1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiêu Sơn Tráng Sĩ - Khái Hưng

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 20/12/2002.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 14 - Cái trống lớn


    Quang Ngọc quay ra nhìn rồi vui cười nói:
    - Trời ơi, xuýt nữa tôi quên bẵng thân vương.
    Ngưòi vừa bắt bẻ Phạm Thái là Trịnh Đán con thứ Trịnh Bồng. Sau khi Trịnh Bồng rời bỏ chùa Long Tiên núi Chúc sơn để về tranh nhau ngôi chúa với Trịnh Lệ, giết các chi nhánh họ Trịnh trốn tránh trong hạt Chương Đức, đán mới qua sông Nhị Hà lánh sang trấn Kinh Bắc đến tu ở một ngôi chùa nhỏ tại làng Phú Cẩm. Sau nhờ có Phạm Thái giới thiệu. Trịnh đán xin nhập đảng Tiêu sơn.
    - Xin thân vương cho biết tôn ý.
    Trịnh Đán hắng dặn hai ba lần rồi nói:
    - Nay không còn phải lúc bàn về lịch sử, việc gì đã qua là đã qua, mà việc gì....
    Lê Báo vốn không ưa họ Trịnh, riễu cợt nói tiếp:
    - Mà việc gì chưa đến là chưa đến.
    Quang Ngọc quắc mắt, mắng:
    - Lê hiền đệ coi thường lệnh của ta thực. Đây không phải là nơi để cho ai nói đùa hết.
    Rồi ý chừng muốn tránh sự phá ngang của Lê Báo, Quang Ngọc bắt chàng ra ngay sân chùa để ăn năn tột lỗi.... Nhìn thanh bảo kiếm rung rung ở tay ông đảng trưởng oai nghiêm, Lê Báo không dám trái lệnh, cúi đầu, thong thả đứng dậy đi ra.
    - Xin thân vương tha thứ cho cái tính lỗ mãng của xá đệ.
    Trịnh Đán mỉm cười:
    - Những bực anh hùng ái quốc thường có tính nóng nẩy như vậy. Có hề gì điều ấy, quí hồ ai ai cũng một lòng yêu nước là được rồi. Tôi nói thế là vì tôi nhớ tới những trang lịch sử của ta:
    Không có lòng yêu nước thương dân mà chỉ nghĩ đến quyền lợi của một mình mình, của một đảng mình, thời dẫu có lên làm vua chúa nữa cũng chẳng ra gì, huống chi nhiều khi còn phạm thêm cái tội rước voi về giầy mo....
    Ngừng một lát đưa mắt nhìn hai hàng tráng sĩ Trịnh Đán nói tiếp:
    - Đấyu anh em ngẫm mà xem. Họ Hồ thấy nhà Trần hèn yếu liền cướp ngôi.
    Nếu nhà Trần biết mình không đủ sức trị dân nữa mà chịu đi, thì có xong không.
    Lại không thế. Lại đi rước quân Minh về. Khốn nạn? Chỉ trông cậy vào người, để chiếm đoạt giang san chẳng coi dân nước ra gì, để đến nỗi trong mười năm, trăm họ bị giầy xéo. Khác giống thì ai người ta thương hại mình kia chứ?
    "Gần đây, vì việc lập chúa, quận Huy bị giết. Giá vua chúa cùng quần thần biết tìm mưu kế mà trừ bọn kiêu binh quá hống hách kia đi, thì rồi cũng êm. Khốn nỗi họ lại chia ra đảng phái, họ chỉ nghĩ đến thù riêng của họ. Rồi tên Chỉnh nham hiểm, phản nghịch kia vào Nam rước ngay được anh em Tây sơn ra để định trả thù cho thầy mình là quận Huy. Họ trả thù họ đấy? Họ chặt đầu mình, rõ đáng kiếp, họ cướp lấy nước mình, đuổi vua chúa mình đi.
    Đán hắng dặng rồi lại nói:
    - Vậy anh em ta trông đó làm gương, chỉ nên tin ở sức mình là hơn. Nếu mình chưa đủ sức thì hãy đợi. Mà liệu không bao giờ đủ sức thì thôi đi đừng kháng cứ người ta nữa.
    "Chứ đi rước kẻ thù nọ về đánh kẻ thù kia thì kẻ nào mạnh hơn nó chiếm lấy nước, mà vua chúa mình vẫn hoàn không có chỗ nương thân.
    "Không những thế, dân gian lại còn bị lầm than nữa là khác. Tôi nói tóm:
    Ta chỉ nên trông cậy vào sức ta, chứ đừng tưởng mong nhờ ai hết. Tôi đã nói mấy lời thô thiển, xin minh chủ cùng anh em lượng xét".
    Phạm Thái đứng dậy quay về phía Quang Ngọc:
    - Xin đảng trưởng cho phép ngu đệ đáp thân vương một câu:
    Thưa vương, lời bàn của thân vương rất đích đáng. Nhưng ta có mong nhờ hẳn vào ai đâu. Ta chỉ lợi dụng sự cạnh tranh của hai bên mà thôi.
    sau khi đã bàn bạc cùng nhau đủ các lẽ, sau khi anh em đã xin đảng trưởng cho phép Lê Báo lại vào dự nghị, thì kế hoạch của đảng Tiêu sơn định đoạt như thế này:
    Một là cử những nhà sư có tài biện luận giả danh đi khuyên giáo khắp các trấn để truyền bá chủ nghĩa phò Lê và quyên tiền, rủ người vào đảng.
    Hai là chọn một thuyết khách cho vào Gia Đinh hội nghị với Nguyễn Vương, hứa sẽ chờ dịp tốt tiếp ứng khởi binh để cùng phá Tây sơn mà tôn phò nhà Lê.
    Ba là hơp nhất với đảng "Lê thần nghĩa dũng", đảng trưởng đảng ấy hình như Đào Phùng hiện đương trốn tránh và bị tróc nã.
    Quang Ngọc vừa bàn được ba điều, bỗng ngừng bặt, ngoài sân chùa có tiếng ngựa hí và tiếng người ồn ào :
    - Biến rồi?
    Lê Báo rút kiếm đứng dậy:
    - Để tôi ra xem....
    Phạm Thái cũng lạnh lùng đứng dậy đi theo rồi ghé mắt nhòm qua khe cửa.
    Bỗng chàng phì cười:
    - Tưởng gì, chứ một anh ky binh vào kia thì để một mình tôi ra cũng đủ rồi.
    - Nhưng cứ nên phòng bị cẩn thận thì hơn, biết đâu nó không có phục binh.
    Giữa lúc ấy, người khách lạ đi lại gần yên lặng dụi tắt bó đuốc cầm ở tay, (vì trời tối đã lâu) rồi gọi cửa:
    - A di đà phật? Ngu muội đến dự lễ.
    Phạm Thái vui mừng mở mạnh cánh cửa ra nói:
    - Trời ơi? Hiền tỉ đến trễ quá?
    - Nhị Nương xin chịu tội. Nhưng có việc khẩn bách, nguy kịch lắm.
    Mọi người đều nhớn nhác hỏi:
    - Việc gì thế? Việc gì mà dữ dội thế?
    - Hoàng Phi.
    - Trời ơi? sao? Lê hoàng phi sao?
    - Bị bắt?
    - Bị giết?
    - Bây giờ đâu?
    Nhị Nương để cho ai nấy hỏi xong, rồi thong thả nói:
    - Cũng chưa rõ rồi ra sao. Chỉ biết trong lúc bí, ngu muội dấu hoàng phi vào....
    Nhị Nương đưa mắt nhìn mọi người, như sợ trong đám có lẫn một vài thám tử của bên địch. Quang Ngọc vội đỡ lời:
    - Hiền muội cứ nói, không lo ngại. Anh em trong đảng Tiêu sơn chúng ta toàn là bậc anh hùng hảo hán cả.
    - Vậy ngu muội giấu hoàng phi ở trong đền Phú Mẫn.
    - Đền thờ ông Nghè phải không?
    - Vâng.
    Phạm Thái bỗng phá lên nói:
    - Khá đấy? Tôi biết hiền tỉ giấu hoàng phi ở đâu rồi.
    Ai nấy đua nhau hỏi:
    - Ở đâu? - Ở đâu?
    Nhị Nương cũng hỏi:
    - Vâng, ở đâu?
    Phạm Thái vẫn cười:
    - Trời ơi? Chị tôi giỏi quá.... ở trong cái trống chứ gì?
    Tuy vậy vẫn chưa ai hiểu. Quang Ngọc liền bảo Nhị Nương thuật lại đầu đuôi, thì câu chuyện như thế này:
    Mấy hôm trước có một người thiếu nữ ở phố Từ sơn đến chùa Ngô Xá xin làm tiểu Người ấy trông vẻ mặt sáng sủa nhanh nhẹn và ăn nói lại dịu dàng, nên sư trưởng yêu mến ngay. Hỏi sao đi tu, thì người ấy nói giận nhà, ép gả vào nơi không xứng đáng, nên đành đến ăn mày cửa phật để quên hết nỗi trần duyên.
    sư trưởng thương tình cho ở chùa, nhưng chưa nhận cho quy y. Vả theo nhà chùa thì có khi sau mấy tháng, người xin tu hành mới được dự lễ thế phát. Sư trưởng còn xem tính nết tín nữ có thực thành tâm mộ đạo và có chịu nổi những sự khổ hạnh không đã.
    Theo lệ thường, cách dăm hôm Nhị Nương lại quẩy gánh nồi đất xuống chủa Ngô Xá thăm hoàng phi mà sư trưởng đặt cho cái đạo hiệu là Phổ Bác thiền ni.
    Vừa đến sân nhà chùa, nàng đã để ý ngay đến người thiếu nữ. Sống cái đời giang hồ kiếm hiệp, lúc nào cũng như bị vây bọc ở giữa đám gian nguy, lừa dối, Nhị Nương không thể không ngờ vực cử chỉ nhu mì và ngôn ngữ đo đắn của người mới đến xin tu.
    Nàng liền tìm cách làm quen với thiếu nữ, hỏi dò liên miên chuyện nhà cửa, rồi mời mua cho vài cái nồi. Đoạn nàng gánh hàng ra ngay không vào thăm hoàng phi nữa, vì như có tâm linh báo trước cho nàng biết sắp xảy ra chuyện chẳng lành.
    Nàng còn lang thang ở bờ ruộng thì đã thấy thiếu nữ ở chùa ra đi. Đến gần, nàng vui cười chào hỏi:
    - Sao cô lại về?
    Người kia ấp úng đáp:
    - Tôi xin phép sư trưởng về qua nhà.... có tý việc cần....
    Nhị Nương càng ngờ:
    - Cô ở tận đâu?
    - Tôi ở đàng kia.
    Thiếu nữ vơ vẩn trỏ tay về phía trước mặt rồi hỏi:
    - Còn cô, cô đi đâu?
    - ấy, tôi cũng đi lang thang, bán rong.... Thế mà lắm hôm may mắn gặp khách mua đông đáo để. Với lại tôi muốn cùng đi với cô cho vui.
    Đến Từ sơn, hai người chia tay nhau, Nhị Nương chỉ kịp vội vàng quăng gánh nồi đất vào hàng Ngỗng, rồi lại chạy đi theo dò người thiếu nữ bí mật kia ngay....
    Thì thấy người ấy đi ngay vào phủ.
    Thế là không do dự nữa, Nhị Nương quay về hàng Ngỗng cải nam trang, nhảy phắt lên mình ngựa - con ngựa của một công tử thường ở trọ trong hàng, mà công tử ấy cố nhiên là Nhị Nương.
    Phóng nước đại một mạch về tới chùa Linh Quang làng Ngô Xá, Nhị Nương quấn quýt hỏi:
    - Hoàng phi đâu? Hoàng phi đâu?
    sư trưởng hỏi lại:
    - Phổ Bác thiền ni ấy ư?
    - Chứ còn ai nữa? Mau mau, nguy đến nơi rồi?
    Vừa nói, nàng vừa chạy thẳng vào buồng hoàng phi xốc bà đặt lên mình ngựa ra roi. Đến chợ Phú mẫn quay đầu trông lại thì ở gần lối rẽ vào làng Ngô Xá, cát bụi bay mù mịt. Nàng lền xuống ngựa dẫn hoàng phi vào ẩn trong đền ông Nghè bên cạnh chợ.
    Phạm Thái nghe Nhị Nương thuật đến đấy, ngắt lời:
    - Vậy hiền tỉ giấu hoàng phi vào trong lòng trống rồi chứ?
    - Vâng, tôi chợt nhớ một lần trước mặt tôi, hiền đệ đã mở cái cửa nách ở tang trống để chui vào trong giấu những giây má quan trọng.
    song Văn kinh ngạc hỏi:
    - Giấu được người vào trong lòng trống, thì hẳn cái trống ấy to lắm.
    Quang Ngọc đáp:
    - Phải, to lắm. Hoàng quân không nghe nói đến cái trống thờ ông Nghè bao giờ?
    - Thưa không.
    - Cái trống ấy, trực kính bề mặt đo được đến hơn ba thước mà bề cao đến một ngũ rười, nguyên là của hoàng đé ban thờ ông Nghè không biết từ đời nào, vì chữ khắc ở tang lâu năm đã mòn, nhẵn thín, mà người làng Phú Mẫn sơn lại có tới bốn, năm lần rồi.. Nhưng hãy nói đến việc cứu bà hoàng phi đã. Phạm Thái?
    - Dạ.
    - Việc này phải hiền đệ đi mới xong.
    Lê Báo đứng lên nói:
    - Thưa đảng trưởng, ngu đệ xin đi cho, cứ để Phạm đại huynh ở lại mà bàn việc lớn Quang Ngọc biết tính Lê Báo hay nóng nẩy liền phỉnh một câu:
    - Kể Lê hiền đệ hay Phạm hiền đệ đi thì cũng thế thôi. Nhưng Phỗ Chiêu đã thông thuộc miền ấy thì vẫn hơn. Vậy anh em hãy nghe:
    Chúng ta nên thêm điều này vào ba điều ban nãy.
    Nhị Nương hỏi:
    - Ba điều gì thế?
    - Hiền muội đến trễ nên không biết. Nhưng không sao. Hãy bàn đến việc cần kíp hơn đã. Ba điều trên kia rồi sau thuật cho Nhị Nương nghe. Bây giờ Nhị Nương cùng Phạm Thái hãy đến ngay Phú Mẫn cứu Lê hoàng phi. Còn điều thứ tu ta nói đó là:
    Cứu được hoàng phi thoát nán, Phạm Thái phải đưa ngay ngài lên Lạng sơn. ở đó bọn trung thần nhà Lê rất đông, mà biên giới, có sao trốn sang Tầu cũng dễ. Chứ ở vùng này, họ nhẵn mặt ngài rồi, thực khó lòng mà trốn tránh, ẩn núp được lâu, thế nào cũng đến bị bắt mất thôi.
    Phạm Thái cúi đầu lĩnh mệnh rồi yên lặng cùng Nhị Nương ra đi. Chư tăng cũng giải tán, ai về chùa nấy, để sắp sửa theo đuổi công việc truyền bá chủ nghĩa phò Lê.

  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 15 - Ai lên xứ Lạng cùng anh


    Một buổi sáng mùa xuân, trên con đường Kinh Bắc, Lạng sơn.
    Bấy giờ còn sớm lắm, nên đường rất vắng và hai bên ruộng dân quê ra làm việc đồng áng cũng chưa đông.
    Đạp cỏ sương, bốn người lữ khách rảo bước:
    Hai nhà sư, một công tử và một chú tiểu quẩy hành lý theo sau. Trong hai nhà sư thì một người lực lưỡng, vạm vỡ, một người bé nhỏ xinh xắn, mắt sáng, môi son, lông mày lá liễu. Thực là một trang nam nhi tuấn tú. Tuy về dung nhan có kém nhà sư ấy đôi chút, chàng công tử cũng là người rất đẹp trai, với cặp mắt phượng long lanh, đôi lông mày bán nguyệt với hai má trắng hồng và cái miệng cười có duyên.
    sự đó chẳng có chi lạ vì nhà sư và công tử chỉ là hai thiếu phụ cải nam trang:
    Lê hoàng phi và Nhị Nương cùng với Phạm Thái lên trấn Lạng sơn.
    Tối hôm trước, lúc Phạm Thái và Nhị Nương về tới Phú Mẫn thì đêm đã khuya, các cửa đều đã đóng kín. Nhị Nương đằng hắng hai tiếng ra hiệu. Tức thì một người núp trên gác tam bảo trèo xuống, thuật lại cho nàng biết rằng sau khi lục lọi khắp các chùa, các đền quanh vùng và không thấy gì, quan quân đã cùng Thị Lợi - tên người con gái đi báo - kéo nhau về Từ sơn. Phạm Thái nghe nói vui mừng, đến một khe cánh cửa lách tay vào khẽ nâng lên. Cánh cửa từ từ mở ra.
    Chàng liền cùng Nhị Nương bước vào đền, sau khi thám tử đã leo lên gác tam quan đễ hễ thấy động thì ra hiệu báo.
    Trong đền im vắng và tối om. Le lói trên bàn thờ một cây đèn dầu nam, ngọn nhỏ bằng hạt thóc. Phạm Thái lại khêu cao bấc lên, rồi lần vào hậu cung tìm một cây sáp mà chàng vẫn giấu ở đó để khi nào cần đến thì dùng.
    Một làn ánh sáng chiếu rọi mấy gian đền. Không một tiếng động nhỏ, không một tiếng mọt kêu. Lặng lẽ như chứa bao nhiêu bí mật của ban đêm.
    Phạm Thái nhìn Nhị Nương:
    - Quái? Hình như hoàng phi không có đây.
    Nhị Nương không đáp, lo lắng đi lại gần cái trống khổng lổ đặt trên sàn và chiếm vừa chật một gian đền rộng. Nàng gõ vào tang trống. Không nghe thấy tiếng trả lời Hai người kinh hoảng nhìn nhau:
    Rồi Phạm Thái quả quyết mở cái cửa nách bí mật ở tang trống và ghé vào gọi:
    - Tâu hoàng phi, tâu lệnh bà?
    Vẫn không có tiếng trả lời. Chàng liền đưa cây sáp vào phía trong nhìn kỹ một lượt Chỉ thấy ngỗn ngang những giấy tờ. Chàng quay bảo Nhị Nương:
    - Nguy rồi, hiền tỷ ạ, hoàng phi không có ở trong.
    Hai người còn nhớn nhác nhìn quanh thì hoàng phi đã đến bên. Phạm Thái và Nhị Nương phục xuống tạ tội. Hoàng phi đỡ dậy mà rằng:
    - Từ nay hai em đừng lạy như vậy. Chị không muốn thế. Hai em coi chị đã là quá lắm rồi, chị đã ơn lắm rồi. Sung sướng gì mà còn rở rói lễ vua tôi, hai em làm chị tủi nhục lắm.
    Nhị Nương sụt sịt đáp lại:
    - Để lệnh bà vất vả, gian truân thực là tội ở lũ bất trung này....
    - Chị đã bảo không được nói đến vua tôi vội mà lại. Chờ khi nào lấy lại được nước hãy hay, chứ bây giờ đang lúc trốn tránh mà các em cứ kêu chị là hoàng phi với lệnh bà lỡ ra khổ đến chị mà lụy đến cả các em.
    Nhị Nương hỏi hoàng phi sao không nằm ở trong lòng trống, thì bà đáp lại rằng ra ngoài cho được khoan khoái, vì ở trong ấy khó thở lắm. Không ngờ vừa ra được một lúc thì nghe có tiếng người mở cửa, bà vội núp ở sau một cái cột giáp tường.
    Rồi bà thuật lại cho hai người nghe việc khám xét lúc ban chiều:
    - Ta nằm trong lòng trống, không dám thở mạnh. Nhị Nương đi được một lát thì bọn họ đến, rầm rầm, rộ rộ, lục soát các nơi, bắt thủ từ mở cả hậu cung ra coi.
    Có hai người đứng tựa tang trống nói chuyện. Người nọ bảo người kia:
    "Quái? rõ ràng có kẻ trông thấy chúng nó vào đây?" Người kia đáp:
    "Thế này thì tức lắm nhỉ ? Vừa nói vừa đấm mạnh một cái vào mặt trống, tiếng kêu inh tai, làm chị giật mình kinh hãi. Lúc quay ra người ấy nói:
    Hay chúng nó ẩn trong này." Hắn lại đấm vào mặt trống một cái nữa mạnh hơn. Rồi cả hai cùng cười phá lên. Đoạn, họ kéo nhau đi. Một lúc sau nghe thấy trong đền yên tĩnh, chị mới hoàn hồn. Bây giờ thì ngủ được một giấc, người đã dễ chịu, nhưng mà đói lắm, vì từ sáng đến giờ chưa có một hột cơm trong bụng.
    - Tâu lệnh bà....
    - Thưa chị?
    - Thưa chị, em đã nghĩ đến điều ấy. Đây, oản chuối mời chị xơi. Em lại đem theo cả một thứ này mà chị không ngờ.
    Vừa nói, Nhị Nương vừa mở khăn gói nâu ra. Trong có mấy bộ quần áo của sư ông, và đủ các đồ phụ thuộc. Còn oản chuối, bánh gai thì có rất nhiều.
    Ba người cùng ngồi ăn. Đoạn, Nhị Nương mời hoàng phi đi nghỉ một lát để lấy sức, vì sắp sửa phải dùng sức. Hoàng Phi hỏi tại sao, thì Phạm Thái nói chàng lĩnh mệnh đảng trưởng đưa bà lên Lạng sơn.
    - Ồ ? lên được Lạng sơn thì dẫu chết chị cũng lấy làm sung sướng. Ngày theo quân vương sang Tàu, đến đây chị lạc đường. Chị vẫn ao ước được sang Trung Quốc với quân vương. Bây giờ hai em lại đưa chị lên Lạng thì sau này chị có thể trốn sang Tàu được. ơn ấy chị biết lấy gì đền lại hai em cho xứng đáng.
    - Lạy chị, chị nói chi ân nghĩa cho em thêm tủi nhục. Nhưng chỉ một mình Phạm xá đệ được lệnh hộ giá mà thôi.
    Hoàng Phi tỏ vẻ kinh ngạc:
    - Em không đi? Như thế sao tiện?
    Chính Phạm Thái cũng nghĩ đến chỗ không tiện ấy, vì ngắm thấy hoàng phi vừa trẻ vừa đẹp quá đỗi, mà mình chỉ là một nhà sư tạm thời, hơn nữa, một tráng sĩ dội lốt thầy tu. Vẫn biết không khi nào mình phạm vào tội bất chính được, nhưng không tiện thì vẫn là không tiện. Chàng liền nói:
    - Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy chí phải.
    Rồi quay sang bảo Nhị Nương:
    - Hiền tỷ nên đi theo hầu lệnh bà.
    - Nhưng chưa có thượng lệnh.
    - Được hiền tỷ cứ ở lại đây nghỉ một lát với lệnh bà cho đỡ mệt. Ngu đệ đi Tiêu sơn cho. Chỉ chốc nữa là ngu đệ trở về.
    Giữa lúc Phạm Thái sắp nhảy ngựa để đi Tiêu sơn một chú tiểu tiến vào đền, vai quẩy một gánh hành lý.
    Hỏi đến có việc gì thì chú nói Phổ Tỉnh thiền sư cho lại giục Phổ Chiêu cùng Nhị Nương phải ngay đêm nay lên đường đưa hoàng phi tới Lạng sơn.
    Phạm Thái cả mừng, đua chú tiểu vào trong đền bái yết hoàng phi. Nhị Nương bảo Phạm Thái:
    - Đảng trưởng nghĩ chu đáo đến hết mọi việc.
    - Truyện? Chẳng thế mà lại là đảng trưởng?
    Thế là ngay lúc ấy, hoàng phi và ba người khởi hành.
    Đi được một lát thì gà ở các làng bắt đầu gáy sáng và khi đến cầu Dọi thì mặt trời mới mọc, ánh sáng đỏ rực trên đỉnh dẫy núi Neo. Hoàng phi kêu mỏi, vì bà không quwn đi xa. Nhị Nương đỡ ba vào nghĩ trong cầu và mỉm cười nói:
    - Sư ông cố gượng đi bộ đến sông Cầu, sang bên Đạo Ngạn đã có ngựa.
    Phạm Thái cũng khẽ nói:
    - Sang đến bên kia sông thì không cần phòng bị lắm.
    ở trong cầu đã có hai người buôn vải ngồi nghỉ. Một người chào hỏi:
    - A di đà phật? Chư tăng ở đâu đến đây? Có phải ở mạn Yên Phụ không?
    Phạm Thái đáp:
    - A di đà phật? Bần tăng ở nơi xa, qua vùng này khuyên giáo để chữa chùa.
    Người kia lại hỏi:
    - Vậy nhà sư không biết hôm qua ở chợ Phù Mẫn có xẫy ra sự gì?
    - Không.
    - Nghe đâu tối hôm qua quan quân đánh đuổi một toán cướp ở đấy. Hôm nay có lẽ thế nào quan hiệp trấn cũng đem binh lính về tróc nã.
    - Thế à? Ghê sợ nhỉ?
    Ba người đưa mắt nhìn nhau, lo sợ.
    Phạm Thái lại hỏi:
    - Sao bác biết?
    - ấy, tối hôm qua chúng tôi ngủ ở nhà trọ nghe người ta nói chuyện với nhau như thế, chả biết có đích xác không?
    - Chào bác ngồi nghỉ, chúng tôi đi thôi.
    Phạm Thái đứng dậy, hoàng phi và Nhị Nương cũng đứng dậy theo. Rồi, tuy còn mỏi mệt, ai nấy đều cố dấn bước cho mau thoát khỏi nơi nguy hiểm. Và họ rẽ đường tắt đến bến Cổ mễ, chứ không đi qua thành Kinh Bắc.
    Đến nơi, Phạm Thái trông sang bờ sông bên kia thì thầm bảo hoàng phi và Nhị Nương :
    - Đã có ngựa chờ ở Đạo Ngạn. Mà từ đó trở lên Lạng sơn, việc canh phòng không ngặt quá đâu.
    Nhị Nương đáp:
    - Chắc người ta chả ngờ đâu hoàng phi đã rời hạt Từ sơn, Đông Ngàn.
    Bỗng có tiếng gọi:
    - Mấy nhà sư sang đò phải không?
    Tưởng là lái thuyền, Phạm Thái trả lời liền:
    - Phải, bác có thuyền cho chúng tôi thuê chăng?
    Người kia gắt:
    - Ai là lái đò? Muốn sang ngang hãy vào trình cậu tuần đã.
    hoàng phi còn đương ngơ ngác nhìn Phạm Thái thì người ấy đã nói tiếp:
    - Đễ cậu khám hành lý. Lệnh trên truyền xuống ngặt lắm, các người phải biết.
    - Nhưng chúng tôi toàn là kẻ tu hành.
    - Mặc? lôi thôi mãi. Lại mau?
    Chẳng đừng được, bốn người phải theo chú lính tới một cái đồn nhỏ, ngoài cổng treo một cái biển lớn đề ba chữ "Tuần Giang Nhạ" Thấy hoàng phi có vẻ mặt sợ hãi, Phạm Thái khẻ bảo:
    - Không lo. Lệ thường vẫn khám xét như thế.
    Một người ở trong đồn đi ra. Tên lính lễ phép nói:
    - Bẩm cậu, mấy người này qua sông vào xin phép cậu.
    "Cậu là người đường trong, trước làm lính theo vua Tây sơn ra Bắc, nay được bổ chứx tuần giang đội trưởng để canh phòng thuyền bè gian phi. Những nơi đồn lũy quan trọng cẩn mật như thế, nhà Tây sơn thường giao cho người Quảng Nam coi giữ, cũng như trước kia họ Trịnh kén ưu binh ở tỉnh Nghệ An dùng làm quận túc vệ sau khi đã khám xét khăn gói, tay nải, cậu tuần đã nhìn thấy Nhị Nương:
    - Thày này cũng sang sông?
    - Thưa vâng.
    - Vậy tín bài đâu đưa xem?
    hoàng phi tái người. Nhưng Nhị Nương rất bình tỉnh thản nhiên, thò tay vào bọc rút ra một cái thẻ đưa cho viên đội trưởng mà nói rằng:
    - Thưa đây.
    Viên kia đọc:
    - Nguyễn Đức Minh, người làng Đông Phủ, huyện Đông Ngàn, phải không?
    - Thưa vâng ạ.
    - Vậy cặp chỉ xem có đúng không?
    Nhị Nương đưa bàn tay trắng trẻo, mềm mại cặp ngón trỏ và ngón giữa và tờ giây.
    - Thôi được rồi. Cho đi?
    Ra đến ngoài hoàng phi hỏi Nhị Nương:
    - Tín bài kiếm ở đâu thế?
    - Phổ Bác nên cẩn thận hơn một chút. Sang bên kia sông đã hẵng hay.
    Rồi lẳng lặng bốn người cùng xuống thuyền sang ngang.

  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 16 - Sông nước


    Thuyền ra tới giữa sông, Phạm Thái trợn mắt nhìn người lái đò, trong lòng áy náy lo sợ. Vì giòng nước chảy xiết, đáng lẽ phải hết sức chèo mau để vượt qua, thì người ấy chỉ giữ tay lái cho thuyền trôi xuôi.
    - Ông lái?
    - Dạ.
    - Chúng tôi sang ngang kia mà.
    - Phải, tôi biết. Nhưng quý hồ thuyền đậu vào bờ là được, chứ gì?
    Phạm Thái đoán chừng chú lái muốn sinh sự, giở thói bóc lột. Chàng nghĩ thầm:
    "Nếu quả thế thì thằng cha này giỏi thực? Nhưng đến bọn cướp ở bến đò Lũ, ta còn trị nổi, nữa là thứ mày? ...." Thuyền vẫn trôi phăng phăng. Không những thế, thỉnh thoảng chú lái lại còn bẩy thêm một mái chèo nữa....
    - Ô kìa? sao thế này?
    Nghe hoàng phi nhớn nhác hỏi, người lái đò lễ phép đáp:
    - Tâu lệnh bà, xin lệnh bà cứ yên lòng.
    Ba người đưa mắt liếc nhau khiếp sợ, nguồi trơ như phỗng đá. Bỗng Phạm Thái thò vào trong bọc rút thanh đoản đao. Thấy vậy, Nhị Nương cũng tay trái cầm võ kiếm, tay phải nắm chuôi kiếm. Hoàng phi đăm đăm nhìn, không hiểu sao kẻ kia lại dò biết được tung tích của mình.... Nhưng người lái thuyền vẫn bình tỉnh, thản nhiên.
    - Nếu nhà ngươi không vẻ lái cho thuyền vào bờ, thì ta thề rằng nhà ngươi không thể sống mà về được với vợ con tối nay.
    Vừa nói, Phạm Thái vừa dữ tợn, quả quyết giơ đoản đao lên. Người chở thuyền không đổi sắt mặt, buông mái chèo ra mà cười phá lên, khiến thuyền không lái chồng chềnh ở giữa giòng sông:
    - Phạm Thái giỏi đấy? Nhưng ta không có vợ, con hay chưa có vợ con thì đúng hơn.
    Nhị Nương và hoàng phi nhìn nhau kinh hãi Nhưng Phạm Thái yên lặng tươi cười, tra đao vào vỏ giấu trong áo cà sa, rồi ôn tồn bảo người lái đò:
    - Không cần có thông minh gớm ghiếc mới đoán được rằng tôn ông đây chẳng phải là một chú lái tầm thường. Vậy tôi xin hỏi:
    Tôn ông muốn gì?
    Người lái đò vói vội lấy mái chèo giữ cho thuyền đi thẳng rồi cười lớn mà đáp răng:
    - Ta muốn biết Phạm Thái tức Phạm Phụng, tức Phổ Chiêu thiền sư đã giết được bao nhiêu bạn đồng nghiệp của ta ở bến đò Kim Lũ?
    Phạm Thái cũng cười:
    - Nghĩa là tôn ông muốn trả thù cho bạn lục lâm chứ gì ? Bần tăng đây xin sẵn lòng nghênh tiếp, nhưng....
    - Nhưng sao?
    - Nhưng bần tăng vẫn không tin như thế.
    - Không tin cái gì kia chứ?
    - Không tin rằng tôn ông theo nghề trộm cướp. Bần tăng đoán già rằng, tôn ông phi là thám tử của triều đình, thì là một tay hảo hán, sống một đời tự do ngang dọc. Nếu thực tôn ông là thám tử, thì bần tăng thương hại cho cây đoản đao của bần tăng quá, vì thế nào cũng đâm trúng họng tôn ông, nhất tôn ông lại biết lai lịch của bần tăng đây, mà xin thú thực cùng tôn ông, xưa nay chưa có kẻ thù nào biết lai lịch của bần tăng mà thoát chết được. Còn như nếu tôn ông là tay anh hùng hảo hán thì xin mau mau cho biết đại danh, để bần tăng thờ là quý hữu.
    Hoàng phi nói thầm bảo Nhị Nương:
    - Quái? Chị trông người này không quen nhưng nghe tiếng nói, thì hình như đã gặp nhiều lần.
    Người lái đò vẫn cười, rồi hất hàm hỏi Phạm Thái:
    - Biết bơi không?
    - ái chà? Khá nhỉ? Ý chừng chú lái có dã tâm muốn chọc thủng thuyền chăng?
    Ta can, vì nhà ngươi bị dìm chết ở đáy sông mất.
    - Nhưng còn hoàng phi?
    - Đã có công tử đây phò giá. Ngươi không cần phải lo hộ.
    Lúc bấy giờ thuyền trôi đã được một quãng xa. Người lái đò liền bắt mạnh cho mũi thuyền rạt vào vãi sậy bên vệ sông. Nhị Nương rút phắt kiếm ra thét:
    - Sao lại đưa chúng ta vào đây?
    Người kia vẫn không đổi sắt mặt, ôn tồn nói:
    - Tra kiếm vào vỏ?
    Nhị Nương kinh ngạc, nhìn Phạm Thái, chàng bảo:
    - Cứ tra kiếm vào vỏ xem hắn làm trò gì.
    Người lái đò lẳng lặng cắm sào, rồi sụp xuống lạy hoàng phi:
    - Đào Phùng xin khấu đầu làm lễ.
    Hoàng Phi vui mừng không kịp giữ gìn:
    - Trời ơi? em Đào Phùng? Thảo nào chị cứ ngờ ngợ. Nhưng mặt mũi em gớm ghiếc thế kia?
    Đào Phùng quay ra hỏi Phạm Thái:
    - Đạo hiệu của hoàng phi là gì?
    - Phổ Bác thiền sư.
    - Bạch thiền sư, chẳng có gì lạ hết. Nhân được nếm mùi kìm chín ở phủ Từ sơn trong ít lâu Phùng này đã nhận thấy ích lợi của thứ hình phạt ấy....
    Phạm Thái vội kêu:
    - Trời ơi? Dễ thường Đào quân dùng kìm đốt xém da mặt chăng?
    - Thưa Phạm đại huynh, khi người ta làm một tôi trung thì người ta không cần có bộ mặt đẹp cho lắm. Huống chi mặt kẻ ngu si này lại bị bên địch biết nhẵn. Vậy thì có ngần ngại gì mà không vạc nó đi. Bây giờ Đào Phùng không còn là Đào Phùng nữa, mà chỉ là Nguyễn Phác làm nghề chở thuyền.
    Ba người lấy làm khiếp phục cái cách trá hình phi thường của Đào Phùng, hoàng phi hỏi:
    - Nhưng cớ sao, ban nãy em làm cho chúng ta lo sợ vì những ngôn ngữ, cử chỉ khả nghi của em?
    Đào Phùng cười:
    - Em xin lỗi thiền sư.... Đó là em thử xem Phạm Thái có thực là đấng anh hùng như người ta đồn đại không? Nếu không thì....
    - Nều không thì sao?
    - Thì em bắt Phạm Thái ở lại, để em tự đảm nhận lấy cái trọng trách phò giá hoàng phi lên trấn Lạng.
    Phạm Thái kinh ngạc:
    - Sao Đào quân biết ngu đệ phò giá hoàng phi lên trấn Lạng?
    - Làm một đảng trưởng thì cái gì mà không phải biết? Ta còn biết nhiều.
    Chẳng hạn Quang Ngọc muốn đảng ta hợp nhất với đảng Tiêu sơn. Nhưng ta thiết tưởng cứ để hai đảng, mà cùng hành động thì vẫn lợi hơn.
    Phạm Thái đăm đăm nhìn Đào Phùng.
    - Có lẽ lắm. Nhưng ngu đệ xin khuyên hiền hữu hãy để việc ấy vào một bên.
    - Bây giờ thì ta yên tâm rồi. Phạm quân có thể đương nổi việc, nhất lại có Nhị Nương trợ lực.
    Nhị Nương cười ròn như nắc nẻ:
    - Ông mà không phải là Đào Phùng thì tôi quyết tặng ông một lưỡi kiếm cho ông lộn cổ xuống sông, hết kiếp. Nhưng bây giờ thì ông đưa chúng tôi đến bến chứ?
    Đào Phùng xua tay:
    - Bất khả? sáng nay một toán quân vừa sang sông để đi thủ trấn Lạng sơn.
    Vậy nên ở dốn lại cho bọn kia đi trước vài hôm đã. ấy chỉ vì thế mà Phùng này phải đón xa giá ở bến để giữ lại.
    Hoàng phi cười:
    - Em Đào rõ khéo nói kiểu cách. Làm gì có xa giá kia chứ. Nhưng em định để chị ở đâu?
    - Bạch thiền sư, ở dưới chân núi Yên Xá, cách đây độ một dặm nữa thôi.
    Hoàng phi nhìn Phạm Thái như để hỏi dò ý kiến. Rồi không thấy chàng nói gạt, liền nhận lời và bảo Đào Phùng chở thuyền đưa về nhà.
    Một lát sau, thuyền đậu bên cạnh một bãi sậy um tùm. Một con đường nhỏ lách giữa đám lá rậm đưa quanh co đến chân núi. Năm người leo tới một dinh cơ khá rộng, làm chênh vênh trên sườn núi đất thoai thoải.
    Chủ gọi người nhà bảo giết gà thết khách, và xin lỗi các vị thiền sư, vì không biết làm cơm chay. Nhưng các thiền sư cũng vui lòng nhận lời dùng cơm mặn.

  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 17 - Một nhà ẩn sĩ


    Hoàng phi, Phạm Thái và Nhị Nương ở lại nhà Đào Phùng hai hôm. Trong hai hôm ấy, mấy người luôn luôn nói chuyện với nhau về binh thư và chiến lược. Có khi lại rủ nhau lại ngọn núi Yên Xá để đấu võ. Đào Phùng lấy làm phục võ nghệ của Phạm Thái và Nhị Nương lắm.
    Hôm thứ ba, bốn người từ biệt lên đường. Đào Phùng nói nên đi tắt đến Hoàng Mai, rồi từ Hoàng Mai đi tắt lên Lạng Thượng. Nhưng bốn con ngựa lại đã để chờ sẵn ở Đạo Ngạn. Đào Phùng liền cùng Phạm Thái và chú tiểu chở thuyền ngược lên đó, để đem ngựa về, một mình Nhị Nương ở nhà hộ vệ hoàng phi.
    Vào buổi trưa ba người trở về, mỗi người cười một con ngựa, Phạm Thái kèm thêm một con.
    Nhưng khi đi đến sân, thì một cảnh tưởng ghê gớm bày ra trước mắt:
    bốn cái thây lực lưỡng nằm sóng sượt ở bên mấy gốc thông. Phạm Thái hốt hoãng:
    - Hoàng phi đâu? Thôi chết rồi?
    - Hoàng phi ở đây?
    Nghe tiếng Nhị Nương đáp lại Phạm Thái mới hết lo, chạy vội vào trong nhà, nói với hoàng phi:
    - Để lệnh bà khiếp sợ, thực tội hạ thần to lắm.
    Hoàng phi cau mày:
    - Chỉ vì các em không nghe lời chị, cứ luôn miệng lệnh bà, với tâu, với hạ thần nên mới xảy ra cái hoa. tày trời này. May mà có Nhị Nương dấy, chứ không thì cũng chưa biết chừng chị còn sống mà ngồi đây. Chỉ thương Đào quân có bốn tên người nhà bị Nhị Nương giết mất cả.... Rõ thật Đào quân làm ơn nên oán....
    Đào Phùng lại phục xuống đất khóc xin chịu tội. Xong chàng quay ra hỏi Nhị Nương :
    - Đầu đuôi câu chuyện ra sao, thưa quý nương?
    Nhị Nương liền thuật lại cho hai người nghe:
    - Mấy tên kia biết rằng trong bọn khách của chủ chúng nó có bà hoàng phi.
    Nhân thấy Đào Phùng, Phạm Thái ra đi, ở nhà chỉ còn hoàng phi với một chàng công tử nhỏ, xinh xắn như con gái, chúng liền bàn cùng nhau ra tay bắt nộp quan lĩnh thưởng. Chẳng ngờ chàng công tử bé nhỏ lại có võ nghệ cao cường, chỉ đưa bốn mũi kiếm là bốn đứa hoá bốn cái thây ma.
    Đào Phùng cười ha hả, nhưng tiếng cười có giấu nỗi buồn vô hạn:
    - Thực đáng kiếp cho bốn thằng phản chủ? Chúng là bốn tên thuyền chài, ngu đệ tuy dùng, nhưng mà cũng nơm nớp lo sợ, vì thế trong câu truyện, khi có chúng đứng hầu, ngu đệ vẫn phải giữ gìn. Nhưng không biết sao chúng nó lại hay rằng Phổ Bác thiền sư là hoàng phi?
    Đào Phùng ngẫm nghĩ một lát, rồi như chợt hiểu, chạy lại soát quần áo bốn đứa vừa bị giết thì trong hầu bao một thằng có một tờ giấy chữ đầy những dấu son đỏ chói. Đào Phùng kêu:
    - Đã biết ngay mà? Một tên thám tử.
    Vừa nói, chàng vừa đạp mạnh vào cái xác, rồi gập tờ giấy bỏ vào bọc.
    Cả năm người cùng có vẻ lo lắng, suy nghĩ Hoàng phi nhìn xuống chân đồi:
    Con sông cầu lượn khác chảy về phía đông, giòng nườc lấp lánh dưới ánh trời trưa. Bổng bà buông một tiếng thở dài, chán ngán.
    Đào Phùng cúi đầu tạ tội:
    - Để lệnh bà sợ hãi, kẻ hạ thần thực đáng chết.
    Hoàng phi như không nghe thấy gì hết, cặp mắt tuôn hai giòng lệ. Rồi bà thổn thức bảo Nhị Nương và Phạm Thái:
    - Hay tôi, ta đừng đi Lạng sơn nữa hai em ạ.
    Nhị Nương an ủi:
    - Tâu lệnh bà, không bao giờ ta nên nản lòng. Ta phải....
    Không để cho Nhị Nương dút câu, hoàng phi tiếp luôn:
    - Vì, các em ạ, chị còn sống đến ngày nay là chị mong ước mai sau được gặp hoàng đế.... Nhưng hoàng đế thăng hà rồi các em ơi, thì chị còn sống làm gì nữa, thà chị thác đi để dưới suối vàng được cùng hoàng đế tương kiến....
    Bà bưng mặt nức nở khóc. Phạm Thái nói:
    - Nhưng hoàng đế hiện còn sống, sao lệnh bà lại nói gở thế?
    - Không, đích thực hoàng đế thăng hà rồi. Đêm hôm qua chị nằm mộng thấy hoàng đế khóc mà bải chị rằng "ái khanh ơi, đôi ta ngày nay đã âm dương cách biệt. Ta không hề oán giận điều gì, ví dù có ở dương thế ta cũng chẳng hy vọng được cùng ái không hội ngộ." Rồi hoàng đế tả những cảnh khổ sở, những nỗi gian nan, các em để chị chết cho được gặp mặt hoàng đế ở dưới cửu tuyền, chứ chị sống thêm một ngày là thêm một ngày đầy đoa. ở dương gian....
    Đào Phùng, Phạm Thái và Nhị Nương xúm lại khuyên giải, lâu dần hoàng phi cũng ngôi nguôi.
    Nhị Nương nói:
    - Vì lệnh bà tưởng nhớ hoàng thượng quá nên hoá mộng đó thôi. chứ vừa có người ở bên Trung quốc về nước nói hoàng thượng hiện đóng ở Tràng An chờ binh cứu viện của nhà Thanh.
    Nhị Nương bịa đặt ra tin ấy, để yên lòng hoàng phi mà thôi. Kỳ thực, các yếu nhân trong đảng Tiêu sơn thừa biết rằng vua Chiêu Thống không chịu nỗi những sự nhục nhã, những sự khinh mạnh của người Tàu đã chết rồi, chết theo hoàng tử đã ba năm trước. Nếu trong các tờ hịch, các mật thư gửi cho nhau họ vẫn còn dùng niên hiệu Chiêu Thống là chỉ cốt để khỏi náo động lòng các đảng viên và nhân dân các nước đang mến tiếc nhà Lê. Vả họ cho rằng nước không thể một ngày không vua được, mà vua Quang Toản nhà Tây sơn thì họ nhất định không công nhận là ông vua chính thức của nước Việt Nam. Vì vậy trong khi chưa tìm được một người trong hoàng tộc để tôn lên ngôi hoàng đế, đảng Tiêu sơn tạm phải coi như vua Chiêu Thống hãy còn sống, để làm trụ thạch cho công cuộc khởi nghĩa của đảng Phạm Thái bỗng dục:
    - Tâu lệnh bà, bây giờ sang giờ Mùi rồi, ta phải đi kíp, thì tối nay mới có thể tới Lạng Giang được.
    Đào Phùng bàn:
    - Lệnh bà nên nghỉ lại Hoàng Mai, sớm mai hãy lên Lạng Giang thì hơn. Như thế lệnh bà đỡ nhọc mệt mà ngựa lại được nghỉ ngơi dưỡng sức.
    Ai nấy còn đương suy nghĩ thì Đào Phùng lại nói luôn:
    - Tôi xin có thư giới thiệu của Phạm hiền hữu, một nhà ẩn sĩ ở Hoàng Mai tên là Phạm Quảng Văn. Người ấy đậu tiến sĩ về cuối đời Cảnh Hưng, văn chương lỗi lạc, chỉ vì tính cương trực nên không được chúa sâm trọng dụng. Vả ông ta cũng không thích ra làm quan, bỏ về làng dạy học, lấy sự chơi núi cao, sông rộng, uống rượn, ngâm thơ làm thú. Ngày bà hoàng phi họ Đặng mưu việc phế lập muốn tìm vậy cánh cho Trịnh cán để chống nhau với Trịnh Khải, cũng đã nghĩ đến ông Nghè trẻ tuổi ấy, mà đòi ông ta về triều, vì có ông Ngô thì Nhậm đậu cùng khoa với ông ta tiến cử. Nhưng ông ta không ưa những sự âm mưu ám muội, nên cáo ốm ở lỳ nhà Hiền hữu nên đến chơi ông ta, vì ông ta không những có văn tài, mà về binh lược, ông ta cũng khá lắm. Khi xưa quận Nhưỡng đóng binh ở Hải Dương cũng có mời ông ta đến tham nghị. ông ta tấy Nhưỡng có tính phản trắc, biết không làm nổi việc lớn nên vừa đến ông ta đã về ngay. Từ đó tới nay, ông ta không nghĩ đến việc nước nữa, cho rằng vận nhà Lê đến thì mạt, dẫu có tài Trương Lương, Gia Cát cũng không thễ cứu vãn nổi, nên đành chịu khoanh tay phục tòng thiên mệnh mà thôi.
    Phạm Thái thở dài bảo Đào Phùng:
    - Người anh hùng cứu quốc khi nào lại chịu phục tòng số mệnh? Chỉ biết một ciệc là hành động, hành động cho tới giờ cuối cùng.... Tránh sự gian nguy mà mình biết chắc chắn đương đợi mình, để được an nhàn ở một nơi dật lạc, không bận trí đến việc đời, việc nước, hạng ấy người ta cho là bậc ẩn sĩ, nhưng tôi, tôi chỉ cho là phường ích kỷ, ham sống, có đáng kể chi. Thưa hiền hữu, tôi không phục Phạm Quảng Văn một chút nào.
    - Nhưng, thưa hiền hữu Quảng Văn rất tự phụ thông phép tuoán Thái ất. ông ta bảo ông ta biết chắc chắn rằng vận nhà Lê hết rồi.
    Phạm Thái cả cười đáp:
    - Bây giờ giá Triệu Nghiêu Phụ tái sinh bảo tôi như thế, tôi cũng không tin kia mà. Tài lực của đấng anh hùng phải cố đoạt nổi số mệnh. Bằng không thì chết. Mà cái chết như thế còn có nghĩa lý hơn cái chết dần mòn của kẻ ẩn sĩ trong xó tối.
    - Những kẻ ẩn sĩ có đợi cái chết già ở nơi nhàn dật đâu? Họ chỉ đợi thời mà thôi Nhị Nương yên lặng đứng nghe từ nãy tới giờ. Bỗng nàng mỉm cười bảo Đào Phùng :
    - Bậc hảo hán không bao giờ chịu đợi thời thế.
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0

    Phạm Thái và Đào Phùng cất tiếng cười vang:
    - Khảng khái thay lời nói của quý nương?
    Nhưng ai nấy ngừng bặt, vì vừa thoáng nhìn thấy hai má hoàng phi đẫm lệ.
    Chưa kịp khỏi duyên cớ thì bà đã lau nước mắt, buồn rầu nói:
    - Nếu quả thực vận nhà Lê hết rồi, thì các em nên thôi đi, đừng hành nữa mà mất công vô ích.
    Phạm Thái cúi đầu đáp:
    - Tâu lệnh bà đời kẻ tráng sĩ chỉ có một nghĩa là hành động. Còn sự thành, bại cùng sự sống, chết, không nên để trí nghĩ quá.
    Nhị Nương cũng nói:
    - Vả lại, tâu lệnh bà, phép toán Thái ất đã lấy gì làm đúng. Xin lệnh bà cứ vững lòng tin cậy cho.
    Hoàng phi cười gượng:
    - Chị thực kém em nhiều lắm. Vậy bây giờ ta lên đường thôi chứ?
    Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát rồi nói:
    - Tâu lệnh bà, đi Lạng Giang thì không kịp. Mà đến nhà cái ông ẩn sĩ Hoàng Mai thì thực không nên. Vậy Đào hiền hữu ơi, hiền hữu mau sắp cơm nước hầu lệnh bà xơi, mai chúng tôi hãy hộ giá đi sớm.
    Đào Phùng vui mừng toan gọi người nhà, nhưng trông ra sân, chàng bỗng giật mình nhớ đến bốn cái xác, Nhị Nương cũng nhìn theo và hiểu ý chàng?
    - Không hề gì. Việc bếp nước đã có ngu muội.
    Nàng mỉm cười nói tiếp:
    - Giết nhà bếp của đại huynh thì cố nhiên phải làm bếp thay chứ. Được cái việc bếp nước em cũng khá thạo. Hỏa đầu quân Nhị Nương đây.
    Mọi người cười rộ lên, quên hẳn câu chuyện buồn rầu.
    - Nhưng trong khi Nhị Nương này làm cơm thì xin đại huynh cùng hiền đệ chôn cất cho mấy người chết.
    Phạm Thái lẩm bẩm:
    - Rõ khéo? Một người giết, hai người khác phải chôn?
    Hôm ấy mãi sang giờ Thân mới có cơm trưa. ăn xong, mọi người ngồi bàn về hành trình. Đào Phùng đã nhiều lần đi Lạng sơn nên rất thông thuộc đường lối, vẽ phác ra một bức bản đồ, ghi những nơi có thể nghĩ lại được. Đoạn chàng hỏi Phạm Thái:
    - Hiền hữu lên Lạng sơn phen này đã có chủ định gì chưa?
    Phạm Thái đáp:
    - Kể thì tôi vâng lời đảng trưởng, hộ giá Hoàng phi đến trấn Lạng sơn, rồi lại trở về ngay. Nhưng nếu gặp việc quan trọng mà cần ở lại thì tôi cũng ở lại.
    Phạm Thái nói thế là vì chưa tin hẳn bụng Đào Phùng, không muốn lộ sự bí mật trong đảng. Kỳ thực chàng lên Lạng sơn còn có một mục đích khác, khẩn yếu hơn.
    Nguyên Phổ T nh thiền sư có một người đồng chí trẻ tuổi, hiện lĩnh chức trấn thủ trấn Lạng sơn, là Thanh Xuyên hầu Trương Đăng Thu, người làng Thanh Nê, trấn sơn Nam. Đã nhiều lần Thanh Xuyên hầu cho mang thư về mật xin Phổ T nh cử lên Lạng một người có đại tài để lập một chi đảng ở đó. Phổ T nh ngỏ lời với Phổ Chiêu muốn cắt Chiêu đương việc ấy. Vậy nay nhân dịp hộ gia hoàng phi lên Lạng, Phạm Thái sẽ ở luôn đó, nói là để giúp việc sư trưởng chùa Tam Thanh, nhưng kỳ thực để giúp Trương Đăng Thu về việc phục hưng nhà Lê. Trương làm trấn thủ ở một trấn nơi biên thuỳ khẩn yếu, dưới quyền có tới năm, sáu nghìn binh lính tinh nhuệ Khi lâm đến đại sự sẽ dụ theo để chiếm cứ ngay lấy trấn làm nơi sào huyệt của đảng, việc ấy thật dễ như trở bàn tay.
    Quang Ngọc cũng thấy rõ sự lợi ích ấy, nên hôm đảng viên đảng Tiêu sơn tụ họp, chàng không đem việc lập chi đảng ở Lạng sơn ra bàn, sợ nhỡ việc ấy tiết lộ ra ngoài đảng thì Trương Đăng Thu sẽ bị hại, hay ít ra cũng bị cách, và như thế, đảng Tiêu sơn đến có ngàn cũng chẵng làm nên trò trống gì, vì sức mạnh của đảng sau này sẽ trông vào một quân đội lớn như quân đội Lạng sơn.

  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 18 - Sấm


    Sáng sớm hôm sau, bốn người lên đường, Phạm Thái nhường hoàng phi cưỡi con ngựa trắng giống ngựa thổ Bắc Kạn, thân nhỏ thấp và bốn chân tuy hơi thô, nhưng rất thẳng và vững. Còn ba con kia sắc tía, bờm dài, đuôi dài, trong khi chạy, cổ cất thẳng và những lúc người cưỡi kìm cương đứng lại, thì bốn vó nhỏ thon của nó luôn luôn cuốc xuống đất và mũi nó hục hặc thở phì hơi. Đó là hạng chiến mã, giống Lạng sơn ky sĩ phải có vẽ tốt, cương cứng mới trị nổi, tay non sẽ bị vật ngã liền.
    song song đi hàng đôi và buớc một trên con đường đất đầy cỏ xanh ướt, bốn con ngựa thỉnh thoảng gặp vũng nước động ngầm dưới cỏ sau trận mưa tối hôm trước, làm cho nước vọt tung toé lên. Mưa bay đã tạnh hẳn. Nhưng tiết trời mỗi lúc một thêm giá, nhất là gió bấc thổi lại càng mạnh khiến ai nấy chân tay lạnh buốt. Nhị Nương bèn dừng lại ở một cái quán bên đường để uống bát nước chè tươi nóng và mở khăn gói lấy chiếc áo cà sa nâu dầy đưa hoàng phi mặc trùm ra ngoài cho đỡ rét.
    - Nam mô a di đà Phật? Hẳn nhà chùa đi đường xa.
    - Sao cô hàng biết?
    - Vì thấy nhà chùa cưỡi ngựa. ở vùng này ít khi có các sư ông cưỡi ngựa đi qua.
    Hoàng phi lo lắng nhìn Nhị Nương. Phạm Thái thản nhiên đáp lại cô hàng:
    - Phải, bần tăng nay đi ngựa cũng là một sự bất thường. Nguyên Phổ bác thiền sư - Vừa nói vừa trỏ hoàng phi - khi tới Kinh Bắc thì mỏi mệt quá, không đi được nữa, may gặp công tử đây - chỉ Nhị Nương - là chỗ bạn tâm giao, công tử liền bỏ tiền ra mua mấy con ngựa để cùng đi cho vui.
    - Nam mô a di đà phật? Thật công tử có lòng quý hóa? Nhưng chư tăng đi tận đâu?
    Nghe cô hàng hỏi tỉ mỉ, Phạm Thái đưa mắt liếc Nhị Nương có ý bảo thầm phải coi chừng, vì biết đâu cô hàng ta không là một tay thám tử. Chàng cho rằng nếu đảng Tiêu sơn biết dùng những hàng cơm, hàng nước làm nơi dọ thám, thì triều đình cũng chẳng dại gì mà không biết dùng. Chàng tin sự phỏng đoán của chàng là đúng, khi thoáng nghe có tiếng bẻ nứa ở trong buồng bên đưa ra. Chàng nghĩ thầm:
    "Thế nào cũng có thằng ghé mắt nhìn qua bức phên liếp kiả" Tức thì chàng đứng dậy giục giã mọi người lên ngựa, và bảo ai nấy cùng ra roi phóng nước đại, phi về phía Lạng Giang. Mãi khi vượt qua làng Bái một quãng xa và sợ hoàng phi mệt nhọc, chàng mới kìm cương ngựa lại. Nhị Nương hỏi:
    - Cớ sao hiền đệ vội vàng như thế?
    Phạm Thái vẫn còn ngó lại phía sau:
    - Hiền tỉ không ngờ vực điều gì?
    - Ngờ vực thì có ngờ vực, nhưng cần gì phải quá hấp tấp đến thế?
    Câu nói bình tĩnh của một người thiếu phụ khiến Phạm Thái lấy làm tự hổ thẹn về cử chỉ của mình. Chàng nói chữa:
    - Nhưng mà tế ngựa một lúc trong người cũng thêm ấm được một chút, có phải thế không, tâu lệnh bà?
    Hoàng phi mỉm cười an ủi:
    - Phải đấy. Nhưng chị đã dặn các em chỉ nên gọi theo đạo hiệu của chị mà thôi Các em nên biết tai vách, mạch rừng, ta phải phòng bị luôn mới được. Vậy từ giờ trở đi bất cứ chỗ đông người, hay ở chỗ vắng, chị là Phổ Bác thiền sư còn công tử thưa công tử tên họ gì tôi quên bẵng mất rồi.
    Nhị Nương cười lớn, cố làm bộ dạng đàn ông thò tay vào bọc lấy tín bài mà nó i răng :
    - Bạch thiền sư tôi cũng quên bẵng mất, để còn phải tra cứu lại mới được.
    Rồi nàng cầm tín bài đọc:
    - Nguyễn Đức Minh, hăm nhăm tuổi, người làng Đông Phú, huyện Đông Ngàn.... Có thế mà mãi không thuộc.
    Mọi người cười rộ.
    Có tiếng đâu đó cười theo. Ai nấy kinh ngạc nhìn nhau. Một người tuy đầu râu đã bạc, nhưng còn vẽ tráng kiện, da dẻ hồng hào, cười lừa từ bên sườn đồi đi xuống, gọi:
    - Có phải Chiêu đấy không?
    Phạm Thái nhìn Nhị Nương, mà trong lòng lo sợ, bất giác thò tay vào bọc rút dao. Người kia nói tiếp luôn?
    - Có phải Chiêu Trung.... Con quan Bạch Hạc Hầu.... đó không?
    Phạm Thái nghe giọng lè nhè thì đoán biết rằng ông già say rượn và lầm Nhị Nương với ông Chiêu nào đó.... Tức khắc chàng tra kiếm vào vỏ, vui mừng đáp lại:
    - Dám xin lão trượng cho biết quý tính đại danh để lũ bần tăng được hầu chuyện.
    ông lão như không nghe rõ lời Phạm Thái, cho lừa bước lại gần bên Nhị Nương mà nói rằng:
    - Công tử đi chơi đâu với chư tăng thế?.... lại rủ nhau lên Lạng giăng nhắm rượn với thịt cầy chứ gì ? Cho lão phu đánh chén với nhé?
    - A di đà phật?
    Câu niệm phật của hoàng phi khiến ông già quay lại ngắm nghía, rồi nói:
    - Chẳng hạn như sư ông đây vừa trẻ tuổi vừa đẹp trai.... đẹp hơn con gái đấy, mà bảo giới được tửu, giới được sắc thì lão phu.... xin cam đoan chừa rượn.... chừa làm thơ.... chừa tuốt.... Chư tăng cùng công tử chắc cho lão già lắm rồi.... Kỳ thực lão mới năm mươi nhăm tuổi.... Đầu lão bạc, râu lão bạc.... là vì lão lo buồn nhiều quá lo buồn về việc.... việc nước....
    Hoàng phi mỉm cười đáp:
    - Lão trượng lo buồn việc nước mà rượn cứ chén tì tì được?
    - ấy uống để quên. Nhưng về nhà lão chơi đã. Lão ra đón công tử từ sáng, vì chắc thế nào công tử cũng qua đây.
    Nhị Nương lễ phép xuống ngựa đáp:
    - Thưa lão trượng, lão trượng nhầm rồi. Tôi có là ông chiêu ông ấm nào đâu.
    Tôi là.... là Nguyễn Đức Minh người huyện Đông Ngàn đây mà?
    - Thế à? Thế ra công tử không phải ông Chiêu Trung, con quan Bạch Hạc Hầu là bạn đồng khoa với lão phu. Nhưng không sao cứ về chơi đánh chén đã? Lâu nay lão phu không có tri kỷ.... uống rượn một mình buồn lắm?
    Phạm Thái có vẻ ngẫm nghĩ Bỗng chàng hỏi ông lão:
    - Dám hỏi tôn ông, tôn ông có phải là Phạm tiên sinh đâu tiến sĩ về đời Cảnh Hưng không?
    ông lão dương mắt đăm đăm nhìn Phạm Thái:
    - Không, tôi họ Trần, chứ không phải họ Phạm, tuy tôi có đậu tiến sĩ, nhưng thưa chư tăng cùng công tử, cái tiến sĩ ngày nay không quý bằng một bình rượn ngon, hay một cái đùi chó thui vừa chín tới.
    Dút lời, ông lão cất tiếng cười oang oang tỏ cho mọi người biết rằng mình còn khỏe mạnh chẳng kém gì trai trẻ. Rồi ông ta nói tiếp:
    - Ý chừng các ngài muốn hỏi thăm ông thầy số tướng thiên văn, địa lý Phạm Quảng Văn người làng Hoàng Mai?
    - Vâng.
    - Còn tôi đây chỉ là Trần Lý người trấn sơn Nam.
    ông ta giơ tay trỏ lên một trái đồi:
    - Nhưng không sao, xin mời chư tăng cùng công tử cứ đến chơi, nhà lão phu kia rồi.
    - Vậy xin vâng.
    Năm người cho ngựa và lừa đi buớc một leo lên đồi. Bỗng một đứa trẻ nằm ngửa phơi nắng trên lưng trâu vỗ bụng mà hát rằng:
    Mặt trời sắp lặn sau đèo Hỡi người hếlm củi hãy theo vào rừng.
    Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
    Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
    Nhị Nương hỏi Trần Lý:
    - Thế nghĩa là gì, dám thưa lão tiên sinh?
    Phạm Thái nói:
    - Trẻ chăn trâu nó hát nghêu ngao còn tìm hiểu nghĩa làm gì cho mệt trí.
    Trần Lý suy nghĩ đọc nhẩm lại bốn câu ca vừa lắng tai nghe được:
    Mặt trời sắp lặn sau đèo Hỡi người hếlm củi hãy theo vào rừng.
    Đem dao, cùng búa, cùng thừng.
    Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to.
    Bỗng ông ta cười phá lên, bảo mọi người:
    - Sấm rồi? câu sấm rồi? Thôi lại anh nào trong đám trung thần nhà Lê đặt ra đó thôi Mà biết đâu lại không chính anh Phạm Quảng Văn là tác giả câu hát ấy.
    Bấy giờ bốn con ngựa và lừa của chủ nhân đã leo đến một nếp nhà tranh làm ở một nơi đất bằng, rộng độ hai sào, chung quanh trông thông cùng dương liễu, Trần Lý xuống lừa mời:
    - Rước chư tăng với công tử vào chơi....
  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0

    Rồi quay sang tiểu đồng:
    - Chú Thiện? pha nước uống nhé?
    Một câu bé đầu đội trái đào, chừng mười bốn, mười lăm tuổi chạy ra, chắp tay nol:
    - Thưa thầy, có ông tú Mỹ Cầu đánh cá ở đầm Phan Trì được hai con chép lớn, đem đến biếu thầy.
    Trần Lý cất tiếng cười ha hả:
    - Hay? Hay lắm? Quý khách đến chơi, nhà lại có người cho cá ngon....
    ông quay ra nói với Phạm Thái:
    - Cá chép đầm Phan Trì có tiếng là ngon lắm đấy bạch hai sư ông.
    Nghiễm nhiên Phạm Thái hỏi lại:
    - Nhưng lão tiên sinh có rượn ngon không?
    - Rượn ngon thì không thiếu, chỉ lo chư tăng cùng công tử không có sức uống.
    Vậy chú Thiện, chú đi tìm cho thầy anh trò nào khéo làm gỏi đến giúp thầy một tay nhé. Chả mấy khi có gỏi tươi như thế này để thết các vị thiền sư. Nhưng đun nước pha trà ngay đã, các quý khách chắc hẳn rét lắm đấy.
    Người nào người ấy tìm gốc thông buộc ngựa rồi đi vào trong nhà ngồi nghĩ - Chú đừng quên lấy thóc cho ngựa các quý khách ăn nhé?
    Một lát sau, thiểu đồng bưng nước lên. Bà hoàng phi uống luôn hai chén chè tươi nóng và thơm, thấy trong người ấm áp dễ chịu, mỉm cười nhìn Nhị Nương.
    Nhưng Nhị Nương giữ vẻ mặt tư lự, hỏi Trần Lý:
    - Thưa lão tiên sinh, tôi vẫn không nghĩ ra được nghĩa huyền bí của câu sấm lúc nãy?
    Trần Lý cười lớn:
    - Thì làm gì có sấm, sét kia chứ. Tôi đã bảo họ đặt ra đẻ xui giục lòng dân mà thôi Họ cố làm cho câu hát lờ mờ, huyền bí, khiến ai đọc đến cũng phải đoán ra một nghĩa riêng. Thí dụ câu hát này chúng ta thử cùng nhau tán lấy một nghĩa mà xem. Câu đầu:
    "Mặt trời sắp lặn sau đèo " Thì ta có thể cho là phương tây. Mặt trời sắp lặn chả là phương tây thì còn là gì.
    Còn như đèo thì ta có thể cho là núi. Vậy câu đầu tức trỏ "Tây sơn ". Hơn nữa, hai chữ "sắp lặn " lại là sắp mất. Tóm lại sáu chữ ấy chỉ nghĩa "nhà Tây sơn sắp mất ". Kế đến hai câu sau:
    "Hỡi người hếam củi hãy theo vào rừng "Đem dao cùng búa cùng thừng " thì có lẽ chẳng có nghĩa gì, mà chỉ là hai câu đưa đẩy. Nhưng ta có thể tán rằng "người hếhm củi " đây là trung thần nghĩa sĩ, và "theo vào rừng " là theo nhà Lê.
    Và trong chữ Lê cũng có chữ dao. Câu sau rốt:
    "Chặt cây cao nhỏ, xin đừng cây to. " Thì hẳng có nghĩa là diệt Tây sơn. Vì "cao nhỏ " là tiểu, ngột:
    hai chữ tiểu, ngột chắp lại thành chữ Quang, Quang đây không là Quang Trung, Quang Toản thì các ngài còn bảo Quang gì? Đó là tôi giảng theo ý riêng của tôi. Công tử cùng chư tăng giảng theo một nghĩa khác. Cũng không ai cấm.
    Dút lời, ông ta cười ha hả. Phạm Thái và Nhị Nương phục Trần Lý lắm. Chủ nhân lại nói tiếp:
    - Câu sấm ấy kể cũng tầm thường. Mà sấm như thế, một lúc tôi có thể đọc vài chục câu, chẳng hạn:
    "Ra đầm đánh cá về xơi, "Béo thời là gỏi, gầy tới kho tương ".
    Cả năm người cùng cất tiếng cười vang. Trần Lý nói:
    - Biết đâu tán rộng ra, câu ấy lại không có nghĩa thế. Nhưng kìa ai đến chơi?
    Một người chống gậy từ trên đồi đi lên.
    Ai nấy nhìn xuống; Phạm Thái hỏi Trần Lý:
    - Có phải Phạm Quảng Văn đấy không, thưa lão trượng?
    - Không phải.
    Vừa nói, ông lão vừa đứng dậy chạy vội ra sân:
    - Xin kính chào quan Bạch Hạc Hầu? May mắn cho đệ biết bao, hâm nay lại được đại nhân chiếu cố đến chơi.
    Người mới tới tuổi đã cao lắm, vào khoảng gần bảy mươi, đứng lại thở rồi mỉm cười bảo Trần Lý:
    - Tôi đến đây xin hiền hữu tha lỗi cho cháu Trung. Sáng nay tôi có chút việc cần phải nhờ đến cháu đi giúp, nên cháu không lại hầu hiền hữu được.... Xin để khi khác cháu đến tạ tội.
    Bạch Hạc Hầu vái chào nói tiếp:
    - Thôi, lại xin cáo từ hiền hữu tôi về.
    Trần Lý giữ thế nào cũng không được, đành phải tiễn khách xuống chân đồi, rồi trở lên lắc đầu phàn nàn:
    - Ông lã thật thà quá? Đi năm sáu dặm đường, trèo hai, ba quả đồi chỉ cốt báo cho mình biết rằng ông Chiêu Trung không đến chơi được.
    Hoàng Phi khen:
    - Người thủ tín đến thế.
    Nhị Nương nói:
    - Nhưng bạch sư ông sao không sai người nhà đi?
    Trần Lý cười:
    - ấy, Bạch Hạc Hầu vẫn có tính quá cẩn tín như thế đấy. Một lần, chúng tôim ấy anh em hẹn hôm sau lên họp nhau uống rượn làm thơ ở trên ngọn đồi Phúc Long. Chẳng may đêm hôm ấy, mưa như tầm tã, rồi sáng hôm sau vẫn chưa tạnh.
    Tưởng chẳng còn ai đến họp nữa, mà tôi cũng không đến. Có ngờ đâu Bạch Hạc Hầu sắn quần chống gậy mà tới nơi.hẹn. Sau về, cụ ốm mất gần nửa tháng, chúng tôi phải cắt nhau đến phục dịch thuống ********* cụ.
    Phạm Thái phàn nàn:
    - Thế thì câu nệ quá nhỉ?
    Người nhà bưng mâm gỏi lên. Chủ bèn mời khách vào dự tiệc. Riên chú tiểu giữ lễ không dám ngồi. Trần Lý cười nói:
    - Bày vẽ, đời này không nên kể tôn ti trật tự gì nữa? Chỉ có hai hạng người:
    Người anh hùng với người.... không anh hùng. Vậy thì xin lỗi hai sư ông cứ gì là tiểu mà không phải bực anh hùng.
    Phạm Thái quên hẳn mình đương mặc bộ áo cà sa cả tiếng cười vang, nói lớn:
    - Khảng khái thay lời của lão anh hùng Trần tiên sinh. Vậy chú Thận, sư ông xá lỗi cho phép chú được hầu rượn lão tiên sinh cùng quý công cử đây.
    Rồi năm người cùng ngồi lên giường uống rượn trò chuyện vui vẻ. Nhưng Nhị Nương vẫn không quên đưa mắt ra bảo Phạm Thái phải giữ gìn, chớ nên quá chén.

  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 19 - Đả lôi đài


    Xong tiệc rượu Trần Lý say mềm, nằm vật ra ngủ.
    Nguyễn Đức Minh liền viết mấy chữ cảm tạ để lại rồi cùng hai sư ông và chú tiểu lên ngựa ra đi, trông về phía Lạng Giang thẳng tiến.
    Đến bến Lạng lại phải vào đồn trình viên tuần giang xin phép sang sông. Lần này hàng lý bị khám xét kỹ hơn, và mỗi người phải cung khai lý lịch rành rọt hơn.
    Viên tuần giang hỏi vặn mãi về mấy con ngựa; nào những mua ở đâu, mua của ai, giá bao nhiêu tiền, vì sao đi tu mà cũng có tiền mua ngựa, mà cũng biết cưỡi ngựa. Nhị Nương phải hết tài ngôn luận, đem hết giọng phong lưu công tử ra ứng đối mới thoát được. Nàng không quên lòe viên tuần bằng những lời khoác lác, khoe khoang, nói quen thân với quan đại đô hộ nọ, quan đại đổng lý kia, thường uống rượu làm thơ với quan thị lang này, quan tư vụ khác, khiến viên tuần giang hơi chột dạ, mà cái ý tưởng muốn đánh thuế của nhà chuà một con ngựa tốt cũng dần dần biến mất trong khối óc làm tiền của ngài.
    Vì thế nên chùng chình mãi, bốn người mới sang sông được, và khi đến Lạng Giang thì mặt trời đã xế bóng.
    Lạng Giang tuy chỉ là một phủ ly, song vì ở giáp giới miền trung du và thượng du - nhất ở hạt ấy, hai nòi giống lại bắt đầu gặp nhau, - nên xưa nay vẫn là nơi rất trọng yếu, về mặt tuần phòng cũng như về mặt thương mại. Về mật tuần phòng không những binh lính nhiều gấp đôi những phủ lỵ khác, mà ngoài số bộ binh và ky binh ra, lại có một đội chiến thuyền đóng ở sông Thương nữa.
    Còn thương mại thì rất phồn thịnh, vì đó là nơi giao dịch sản vật, hàng hóa của các dân Thổ, Mán vá dân Annam.
    Vừa bước tới đầu phố Nam môn, bọn Phạm Thái nhận thấy ngay điều đó. Tuy lúc bấy giờ đã về chiều mà người qua lại vẫn còn tấp nập. Những bộ y phục màu chàm luôn luôn xen lẫn với những bộ y phục màu nâu. Chỗ này mấy chục người Thổ ở chợ về đi theo sau một đàn bò bán còn thừa lại. Chỗ kia, những người Annam, từng tốp một, gánh muối ở thuyền lên nơi nhà trọ để sáng hôm sau đem ra chợ bán.
    Tiếng cười đùa vui thú, tiếng gọi nhau vào hàng cơm, tiếng cãi cọ om sòm, thực là huyên náo.
    Trước một tửu quán, bốn người dừng ngựa. Tò mò đứng ngắm một đám đông.
    ở giữa đám ấy có tiếng thanh la inh ỏi. Bỗng tiếng thanh la ngừng lại, rồi bọn người đứng xem dãn ra một chỗ. Bốn người ngồi trên mình ngựa thấy tiến đến gần một người Thỗ, thân thể vạm vỡ, cao lớn. Người ấy chắp tay, cúi đầu chào, lễ phép nói bằng tiếng kinh rất sõi:
    - Bạch chư tăng, thưa công tử, chúng tôi xin ra đón các ngài vào xem.
    Đáp lại câu mời, Nhị Nương thò tay vào bọc, bốc một nắm tiền đồng đưa cho người kia mà truyền rằng:
    - Làm trò đi. Hay, ta thưởng thêm sau.
    Bọn Thổ có tất cả ba người:
    hai người đàn ông và một thiếu nữ rất đẹp, luôn luôn ngước mắt ngắm phía nhà sư và mỉm cười một cách rất có ý nghĩa. Thoạt tiên chúng cho con chó làm trò. Con vật theo tiếng hát ê a chui qua những cái vòng tròn bằng mây. Rồi đến lượt con khỉ và con cừu:
    con khỉ lộn múa trên lưng cửu rất giẻo và nhanh nhẹn. Phạm Thái ý chừng quên bẵng rằng mình là sư, trở người con gái hỏi:
    - Còn cô kia không biết làm trò gì?
    Cô Thổ nhoẻn một nụ cười kháu khỉnh, đáp lại:
    - Em chỉ biết yêu nhà sư thôi.
    Khán giả đứng quây tròn chung quanh, cười vang lên, khiến cặp má Phổ Bác thiền sư dần dần ửng đỏ. Thấy vậy bọn làm trò cũng cười theo, và nói tiếng Thổ với nhau điều gì.
    Bốn người cười ngựa toan quay đi thì bọn kia khẩn khoản mời ở lại xem diễn võ Họ múa rất đẹp và rất khỏe, khiến Phạm Thái và Nhị Nương phải tấm tắc khen hoài. Đoạn, họ thách khán giả có ai giỏi vào đấu võ với họ. Nếu đánh được họ, họ sẽ hiến hết số tiền thu được. Nhưng trước khi tỉ thí họ hãy xin đi thu tiền đã. Muốn coi đấu võ, công chúng chẳng hà tiện, ném tiền soang soảng vào cái thau mà cô gái Thổ giơ ra. Chẳng bao lâu đã thu được già nửa chậu tiền đồng.
    song vẫn không ai dám vào đọ sức với bọn họ. Có lẽ vì ngắm thân thể hai người đàn ông Thổ lực lưỡng to lớn mà ai nấy sợ hãi chăng? Một người làm trò nói ý chừng để nuốt trôi số tiền vừa thu được:
    - Không có ai vào đấu với chúng tôi thì chúng tôi đấu với nhau để các ngài coi vậy Hai người cùng nhau đi một bài quyền. Đoạn, người thiếu nữ đứng chống tay vào hai bên sườn, ngạo nghễ nhìn công chúng, nói:
    - Không ai dám đấu võ với hai anh em, nhưng em đây hẳn có tay địch thủ?
    Không ai trả lời. Nàng liền đưa mắt nháy Phạm Thái mà hỏi rằng:
    - Thế nào, bạch sư ông? Nều sư ông mà hạ nổi em thì em xin thình nguyện nhận sư ông làm chồng.
    Khán giã cười vang. Nhưng họ kinh ngạc xiết bao khi họ thấy nhà sư thong thả xuống ngựa, và khoan thai bước lại gần người con gái. Ai nấy im lặng, chờ xem.
    Phạm Thái đưa mắt nhìn chung quanh mình rồi dằn từ tiếng bảo người thiếu nữ:
    - Bần tăng tiếc rằng sự tu hành bắt buộc các nhà sư không được có vợ. Vậy nếu cô nương bằng lòng nhận điều này thì bần tăng xin thí võ với cô nương ngay. . .
    Mọi người thì thào:
    - Ồ ? bí mật nhỉ ? nhà sư mới ngộ nghĩnh làm sao chứ ?
    Cô gái Thổ không khỏi chột dạ, se sẽ đáp:
    - Vâng, điều gì xin sư ông dạy cho biết.
    - Là nếu tôi đánh ngã cô nương thì tôi có quyền muốn gả cô cho ai mặc ý.
    Cô kia còn do dự thì người anh đã giục:
    "Cứ nhận lời đi, không thua đâu mà sợ Hai người cùng nhau đấy quyền. Nhưng thiếu nữ địch sao nổi Phạm Thái, chưa đưọc ba hợp đã ngã chổng quèo vì một cái đá móc của bên địch.
    Những người đứng xem, reo mừng ầm ĩ:
    - A . . . a ? Nhà sư đắc thắng ? . . . Nhà sư được rồi ? . . . B ạch sư ông gả cô ấy cho tôi nhé?
    Cô Thổ xấu hổ lóp ngóp bò dậy ra đứng phía sau con chiên, thở hổn hển.
    Nhưng một người trong hai người đàn ông bước lại gần bên nhà sư mà rằng:
    - Võ nghệ nhà sư cũng khá đấy?
    Phạm Thái mỉm cười:
    - Muốn biết khá hay không, nhà ngươi chỉ việc tỉ thí. Bần tăng vẫn còn đử sức để đấu với nhà ngươi.
    Khán giả hò la:
    - Ồ phải đấy ? đấy vỏ đi ? . . . Hai người đấy võ đi ? . . .
    Một cái kiệu khiêng qua. Vị công tử ngồi trong vén màn bảo phu kiệu đứng lại, rồi khi hỏi biết đầu đuội câu truyện liền truyền rằng:
    - Ta treo giải một nén bạc đấy.... Vậy đấu võ đi.
    Phạm Thái liếc mắt nhìn gã kia, trong lòng căm tức. Người làm trò cung kính đáp lại:
    - Thưa công tử, tối lấy làm tiếc rằng trời tối mất rồi. Kể đấu võ với một người tầm thường thì chỉ trong nháy mắt là xong. Nhưng đối với sư ông đây thì tất phải lâu, ít ra cũng mươi, mười lăm hiệp mới phân thắng phụ, mà trời lại tối rồi. Chẳng lẽ đốt đuốc lên mà đánh nhau. Vậy xin công tử đến sáng mai.
    Thực ra trời đã nhá nhem tối. Vả Phạm Thái cũng không muốn lĩnh thưởng của gã kia, liền nhận lời đợi đến hôm sau sẽ cùng người làm trò thử sức. Nhị Nương nói đùa:
    - Nhưng còn tiểu thư chưa thấy sư ông định phận ra sao. Nào ai có diễm phúc được ùng cô kết duyên?
    Cô làm trò ngước mắt nhìn chàng niên thiếu ngồi trên mình ngựa mỉm cười một nụ cười rất có duyên. Nàng ao ước và đinh ninh rằng thế nào nhà sư cũng gán mình cho chàng công tử, bạn của nhà sư. Vì thế, nàng tấp tểnh mừng thầm đứng đợi Nhưng Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
    - Hãy chờ đến mai. Bần tăng đấu võ với võ sĩ đây xong đã rồi hãy hay.
    Dút lời chàng mời hoàng phi cùng Nhị Nương vào trong quán nghỉ trọ. Chủ quán ban nãy cũng đứng xem nhà sư đấu võ, nên tỏ vẻ kính phục lắm vội vàng đi sắp mậm rượu. Trong khi ấy, người đầy tớ và chú tiểu giắt ngựa đi tàu.
    sáng hôm sau vừa thức giấc, Phạm Thái đã vội vã giục hoàng phi và Nhị Nương lên đường. Nhị Nương nhắc truyện đấu võ thì chàng gạt ngay:
    - Chúng ta há gì một sự tỉ thí hão huyền mà nhãng bỏ việc lớn đương theo đuổi được chăng?
    Không thấy Nhị Nương đáp lại, chàng nói tiếp luôn:
    - Không phải ngu đệ sợ thua mấy thằng bán võ ấy đâu, - mà có thua phỏng đã sao? - nhưng ngu đệ chỉ e mất thời giờ vô ích, trong khi ở Tiêu sơn đại huynh đang lo lắng về hành trình của chúng ta.
    Hoàng phi vẫn muốn mau tới Lạng sơn để được nghe ngóng tin tức vưa Lê ở bên Tàu ra sao, liền phỉnh luôn Phạm Thái một câu:
    - Sư ông bàn rất phải. Người anh hùng không hề tức khí sằng, nhất lại không bao giờ để lòng hiếu thắng chiếm đoạt tâm hồn mình đến đổi làm lơ cả việc lớn.
    Vậy mục đích của ta là đi Lạng sơn. Đọ tài đọ sức với bọn thất phu kia làm gì?
    Tha hồ cho chúng nó ở lại mà khoe khoang, khoác lác với quần chúng, chúng nó làm giảm giá trị sao được một bậc nhân tài, một vị anh hùng như Phổ Chiêu thiền sư ?
    Được hoàng phi ca tụng, Phạm Thái sung sướng đỏ cả mặt, và suýt nữa toan phục xuống tạ ơn, nếu không nhớ đến thân thế bọn mình là một bọn tòng vong đương ở trong một hàng cơm đông người lui tới.
    Bốn người liền gọi chủ quán tính toán tiền ăn tiền trọ rồi ra đi, mặc cho hắn đứng khúc khích cười chế nhạo.
    Xong tiệc rượu Trần Lý say mềm, nằm vật ra ngủ.
    Nguyễn Đức Minh liền viết mấy chữ cảm tạ để lại rồi cùng hai sư ông và chú tiểu lên ngựa ra đi, trông về phía Lạng Giang thẳng tiến.
    Đến bến Lạng lại phải vào đồn trình viên tuần giang xin phép sang sông. Lần này hàng lý bị khám xét kỹ hơn, và mỗi người phải cung khai lý lịch rành rọt hơn.
  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0

    Viên tuần giang hỏi vặn mãi về mấy con ngựa; nào những mua ở đâu, mua của ai, giá bao nhiêu tiền, vì sao đi tu mà cũng có tiền mua ngựa, mà cũng biết cưỡi ngựa. Nhị Nương phải hết tài ngôn luận, đem hết giọng phong lưu công tử ra ứng đối mới thoát được. Nàng không quên lòe viên tuần bằng những lời khoác lác, khoe khoang, nói quen thân với quan đại đô hộ nọ, quan đại đổng lý kia, thường uống rượu làm thơ với quan thị lang này, quan tư vụ khác, khiến viên tuần giang hơi chột dạ, mà cái ý tưởng muốn đánh thuế của nhà chuà một con ngựa tốt cũng dần dần biến mất trong khối óc làm tiền của ngài.
    Vì thế nên chùng chình mãi, bốn người mới sang sông được, và khi đến Lạng Giang thì mặt trời đã xế bóng.
    Lạng Giang tuy chỉ là một phủ ly, song vì ở giáp giới miền trung du và thượng du - nhất ở hạt ấy, hai nòi giống lại bắt đầu gặp nhau, - nên xưa nay vẫn là nơi rất trọng yếu, về mặt tuần phòng cũng như về mặt thương mại. Về mật tuần phòng không những binh lính nhiều gấp đôi những phủ lỵ khác, mà ngoài số bộ binh và ky binh ra, lại có một đội chiến thuyền đóng ở sông Thương nữa.
    Còn thương mại thì rất phồn thịnh, vì đó là nơi giao dịch sản vật, hàng hóa của các dân Thổ, Mán vá dân Annam.
    Vừa bước tới đầu phố Nam môn, bọn Phạm Thái nhận thấy ngay điều đó. Tuy lúc bấy giờ đã về chiều mà người qua lại vẫn còn tấp nập. Những bộ y phục màu chàm luôn luôn xen lẫn với những bộ y phục màu nâu. Chỗ này mấy chục người Thổ ở chợ về đi theo sau một đàn bò bán còn thừa lại. Chỗ kia, những người Annam, từng tốp một, gánh muối ở thuyền lên nơi nhà trọ để sáng hôm sau đem ra chợ bán.
    Tiếng cười đùa vui thú, tiếng gọi nhau vào hàng cơm, tiếng cãi cọ om sòm, thực là huyên náo.
    Trước một tửu quán, bốn người dừng ngựa. Tò mò đứng ngắm một đám đông.
    ở giữa đám ấy có tiếng thanh la inh ỏi. Bỗng tiếng thanh la ngừng lại, rồi bọn người đứng xem dãn ra một chỗ. Bốn người ngồi trên mình ngựa thấy tiến đến gần một người Thỗ, thân thể vạm vỡ, cao lớn. Người ấy chắp tay, cúi đầu chào, lễ phép nói bằng tiếng kinh rất sõi:
    - Bạch chư tăng, thưa công tử, chúng tôi xin ra đón các ngài vào xem.
    Đáp lại câu mời, Nhị Nương thò tay vào bọc, bốc một nắm tiền đồng đưa cho người kia mà truyền rằng:
    - Làm trò đi. Hay, ta thưởng thêm sau.
    Bọn Thổ có tất cả ba người:
    hai người đàn ông và một thiếu nữ rất đẹp, luôn luôn ngước mắt ngắm phía nhà sư và mỉm cười một cách rất có ý nghĩa. Thoạt tiên chúng cho con chó làm trò. Con vật theo tiếng hát ê a chui qua những cái vòng tròn bằng mây. Rồi đến lượt con khỉ và con cừu:
    con khỉ lộn múa trên lưng cửu rất giẻo và nhanh nhẹn. Phạm Thái ý chừng quên bẵng rằng mình là sư, trở người con gái hỏi:
    - Còn cô kia không biết làm trò gì?
    Cô Thổ nhoẻn một nụ cười kháu khỉnh, đáp lại:
    - Em chỉ biết yêu nhà sư thôi.
    Khán giả đứng quây tròn chung quanh, cười vang lên, khiến cặp má Phổ Bác thiền sư dần dần ửng đỏ. Thấy vậy bọn làm trò cũng cười theo, và nói tiếng Thổ với nhau điều gì.
    Bốn người cười ngựa toan quay đi thì bọn kia khẩn khoản mời ở lại xem diễn võ Họ múa rất đẹp và rất khỏe, khiến Phạm Thái và Nhị Nương phải tấm tắc khen hoài. Đoạn, họ thách khán giả có ai giỏi vào đấu võ với họ. Nếu đánh được họ, họ sẽ hiến hết số tiền thu được. Nhưng trước khi tỉ thí họ hãy xin đi thu tiền đã. Muốn coi đấu võ, công chúng chẳng hà tiện, ném tiền soang soảng vào cái thau mà cô gái Thổ giơ ra. Chẳng bao lâu đã thu được già nửa chậu tiền đồng.
    song vẫn không ai dám vào đọ sức với bọn họ. Có lẽ vì ngắm thân thể hai người đàn ông Thổ lực lưỡng to lớn mà ai nấy sợ hãi chăng? Một người làm trò nói ý chừng để nuốt trôi số tiền vừa thu được:
    - Không có ai vào đấu với chúng tôi thì chúng tôi đấu với nhau để các ngài coi vậy Hai người cùng nhau đi một bài quyền. Đoạn, người thiếu nữ đứng chống tay vào hai bên sườn, ngạo nghễ nhìn công chúng, nói:
    - Không ai dám đấu võ với hai anh em, nhưng em đây hẳn có tay địch thủ?
    Không ai trả lời. Nàng liền đưa mắt nháy Phạm Thái mà hỏi rằng:
    - Thế nào, bạch sư ông? Nều sư ông mà hạ nổi em thì em xin thình nguyện nhận sư ông làm chồng.
    Khán giã cười vang. Nhưng họ kinh ngạc xiết bao khi họ thấy nhà sư thong thả xuống ngựa, và khoan thai bước lại gần người con gái. Ai nấy im lặng, chờ xem.
    Phạm Thái đưa mắt nhìn chung quanh mình rồi dằn từ tiếng bảo người thiếu nữ:
    - Bần tăng tiếc rằng sự tu hành bắt buộc các nhà sư không được có vợ. Vậy nếu cô nương bằng lòng nhận điều này thì bần tăng xin thí võ với cô nương ngay. . .
    Mọi người thì thào:
    - Ồ ? bí mật nhỉ ? nhà sư mới ngộ nghĩnh làm sao chứ ?
    Cô gái Thổ không khỏi chột dạ, se sẽ đáp:
    - Vâng, điều gì xin sư ông dạy cho biết.
    - Là nếu tôi đánh ngã cô nương thì tôi có quyền muốn gả cô cho ai mặc ý.
    Cô kia còn do dự thì người anh đã giục:
    "Cứ nhận lời đi, không thua đâu mà sợ Hai người cùng nhau đấy quyền. Nhưng thiếu nữ địch sao nổi Phạm Thái, chưa đưọc ba hợp đã ngã chổng quèo vì một cái đá móc của bên địch.
    Những người đứng xem, reo mừng ầm ĩ:
    - A . . . a ? Nhà sư đắc thắng ? . . . Nhà sư được rồi ? . . . B ạch sư ông gả cô ấy cho tôi nhé?
    Cô Thổ xấu hổ lóp ngóp bò dậy ra đứng phía sau con chiên, thở hổn hển.
    Nhưng một người trong hai người đàn ông bước lại gần bên nhà sư mà rằng:
    - Võ nghệ nhà sư cũng khá đấy?
    Phạm Thái mỉm cười:
    - Muốn biết khá hay không, nhà ngươi chỉ việc tỉ thí. Bần tăng vẫn còn đử sức để đấu với nhà ngươi.
    Khán giả hò la:
    - Ồ phải đấy ? đấy vỏ đi ? . . . Hai người đấy võ đi ? . . .
    Một cái kiệu khiêng qua. Vị công tử ngồi trong vén màn bảo phu kiệu đứng lại, rồi khi hỏi biết đầu đuội câu truyện liền truyền rằng:
    - Ta treo giải một nén bạc đấy.... Vậy đấu võ đi.
    Phạm Thái liếc mắt nhìn gã kia, trong lòng căm tức. Người làm trò cung kính đáp lại:
    - Thưa công tử, tối lấy làm tiếc rằng trời tối mất rồi. Kể đấu võ với một người tầm thường thì chỉ trong nháy mắt là xong. Nhưng đối với sư ông đây thì tất phải lâu, ít ra cũng mươi, mười lăm hiệp mới phân thắng phụ, mà trời lại tối rồi. Chẳng lẽ đốt đuốc lên mà đánh nhau. Vậy xin công tử đến sáng mai.
    Thực ra trời đã nhá nhem tối. Vả Phạm Thái cũng không muốn lĩnh thưởng của gã kia, liền nhận lời đợi đến hôm sau sẽ cùng người làm trò thử sức. Nhị Nương nói đùa:
    - Nhưng còn tiểu thư chưa thấy sư ông định phận ra sao. Nào ai có diễm phúc được ùng cô kết duyên?
    Cô làm trò ngước mắt nhìn chàng niên thiếu ngồi trên mình ngựa mỉm cười một nụ cười rất có duyên. Nàng ao ước và đinh ninh rằng thế nào nhà sư cũng gán mình cho chàng công tử, bạn của nhà sư. Vì thế, nàng tấp tểnh mừng thầm đứng đợi Nhưng Phạm Thái ngẫm nghĩ một lát, rồi nói:
    - Hãy chờ đến mai. Bần tăng đấu võ với võ sĩ đây xong đã rồi hãy hay.
    Dút lời chàng mời hoàng phi cùng Nhị Nương vào trong quán nghỉ trọ. Chủ quán ban nãy cũng đứng xem nhà sư đấu võ, nên tỏ vẻ kính phục lắm vội vàng đi sắp mậm rượu. Trong khi ấy, người đầy tớ và chú tiểu giắt ngựa đi tàu.
    sáng hôm sau vừa thức giấc, Phạm Thái đã vội vã giục hoàng phi và Nhị Nương lên đường. Nhị Nương nhắc truyện đấu võ thì chàng gạt ngay:
    - Chúng ta há gì một sự tỉ thí hão huyền mà nhãng bỏ việc lớn đương theo đuổi được chăng?
    Không thấy Nhị Nương đáp lại, chàng nói tiếp luôn:
    - Không phải ngu đệ sợ thua mấy thằng bán võ ấy đâu, - mà có thua phỏng đã sao? - nhưng ngu đệ chỉ e mất thời giờ vô ích, trong khi ở Tiêu sơn đại huynh đang lo lắng về hành trình của chúng ta.
    Hoàng phi vẫn muốn mau tới Lạng sơn để được nghe ngóng tin tức vưa Lê ở bên Tàu ra sao, liền phỉnh luôn Phạm Thái một câu:
    - Sư ông bàn rất phải. Người anh hùng không hề tức khí sằng, nhất lại không bao giờ để lòng hiếu thắng chiếm đoạt tâm hồn mình đến đổi làm lơ cả việc lớn.
    Vậy mục đích của ta là đi Lạng sơn. Đọ tài đọ sức với bọn thất phu kia làm gì?
    Tha hồ cho chúng nó ở lại mà khoe khoang, khoác lác với quần chúng, chúng nó làm giảm giá trị sao được một bậc nhân tài, một vị anh hùng như Phổ Chiêu thiền sư ?
    Được hoàng phi ca tụng, Phạm Thái sung sướng đỏ cả mặt, và suýt nữa toan phục xuống tạ ơn, nếu không nhớ đến thân thế bọn mình là một bọn tòng vong đương ở trong một hàng cơm đông người lui tới.
    Bốn người liền gọi chủ quán tính toán tiền ăn tiền trọ rồi ra đi, mặc cho hắn đứng khúc khích cười chế nhạo.

  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    20. Hồi 20 - Vua Chiêu Thống


    Năm hôm sau, bốn người đến Lạng sơn và theo Phạm Thái đi thẳng đến Kỳ Lừa thăm sư cự chùa Tam Thanh. Sư cụ đạo hiệu Phổ Mịch thiền sư là bạn đồng chí của Phạm Thái và là một đảng viên trong đảng Tiêu sơn.
    Hàn huyên dăm câu rồi hai người hỏi nhau đến việc đảng. Vô tình không biết có hoàng phi đứng trước mặt Phổ Mịch buột miệng nói:
    - Về vùng trấn Bắc như thế cũng có thể hy vọng lắm. Còn ở đây, từ khi cái tin Hoàng đế thăng hà đưa về nươc các bật sĩ phu xem chừng đều có ý chán nản....
    Thiền sư bỗng ngừng bặt vì thấy Phổ Chiêu ra hiệu bảo im ngay. Nhưng đã quá chậm rồi. Hoàng phi nấc lên một tiếng rồi ngã vật xuống đất. Nhị Nương vội nâng dậy đật lên giường và gọi mãi mới tỉnh. Thấy bà khóc thảm thiết và luôn miệng kêu "Bệ hạ", Phạm Thái lại gần khẽ nói:
    - Tâu lệnh bà nên bình tĩnh.
    - Ta cần gì. Ta cố sống đến ngày nay là chỉ vì hy vọng mai sau được gặp mặt Hoàng thượng. Nhưng nay Hoàng thượng thăng hà rồi, thì ta chỉ còn một thác mà thôi - Tâu lệnh bà, lệnh bà dạy thế sao được ? Vì nào chỉ có một mình Thánh thượng? Còn thái hậu, vâng còn Quốc mẫu, sau này ai người phụng dưỡng ngài?
    Và xin lệnh bà tha tội cho, Hoàng thượng mất tuy là một sự đau đớn. Vì Hoàng thượng mất còn tìm được người trong hoàng tộc kế vị, chứ giang sơn mất vào tay người khác, mới là mất hẳn. Vậy xin lệnh bà tĩnh tâm cho, đừng làm náo động lòng thần dân. Nhất lại ở chốn biên thành này, binh lính cùng thám tử của ngụy triều đông như kiến cỏ, nay lệnh bà khóc lóc ầm ỹ, nhỡ đến tai bọn họ, thì không những một mình lệnh bà bị khổ nhục, mà đảng trung thần phục quốc cũng đều vì lệnh bà mà phải ly tán mất. Xin lệnh bà nghĩ kỹ mà lượng xét cho.
    Hoàng phi lau nước mắt ôn tồn đáp lại:
    - Đạ tạ thiền sư, không có lời dạy bảo của thiền sư thì suýt nữa tôi đã làm lỡ cả việc lớn Bà liền cố gượng khuây nói chuyện với Phổ Mịch, cốt để hỏi về mọi sự đã xảy ra ở bên Tàu. Phổ Mịch sợ hải khép nép:
    - Tâu lệnh bà, vì lệnh bà cải trang, bần tăng không biết, đã xúc phạm tới lệnh bà.
    - Điều ấy không hề gì. Vả từ nay tôi thực đã trở nên một người tu hành, một nhà chân tu. Vậy xin sư cụ cứ gọi tôi là Phổ Bác cho tiện.
    Dùng thiền trà xong, hoàng phi cố nài Phổ Mịch thuật lại cho biết tình cảnh bọn bầy tôi tòng vong ở nước người sau khi Hoàng thượng thăng hà. Phổ Mịch nói:
    - Điều ấy, bần tăng không được tường. Nghe đâu vua Càn Long đày mỗi người ở một nơi . . .
    Hoàng phi thương hại phàn nàn:
    - Trời ơi? sao lại còn bị đày nữa? Tội tình gì mà bị đày như thế?
    - Họ bị đày ngay khi còn sinh thời Tiên đế, vì vua Càn Long không muốn bọn họ được gần đấng Tiên đế, sợ họ thúc giục Tiên đế xin quân đem về nước lo sự phục hưng.
    Hoàng phi thốt ra một câu mắng nhiếc:
    - Quân khốn nạn? . . . Vậy thế thì ta không còn mong gì nhà Thanh giúp binh nữa đấy.
    Phạm Thái đáp:
    - Tâu lệnh bà, ta cũng chăng nên mong cậy gì ở họ. Trước kia họ cho Tôn sĩ Nghị mang quân sang ta, tuy miệng nói là cứu giúp, nhưng kỳ thực chỉ cốt chiếm cứ nước Nam mà thôi. Nhà Minh xưa giúp nhà Trần, cái gương xâm lược ấy ta đã quên rồi sao? . . . Chỉ nên trông vào sức mình là hơn cả . . .
    Phổ Mịch nói tiếp:
    - Tâu lệnh bà, Phổ Chiêu thiền sư nói rất phải. Họ chẳng nhân nghĩa gì đâu. Cứ xem cách tàn nhẫn họ xử với một ông vua mất nước với đám bầy tôi tòng vong cũng đủ rõ tâm địa họ không ra gì. Ai đời thủa một ông vua láng giềng gặp bước loạn ly lánh sang nhờ vả mình, mà coi người ta không bằng một viên thượng thư?
    Bần tăng nghe Trần Thiện mo hắn phong cho Tiên đế chức tả lĩnh, ban cho áo mũ quan tam phẩm. Cái tin ấy làm bần tăng thâm ruột tím gan. Vua mình nó còn khinh thường như thế không trách các quan đi hộ giá, nó đày mỗi người một nơi . . .
    Việc này chỉ tại thằng Kim Giản xui nên cả. Tâu lệnh bà, chẳng ai ngu như bọn Lê Quỳnh, Phạm Như Hùng, Hoàng Tịch Hiếu không biết cư xử cho phải đường.
    Thấy nó lãnh đạm với mình thì mình phải hiểu chứ, ai lại để Thánh thượng đi lại cầu cạnh mãi rồi ra quỳ bên đường dâng biểu lên vua Thanh xin binh, nhất lại nhờ tên đô thống Kim Giản đưa vào hầu. Thầy trò chúng nó đã bàn định cùng nhau rồi.
    Chúng nó sợ bọn Tây sơn như sợ cọp, còn dám ho he gì nữa mà mong ngóng chúng nó cứu giúp ? Vua Thanh có cho thằng Kim Giản ra dỗ ngon dỗ ngọt, đánh lừa tam tứ phen, nào là chỉ cho đất Thâm Châu, nào là sắp phong làm quốc vương ở đất Tuyên Quang. Chỉ thương hại Nguyễn Văn Quyên vì lòng trung quân mà bị bọn chó má nó ném chết ở trong vườn Viên Minh.
    Hoàng phi rơm rớm nước mắt hỏi lại:
    - Chắc cao tăng biết nhiều về mọi việc ở bên nước láng giềng. Vậy dám xin cao tăng làm ơn thuật lại cho nghe.
    - Tâu lệnh bà, bần tăng quả mắt không trông thấy, nhưng tai được nghe Trần Thiện kể lại. Câu truyện đau lòng lắm, thiết tưởng lệnh bà chẳng nên biết làm gì thêm khó chịu. Chẳng qua nhà Lê ta đến vận suy, nên tình cảnh vua tôi sinh ra như thế Hoàng phi cố giữ nét mặt thản nhiên:
    - Xin cao tăng cứ cho biết.
    Nhị nương cũng nói:
    - Việc đã xảy ra thì có can hệ gì. Đối với người đeo đuổi việc lớn, chỉ có việc hiện tại với tương lai là đáng kể. Vậy xin cao tăng cứ thuật lại hầu lệnh bà nghe rõ đầu đuôi Phổ Mịch ngồi ngẫm nghĩ một lát, như để sưu tầm mọi điều trong trí nhớ, rồi kể rằng :
    - Hồi cuối năm ngoái, một hôm bần tăng đi tới cửa động Tam Thanh, bỗng gặp một người hành khất, quần áo rách rưới, dườing như đứng chờ ai. Người ấy vái chào bần tăng, thì thầm xưng tên là Trần Thiện. Bần tăng giất mình, vì hôm tiễn thánh giá vượt biên giới sang Tàu, chính mắt bần tăng trông thấy trong bầy tôi có ông Trần Thiện. Ngày nay ông ta về nước, chắc có sự biến cố chi đây. Bần tăng liền thắp đuốc mời Trần quân vào chơi trong động nói chuyện. Thì ra Trần quân trá hình kẻ hành khất trèo non, vượt suối về nước chỉ để báo tin cho thần dân biết rằng Hoàng thượng đã thăng hà, và đã lập Duy Khang kế nghiệp.
    Hoàng Phi ngơ ngác hỏi:
    - Duy Khang là ai vậy?
    - Tâu lệnh bà, là Lê duy Vượng, con nuôi của đấng Tiên đế.
    Hoàng phi có vẻ lo sợ:
    - Thế hoàng tử?
    - Hoàng tử....
    Phổ Mịch ngần ngại đưa mắt nhìn Phạm Thái, Nhị Nương trù trừ đáp:
    - Tâu lệnh bà, Hoàng tử lên đậu đã qua đời.
    Nhị Nương kinh hãi nhìn hoàng phi, chắc thế ngào nghe tin thái tử mất, bà cũng chết ngất đi. Nhưng không, bà vẫn giữ thản nhiên.
    Có lẽ sự thống khổ đã đến cực điểm làm cho bà nghẹn ngào không khóc được lên tiếng. Hay lòng căm tức vua tôi nước Tàu lấn át cả sự thống khổ ? Cặp mắt mơ mộng xa xăm, bà ngây người, nhắc đi nhắc lại:
    - Lên đậu? .... Hoàng tử lên đậu? Lên đậu? Mất rồi?
    - Tâu lệnh bà, có lẽ phần bực tức bị người Tàu khinh mạn, phần buồn phiền vì hoàng tử qua đời. Nên Hoàng thượng mắc bệnh nặng ngay, rồi qua năm sau, năm Quí sửu, Ngài thăng hà.
    Cặp mắt Hoàng phi vẫn mơ mộng xa xăm:
    - Ngài thăng hà? Ngài thăng hà?
    - Vâng, Ngài thăng hà đã được hơn bốn năm nay.
    Hoàng phi rùng mình như có cơn gió lạnh thổi qua tâm hồn. Nhưng bà cố định thần mà hỏi rằng:
    - Trần Quân có thuật cho cao tăng nghe cái giờ lâm chung của bệ hạ không?
    - Tâu lệnh bà, Trần quân thuật rất tường tận.
    Được Milou sửa chữa / chuyển vào 06:49 ngày 20/12/2002
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này