1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiếng Việt có 6 thanh hay 8 thanh? (phần II)

Chủ đề trong 'Tiếng Việt' bởi cuonglhvt, 19/06/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Tiếng Việt có 6 thanh hay 8 thanh? (phần II)

    Cách đây khoảng 4 năm, tôi có đặt vấn đề (tốt làm [​IMG]) này ra. http://5nam.ttvnol.com/tiengviet/297386.ttvn Thực ra vấn đề đã được nhiều nhà nghiên cứu nói đến trước đây rồi. Tôi xin đăng bài của cụ Phan Khôi trích trong quyển Việt Ngữ Nghiên cứu (Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2005).
    Note: Toàn bộ thông tin về bài này tôi không tự type mà sao từ một trang web sau khi đã đối chiếu với bản chính. Tôi xin phép không dẫn link ra đây.
  2. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Phân tích vần quốc ngữ Ta gọi "Vần quốc ngữ", theo thói quen xưa nay, gồm có: 23 tự mẫu hay chữ cái, 12 nguyên âm và vần xuôi, vần ngược, và năm dấu: huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng. Gọi "vần xuôi", vì mỗi "vần" phụ âm ở đầu nguyên âm ở cuối; "vần ngược", vì mỗi "vần", phụ âm ở cuối, nguyên âm ở đầu. Xuôi ngược là nghĩa như thế, theo ước lệ, không cần có lý luận. Nhưng gọi "vần", thì thật không có nghĩa gì cả, vì đó chưa phải là "vần". Tuy vậy, cái danh từ đã thông dụng lâu rồi, đổi đi không tiện, cho nên ở đây cũng cứ gọi là "Vần quốc ngữ". Vần quốc ngữ đã được đặt ra như thế, là do người đời xưa sau khi có một cuộc tổ chức bằng lý trí có vẻ tổng hợp rồi mới đặt ra. Nay chưa nói đến nó đã hoàn toàn hợp lý chưa, hẵng cứ công nhận nó như thế, song nếu không đem phân tích ra cho kỹ thì không sao thấy được cái công dụng của mỗi phần tử trong cuộc tổng hợp ấy, nhân đó cũng không nhìn biết được cái giá trị thật của vần quốc ngữ nữa, cho nên cần phải phân tích nó. Tự mẫu hay chữ cái a, b, c, d, đ, e, g, h, i, y, k, l, m, n, o, p, q, r, s, t, u, v, x: cộng 23 chữ cái. Trong đó có nguyên âm và phụ âm. Nguyên âm a, ă, â, e, ê, i, y, o, ô, ơ, u, ư; cộng 12 chữ. Trong 12 chữ ấy ă, â, sinh ra bởi a, ê bởi e, ô, ơ bởi o, ư bởi u, vì lẽ không sinh ra thêm thì không đủ dùng. Nhưng tự trung, ă, â, không phải là nguyên âm độc lập, vì ă, thuộc về a, â thuộc về ơ, coi như khi viết không viết bă, khi viết bớ không viết thì đủ biết. Y tuy độc lập những cũng chỉ là i kéo dài ra và thuộc về i. Vậy ba âm ă, â, y phải kể là nguyên âm bất hoàn toàn. Rốt lại 12 nguyên âm chỉ còn có 9. Nguyên âm ghép Hai hay ba nguyên âm đi với nhau làm một, gọi là nguyên âm ghép, như ai, âu, eo, êu, oa oeo, ui, uôi v.v... Đó là những âm ở trong vần ngược, nhưng thực ra thì cũng là những nguyên âm do nguyên âm đơn sinh ra để cho đủ dùng trong tiếng nói đó thôi. Công dụng của nó cũng như nguyên âm đơn. Nguyên phụ âm Nguyên phụ âm cũng là những âm ở trong vần ngược, ghép bằng một hay hai nguyên âm ở đầu với một hay hai phụ âm ở cuối, như ac, it, ôn, uôn, ang, oanh, ương v.v... Công dụng của nó cũng như nguyên âm ghép, khác nhau chỉ ở chỗ: nguyên âm ghép dùng mấy nguyên âm ghép nhau, đọc nhanh nảy ra âm thứ ba, còn nguyên phụ âm thì cũng thế, mà cái phụ âm ở cuối còn làm như cái bánh lái để bẻ theo chiều cái âm mình muốn phát. Vậy trong những âm này có từng chiều của nó, tức là:


    Phụ âm B, c, ch, d, đ, g, gi, gh, h, k, kh, l, m, n, ng, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x: cộng 26 chữ. Những phụ âm này dùng đứng đầu nguyên âm, nguyên âm ghép hay nguyên phụ âm, làm cho tiếng nói càng nảy nở thêm nhiều ra và đủ điều kiện sinh ra vần. Trong hết thảy phụ âm trên đây có những phụ âm đôi ba như ch, ghi, ngh v.v... là vì phần phụ âm đơn không đủ dùng nên phải ghép mà đặt thêm ra, chứ không đồng một tính chất với phụ âm kép dr, pl, tr, trong tiếng ngoại quốc, bởi vậy dù nó có đôi ba cũng cứ coi như một. Lại, điều này rất quan hệ, phải biết: phụ âm chưa phải là âm; chỉ khi nào nó đứng đầu nguyên âm, nguyên âm ghép hay nguyên phụ âm thì mới thành âm mà thôi. Lệ như: b chưa phải là âm, mà ba, beo, buôn mới là âm vậy. Âm giai Hết thảy các âm: nguyên âm, nguyên âm ghép, nguyên phụ âm, chia làm hai loại: bình và trắc, nguyên âm (trừ ă, â ra) nguyên âm ghép và những nguyên phụ âm tận cùng bằng ng, nh, m, n thuộc về loại bình; còn những nguyên phụ âm tận cùng bằng c, ch, p, t thuộc về loại trắc (đây chưa nói đến bình trắc của năm dấu). Những âm bình ấy không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, kéo dài ra thành bốn thanh, tám giọng phù (nổi) trầm (chìm), tức là cung bậc của nó, cũng tức là từ không dấu đến năm dấu theo thứ tự ấy gọi là âm giai. Lệ như a, à, ả, ã, á, ạ; beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo; ang, àng, áng, ảng, ãng, ạng; ác, ạc; thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh; thách, thạch v.v... Âm hệ Do âm giai sinh ra âm hệ. Theo như trên mới vừa nói thì đã rõ, có hai thứ âm hệ: Một thứ nguyên âm hay nguyên âm ghép, không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, chỉ có sáu âm giai; một thứ nữa: nguyên phụ âm theo từng chiều của nó, tức là bốn chiều, ng-c, nh-ch, m-p, n-t, không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, thì có cho đến tám âm giai. Thứ âm hệ trên gọi là âm hệ sáu, thứ âm hệ dưới gọi là âm hệ tám. Âm hệ của mỗi âm Bất kỳ thứ âm nào, mỗi âm, không cứ thuộc về âm hệ sáu hay âm hệ tám, không cứ có phụ âm đứng đầu nó hay không, đều theo âm giai của nó mà có âm hệ riêng. Vậy như: âm hệ a gồm có a, à, ả, ã, á, ạ; âm hệ beo gồm có beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo; âm hệ ang gồm có ang, àng, ảng, áng, ạng, ác, ạc; âm hệ thanh gồm có thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh, thách, thạch, v.v... Hay là nói một cách khác: ạ, à, ã, á, ạ, thuộc về âm hệ a; beo, bèo, bẻo, bẽo, béo, bẹo, thuộc về hệ beo; ang, àng, ảng, ãng, áng, ạng, ác, ạc thuộc về âm hệ ang; thanh, thành, thảnh, thãnh, thánh, thạnh, thách, thạch thuộc về âm hệ thanh v.v... Trong mỗi âm hệ, không dấu và dấu huyền là bình, bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng là trắc. Xem bảng biểu dưới đây.
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 16:37 ngày 19/06/2007
  3. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Như thế, tỏ thêm ra rằng âm hệ tám có nhập thanh, còn âm hệ sáu không có nhập thanh. Lại cử lệ dưới đây một câu tám chữ đủ tám cung bậc khác nhau để khái quát các âm hệ. Bất kỳ gặp một âm có dấu gì cũng cứ bắt đầu tìm âm hệ từ không dấu: Thứ tự và sự phối hợp năm dấu với bốn thanh Hỏi: Tại sao sắp năm dấu theo thứ tự: Không dấu rồi đến huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng, rồi đến hai dấu sắc, nặng của nhập thanh? [2] Lại căn cứ vào đâu đem chúng nó phối hợp với bốn thanh và chia ra phù trầm như thế? Đáp: Ấy là theo tự nhiên của âm thanh tiếng Việt Nguyên cái luật bình trắc và bốn thanh đã có trong chữ Hán, mà nó cũng ám hiệp với tiếng ta. Cái luật ấy đã cai trị tiếng ta từ xưa, về sau có quốc ngữ mới có năm dấu, thì tự nhiên năm dấu phải phối hợp với luật ấy, miễn cho không cưỡng không sai là được. Người bắt đầu ra luật bốn thanh là Thẩm Ước ở đời Nam Bắc triều bên Trung Hoa. Một hôm ông vua hỏi: "Thế nào là bốn thanh?". Ông ấy đáp ngay rằng: "Thiên tứ thánh triết". Ta không rõ bốn chữ ấy người Trung Hoa thuở Nam Bắc triều đọc như thế nào; chứ theo tiếng ta thì đó là bốn thanh bình, thưởng [3] , khứ, nhập thuộc về giọng phù, đem đánh dấu là không [4] , hỏi, sắc, sắc - nhập; nếu thêm "thiền, tữ, thạnh, triệt", bốn thanh giọng trầm, đánh dấu là huyền, ngã, nặng, nặng - nhập nữa, thì đủ tám cung bậc của bốn thanh. Ở đây căn cứ vào sự thực và tự nhiên ấy mà đem hai cái phối hợp với nhau. Vả lại, bốn thanh chia ra tám cung bậc ăn với hai giọng phù trầm như thế, còn căn cứ ở sự liên quan giữa chúng nói với nhau nữa. Trong tiếng ta, thật thế, bốn âm có giọng phù, tức là bốn dấu "không", hỏi, sắc, sắc - nhập thường có họ với nhau; bốn âm có giọng trầm, tức là bốn dấu huyền, ngã, nặng, nặng - nhập thường có họ với nhau. Đây cử ra những chứng cứ rất chắc chắn.
    1.       Những từ ngữ có tiếng đệm tận cùng bằng ang, hễ chữ đầu là dấu sắc, dấu hỏi thì tiếng đệm ấy ắt là không dấu. Như: xốn xang, bống bang, lối lang, ngổn ngang, vẻ vang, sửa sang v.v...
    2.       Một số từ ngữ đôi, chữ trước hoặc sắc hoặc hỏi, thì chữ sau không dấu, và cái chữ trước ấy có thể hai dấu ấy thay nhau. Như: bảnh bao, bính bao; hớ hênh, hở hinh; trống không, trổng không v.v...
    3.       Một số chữ Hán Việt có thể đọc được vừa bằng dấu sắc, vừa bằng dấu hỏi. Như: cung kính, cung kỉnh, khiêm tốn, khiêm tổn, tốn phí, tổn phí; ảnh hướng, ảnh hưởng, cảm ơn, cám ơn; giải thưởng, giải thướng, yểm thế, yếm thế; tự ải, tự ái v.v...
    4.       Một số từ ngữ đôi, không dấu, dấu hỏi, dấu sắc thường đi với dấu sắc nhập. Như: trung trúc, anh ách, thin thít, háo hức, ráo riết, ấm ức; lẩn khuất, thổn thức, thẩm thoát và thổn, thẩm có thể đổi là thốn, thấm được v.v... Trên đó thấy bốn dấu giọng phù liên quan với nhau, dấu này thường đòi hỏi dấu kia, hay là dấu này có thể lẫn lộn với dấu kia.
    5.       Những từ ngữ có tiếng đệm tận cùng bằng ang, hễ chữ đầu là dấu ngã, dấu nặng thì tiếng đệm ấy ắt là dấu huyền. Như: chững chàng, bẽ bàng, phũ phàng, vội vàng, rộn ràng, gọn gàng v.v... [5]
    6.       Một số chữ Hán nguyên là nặng có thể chuyển ra Nôm là huyền. Như: lăng loạn, lăng loàn; nhất nhị, nhất nhì; lỗi nghị, lỗi nghì; mùa hạ, mùa hè; tin nhạn, tin nhàn; muôn vạn, muôn vàn; chuyển vận, chuyển vần; phỉ nguyện, phỉ nguyền v.v...
    7.       Một số chữ Hán - Việt có thể đọc được vừa bằng dấu nặng vừa bằng dấu ngã. Như: trầm tịnh, trầm tĩnh, kỵ nữ, kỹ nữ, kỵ nghệ, kỹ nghệ; giá trị, giá trĩ; cô cựu, cô cữu; tự vận, tự vẫn; dần mẹo, dần mão v.v...
    8.       Một số từ ngữ đôi, dấu huyền, dấu nặng, dấu ngã thường đi với dấu nặng nhập. Như: trùng trục, anh ách, thình thịch, ậm ực, nặn nọt, dại dột, mãi miệt, nghiệt ngã, vật vã v.v...
    Trên đó thấy bốn dấu giọng trầm liên quan với nhau, sự đòi hỏi và lẫn lộn cũng như bốn dấu trên. Những cái cử lệ trên đây nếu bị coi là sự tình cờ trong ngữ âm thì oan uổng quá. Ta nên chú ý ở những cái từ ngữ: ấm ức, ậm ực, anh ách, ành ạch, trung trúc, trùng trục, tại sao lại không nói ấm ức, ấm ực, anh ạch, ành ách, trung trục, trùng trúc - thì đủ thấy chắc chắn phù đi với phù, trầm đi với trầm là cái luật tự nhiên trong tiếng ta, không phải bịa đặt ra được mà cũng không thể cãi chối được. Cái luật phù đi với phù, trầm đi với trầm, gọi tắt là luật phù trầm. Nó còn có những điều kiện chế bớt như đồng phụ âm, đồng vận thì có thể trái luật, tức như mơ màng, rình rang, tấp nập, tách bạch v.v... Tôi có viết riêng một bài đề là "Tiếng đệm", nói những điều ấy kỹ càng lắm, ở đây chỉ dẫn chứng vừa đủ mà thôi. Xem bài "Tiếng đệm" ở sau. Tóm lại, trong tiếng ta chia ra hai loại: bình và trắc. Bình trắc lại phối hợp với bốn thanh: bình thanh thuộc về bình; ba thanh thướng, khứ, nhập thuộc về trắc. Bốn thanh lại chia ra hai giọng phù trầm thành tám cung bậc, phối hợp với năm dấu hay muốn cho tiện thì gọi ngay là tám dấu. Cả một sự tổ chức theo tự nhiên ấy biểu hiện đầy đủ trong cái biểu âm giai âm hệ như trên. Đó là thuộc về phần âm. Vận và vận hệ Do âm sinh ra vận. Vận cũng tức là vần. Mà đây mới là vần thật. Vận, lấy một nguyên âm (nguyên âm ghép, nguyên phụ âm) làm gốc, buộc thêm hai cái điều kiện: 1) hạn chế bởi bốn thanh, 2) đổi khác bởi các phụ âm đứng đầu nó mà làm thành ra. Do đó sinh ra vận hệ. Có hai thứ vận hệ. Một thứ: nguyên âm hay nguyên âm ghép làm gốc thì chỉ có hệ bình và hệ trắc; một thứ nữa: nguyên phụ âm làm gốc thì có hệ bình, hệ trắc và hệ trắc - nhập. Thứ trên gọi là vận hệ hai, thứ dưới gọi là vận hệ ba. Hệ bình, gồm phù thướng, trầm thướng, phù khứ, trầm khứ, tức là bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng, bốn cung bậc ấy làm vận với nhau. Hệ trắc, gồm phù thướng, trầm thướng, phù khứ, trầm khứ, tức là bốn dấu hỏi, ngã, sắc, nặng, bốn cung bậc ấy làm vận với nhau. Hệ trắc nhập, gồm phù nhập và trầm nhập, tức là dấu sắc - nhập và dấu nặng - nhập, hai cung bậc ấy làm vận với nhau. Nhập thanh, tuy cũng thuộc về loại trắc, nhưng nó khác nhau ở cái chữ tận cùng, chứ ấy - tức là c, ch, p, t - làm cho phát âm phải cụt và gấp, khác với những chữ kia - ng, nh, m, n - có thể kéo dài ra, cho nên không vào chung với hệ trắc được mà phải biệt riêng ra một hệ. Theo điều kiện thứ nhất, tạp âm, không phải là vận. Vậy như a với à là vận, nhưng với ả, ã, á, ạ không phải là vận, uy với ùy là vận, nhưng với ủy, ũy, úy, ụy không phải là vận; ong với òng là vận, nhưng với ỏng, õng, óng, ọng, với óc, ọc không phải là vận. Theo điều kiện thứ nhì, đọc âm không phải là vận. Vậy như a với à nếu là đồng nghĩa thì không kể là vận được, mà phải khác nghĩa, nhất là phải có những phụ âm đứng đầu nó, thành ra ba, cà, kha, thà, sa, xà v.v... thì mới là vận. Đó là nói riêng về vận hệ bình; suy ra thì biết hệ trắc là hệ trắc-nhập cũng đồng một luật ấy. Xem bảng biểu dưới đây.
     Theo như trên, muốn tìm biết bất kỳ một chữ nào thuộc về vận gì, hệ nào, dễ lắm:
    Nỗ: gốc vận Ô, hệ trắc. Lực: gốc vận ƯNG, hệ trắc nhập. Cửu: gốc vận ƯU, hệ trắc. Chiến: gốc vận IÊN, hệ trắc. Nhất: gốc vận ÂN, hệ trắc nhập. Định: gốc vận INH, hệ trắc. Thành: gốc vận ANH, hệ bình. Công: gốc vận ÔNG, hệ bình. Nói về vận như trên đây là nói theo nguyên tắc, còn khi làm thơ, làm văn, làm văn vần người ta cho ang, ương vần với nhau, ong ông, ung vần với nhau, ước, ác vần với nhau, thậm chí an vần với ang, ác vần với át, đó lại là chuyện khác, đây không nói đến. Tuy vậy, mặc dầu thế nào là ba cái vận hệ bình, trắc, trắc-nhập cũng phải phân biệt. (Viết tháng 11-1948)
    Được cuonglhvt sửa chữa / chuyển vào 16:40 ngày 19/06/2007
  4. cuonglhvt

    cuonglhvt Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/10/2003
    Bài viết:
    5.262
    Đã được thích:
    0
    Viết thêm về sau Đính chánh: Đầu bài này nói: Gọi là "Vần quốc ngữ", thật không có nghĩa gì cả, vì đó chưa phải là vần. Câu ấy tôi đã nói sai. Vì cuối bài, chính tôi đã nhận rằng, a, uy, ong là gốc vận, thêm phụ âm đứng đầu: ba, cà, pha... huy, chùy, truy... bong, còng, long... là vận, vậy thì vần xuôi ba, ca, da vần ngược ac, ăc, âc... tức là vận gốc vận, tức là vần chứ gì. Trong vần quốc ngữ, 23 tự mẫu, 12 nguyên âm và 5 dấu là phụ, mà vần xuôi ngược là chính, cho nên gọi là "Vần quốc ngữ" đúng lắm, sao lại bảo là vô nghĩa được? Sau khi viết bài này hơn một năm, tôi mới biết mình đã nói sai, nhưng không muốn chữa hẳn nguyên văn mà viết mấy lời đính chánh theo đây. (5-2-1950) Cắt nghĩa thêm: Nói: "Phụ âm chưa phải là âm, chỉ khi nào nó đứng đầu là nguyên âm, nguyên âm ghép hay nguyên phụ âm thì mới thành âm mà thôi", là nghĩa thế nào? Phụ âm, đã gọi nó là âm, sao lại nói "chưa phải là âm"? Theo ngôn ngữ học, có hai thứ tiếng tự nhiên: một là "tiếng động", như lấy cái dùi khỏ vào cây cột kêu cái "cốc", lấy cái búa nện vào hòn đá kêu "độp"; một là "tiếng nhạc" như tiếng suối reo, tiếng sáo diều. Tiếng động thì nó cấp xúc, cụt ngắn, phát ra là hết ngay. Tiếng nhạc thì nó du dương, có thể ngân dài ra bao nhiêu cũng được. Âm nhạc bắt chước thứ tiếng này mà làm thành, cho nên gọi nó là tiếng nhạc. Tự mẫu La tinh đặt ra cũng bắt chước hai thứ tiếng tự nhiên đó. Phụ âm phỏng the tiếng động, như b đọc "bờ", t đọc "tờ", phải đọc gấp và cụt, nếu ngân dài ra thì lại nhờ công năng của chữ "ơ" theo sát nó, chứ b và t vốn không có cái công năng ấy. Nguyên âm phỏng theo tiếng nhạc như a, o, có thể ngân dài ra và có thể lên bổng xuống trầm nữa, nhờ vậy trong Quốc ngữ mới có được năm dấu: huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng. Năm dấu chỉ dùng cho nguyên âm, đó là cái lý do tại sao đánh dấu phải đánh trên chữ nguyên âm. Ở chữ Hán, tiếng động là thanh, tiếng nhạc là âm, ở đây tôi nói "tiếng động", "tiếng nhạc", là dịch theo chữ Pháp cho dễ hiểu. Coi như tự điển giải: (Thanh thành văn vị chi âm) = thanh khi nào thành văn mới gọi được là âm thì đủ biết. Lấy nghiêm cách mà nói, thì phụ âm chỉ là (thanh) mà thôi, cho nên nói "chưa phải là âm". Đợi khi nó đi với nguyên âm, nghĩa là thành văn, thì nó mới thành âm được. Chữ "âm" này phải được coi trọng, nó có nghĩa là văn tự. Âm và văn tự, theo ngữ ngôn học, gọi chung là "ngữ", tiếng Pháp là (langue), chỉ cả hai sự ứng dụng: nói và viết. Nói cách cụ thể, khi anh muốn viết một chữ đọc ra là "bê", thì anh không thể viết b mà phải viết b với ê, muốn viết một chữ đọc ra là "tê", không thể viết t mà phải viết t với ê, thì anh biết cái giá trị của phụ âm kèm nguyên âm nhiều lắm. Phụ âm chưa phải là âm, cái lý do đã giải ở trên rồi. Gọi nó "phụ âm", chỉ có nghĩa là phụ với nguyên âm. Nam Bắc triều, theo lịch sử Trung Hoa, chỉ một thời kỳ dài chừng một năm (?) trước Tùy và Đường. Trong thời kỳ ấy Trung Hoa chia hai quyền thống trị. Trường Giang trở về Nam thì có Tống, Tề, Lương, Trần nối nhau, gọi là Nam Triều. Trường Giang trở về Bắc thì có Bắc Ngụy; Bắc Tề nối nhau, gọi là Bắc Triều. Thẩm Ước ở về đời Lương thuộc Nam Triều, nhưng vì Lương là một triều đại không có tiếng, vả lại về sau còn có Lương ở thời kỳ ngũ đại nữa, cho nên nói "ở đời Nam Triều" để dễ thấy rõ thời đại hơn là nói "ở đời Lương". Thẩm Ước là một văn sĩ có tiếng, lại làm quan to. Luật bốn thanh, mỗi thanh cũng có chia ra thượng và hạ, thanh tám cung bậc, giống như tiếng ta. Nhưng, tiếng Quảng Đông, về nhập thanh, lại chia làm ba, thượng nhập, trung nhập, hạ nhập, thành chín cung bậc. Còn tiếng phương Bắc, tức như tiếng Bắc Kinh, thì lại không có nhập thanh. Theo sự nghiên cứu của một vài học giả, thì tiếng phương Bắc đời xưa cũng có nhập thanh mà về sau mất đi. Tiếng ta và tiếng Tàu, cách kết cấu vốn khác nhau, nhưng về thanh âm và từ ngữ thì rất có liên quan với nhau. Về điểm này, người Việt Nam chúng ta về sau phải sang Trung Hoa ở lâu mà nghiên cứu, may ra tìm được cái dấu vết tương quan dân tộc ta với dân tộc Trung Hoa từ đời thượng cổ. Tôi tuy chưa được nghiên cứu chứ cũng có thấy trong đó một vài tia sáng, rồi đây tôi sẽ viết ra để nêu lên vấn đề. "Từ ngữ đôi", cái danh từ ấy dùng ở đây, tôi cũng thấy chưa được ổn thỏa lắm, song chưa tìm được chữ gì thích đáng hơn để thay nó. Từ ngữ đôi ở đây, tôi muốn chỉ những từ thuần Nôm mà mỗi từ có hai chữ. Sự thực, nó cũng là một thứ tiếng đệm. Xin đọc bài "Tiếng đệm" sau đây. Về vận, khi viết bài này, tôi có tranh luận với ông Đoàn Phú Tứ mất hai giờ đồng hồ. Ông Đoàn có ý chủ trương bỏ cái giới hạn bình và trắc, cho chúng nó được làm vần với nhau, miễn là cùng một gốc vận, như "lương" có thể vần với "trượng", "đình" có thể vần với "chỉnh". Nhưng tôi chủ trương trái lại, cứ vận của tiếng ta nguyên là thế nào thì để y thế ấy như trong bài này. Những thơ và phú của ta ngày xưa, về phép gieo vận, theo đúng như tôi nói đây. Chẳng những bình và trắc không được lẫn lộn mà nhập thanh cũng không được làm vận với thưởng thanh, khứ thanh. Chỉ đến Nguyễn Khắc Hiếu mới đem nhập thanh làm vận với thướng, khứ. Tôi hiện không có cuốn "Khối tình con" trong tay, không lấy mà cử lệ được, song nhớ chắc như thế. Văn vần hay thơ của người Trung Hoa đời xưa, làm bằng văn ngôn, về sự gieo vần, cũng theo đúng quy luật y như quy luật của tiếng ta. Nhưng đến ngày nay, tôi thấy trong thơ bằng bạch thoại của họ nhiều khi xóa bỏ giới hạn bình trắc, cứ hễ đồng một vận mẫu (gốc vận) thì làm vận được, giống như chủ trương của Đoàn Phú Tứ. Và gần nay, một thi sĩ trẻ tuổi miền Nam nói với tôi rằng anh đã làm mấy bài thơ gieo vận bình với trắc lộn lạo, anh lấy làm thích lắm và hỏi tôi như thế có nên không. Tôi, vì đã để ý cái chủ trương của Đoàn Phú Tứ, thơ của Nguyễn Khắc Hiếu, thơ bạch thoại của người Trung Hoa, cho nên sẵn sàng trả lời ngay rằng: Anh cứ làm đi và đưa ra công chúng đi, hễ công chúng nhận thì thơ của anh sống, mà công chúng từ chối thì nó chết. Ngữ ngôn luôn luôn biến hóa, đó mà một quy luật nhất định. Có biến hóa thì tiếng phương Bắc Trung Hoa mới mất nhập thanh đi chứ. Theo kiểu thơ bạch thoại ngày nay, có lẽ tiếng Tàu ở một thời gian lâu về sau không còn phân biệt bình trắc nữa cũng nên. Lỗ tai của người ta khác nhau, có người "thính nhanh, có người "thính" chậm. Người thính nhanh bao giờ cũng cảm thấy một cái khả năng gì về âm thanh trước người thính chậm. Có lẽ Nguyễn Khắc Hiếu, Đoàn Phú Tứ, anh thi sĩ trẻ tuổi miền Nam đều là thính nhanh hơn tôi hay cả chúng ta chăng. Hình thức văn học nó cũng biến hóa như ngữ ngôn. Nếu không biến hóa thì ba mươi năm nay chúng ta đã không có "thơ mới", "thơ bằng văn tản". Đành rằng chúng ta phải coi trọng hình thức dân tộc, nhưng nói như thế không phải là cứ bo bo giữ lấy hình thức dân tộc. Có biến hóa thì hình thức dân tộc lại càng thêm lắm vẻ. Do đó, bây giờ, cái ý kiến về "vận" của tôi cũng có thay đổi. Trong bài này chỉ đưa ra cái nguyên tắc về vận của tiếng Việt là như thế, còn sự sử dụng nó thì tùy ý người ta, không buộc phải theo đúng nguyên tắc. Anh thi sĩ miền Nam muốn làm thơ bất chấp bình trắc thì cứ làm và đưa ra công chúng đi, hễ công cúng hoan nghênh thì chẳng những thơ của anh sống mà hình thức văn học Việt Nam lại thêm được một vẻ mới. (Viết tại Hà Nội, 15-11-1954)
    --------------
    Chú thích
    [1]Dã tâm: lòng tham muốn lớn (theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh), - Chú thích của Nhà xuất bản.
    [2]Hai dấu sắc và nặng này, nên gọi nó là sắc nhập, nặng nhập để phân biệt với hai dấu sắc nặng về khứ thanh.
    [3]Chữ Hán là: Theo từ điển, chữ này khi nào nghĩa là trên thì đọc thượng, về vận dạng; khi nào nghĩa là lên thì đọc thướng, về vận dưỡng. Chữ thướng trong bốn thanh thuộc về nghĩa sau.
    [4]Chữ "không" này tức là không dấu, đây cũng coi như một dấu cho tiện hành văn.
    [5]Điều này và điều 1 ở trên, về tiếng đệm ang, chỉ nói sơ lược, muốn biết rõ hơn, xin xem bài "Tiếng đệm".
  5. RealLeVanTam

    RealLeVanTam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/06/2007
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Tôi không biết nhiều lắm trong việc này nhưng rõ ràng nếu đúng thì tiếng Việt phải có 8 thanh mới đúng. Từ trước đến nay ta hay xét theo chữ Quốc ngữ thì chỉ có 6 thanh (theo dấu) nhưng trước đó thì sao? Rõ ràng là đắng với đắc, đằng với đặc không thể trùng thanh được.
  6. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    xin lỗi. Nhầm!
  7. madeinviet

    madeinviet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    03/06/2007
    Bài viết:
    1.983
    Đã được thích:
    0
    nhờ xóa hộ.

Chia sẻ trang này