lộ 11. Mấy hôm vừa rồi, máy bay ở Thành Sơn lùng sục bắn phá cả ngãy lẫn đêm, để ngăn chặn hoặc đề phòng ta đánh vào sân bay. Nhưng ra vẫn an toàn, chúng không đánh trúng.
    -Liệu bao giờ thì đến đây?
    -Khoảng mười ngày nữa, hay hơn một ít, nếu không gặp trở ngại gì lớn.
    Hôm nay, hầu hết các đồng chí trong bộ tư lệnh chiến dịch đều có mặt, kể cả đồng chí Lê Đức Thọ. Một tấm bản đồ một trăm phần nghìn, treo đứng, dăng ra quá nửa chiều ngang của phòng họp khá rộng. Phía trên cùng viết đậm nét dòng chữ: ?oQuyết tâm chiến dịch Sài Gòn-Gia Định?.
    Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, quyền tham mưu trưởng chiến dịch báo cáo toàn bộ kế hoạch và đề nghị Bộ tư lệnh giao nhiệm vụ cho Quân đoàn. Đồng chí nói qua về tình hình địch, nêu lên một vài chi tiết thay đổi vừa mới nhận được, và đi thẳng vào vấn đề:
    -Nhìn chung, hướng bắc là hướng đột phá chính. Nhưng trên hướng này có hai hướng: tây bắc và đông bắc. Giữa hai hướng này thì tây bắc là hướng đột phá chủ yếu, do Quân đoàn Tây Nguyên đảm nhiệm.
    Trên đường tiến về Sài Gòn-Gia Định, Quân đoàn phải giải quyết một loạt các căn cứ lớn: Củ Chi, Đồng Dù. Trong tung thâm, còn phải giải quyết trại Quang Trung, một trung tâm huấn luyện, rồi mới thọc được vào sân bay Tân Sơn Nhất. Đây là mục tiêu chủ yếu của quân đoàn, nhưng chưa phải là cuối cùng. Làm xong nhiệm vụ này, nếu có điều kiện, thì phát triển sang Bộ Tổng tham mưu, phối hợp với các đơn vị bạn, từ phía đông bắc đánh xuống và cuối cùng, phái một mũi thọc sâu vào dinh Độc Lập.
    Vốn đã từng công tác với nhau lâu ngày ở Cục tác chiến và cũng đã cùng tham gia nhiều chiến dịch lớn trước đây: Quảng Trị, Đường 9-Nam Lào, Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, nên anh em đều biết thiếu tướng Vũ Lăng là người rất ?okhó tính? cái khó tính của một người chỉ huy giầu kinh nghiệm. Anh tìm hiểu rất kỹ, suy tính, cân nhắc các mặt, từng ly từng tý một. Cơ quan tham mưu chiến dịch, sẵn sàng chờ đón những câu hỏi hắc búa của anh, chẳng hạn như: sơ đồ các vị trí địch, tình hình công sự, cách bố phòng, quy luật hoạt động, quy luật tiếp viện, tình hình các đơn vị đặc công được cấp trên phối thuộc cho Quân đoàn, các mặt bảo đảm cho Quân đoàn v.v? Giá có hỏi thì cũng chẳng có thể trả lời hết được, vì anh em trong cơ quan cũng đều chân ướt chân ráo mới đến đây như các anh cả thôi. Quân, tướng thì còn ở đâu đâu; đạn dược thì cũng chỉ mới nắm được trên kế hoạch, qua điện đài, chưa nhìn tận mắt, chưa sờ tận tay.
    Cũng không ai còn lạ gì cách làm việc của Bộ tư lệnh Quân đoàn nữa. Vừa vào đến nơi tập kết, mới được trên khêu gợi quân đoàn sẽ đảm nhiệm hướng tây bắc thành phố Sài Gòn, Bộ tư lệnh đã tranh thủ tiến hành ngay công tác điều tra các vị trí, đường sá, nhất là cầy Bông, cầu Sáng và những trở ngại chủ yếu nhất trên hướng này rồi. Thực ra, thì cũng chẳng phải chỉ có quân đoàn mới tranh thủ triển khai công tác song song với trên mà thôi; cả đến sư đoàn, trung đoàn, cấp nào cũng tranh thủ từng giờ từng phút, sớm tý nào hay tý ấy. Thậm chí các đồng chí Bộ tư lệnh sư đoàn 10, trong lúc đơn vị còn đang lang thang trên đường hành quân, cũng đã phái một số cán bộ bứt lên trước để nhận, tìm hiểu, nhiệm vụ, và cũng bắt đầu triển khai công tác chuẩn bị. Cán bộ ta, tuy chưa phải tất cả được qua các trường đào tạo chính quy, nhưng nhờ kinh nghiệm qua tác chiến nhiều năm, nên rất hiểu tình hình, tác phong công tác và chiến đấu của nhau và cũng đã xây dựng được nền nếp công tác vừa chặt chẽ, vừa có hiệu quả. Bây giờ không phải là công tác thammưu hai ba cấp song song mà thôi; mà tất cả mọi cấp đều tiến hành cùng một lúc, theo một phương án chung, nên rút ngắn được rất nhiều thời gian chuẩn bị.
    Khi thông qua kế hoạch tác chiến, lần này anh Tuấn không nói đến cách tổ chức chiến đấu của từng cánh quân, đội hình chiến đấu ra sao, mà thấy nhắc nhiều đến vấn đề nắm chắc lực lượng, đôn đốc công tác chuẩn bị và kỷ luật bộ đội khi vào thành phố. Nghe giọng nói và nhìn qua ánh mắt, thấy bừng lên một niềm tin vững chắc: cái mục tiêu to lớn kia cũng là mục tiêu cuối cùng của chiến dịch và của cả cuộc chiến tranh đằng đẵng bấy nhiêu năm, nhất định sẽ giải quyết được. Thật là khác hẳn với hồi đánh Buôn Ma Thuột. Lúc ấy sắp đến giờ nổ súng rồi, mà còn phải cứ thấp thỏm nghe ngóng: có đơn vị biệt động quân, hay đơn vị dù nào bất thình lình đến tăng cường cho thị xã này thì sao, phương án 1 hay là phương án 2 đây??
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đồng chí Phạm Hùng, luôn luôn tươi cười, thân ái nhìn mọi người. Trong lời phát biểu, đồng chí đã nói lên tiếng nói của đồng bào Nam Bộ:
    ?oỞ trong này, được tin ta thắng lớn ở Tây Nguyên, Trung Bộ, ai nấy đều vui mừng, vì thấy có thể giải phóng cả miền Nam, hoàn thành trách nhiệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong năm nay. Từ khi thành lập Đảng cho đến nay, đây là giờ phút lịch sử vinh quang nhất. Đảng ta có truyền thống đoàn kết, nhân dân ta và quân đội ta có truyền thống đoàn kết Nam Bắc một nhà, nước Việt Nam là một. Đây là cơ sở bảo đảm thắng lợi của chúng ta. Chúng tôi hoan nghênh sự có mặt kịp thời của các đồng chí trên chiến trường miền Nam, hoan nghênh các đồng chí tham gia trận quyết chiến chiến lược lịch sử này, đánh vào dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa thực dân mới ở nước ta.
    Chúc các đồng chí toàn thắng!?
    Đồng chí vừa ngồi xuống, mở hộp thuốc lá sợi vàng ra, thong thả cuốn thuốc và quay sang anh Tuấn nói tiếp:
    -Làm sao để ngày sinh nhật của Bác Hồ, chúng ta có mặt ở Sài Gòn.
    Đồng chí Lê Đức Thọ bổ sung thêm:
    -Trung ương giao cho Đảng bộ miền Nam, toàn thể các lực lượng vũ trang của ta phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam trong tháng Tư này. Lúc ra đi, tôi có gặp anh Ba. Đại ý anh Ba dặn: chúng ta nhất định thắng, nhưng cũng phải đề phòng có gì trắc trở thì ở luôn trong đó, làm xong nhiệm vụ rồi hãy về. Đó là quyết tâm của Bộ Chính trị.
    Cả cuộc họp như có một luồng gió mới thoảng qua. Bầu không khí khác hẳn. Các đồng chí lãnh đạo có vẻ tâm đắc, ngồi mỉm cười, gật đầu; còn anh em thì hướng mắt vào người các đồng chí. Từ trước đế nay, chúng ta đã từng được nghe những lời động viên, cổ vũ; nhưng chưa thấy lúc nào, lời lẽ lại thiêng liêng, sâu lặng vào lòng người, như những lời vừa nói. Bộ Chính trị đã thay mặt toàn Đảng, toàn dân giao nhiệm vụ, một nhiệm vụ mà suốt cả cuộc đời chiến đấu, ai ai cũng ấp ủ, mong chờ. Quyết tâm sắt đá, dứt khoát quá: trước mắt chỉ có một con đường là chiến thắng mà thôi; thật khác hẳn với mọi lần: có thắng lớn, có thắng vừa, lại có cả thắng nhỏ với bao nhiêu chứ ?onếu? kèm theo.
    Đồng chí Lê Đức Thọ, móc từ trong túi áo bà ba đen ra một mảnh giấy nhỏ, chậm rãi đọc. Cả hội trường im phăng phắc. Mấy đồng chí cán bộ chính trị, vội vàng giở sổ công tác ra ghi chép:
    ?oAnh dặn ra đi thắng mới về,
    Phút giây cảm động, nói năng chi
    Lời anh là cả lời non nước,
    Ngàn dặm Trường Sơn sá ngại gì?
    Tan họp, mọi người ra về. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, một vài anh em trong phòng tác chiến và tôi còn nán lại một lúc. Đồng chí Hiền nói:
    -Chúng mình còn phải chọn một cát tên cho chiến dịch này. Có người hỏi:
    -Cái tên chiến dịch ?oSài Gòn-Gia Định? chưa được à?
    -Các anh trong Bộ tư lệnh chỉ thị: phải chọn một cái tên khác, cho có ý nghĩa hơn.
    Ở rừng Lộc Ninh, cây thưa, không bị bóng núi che khuất, như trên dải đất miền Trung, nên hoàng hôn đến chầm chậm. Anh em ra về, một mình tôi ngồi lại trong phòng, mải mê nhìn lên tấm bản đồ quyết tâm treo trước mặt, muốn xem kỹ lại một lần nữa những ký hiệu, phù hiệu; những mũi tên xanh, đỏ vẽ trên tấm bản đồ, xem đã thật đúng với ý định của cấp trên chưa.
    Đồng chí trợ lý phòng tác chiến ở phòng bên, chạy sang báo cho biết: có điện thoại ở thị trấn Lộc Ninh báo về; là chiều này, đã có người thấy thiếu tướng Nguyễn Hoà và thiếu tướng Hoàng Minh Thi, tư lệnh và chính uỷ Quân đoàn Quyết Thắng, đang hỏi thăm đường vào sở chỉ huy. Tôi nhẹ nhõm cả người. Lúc này mà ?otóm áo? được hai đồng chí này thì hay tuyệt; vì mấy ngày hôm nay, từ Bộ tư lệnh chiến dịch đến các cơ quan ở đây đều mong ngóng trông tin của Quân đoàn. Tôi lẩm bẩm: ?oThế là kịp rồi!? và lấy bút chì ghi nhàn nhạt phiên hiệu các sư đoàn của Quân đoàn đã được phân công trên hướng đông bắc, từ Lai Khê đến Bộ Tổng tham mưu.
    Đèn bật lên lúc nào không biết, thấy còn sang sáng, cứ tưởng hãy còn sớm. Ánh sáng đèn ống xanh xanh, dìu dịu hắt lên tấm bản đồ, làm nổi rõ ảnh Bác treo ở phía trên. Tôi nghĩ thầm: chọn một cái tên cho một chiến dịch thì có gì là rắc rối? Thường thì sau khi đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị, người ta mới làm đến việc này. Từ trước tới nay, tôi cũng đã từng làm việc này rồi: hoặc là chọn tên chiến dịch theo thời gian: chiến dịch Xuân, Hè, Thu, Đông năm nào đó; hoặc là theo không gian: Chiến dịch Quảng Trị, chiến dịch Tây Nguyên. Đây chỉ là một cái tên riêng, còn ý nghĩa thế nào thì do nội dung và kết quả của chiến dịch, chứ cái tên thì có quan hệgiò lắm đâu: Bạch Đằng, Chi Lăng sở dĩ được ghi vào sử sách là vì do những chiến thắng ở những nơi ấy đã làm cho lịch sử của dân tộc ta sang trang, nếu không thì cũng chỉ là một địa danh như trăm nghìn địa danh khác. Tết Mậu Thân mà tiếng tăm còn lưu lại, là do cuộc tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất của năm ấy, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh; nếu không, thì cũng chỉ là năm tháng thông thường thôi. Chọn tên cho chiến dịch theo kiểu đó, thì có gì mà phải đắn đo, suy nghĩ.
    Tôi đâm ra bực với mình, chỉ có một việc giản đơn như vậy mà nghĩ mãi vẫn chưa ra. Nhưng càng nghĩ, càng thấy khó.
    Tôi lại nhìn lên bản đồ quyết tâm, Tổ quốc ta dài thật. Các đồng chí ở phòng tác chiến đã dùng bút chì đỏ, tô đậm con đường mang tên Bác. Một sợi chỉ hồng xuyên suốt từ Bắc chí Nam. Con đường ấy, cách đây 12 năm, bác đã vạch ra. Tôi còn nhớ như in hình ảnh của Bác, cầm cái bút chì gõ nhè nhẹ lên tấm bản đồ nổi, nghe đồng chí Võ Bẩm và tôi báo cáo tình hình đường sá. Con đường mang tên Bác dẫn đến thành phố mang tên Bác. Như một người học trò vừa tìm được đáp số của bài toán khó, tôi ghi vào sổ công tác: ?oChiến dịch giải phóng thành phố Hồ Chí Minh?.
    Tiếng ve rộn rã lúc hoàng hôn đã tắt tự bao giờ. Tôi đứng dậy, bước ra sân. Đồng chí cảnh vệ, thập thò cạnh cửa hỏi:
    -Thủ trưởng chưa về ăn cơm à?
    -Không. Tôi còn làm việc. Chốc nữa sẽ cho cuốn bản đồ lại.
    Trăng thượng tuần lơ lửng trên vòm cây. Nhưng dòng ánh sáng xuyên qua kẽ lá, yếu ớt, vừa đủ đọng lại trên mặt đất những điểm trắng nhạt. Cả khu rừng như được khoác một tấm da báo khổng lồ, đang lay động nhè nhẹ, trước cơn gió từ phương đông thổi đến. Thoang thoảng có mùi thơm hoa rừng.
    Đang đắc chí, tôi bỗng trở lại trầm ngầm. Thì ra cái tên vừa chọn được vẫn chưa thoát ra khỏi nếp suy nghĩ cũ. Thành phố ấy, mặc dù mang tên Bắc, vẫn chỉ là một không gian như các nơi khác: Huế-Đà Nẵng v.v? thì ý nghĩa ở chỗ nào?
    Lâu ngày làm công tác ở Bộ Tổng tham mưu, tôi rất biết tính của anh Tuấn: viết, nói, phải ngắn gọn, chặt chẽ; nhất là đối với các văn kiện. Trước đấy, đã có lúc, anh bỏ cả tiếng đồng hồ ra để hướng dẫn cho chúng tôi một câu ra lệnh báo động phòng không, phải cân nhắc kỹ để không thừa, không thiếu một chữ; người nghe không hoảng hốt, vội vàng; mà cũng không thể chần chừ, chậm chạp. Bây giờ, với một cái tên chiến dịch, dài những chín từ, thì chắc là khó được cấp trên chấp thuận. Lại cũng một lẽ nữa, là vấn đề giữ bí mật quân sự. Đành rằng đến ngày hôm nay, 12 tháng 4 năm 1975, mọi người đều biết ta sẽ đánh vào Sài Gòn-Gia Định, nhưng làm công tác tham mưu, có bao giờ được phép nói trước việc mình sắp làm.
    Không thẻ lấy thời gian, không thể lấy không gian, tôi nghĩ đến việc lấy tên Người. Trong kháng chiến chống Pháp trước kia, chúng ta cũng thường làm như thế: Chiến dịch Quang Trung, chiến dịch Hoàng Hoa Thám v.v? Thậm chí ở Liên khu 5 lúc bấy giờ, trên cương vị tham mưu trưởng Liên khu, tôi cũng đã từng lấy tên các đồng chí lãnh đạo, còn sống, để đặt tên cho các chiến dịch. Cũng xin thú thực rằng, nhận thức chính trị của tôi lúc bấy giờ còn rất nông cạn, chưa hiểu, chưa hề tính đến cái ý nghĩa của một cái tên. Có những chiến dịch thành công, có những chiến dịch không thành công, cái tên là cái tên, giữa con người và chiến dịch không có một gắn bó gì mật thiết, ghép nhau lại để cho có một cái tên riêng, để sau này dễ phân biệt mà thôi.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đồng chí Phạm Hùng, luôn luôn tươi cười, thân ái nhìn mọi người. Trong lời phát biểu, đồng chí đã nói lên tiếng nói của đồng bào Nam Bộ:
    ?oỞ trong này, được tin ta thắng lớn ở Tây Nguyên, Trung Bộ, ai nấy đều vui mừng, vì thấy có thể giải phóng cả miền Nam, hoàn thành trách nhiệm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong năm nay. Từ khi thành lập Đảng cho đến nay, đây là giờ phút lịch sử vinh quang nhất. Đảng ta có truyền thống đoàn kết, nhân dân ta và quân đội ta có truyền thống đoàn kết Nam Bắc một nhà, nước Việt Nam là một. Đây là cơ sở bảo đảm thắng lợi của chúng ta. Chúng tôi hoan nghênh sự có mặt kịp thời của các đồng chí trên chiến trường miền Nam, hoan nghênh các đồng chí tham gia trận quyết chiến chiến lược lịch sử này, đánh vào dinh luỹ cuối cùng của chủ nghĩa thực dân mới ở nước ta.
    Chúc các đồng chí toàn thắng!?
    Đồng chí vừa ngồi xuống, mở hộp thuốc lá sợi vàng ra, thong thả cuốn thuốc và quay sang anh Tuấn nói tiếp:
    -Làm sao để ngày sinh nhật của Bác Hồ, chúng ta có mặt ở Sài Gòn.
    Đồng chí Lê Đức Thọ bổ sung thêm:
    -Trung ương giao cho Đảng bộ miền Nam, toàn thể các lực lượng vũ trang của ta phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam trong tháng Tư này. Lúc ra đi, tôi có gặp anh Ba. Đại ý anh Ba dặn: chúng ta nhất định thắng, nhưng cũng phải đề phòng có gì trắc trở thì ở luôn trong đó, làm xong nhiệm vụ rồi hãy về. Đó là quyết tâm của Bộ Chính trị.
    Cả cuộc họp như có một luồng gió mới thoảng qua. Bầu không khí khác hẳn. Các đồng chí lãnh đạo có vẻ tâm đắc, ngồi mỉm cười, gật đầu; còn anh em thì hướng mắt vào người các đồng chí. Từ trước đế nay, chúng ta đã từng được nghe những lời động viên, cổ vũ; nhưng chưa thấy lúc nào, lời lẽ lại thiêng liêng, sâu lặng vào lòng người, như những lời vừa nói. Bộ Chính trị đã thay mặt toàn Đảng, toàn dân giao nhiệm vụ, một nhiệm vụ mà suốt cả cuộc đời chiến đấu, ai ai cũng ấp ủ, mong chờ. Quyết tâm sắt đá, dứt khoát quá: trước mắt chỉ có một con đường là chiến thắng mà thôi; thật khác hẳn với mọi lần: có thắng lớn, có thắng vừa, lại có cả thắng nhỏ với bao nhiêu chứ ?onếu? kèm theo.
    Đồng chí Lê Đức Thọ, móc từ trong túi áo bà ba đen ra một mảnh giấy nhỏ, chậm rãi đọc. Cả hội trường im phăng phắc. Mấy đồng chí cán bộ chính trị, vội vàng giở sổ công tác ra ghi chép:
    ?oAnh dặn ra đi thắng mới về,
    Phút giây cảm động, nói năng chi
    Lời anh là cả lời non nước,
    Ngàn dặm Trường Sơn sá ngại gì?
    Tan họp, mọi người ra về. Thiếu tướng Lê Ngọc Hiền, một vài anh em trong phòng tác chiến và tôi còn nán lại một lúc. Đồng chí Hiền nói:
    -Chúng mình còn phải chọn một cát tên cho chiến dịch này. Có người hỏi:
    -Cái tên chiến dịch ?oSài Gòn-Gia Định? chưa được à?
    -Các anh trong Bộ tư lệnh chỉ thị: phải chọn một cái tên khác, cho có ý nghĩa hơn.
    Ở rừng Lộc Ninh, cây thưa, không bị bóng núi che khuất, như trên dải đất miền Trung, nên hoàng hôn đến chầm chậm. Anh em ra về, một mình tôi ngồi lại trong phòng, mải mê nhìn lên tấm bản đồ quyết tâm treo trước mặt, muốn xem kỹ lại một lần nữa những ký hiệu, phù hiệu; những mũi tên xanh, đỏ vẽ trên tấm bản đồ, xem đã thật đúng với ý định của cấp trên chưa.
    Đồng chí trợ lý phòng tác chiến ở phòng bên, chạy sang báo cho biết: có điện thoại ở thị trấn Lộc Ninh báo về; là chiều này, đã có người thấy thiếu tướng Nguyễn Hoà và thiếu tướng Hoàng Minh Thi, tư lệnh và chính uỷ Quân đoàn Quyết Thắng, đang hỏi thăm đường vào sở chỉ huy. Tôi nhẹ nhõm cả người. Lúc này mà ?otóm áo? được hai đồng chí này thì hay tuyệt; vì mấy ngày hôm nay, từ Bộ tư lệnh chiến dịch đến các cơ quan ở đây đều mong ngóng trông tin của Quân đoàn. Tôi lẩm bẩm: ?oThế là kịp rồi!? và lấy bút chì ghi nhàn nhạt phiên hiệu các sư đoàn của Quân đoàn đã được phân công trên hướng đông bắc, từ Lai Khê đến Bộ Tổng tham mưu.
    Đèn bật lên lúc nào không biết, thấy còn sang sáng, cứ tưởng hãy còn sớm. Ánh sáng đèn ống xanh xanh, dìu dịu hắt lên tấm bản đồ, làm nổi rõ ảnh Bác treo ở phía trên. Tôi nghĩ thầm: chọn một cái tên cho một chiến dịch thì có gì là rắc rối? Thường thì sau khi đã hoàn tất mọi công tác chuẩn bị, người ta mới làm đến việc này. Từ trước tới nay, tôi cũng đã từng làm việc này rồi: hoặc là chọn tên chiến dịch theo thời gian: chiến dịch Xuân, Hè, Thu, Đông năm nào đó; hoặc là theo không gian: Chiến dịch Quảng Trị, chiến dịch Tây Nguyên. Đây chỉ là một cái tên riêng, còn ý nghĩa thế nào thì do nội dung và kết quả của chiến dịch, chứ cái tên thì có quan hệgiò lắm đâu: Bạch Đằng, Chi Lăng sở dĩ được ghi vào sử sách là vì do những chiến thắng ở những nơi ấy đã làm cho lịch sử của dân tộc ta sang trang, nếu không thì cũng chỉ là một địa danh như trăm nghìn địa danh khác. Tết Mậu Thân mà tiếng tăm còn lưu lại, là do cuộc tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất của năm ấy, buộc đế quốc Mỹ phải xuống thang chiến tranh; nếu không, thì cũng chỉ là năm tháng thông thường thôi. Chọn tên cho chiến dịch theo kiểu đó, thì có gì mà phải đắn đo, suy nghĩ.
    Tôi đâm ra bực với mình, chỉ có một việc giản đơn như vậy mà nghĩ mãi vẫn chưa ra. Nhưng càng nghĩ, càng thấy khó.
    Tôi lại nhìn lên bản đồ quyết tâm, Tổ quốc ta dài thật. Các đồng chí ở phòng tác chiến đã dùng bút chì đỏ, tô đậm con đường mang tên Bác. Một sợi chỉ hồng xuyên suốt từ Bắc chí Nam. Con đường ấy, cách đây 12 năm, bác đã vạch ra. Tôi còn nhớ như in hình ảnh của Bác, cầm cái bút chì gõ nhè nhẹ lên tấm bản đồ nổi, nghe đồng chí Võ Bẩm và tôi báo cáo tình hình đường sá. Con đường mang tên Bác dẫn đến thành phố mang tên Bác. Như một người học trò vừa tìm được đáp số của bài toán khó, tôi ghi vào sổ công tác: ?oChiến dịch giải phóng thành phố Hồ Chí Minh?.
    Tiếng ve rộn rã lúc hoàng hôn đã tắt tự bao giờ. Tôi đứng dậy, bước ra sân. Đồng chí cảnh vệ, thập thò cạnh cửa hỏi:
    -Thủ trưởng chưa về ăn cơm à?
    -Không. Tôi còn làm việc. Chốc nữa sẽ cho cuốn bản đồ lại.
    Trăng thượng tuần lơ lửng trên vòm cây. Nhưng dòng ánh sáng xuyên qua kẽ lá, yếu ớt, vừa đủ đọng lại trên mặt đất những điểm trắng nhạt. Cả khu rừng như được khoác một tấm da báo khổng lồ, đang lay động nhè nhẹ, trước cơn gió từ phương đông thổi đến. Thoang thoảng có mùi thơm hoa rừng.
    Đang đắc chí, tôi bỗng trở lại trầm ngầm. Thì ra cái tên vừa chọn được vẫn chưa thoát ra khỏi nếp suy nghĩ cũ. Thành phố ấy, mặc dù mang tên Bắc, vẫn chỉ là một không gian như các nơi khác: Huế-Đà Nẵng v.v? thì ý nghĩa ở chỗ nào?
    Lâu ngày làm công tác ở Bộ Tổng tham mưu, tôi rất biết tính của anh Tuấn: viết, nói, phải ngắn gọn, chặt chẽ; nhất là đối với các văn kiện. Trước đấy, đã có lúc, anh bỏ cả tiếng đồng hồ ra để hướng dẫn cho chúng tôi một câu ra lệnh báo động phòng không, phải cân nhắc kỹ để không thừa, không thiếu một chữ; người nghe không hoảng hốt, vội vàng; mà cũng không thể chần chừ, chậm chạp. Bây giờ, với một cái tên chiến dịch, dài những chín từ, thì chắc là khó được cấp trên chấp thuận. Lại cũng một lẽ nữa, là vấn đề giữ bí mật quân sự. Đành rằng đến ngày hôm nay, 12 tháng 4 năm 1975, mọi người đều biết ta sẽ đánh vào Sài Gòn-Gia Định, nhưng làm công tác tham mưu, có bao giờ được phép nói trước việc mình sắp làm.
    Không thẻ lấy thời gian, không thể lấy không gian, tôi nghĩ đến việc lấy tên Người. Trong kháng chiến chống Pháp trước kia, chúng ta cũng thường làm như thế: Chiến dịch Quang Trung, chiến dịch Hoàng Hoa Thám v.v? Thậm chí ở Liên khu 5 lúc bấy giờ, trên cương vị tham mưu trưởng Liên khu, tôi cũng đã từng lấy tên các đồng chí lãnh đạo, còn sống, để đặt tên cho các chiến dịch. Cũng xin thú thực rằng, nhận thức chính trị của tôi lúc bấy giờ còn rất nông cạn, chưa hiểu, chưa hề tính đến cái ý nghĩa của một cái tên. Có những chiến dịch thành công, có những chiến dịch không thành công, cái tên là cái tên, giữa con người và chiến dịch không có một gắn bó gì mật thiết, ghép nhau lại để cho có một cái tên riêng, để sau này dễ phân biệt mà thôi.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trên bản đồ quyết tâm, ở khu vực Sài Gòn-Gia Định, nhiều mũi tên đỏ đâm thẳng quả tim của thủ đô nguỵ, nhưng mới đậm nét đến Chơn Thành phía bắc Sài Gòn. Tim tôi bỗng thắt lại. Tôi nhìn lên bức ảnh: đường mang tên Bác mà Bác chưa được đi trên con đường ấy. Đã có lần trên đã có lệnh phải chuẩn bị cho Bác đi. Xe cộ đã sẵn sàng, người phục vụ đầy đủ, nhưng rồi lại thôi. Có ai như Bác đi, từ Sài Gòn ra Hà Nội mà phải vòng quanh cả quả đất, từ bến Nhà Rồng ra đi, vượt qua muôn núi nghìn sông, hết mấy mươi năm trời lặn lội trong phong ba bão táp. Bác trở về đất mẹ, vẻn vẹn một nắm đất trong tay, nhưng mang trong người chủ nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng để làm vũ khí cứu nước cứu dân. Cho đến lúc từ giã chúng ta ra đi. Người vẫn chưa khép kín được hành trình. Đây là điều Người còn bịn rịn và mỗi chúng ta đều ân hận: không làm thế nào để rút ngắn cuộc kháng chiến được năm bảy năm, để người được toại nguyện:
    Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
    Miền Nam mong Bác nỗi mong cha?
    Nhìn lên ảnh Bác, tôi nhớ từng lời, từng cử chỉ nhỏ của Người. Trong những năm chiến tranh phá hoại, từng thời gian tôi được phép sang báo cáo với Bác tình hình chiến sự; khi ở phòng làm việc, khi ở trước sân, và có khi ở ngay trước cửa hầm trú ẩn. Có lần, sau hồi còi báo an, tôi dìu Bác từ dưới hầm lên, áp đầu dưới vòng tay của Bác. Tai tôi nghe rất rõ tiếng tim đập của Người. Mỗi lần làm việc xong, Bác thường cho hộp thuốc lá, mang về chia cho anh em trong Cục. Mỗi lần đi xa về, Bác thường có quà cho cán bộ, chiến sĩ trong Cục tác chiến: mấy gói kẹo, mấy quả lê, táo và không bào giờ quên món quà thuốc lá.
    Lời phát biểu của đồng chí Phạm Hùng lúc ban chiều: ?oLàm sao đến lúc kỷ niệm ngày sinh của Bác Hồ, chúng ta có mặt được ở Sài Gòn? hãy còn văng vẳng bên tai. Tôi tính nhẩm: còn 38 ngày nữa mới đến ngày sinh nhật của Người. Các binh đoàn đang lần lượt tiến vào khu tập kết. Bộ Chính trị đã phê chuẩn: ngày 27 tháng 4 bắt đầu nổ súng. Làm thế nào kết thúc được trong tháng Tư? Từ ngày Bác gieo hạt giống cách mạng vào đất nước, tháng Nam đã trở thành một tháng độc đáo, có rất nhiều sự kiện lịch sử. Mồng một: Quốc tế lao động; mồng bảy: chiến thắng Điện Biên Phủ; 19: sinh nhật Bác. Và sẽ đến ngày nào đấy: giải phóng hoàn toàn đất nước? Về thời gian, cũng như về không gian, chiến dịch sắp đến phải gắn liền với tên tuổi của Bác. Người tôi nóng ran, bàng hoàng, xúc động. Ngước mắt nhìn lên thấy Bác trong khung ảnh, thanh thản lạ thường. Mái tóc bạc phơ viền quanh cái trán rộng, như một vầng hào quang toả sáng; đôi mắt sáng với cái nhìn hiền dịu bao dung. Bác đang giơ cao tay, vẫy gọi cháu con. Tay Người với ra tận Trường Sơn, vượt trên núi rừng trùng điệp, giục giã đoàn Quân Tiên phong, Quân đoàn Tây Nguyên đang lao như tên bắn phía trước, bất chấp nắng mưa dãi dầu. Rừng núi đang chuyển mình. Tay Người với ra tận Khu 5 dằng dặc trên biển Đông xa xôi, thôi thúc Quân đoàn Hương Giang, bộ đội Khu 5, bộ đội Hải quân đạp bằng mọi trở ngại, chông gai dọc đường, thần tốc về đây; tay Người với xuống đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ, bắt nhịp cho quân và dân những nơi này nổi dậy với khí thế triều dâng, thác đổ, nhận chìm cơ đồ của Mỹ Thiệu đã xây dựng từ bao nhiêu năm nay, trên mảnh đất thân yêu này, để nhanh chóng về họi sư tạ Sài Gòn-Gia Định; tay Người dang rộng ra miền Bắc, thúc đẩy hậu phương lớn, dồn ra tiền tuyến lớn, tất cả những gì quý nhất, tốt nhất, đảm bảo đầy đủ cho trận quyết chiến cuối cùng này. Người đứng đó như một nhạc trưởng, mà nhạc công là toàn thể dân tộc Việt Nam, và bản giao hưởng phát ra lại có một sức mạnh tổng hợp lay trời chuyển đất:
    Ý nghĩa của một cái tên, như Bộ tư lệnh chiến dịch đã hướng dẫn, không phải chờ cho đến lúc đánh xong rồi, chiến thắng vang dội rồi, tổng kết, mới nhận ra được như trước đây có lần ta đã làm; mà ngay từ bây giờ, trong thời kỳ chuẩn bị hết sức khẩn trương này, cái tên ấy phải có một ý nghĩa, phải có một sức mạnh kỳ diệu, làm chấn động lòng người.
    Thám Mười đẹp nhất hoa sen
    Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
    Tôi lại giở sổ công tác, lấy bút chì gạch bốn từ: ?ogiải phóng thành phố? và tô đậm nét ?oChiến dịch Hồ Chí Minh?. Công việc hãy chưa xong. Bài toán đã tìm ra đáp số, còn phải thử đi thử lại nhiều lần. Với tất cả người Việt Nam chúng ta, tên Bác thiêng liêng quá. Nói về mục đích, ý nghĩa, quy mô của chiến dịch, thì xứng đáng được mang tên Bác rồi; nhưng còn phải cân nhắc kỹ: chiến dịch phải bảo đảm chắc thắng trăm phần trăm và quán triệt tư tưởng, đạo đức, chữ ?onhân? của Người.
    Khi chiều, đồng chí Lê Đức Thọ đã truyền đạt quyết tâm của Bộ Chính trị: trận này không thắng, không trở về. Cũng như tất cả anh em trong cơ quan tham mưu chiến dịch, tôi tuyệt đối tin tưởng vào chiến thắng sắp đến. Với cái thế quân sự, chính trị như bây giờ, với cách bố trí lực lượng trên các cánh, với cách giải quyết các mục tiêu, với sự chuẩn bị vê mọi mặt, thì chính quyền Sài Gòn ngày càng bị trói chặt, như con cá nằm trên thớt mà thôi. Sáu mũi tên, như sáu mũi kiếm, nhọn, sắc và rất mạnh, thế nào cũng chọc được vào đến hang ổ cuối cùng là dinh Độc Lập; thời gian dứt điểm có thể nhanh chậm, trước sau chút ít mà thôi. Bác ơi! Cháu con của Bác đã thực hiện đầy đủ bốn điều ?onhất định? mà Bác để lại khi ra đi: ?oDù khó khăn gian khổ đến m,ấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi; đế quốc Mỹ nhất định phải rút khỏi nước ta; Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất; đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà?.
    Nghĩ đến tư tưởng, đạo đức của Bác, tôi còn có chỗ lo lo. Tư tưởng của Bác cao vời vợi, đạo đức của bác trong sáng như pha lê. Tất cả chúng ta đều biết tấm lòng thương yêu, độ lượng không bờ bến của Người đối với đồng bào miền Nam nói chung và đồng bào Sài Gòn-Gia Định nói riêng, ?oMiền Nam ở trong trái tim tôi?. Làm thế nào để trong chiến dịch lịch sử này, tránh được mọi điều va vấp, tránh được tên bay, đạn lạc cho đồng bào, để mãi mãi sau này, mỗi lần nói đến chiến thắng mang tên Bác, mọi người dân Việt Nam đều thấy vinh dự tự hào, mọi gia đình đều không chút bận lòng, thương tiếc.
    Tôi đặt nhiều tin tưởng vào kế hoạch tác chiến cụ thể đối với từng mục tiêu; tôi càng tin tưởng vào trình độ kỹ chiến thuật của các đơn vị; và biết rằng từ Tết Mậu Thân đến này, đồng bào ở đây đã kinh qua khá nhiều lần thử thách, đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm, không phải chỉ trong đấu tranh chống địch, mà cả trong công tác phòng tránh, để tự bảo vệ mình nữa. Bốn triệu dân Sài Gòn sẽ được bình yên.
    Sáng hôm sau, đồng chí Lê Ngọc Hiền, vừa thấy mặt, đã hỏi ngay. Nghe báo cáo xong, đồng chí trả lời ngay như đã suy nghĩ từ trước:
    -Tán thành: chiến dịch Hồ Chí Minh.
    Các đồng chí Út Thới, Sáu Long, nguyên Tuyến, Hoàng Dũng, đứng bên cạnh, nhất trí với đề nghị. Báo cáo lên Bộ tư lệnh, cũng được chấp thuận và lập tức điện xin ý kiến Bộ Chính trị. Ngày 14 tháng 4, được trả lời:
    Đồng ý, tên chiến dịch sắp đến là Chiến dịch Hồ Chí Minh.

Chia sẻ trang này