1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiêu Sơn Tráng Sĩ - Khái Hưng

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi Milou, 20/12/2002.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0

    Quang Ngọc không giấu nổi sự sung sướng, âu yếm đứng mỉm cười nhìn Nhị nương. Từ ngày hai người hộ giá Hoàng phi lên Lạng đến nay đã hơn hai tháng, ngày ngày chàng vẫn áy náy mong đợi tin tức, nhất là tin Nhị nương. Khi ở gần nhau chàng không cảm thấy chàng yêu, nhưng khi xa nhau chàng mới rõ hết nỗi hổ tâm của kẻ thương nhớ, dù có công việc đảng luôn luôn chiếm đoạt ý nghĩ của chàng. Nhị nương lại là một viên tướng rất có giá trị, giúp chàng được nhiều việc trong những lúc khó khăn nên sự lầm lỡ của Trịnh Trực và Lê Báo lại làm cho chàng hiểu rõ rằng thiếu Nhị nương thực như thiếu mất cánh tay phải.
    - Thưa hiền tỷ, còn Phạm huynh đâu?
    Câu hỏi của Lê Báo vụt nhắt Quang Ngọc nhớ tới Phạm Thái, mà mải vui được gập mặt Nhị nương chàng quên bẳng. Bấy giờ chàng mới kịp hỏi thăm. Nhị nương nói cho mọi người biết rằng Phạm Thái còn tạm lưu lại trên Lạng để giúp việc Thanh Xuyên hầu cùng Phổ Mịch thiền sư chỉ một mình nàng đã đưa Hoàng phi về, vì Lạng sơn không phải là nơi ẩn thân:
    ở chốn biên thuỳ, sự canh phòng khám xét cẩn mật lắm, nếu lưu lại lâu ngày, thế nào tung tích Hoàng phi cũng bị bại lộ.
    - Nhưng sao hiền muội lại biết ngu huynh cùng Trịnh công tử, Lê hiền đệ bị nhốt trong hầm này mà đem thực phẩm vào?
    Nhị nương kể:
    - Ngu muội vừa đưa Hoàng phi đến chùa Liên đài thì được tin ở vùng này các chùa đương bị sưu sách dữ lắm, mà chùa Liên đài lại chưa bị khám xét vì có tờ lý trưởng bẩm lên phủ rằng Phổ Chiêu đi vắng đã mấy tháng nay. Ngu muội sợ nếu để Hoàng phi ở đó trụ trì thay Phổ Chiêu như lời Phạm Thái dặn, người ta lại tưởng Phổ Chiêu đã về mà tới dò xét chăng, nên đã đưa Hoàng phi đến ẩn ở nhà một bậc Lê thần rất có thể tin cậy được.
    Lê Báo nghe Nhị nương kể dền dàng mà bụng thì đói đến cực điểm rồi, liền cáu kỉnh gắt:
    - Trưởng huynh hỏi hiền tỷ làm thế nào mà vào được đây, sao hiền tỷ nói dài dòng văn tự thế?
    Nhị nương chẳng lạ gì tính nết Lê Báo, nên mỉm cười dấu dịu:
    - Nhưng hãy mời công tử cùng hiền huynh, hiền đệ xơi cơm đã.
    Quang Ngọc nóng ruột muốn nghe nốt truyện liền dục:
    - Thì hiền muội cứ kể đi, chúng tôi chưa đói đâu mà.
    - Không, mấy nắm cơm cùng các thức ăn mà chưa hết, thì ngu muội không kể nữa.
    Dút lời, Nhị nương chắp tay đứng im, dù ai hỏi cũng mặc. Lê Báo đưa mắt nhìn nàng, tỏ lòng cảm ơn.
    - Ử thì ăn, nào mời Trịnh, Lê nhị vị.
    Lê Báo sung sướng đáp:
    - Vâng, ăn là phải lắm rồi ?
    Chỉ một thoáng, những nắm cơm và các món ăn biến hết vào trong bụng ba người, rồi ai nấy ra chum uống nước mưa vì Quang Ngọc biết khoản nước là cần, nên bao giờ cũng trữ sẵn ở trong hầm.
    Đoạn, Lê Báo thở ra khoan khoái bảo Nhị nương:
    - Bây giờ thì xin hiền tỷ cứ việc kể, kể suốt đêm cũng được.
    Quang Ngọc cười:
    - ăn qua loa thế mà Lê hiền đệ no được ư? Vậy hiền muội cũng nên thuật hết câu truyện vào hầm cho chúng tôi nghe tiêu cơm.
    - Xin vâng. Ban nãy ngu muội nói đã tạm gửi Hoàng phi ở nhà một người cẩn tín. Thế rồi ngu muội tức tốc về đây. Lúc bấy giờ đã gần sáng. Thấy lửa đuốc rực trởi, ngu muội kinh hoảng dừng lại không dám tiến vào chùa nữa, vì biết rằng đảng ta đương gặp biến. Vừa nghe tin các chùa bị khám xét, mà lại thấy trong chùa Tiêu sơn có binh mã rộn ràng thì còn ngờ sao được nữa.
    Lê Báo hỏi:
    - Hiền tỷ ngờ gì thế?
    - Nghĩa là chắc rằng đảng đương gặp biến. Tức thì ngu muội đến nhà các đảng viên ở quanh vùng báo tin cho biết, rồi chờ sáng rõ thay mặc một bộ quần áo giái quê, - Vì lúc ấy ngu muội vẫn còn đóng vai công tử như khi rời trấn Kinh Bắc để dẫn Hoàng phi lên Lạng sơn. Bộ quần áo ấy hiện ngu muội đương mặc đây.
    Ba người ngắm nghía Nhị nương. Quang Ngọc khen:
    - Rõ ràng một cô gái Lim.
    - Chú sao ? Phải không ông hiền huynh? Khi mình cần làm hạng người nào, khi mình cần theo nghề gì, thì ngôn ngữ cử chỉ cho chí y phục của mình phải hệt là hạng người theo nghề ấy. Vậy hiền huynh thử trông xem ngu muội có hệt một cô gái quê xinh xắn, láu lỉnh bán hàng trầu nước cho các cậu cai cơ, cai lệ không?
    Quang Ngọc mỉm cười gật gù:
    - Hệt lắm?
    Rồi chàng quay lại bảo Trịnh Trực:
    - Công tử đã thấy chưa? Chứ khi người ta nhốt tù hờ vào cũi, người ta chọn anh đầu trọc, thì người ta phải bảo ngay rằng người ấy là sư, chứ người ta không để mập mờ.... Tôi chỉ tiếc rằng hồi ấy không có Nhị nương hay Phạm Thái ở nhà.
    Lê Báo lấy làm xấu hổ với Nhị nương, hằn học đáp lại:
    - Lỗi ở ngu đệ. Đại huynh muốn mắng thì mắng vào mặt ngu đệ có hơn không, sao lại cứ nói bóng nói gió.
    Quang Ngọc yên lặng, cái yên lặng tức giận, khinh bỉ. Thấy Nhị nương cũng đứng im, chàng ôn tồn hỏi:
    - Thế rồi sao nữa, thưa hiền muội?
    - Thế rồi ngu muội quẩy gánh trầu nước, quà bánh qua cổng chùa Tiêu sơn lên giọng uốn éo rao lớn:
    "Có ai ăn trầu ngon, uống nước nóng, xơi quà, xơi bánh không?" Chẳng đợi ngu mội rao đến hai lần, một cậu lính ra gọi:
    "Vào đây?" Thôi tha hồ các cậu liếc, cùng buông những câu bỡn cợt lả lơi. Ngu muội tuy đáp chuyện họ nhưng vẫn để mắt tìm thầy đội. Làm quen thân được với một thầy đội còn bằng mấy mươi cậu cai, cậulính. Nhưng may cho ngu muội thầy đội đi chơi vắng, giao cho bác cai nhất ở lại trông coi, mà bác cai nhất lại là người có tuổi, rất đứng đắn "Ngu muội nghe chừng cái kế mỹ nhân chẳng có công hiệu gì lại quẩy gánh đi Vả có làm quen với thầy cai cũng chẳng ăn thua, vì các cửa chùa trên họ đều khóa bằng khóa sắt nặng, cùng là gián niêm phong cẩn mật lắm, khó lòng lọt vào được "Ngu muội quay ra đằng sau nhà chùa, thì ở hai góc trông ra bãi tha ma họ đã dựng xong hai cái lều tre, trong ấy đều có lính giữ.
    "suốt một ngày ngu muội ngồi tìm kế để đem thực phẩm vào hầm, vì ngu muội đoán rằng hiền huynh cùng hiền đệ chỉ ẩn ở trong hầm mà vội vàng hấp tấp thì ai nghĩ đến đem thức ăn... " Quang Ngọc ngắt lới:
    - Có, ngu huynh có nghĩ đến nên ngu huynh đã đem theo một gói oản chuối đây Lê Báo chau mày hỏi:
    - Thực à?
    - Lại chẳng thực. Nhưng tôi muốn để hai ngài làm quen với cái đói thêm một đêm nữa. Đó cũng là một cách trừng phạt.
    Nhị nương cười rồi kể tiếp:
    - Mãi tối, bóng trăng suông lờ mờ mới nhắc ngu muội đến làm ma.
    Lê Báo trợn mắt tròn xoe:
    - Ồ, giỏi nhỉ? thế ra lúc binh lính chạy tán loạn kêu "ma hiện hồn", là lúc hiền tỷ đội cái mấn trắng này vào đầu làm ma nạt họ....
    - Chính thế? Rồi nhân lúc họ kinh hoảng, quanh ra sau cái bia lớn, lần đến cửa bí mật chui vào hầm. Có thế thôi. Bây giờ thì họ đương đốt đuốc tìm ma. Nhưng đã là ma thì còn ai tìm thấy?
    Quang Ngọc buồn rầu thở dài:
    - Chỉ sợ chẳng bao lâu, anh em ta hoá ma thực cả thôi.

  2. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 30 - Việc lớn


    Đêm đã khuya. Phạm Thái đương ngồi nói chuyện với Phổ Mịch thiền sư ở động Tam Thanh thì có một tên lính cẩn tín hầu trong dinh quan trấn thủ ra tìm chàng vào hội kiến với Thanh Xuyên Hầu. Biết rằng có việc khẩn cấp, chàng vội vàng đi ngay.
    Ra đến bờ sông Kỳ Cùng, chàng gặp Thanh Xuyên Hầu cũng vừa tới. Hai người vừa cùng nhau đi đến biệt thự.... Trương Đăng Thụ thì thầm bảo Phạm Thái:
    - Câu truyện kín không tiện ở trong dinh.
    Phạm Thái lo lắng đoán chừng đã xảy ra việc gì quan trọng cho đảng Tiêu sơn Tới biệt thự, Trương Đăng Thụ giở kinh Phật ra chất vấn Phạm Thái, làm thế cốt để che mắt bọn lính theo hầu, mà trong đó chàng đoán chắc có thám tử của hiệp trấn Phan Đình Hồng.
    Mãi gần sáng, khi bọn người nhà mỏi mệt đi ngủ cả. Trương mới đem câu truyện tâm sự ra giải bày. Chàng hỏi Phạm Thái:
    - Trong triều có biến, tiên sinh đã biết chưa?
    Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
    - Biến? Thưa đại nhân, việc gì thế?
    - Bọn Bùi Đắc Tuyên bị giết cả rồi.
    Phạm Thái không giấu nổi lòng sung sướng phá lên cười.
    - Se sẽ chứ, tiên sinh. Tiên sinh nên nhớ rằng trong bọn lính theo hầu, thế nào cũng có một vài tên thám tử của Phan Đình Hồng.
    - Nhưng xin đại nhân cho biết đầu đuôi câu truyện.
    - Đây, xin tiên sinh đọc thư này thì hiểu ngay.
    Vừa nói vừa thò tay vào bọc lấy ra một tờ giấy hoa tiên đưa cho Phạm Thái.
    Bức thơ ấy của Trần Quang Diệu và đại khái nói triều đình đương gặp buổi đại loạn:
    Võ Văn Dũng lập mưu bắt trầm hà cha con Thái Quang Diệu đem quân chống cự với Dũng thì Hoàng đế đã giảng hoà hai bên và cất Diệu lên chức thiếu phó. Nhưng sau lại nghe lời Dũng dèm pha trước hết binh quyền của Diệu. Nay Diệu muốn kết bè đảng ở ngoài biên giới, nhân Thanh Xuyên Hầu là bạn thân của va, va khuyên nên đem quân về hỏi tội bọn lộng quyền.
    Đọc xong bức thư, Phạm Thái hỏi:
    - Bây giờ đại nhân định liệu ra sao?
    - ấy, tôi cũng chỉ cốt hỏi tiên sinh điều ấy. Phạm Thái mỉm cười:
    - Đại nhân hẳn đã đọc truyện Tam Quốc Chí. Vậy chắc đại nhân nhớ đoạn Gia Cát Lượng mượn quân Đông Ngô đánh phá Tào Tháo ở Xích Bích rồi nghiễm nhiên chiếm lấy Kinh Châu?
    - Tôi cũng nghĩ đến mưu ấy. Song Đông Ngô hiện không có quân. Mà ở ngoài biên thuỳ này quyền binh ở cả trong tay Phan Đình Hồng là tôi thân tính của Quang Toản, khó lòng dụ nó về cánh với mình được.
    - Ô hay, mình có dụ nó về cánh với mình để đánh đổ triều đình, để làm phản đâu ?
    - Vẫn biết thế, vẫn biết sau này mới nhờ sức gió mà bẻ măng, nhưng cũng phải dò xem bụng dạ nó ra sao đã chứ.
    Hai người bàn bạc với nhau suốt đêm. Kế hoạch định như thế này:
    Trương Đăng Thụ sẽ đem châu truyện giết thái sư nói với Phan Đình Hồng cố làm sao cho Hồng yên trí rằng Võ Văn Dũng có lòng phản trắc muốn đoạt ngôi nhà Tây sơn.
    Khi nghe chừng Hồng đã thuận theo cánh với mình rồi, thì liền cùng va cất quân về triều hỏi tội kẻ gian thần. Qua trấn Kinh Bắc, hơn nghìn đảng viên đảng Tiêu sơn sẽ nhập bọn nói là tồng quân, nhưng kỳ thực để về triều vận động chiếm lấy những chức trọng yếu mà mưu đánh đổ nhà Tây sơn. Công việc tuy to tát, kho khăn, nhưng tưởng cũng không phải không thể làm nổi, vì triều đình Tây sơn đương gặp đại biến:
    ở bên trong thì các tướng tá lừa dối nhau ghen ghét nhau, chém giết lẫn nhau; ở bên ngoài thì thế lực Nguyễn ánh mỗi một ngày thêm bành trướng.
    sáng hôm sau Trương Đăng Thụ sang chơi bên dinh hiệp trấn. Phan Đình Hồng hết lòng trọng đãi, xữ rõ ra kẻ dưới đối với người trên. Thụ đem truyện tâm huyết ra bàn, thì Hồng vui mừng theo ngay, hẹn nhau ngay hôm ấy sửa sang quân bị, và mộ thêm binh lính để có thể chỉ trong dăm hôm là khởi sự được.
    Trương Đăng Thụ cho tìm Phạm Thái đến bàn lại việc lớn. Hai người đang hí hửng mừng thầm thì Thụ lên cơn đau bụng kịch liệt.
    Thấy mặt trấn thủ đỏ bừng, cặp mắt như tiết, Phạm Thái kinh hãi trân trân nhìn hỏi :
    - Quan hiệp trấn có mời đại nhân xơi nước?
    - Có, nhưng tôi uống muỗi một chén con.
    Phạm Thái lắc đầu, và tuy giục người nhà đi tìm thầy thuốc, chàng vẫn biết chắc rằng không cứu chữa được nữa.
    Quả thực, chỉ trong một lát là Trương Đăng Thụ nằm vật ra, hét lên một tiếng:
    "Nó giết tôi?". Rồi tắt nghỉ.
    Nàng Long Cơ vợ lẽ Thanh Xuyên Hầu nghe tiếng kêu. ở trong buồng chạy ra.
    Thấy chồng nằm trên sập, mắt mở to, mồm há hốc, nàng tưởng là chồng tức giận điều gì. Nhưng lay mãi, gọi mãi vẫn không thấy chồng động đậy. Phạm Thái bảo nàng :
    - Quan trấn thủ ngộ gió độc qua đời một cách bất ngờ quá, không thể nào cứu chữa kịp. Xin phu nhân lo tang ma đi thôi.
    Thực ra, ngắm mặt người chết, chàng hiểu ngay là có kẻ đầu độc. Thứ thuốc độc ấy người Thổ dùng nhựa cây luyện thành thứ bột trắng chỉ gẩy một chút vào chén nước đủ hại một mạng người.
    Nguyên Phan Đình Hồng cũng nhận được một lá thư như Trương Đăng Thụ, thư của Võ Văn Dũng.
    Dũng là quan thầy va, người đã cất nhắc va lên chức hiệp trấn và giao cho va cái trọng trách kiềm chế Trương Đăng thụ. Trong thư Dũng dặn Hồng để ý dò xét hành động của Thụ, và nhất là cho lính đi thám thính xem Thụ có nhận được thư từ trong triều gửi tới không, thám thính để biết vậy thôi, chứ không cần phải bắt lấy bức thư mà làm lộ mất cơ mưu. Quả nhiên bao nhiêu điều Dũng dự đoán đều xẩy ra cả. Thụ có nhận được thư mà thư ấy thì Dũng chắc là của Trần Quang Diệu gửi lên.
    Bắt Trương Đăng Thụ giải về triều, nếu Thụ quả thực theo Trần Quang Diệu, là một việc rất dễ dàng, vì bao nhiêu binh quyền ở cả trong tay quan hiệp trấn.
    Nhưng bức thư của Dũng dặn cặn kẽ mội điều nên làm để che mắt cánh cừu địch.
    Những điều nên làm ấy, Hồng đã làm xong một cách nhẹ nhàng lặng lẽ, kín đáo Ngay buổi chiều được tin quan trấn thủ mất, Hồng tới viến, khóc rất thảm thiết, đến nỗi Long Cơ phải cảm động vì tấm lòng thương bạn của quan hiệp trấn.
    Chàng còn tỏ lòng thương xót cách khác nữa:
    là làm ma rất linh đình, sức các viên phân tri, tri châu và tổng, lý phải đến phục dịch vào mọi việc, dựng rạp dựng trạm, mổ trâu, mổ bò. Nhân dân ai ai cũng ca tụng tấm lòng tốt của quan hiệp trấn và khen ngợi đám ma to nhất từ xưa đến nay ở trấn Lạng sơn.
    Riêng Phạm Thái là căm tức kể giết người và nếu chàng không trót nhận lời cùng tang gia đưa linh cữu Thanh Xuyên Hầu về nguyên quán Thanh Nê, thì chàng đã liều chết đến dinh hiệp trấn tặng Hồng một mũi kiếm để báo thù cho người bạn đã bị hại một cách hèn nhát.
    Linh cữu của Thanh Xuyên Hầu quàng tạm ở chùa Tam Thanh để chờ ngày rước về xuôi Long Cơ lăn ra đất than khóc, còn Phạm Thái thì ngày ngày chàng đến quỳ ở bên quan tài, lâm râm khấn khứa, người ta tưởng chàng tụng niệm cho linh hồng người chết được siêu linh tịnh độ. Kỳ thực chàng chỉ thề với vong hồn kẻ khuất rằng thế nào chàng cũng trả được thù cho một người đồng đảng, cho bạn đồng chí.

  3. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 31- Chùa Non Nước


    Trong dòng sông Phong Doanh, chiếc thuyền bồng xuôi rất mau, nhẹ nhàng như bay trên mặt nước. trời vừa rạng đông. Một buổi sớm thu mát mẻ, êm đềm, dễ gỡi cảm hứng.
    Trương Quỳnh Như ngồi ngắm ánh vàng nhảy lộn ở mũi thuyền, rồi mỉm cười bảo thân mẫu đương nằm nghỉ trong khoang:
    - Dám bẩm mẫu thân, xin mời mẫu thân ra xem cảnh nên thơ lắm.
    Kiến Xuyên phu nhân cau mày mắng con:
    - Mẹ không muốn bạ lúc nào con cũng ngâm nga đề vịnh như thế. Trai cung kiếm văn chương, gái khuê phòng thêu dệt, trời đã chia hẳn công việc hai bên ra rồi, sao cứ muốn trái luật trời?
    - Dạ bẩm mẫu thân, con có dám lười biếng công việc tầm tang, phùng xuyến bao giờ đâu? Nhưng ngoài công việc làm ăn, cũng xin phép mẹ cho con được học tập văn thơ ngắm cảnh vịnh đề một vài câu.
    Kiến Xuyên phu nhân là một bậc mệnh phụ nghiêm khắc. Chồng bà một nhà đại văn hào đậu tiến sĩ về đời Lê mạt, chỉ thích có ba thứ:
    đánh cờ, uống rượn, làm thơ Phú quý công danh hầu coi như mây bay, như gió thoảng, như bóng ngựa trắng qua cửa sổ. Nhất từ ngày hầu cáo lão quy điền, thì hầu lại càng rửng rưng với đời lắm, công việc sinh nhai hầu phó mặc vợ con săn sóc.
    Khi nhà Lê bị Nguyễn Huệ diệt, hầu chỉ cười, cái cười tuy đau đớn nhưng ngụ rất nhiều ý nghĩa khinh đời. Hầu cho sự mất nước là một sự d~ nhiên, thế nào cũng xảy ra, chẳng chóng thì chầy:
    vì hầu thấy vua Lê hèn yếu, chúa sâm kiêu căng. Đã hai ba lần, vì lòng yêu vua, thương nước, hầu đem kế hoạch hưng bang ra bàn với sâm, song không những sâm không nghe theo, mà còn quở mắng hầu và doa. giáng chức hầu. Hầu liền dâng sớ xin cáo lão hồi hưu, tuy hầu mới ngoài năm mươi tuổi. Lúc đó, Thanh Xuyên hầu đã thi đậu tiến sĩ và thụ chức hàn lâm biên tu ở bộ Lại.
    Về quê, hầu đi ngao du sơn thủy. Bao nhiêu ngọn núi ở vùng sơn Nam theo dọc con sông Đáy đều có in vết bàn chân của hầu.
    Nàng Quỳnh Như, con gái yêu của hầu, hầu bắt theo nghiên bút, cầm thi.
    Nàng bẩm tính thông minh lại được hầu ra công dạy dỗ, nên năm nay mới mười sáu tuổi mà đã có tài nhả ngọc phun châu, cầm ca đủ điệu.
    Nhân gặp tiết thu trong sáng, hầu khuyên phu nhân đưa con gái đi ngoạn cảnh chùa Non Nước.
    Hầu thường nói:
    "Làm một trăm bài thơ, không bằng ngắm một cảnh non xinh, nước đẹp".
    Phu nhân chỉ thích việc làm ăn, đã toan từ chối, nhưng nể lời hầu, nên cũng sắm sửa vàng hương lễ vật thuê tuyền cùng con gái đi cho hầu bằng lòng. Vả nghe tiếng chùa Non Nước linh thiêng, phu nhân cũng muốn thừa dịp tới đó cầu sức khoẻ cho gia đình. Quỳnh Như thì chỉ nghĩ đến ngắm cảnh làm thơ. Vì thế, kèm với lễ phẩm, nàng đã đem theo bút mực và một tập giấy hoa tiên.
    Thuyền nhổ sào vào giờ Dần, cuối giờ Thìn đã tới chùa.
    Từ dưới mặt sông ngước nhìn lên, quả núi Dục Thuý tròn trĩnh, xinh xắn như hòn non bộ lớn đặt trong cái bể cạn dài. Tức cảnh, Quỳnh Như xầm bút thảo phóng một bài thơ Đường luật:
    Non nước xinh xinh cảnh nước non, Bên dòng bích thủy đá chon von.
    Như cô thiế cu nữ nghiêng soi bóng, Mỉm miệng tươi cười nét thắm son.
    Thấy con húy hoái viết, Kiến Xuyên phu nhân gắt:
    - Đến nơi rồi. Sắp sửa vàng hương lên lễ, còn thơ thẩn mãi à?
    Quỳnh Như vâng lời, cùng mẹ theo bậc đá bước lên chùa. Khi làm lễ xong, nàng đưa mẹ đi xem di tích của cổ nhân:
    Nào chỗ cụ Trương Hán siêu ngồi câu, nào chổ cụ ngồi uống rượn, đánh cờ, nhất nhất nàng giảng nghĩa rành rọt cho mẹ nghe, vì đã được thân phụ dẫn giải.
    Thấy có nhiều bài thơ hoặc viết hoặc khắc trên đá, Quỳnh Như cũng gọi thị tỳ đưa bút mực đề một bài:
    V~4N CHù~4 NoN NƯớC (Điện Tân giang nguyệt) Trèo lên Dục Thủy thăm chiền:
    Non xanh nước biếtc cảnh tiên dưới trần.
    Thướt tha mây trắng một làn, Như buông bốn phía cánh màu bạch sa.
    Chim hót véo von chào khách.
    Cỏ thơm hớn hở mừng ai, Gió thu rung động mấy cành mai.
    Khêu gọi hồn thơ lai láng, Cầm bút lạm đề trên thạch tảng, Một bài cổ tích cảm hoài, Nào người chiếcn sĩ, kẻ văn tài.
    Khôn hỏi Nước Non đâu tá?
    Thanh Nê thôn nữ Trương Quỳnh Như lạm đề Đề xong thơ, Quỳnh Như buồn rầu man mác, tưởng nhớ người xưa. Những bài văn non nớt của bọn văn sĩ có ý khinh mạn bậc ẩn sĩ đời Trần càng thêm gợi lòng căm tức. Nàng toan thảo luôn một bài nữa để vì cổ nhân mắng bọn hậu sinh vỗ lễ, thì Kiến Xuyên phu nhân giục nàng xuống thuyền để trở lại nhà. Nàng bùi ngùi rời cảnh đẹp đi theo phu nhân.
    Đến chân núi, gặp một trong phong lưu công tử chắp tay vái chào, phu nhân đáp lễ vấn an:
    - Phu nhân với công tử vẫn được mạnh?
    - Dám bẩm phu nhân chúng tôi xin đa tạ phu nhân ban lời hỏi thăm, mẫu thân chúng tôi với chúng tôi nhờ ơn trời vẫn được bình yên.
    Người đó là Trịnh Nhị, con một của một vien phân tri đã qua đời, nhà giàu có nhất vùng Kiến Xương, Ý Yên mà ai ai cũng gọi là "Thạch sùng đời nay?'.
    Chàng ta dục dịch từ lâu muốn hỏi Trương Quỳnh Như, nên tuy đã ngoài hai mươi tuổi, mà chàng vẫn chưa có vợ. Biết rằng Kiến Xuyên hầu không ưng mình, chàng hết sức lấy lòng Kiến Xuyên phu nhân, biếu hết thức này, thức khác.
    Hôm nay được tin phu nhân và Quỳnh Như đến ngoạn cảnh Dục Thúy, chàng thuê ngay một chiếc thuyền lớn và bốn tay thuyền thủ lực lưỡng ra sức chèo cho kịp gặp mặt người chàng nhớ thầm yêu trộm.
    Chàng phục sức cực kỳ sang trọng:
    Dăm vòng khăn nhiễu tam giang mới nâng cái búi tóc cao cài lược đồi mồi; tấm áo gấm lam phủ ngoài mớ áo nhiễu kỳ cầu và chiếc quần lụa màu ngà buông chấm mũi đôi hài Phú Xuân thêu kim tuyến. Theo sau bọn đầy tớ xách điếu cắp tráp theo hầu rộn rã. Chàng biết sự phong lưu đài các dễ cảm động lòng các bà mẹ có con gái kén chồng. Chàng lại không quên sai hai tên tiểu đồng mang nghiên bút và một tập giấy hoa tiên đi liền bên, vì chàng chắc rằng muốn được Quỳnh Như lưu ý tới, chàng phải đóng vai thi hào ngoạn cảnh, ngắm núi, vịnh sông.
    Gặp Trịnh Nhị, Quỳnh Như lạnh lùng quay đi, ngước mắt trông ngọn Dục Thủy. Kiến Xuyên phu nhân vồn vã nói:
    - Mời công tử lên nhà lễ Phật.
    - Dám bẩm phu nhân, nay gặp tiết thu mát mẻ chúng con đến đây chỉ cốt viếng nơi ẩn dật của Trương, một nhà chí sĩ đồi xưa.
    Chàng đưa mắt liếc trộm Quỳnh Như, trong lòng lấy làm tự phụ. Nhưng Quỳnh Như vẫn thản nhiên như không biết chàng đứng đó.
    Muốn Trương phu nhân và Trương tiểu thư phải để ý tới mình, Trương Nhị cầm một tờ hoa tiên lẩm nhẩm đọc. Quả nhiên Trương phu nhân hỏi:
    - Công tử làm thơ?
    - Bẩm phu nhân, vâng.
    - Công tử đọc cho tôi nghe với nào.
    Chẳng để nài đến hai lần, Trịnh Nhị đáp liền:
    - Xin vâng. Đây là bài thơ đề núi Dục Thúy theo điệu liên hoàn. Kẻ thơ sinh này làm khi thuyền vừa đáo chân núi.
    Chàng hắng dặng để lấy giọng ngâm nga:
    Khen ai khéo tạc đúc nên cồn Đứng vữngphô bày cảnh nước nơn Cây cỏ xanh rì in dấu đá Nước non lóng lánh dáng chưa mòn.
    *** Nước non lóng lánh dáng chưa mòn, Thế giới riêng bầu cỏn còn con Vang động gió khua cầm thú vắng, Thiên nhiên tắm vẻ đẹp xinh ròn.
    Quỳnh Như quay đi, mủm mỉm cười. Trương phu nhân khen lấy khen để. Phu nhân vẫn có ý muốn kén chọn Trịnh Nhị làm rể, nên trước mặt con gái, phu nhân mới tâng bốc chàng lên như thế:
    - Công tử tả rõ hệt núi Dục Thúy, phải không con?
    - Bẩm hệt lắm. Nhưng giá Vịnh một hòn nơn bộ thì càng hệt hơn.
    Trịnh Nhị đỏ bừng mặt, vái chào toan bước lên núi, Trương phu nhân còn giữ lại khẩn khoản xin chàng bài thơ. Chẳng đừng được, chàng trao cho phu nhân tờ giấy hoa tiên, chào một lần nữa rồi im ỉm quay đi.
    Quỳnh Như cùng mẹ xuống thuyền, Trương phu nhân mắng con:
    - Sao thơ Trịnh công cử vịnh núi Dục Thúy mày lại hỗn xược dám bảo thơ vịnh hòn non bộ?
    - Dám bẩm mẫu thân, quả là thơ đề non bộ. Mẫu thân thử đọc lại mà xem.
    Như câu:
    "Thế giới riên bầu cỏn còn con," thì còn có thể vịnh vừa non bộ, vừa chùa Non Nước được. Đến câu "Vang động gió khua cầm thú vắng", thì rõ ràng vịnh hòn non bộ, hòn núi giả chứ không thể vịnh một quả núi thực được. Vậy dám bẩm mẫu thân, chắc Trịnh công tử học thuộc lòng hay chép sẵn từ nhà bài thơ cũ của ông đồ, ông cống nào đó rồi nhận bừa là tác phẩm của mình. Vả bài thơ cũng chẳng hay hớm gì.
    Trương phu nhân chau mày lườm con:
    - Mày thì chỉ được mỗi một cái nết kkliêu căng, tụ phụ là hơn người. Trịnh công tử là một bậc văn nhân lỗi bậc thời nay, mày bì sao kịp. Mày có giỏi thử vịnh một bài xem nào?
    - Thưa mẫu thân con phận gái đâu dám sánh tài trai. Nhưng mẫu thân đã truyền, con cũng xin l~nh ý.
    Nàng ngồi trong khoang thuyền nghĩ một lát, rồi vừa viết vừa đọc:
    NÚI DỤC THÚY
    Trơ trơ chính thạch bóng Vân sang,
    Hỏi núi chờ ai, đã mấy sương?
    Uốn réo bên sườn dòng nước biếac.
    Phát tuôn cửa động ngọn chùa hai,
    Mây trôiphảngphất hồn Lê, Trịnh,
    Đá khắc lờ mờ dấu Phạm, Trương.
    Cũng muốn bể dâu bàn truyện cũ,
    Nào ai xứng với khách đời trang?
    Trương phu nhân mỉm cười chua chát:
    - Đã biết mà, mày kêu căng lắm? Mày tự hỏi xem tài đức mày được là bao mà dám bảo không xứng đáng?
    Quỳnh Như nghe mẹ mắng, bẽn lẽn cuối đầu.

  4. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 32 - Bi ai


    Thuyền đi một lúc, đến chỗ ngã ba. Hai chiếc bồng lớn từ phía sông Đáy rẽ vào, và muốn lên trước. Bỗng đưa sang tiếng khóc i ỉ, Quỳnh Như lắng tai nghe rồi nói với mẹ:
    - Bẩm mẫu thân, có ai khóc ở thuyền bên.
    Trương phu nhân đáp:
    - Các bác lái chừng thua bạc, hết cả tiền rồi vợ chồng đánh nhau cãi nhau chứ gì - Bẩm mẫu thân, có lẽ không phải, vì tiếng khóc ai oán lắm, nghe như vợ khóc chồng.
    Nàng liền cùng bọn thị tỳ ra mũi thuyền nhìn sang. Một nhà sư trẻ trai, nét mặt sáng sủa, thông minh, đứng đằng lái, hai mắt đăm đăm ngó thẳng vào mặt Quỳnh Như. Một ả thị tỳ cười khanh khách chào mỉa mai:
    - Nam vô a di đà phật?
    Nhưng mắt nhà sư vẫn không rời Quỳnh Như khiến nàng tức giận quay vào khoang thuyền.
    Bọn thị tỳ bảo nhau:
    - Sư mô quỷ gì mà nhìn người ta sòng sọc.
    Rồi một ả cất tiếng mắng:
    - Này người kia không được hỗn với tiểu thư.
    Nhà sư mỉm cười hỏi lại:
    - Tiểu thư là chủ các em đấy à?
    Bọn thị tỳ phá lên cười:
    - Rõ khéo, ai là em nhà sư đấy?
    Tiếng Trương phu nhân ở trong khoang thét:
    - Vào cả trong này? Chúng mày làm như bọn nữ tặc thế à?
    Nhà sư hỏi:
    - Ai đấy?
    - Không được vô lễ, phu nhân là bà lớn Lễ bộ thượng thư Kiến Xuyên hầu đó.
    Nhà sư kinh ngạc:
    - Trương phu nhân phải không?
    - Phải.
    - Mà tiểu thư là Trương Quỳnh Như?
    Mấy người thị tỳ lại khúc khích cười:
    - Phải nhưng sư ông hỏi làm gì mới được chứ?
    - Chết chửa? thế mà tôi vô ý không biết. Tôi phải sang hầu ngay phu nhân.
    - Không được hỗn?
    Chẳng thèm đáp lại, nhà sư một mặt bảo thủy thủ lái sát vào thuyền Trương phu nhân, một mặt gọi một ả thị tỳ ở truyền có người khóc:
    - Vào bẩm phu nhân....
    Nhưng nàng Long Cơ - Vì chính người ấy là Long Cơ - đã chạy ra đằng lái, lo lắng, sợ hãi hỏi dồn:
    - A di đà phật? Bạch sư ông cái gì thế, ai thế?
    - Thưa phu nhân, thuyền đi sau liền kia là thuyền lệnh cô, Trương lão mẫu.
    Long Cơ nàng hoảng hốt:
    - Thế à, bạch sư ông?
    Quỳnh Như cũng vừa trông thấy Long Cơ.
    - Ai như hiền tẩu?
    Long Cơ oà lên khóc:
    - Cô Quỳnh Như ơi?.... anh.... mất rồi.
    Quỳnh Như rú lên:
    - Trời ơi?.... Anh.... Tôi....
    Nàng không nói được dút câu, nằm lăn xuống ván thuyền ôm mặt khóc nức nởi. Trương phu nhân bước ra hỏi:
    - Cái gì thế, con?
    - Mẫu thân ơi.... anh con.... chết....
    Phu nhân cũng òa lên khóc nốt. Lời than vãn, kêu gào, kể lể rất thảm thiết.
    Một lúc lâu, khi sự thống khổ đã theo dòng lệ nhẹ bớt vài phần, Trương phu nhân bảo ghé sát thuyền bào thuyền Long Cơ để nàng bước sang, rồi cố nén lòng đau đớn, hỏi nàng về bệnh trạng, và lúc lâm chung của Thanh Xuyên hầu. Long Cơ cứ sự thực kể lại đầu đuôi.
    Nghe xong, Quỳnh Như ngẫm nghĩ lẩm bẩm:
    - Trời ơi ? Trưởng huynh bị đầu độc mất rồi ?
    - Sao con biết?
    - Bẩm mẫu thân, không bị đầu độc thì sao đương khỏe mạnh lại chết mau thế được?
    Nàng vừ anói vừa trân trân nhìn thẳng vào cặp mắt Long Cơ, như để tìm ra sự bí mật. Nhưng thấy nét mặt chị dâu đầy vẻ thành thực thì nàng hết ngờ vực ngay.
    Bỗng nàng nhìn sang chiếc thuyền bên đã cắm sào đứng lại?
    - Nhà sư nào thế, thưa hiền tẩu?
    - Đó là sư ông chùa Tam Thanh, bạn thân của lệnh huynh, đạo hiệu Phổ Chiêu thiền sư.
    - Lúc trưởng huynh qua đời, nhà sư có ở đấy không?
    - Có giữa lúc lệnh huynh ngồi tiếp chuyện sư ông thì lăn ra kêu đau bụng, rồi chỉ một lát là tắt nghỉ.
    Quỳnh Như liếc mắt đăm đăm nhìn nhà sư đương buồn rầu ngồi bó gối ở đằng lái thuyền. Nàng thì thầm hỏi Long Cơ:
    - Thưa hiền tẩu, hiền tẩu có ngờ vực gì hắn ta không?
    Long Cơ vội đáp :
    - Không, sư ông là bạn thân, bạn đồng chí của Thanh Xuyên hầu.
    Trương phu nhân sụt sùi hỏi:
    - Linh cửu để ở đâu?
    Long Cơ liền dẫn phu nhân và Quỳnh Như bước sang thuyền mình.
    Chiếc quan tài bọc quách phủ vải trắng đặt trên sập sao ở khoang trong. Sáp thắp sáng trưng, khói hương nghi ngút. Lại một lần tiếng khóc vang thuyền, ngưòi khóc con, kẻ khóc chồng, khóc anh.
    Quỳnh Như bỗng nín bặt, lấy khăn lau nước mắt, bảo Trương phu nhân:
    - Bẩm mẫu thân, trưởng huynh con mất rồi thì không có cách gì làm cho sống lại được nữa. Nhưng nếu trưởng huynh bị đầu độc, mà điều ấy con ngờ lắm, thì bổn phận người sống phải trả thù cho người chết. Vậy con xin phép mẫu thân cho tìm sư ông ssang đây để hỏi mấy câu về cái chết khả nghi này.
    Trương phu nhân vẫn còn nức nở khóc, nhưng cũng theo ý con cho mời nhà sư trẻ tuổi đến hỏi chuyện.
    Phạm Thái theo mấy ả thị tỳ bước sang thuyền Long Cơ. Quỳnh Như hỏi thẳng ngay đến chuyện đầu độc. Chàng nghe mà sửng sốt giật mình, nhìn nàng tỏ lòng vừa kính pục, vừa kinh hãi. Cái chết bí mật của Thanh Xuyên hầu, chàng vẫn tưởng ngoài kẻ thủ hạ với chàng ra không còn ai dám ngờ vực mảy may, vì mưu kế kẻ kia rất kín đáo. Đến như Long Cơ trông thấy triệu chứng rành rành của cái chết phi thường ấy mà cũng vẫn tưởng chồng mình ngộ gió độc. Chàng nghĩ thầm:
    "Thế mà người thiếu nữ này vừa nghe tin báo anh chết đã đoán ngay được rằng anh mình bị đầu độc. âu cũng là một cân quắc anh hùng đây." Thấy Quỳnh Như dương mắt trân trân đợi câu trả lời, Phạm Thái liếc mắt nhìn bọn thị tỳ, rồi thản nhiên hỏi lại nàng:
    - Chắc hẳn tiểu thư biết làm thơ?
    Quỳnh Như chau mày cự:
    - Không phải chỗ, không phải lúc để sư ông nói phiếm?
    - Không, thưa tiểu thư, kẻ tu hành đâu dám nói phiếm, bao giờ cũng thận trọng ngôn ngữ lắm. Bần tăng chỉ xin hỏi tiểu thư một điều:
    "Tiểu thư có biết làm thơ không?" nếu có thì cùng cụ lớn đi vãn cảnh chùa Non Nước, thế nào tiểu thư chẳng đem theo giấy, bút, mực.
    Trương phu nhân tuy trong lòng đau đớn mà cũng không giữ được, mỉm một nụ cươl :
    - Sư ông quả đoán không sai. Chừng sư ông muốn mượn bút mực làm một bài thơ viếng bạn.
    - Bẩm cụ lớn có thế.
    Khi thị nữ mang bút giấy ra, Phạm Thái viết mấ câu chữ nho đại ý nói:
    "Tiểu thư đoán có lẽ đúng. Chính tôi cũng ngờ Thanh Xuyên hầu bị kẻ thù ngầm hại.
    Nhưng xin tiểu thư giữ kín cho. Việc này không phải là việc tầm thường. Để lộ ra không những một người bị hại, mà còn liên lụy đến nhiều người khác nữa. Vậy xin tiểu thư cứ tạm coi cái chết của Thanh Xuyên hầu là một cái chết tự nhiên như nghìn, vạn cái chết khác. Nếu quả tiểu thư cảm thương tôn huynh chết, muốn báo thù cho tôn huynh thì rồi tôi xin đem hết sức bình sinh ra giúp tiểu thư một tay vì chính tôi đây cũng đã thề ở trước linh sàng bạn rằng không bao giờ dám quên ơn tri ngộ, mà để kẻ giết bạn được an nhàn hưởng phú quý".
    Nhà sư kính cẩn trao tờ giấy hoa tiên cho Quỳnh Như. Nàng xem xong gập lại, thong thả đến châm vào ngọn lửa cây sáp thờ. Trương phu nhân sửng sốt hỏi:
    - Sao con lại đốt bài thơ của sư ông?
    - Bẩm mẫu thân, sư ông làm thơ viếng trưởng huynh thì phải đốt bài thơ đi, trưởng huynh mới đọc được, mới nhận được tự dạng của sư ông chứ.
    Phạm Thái ngắm cử chỉ Quỳnh Như càng kính phục lắm. Chàng nghĩ thầm:
    "người này mưu cơ có lẽ chẳng kém gì Nhị nương, mà về nhan sắc lại còn có phần hơn".

  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 33 - Kiến Xuyên Hầu


    Kiến Xuyên hầu băn khoăn sốt ruột đã một tháng ròng. Nhưng hôm ấy hầu càng băn khoăn sốt ruột hơn, đến nỗi hầu lo rằng đã xảy ra tai nạn cho vợ chồng và con gái đi chơi vãn cảnh chùa. âu đó cũng là sự liên lạc của lulung tâm hồn cùng một huyết thống, hay nói theo cổ nhân, có tâm linh báo cho ta biết mọi sự can hệ đến những người thân yêu ở nơi xa vắng.
    Hầu lấy bộ Đường thi ra đọc cho quên nỗi buồn vơ vẩn, nhưng không sao bình tĩnh mà hiểu được cái hay của những bài thơ cổ.
    Đọc được vài trang, hầu lại xếp sách vào ngăn tủ, đứng dậy ra vườn cảnh ngắm hoa.
    sau dẫy lan can xây theo hình chữ thọ triện, những bông hoa phù dung kép và đơn về chiều đã ngả màu thắm lại, từ màu hồng phớt cho đến màu đỏ xẩm. Trong lòng phiền muộn, hầu nhìn màu hoa như có nhuốm máu đào. Dưới dàn thiên lý lá xanh già rủ qua những mắt cáo của phên nứa, mấy hàng chậu sứ men lam và hàng thống Bát Tràng màu đen, đặt trên những bộ đôn cùng một kiểu. Trong chậu, trông thống trồng các thứ cây uốn thành hình con giống:
    nào cây dành dành, uốn kiểu "lão bạng sinh câứ, cây đơn kiểu "phượng hoàng vu phi", nào cây nẻ, kiểu "hạc qui quá hải", cây sanh kiểu "hạc lập kê quần". Những cây cảnh ấy cùng hòn núi giả bày trong cái bể cạn lớn đều do chính tay hầu đã sửa nắn và xếp nên. Vì thế, nên ngày hai buổi, sáng chiều, hầu ra ngắm nghía không bao giờ chán mắt, mỗi lúc lại tìm ra cái đẹp thanh thú, mới mẻ của nó. Nhưng hôm nay hầu chẳng buồn ngắm tới vật gì hết, đi trong vườn cảnh mà trí để cả ở đâu đâu.
    sang đầu giờ Dậu có tin báo thuyền phu nhân và tiểu thư đã về. Rồi lại tiếp luôn có tên người nhà về bẩm với hầu rằng thuyền phu nhân cùng hai chiếc thuyền nữa đã đậu ở bến. Hầu giật mình kinh hoảng hỏi dồn:
    - Với hai chiếc thuyền nữa? Trên thuyền ấy có những ai?
    Chỉ một lát sau, tiến khóc đã ầm ĩ từ cổng đưa vào. Rồi Long Cơ vận đại tang đến trước mặt hầu xụp xuống lạy và nức nở:
    - Trình cụ lớn, quan lớn con thất lộc rồi.
    Kiến Xuyên hầu mặt tái dần, phải vịn vào cột dàn hoa cho khỏi ngã. Nhưng trấn tĩnh ngay được và ôn tồn hỏi Long Cơ:
    - Chồng con.... thất lộc?
    - Dạ.
    Hầu thở dài, tháo mục kính ra lau:
    - Thảo nào một tháng nay thấy sốt ruột quá.
    Rồi hầu vào buồng đóng cửa cài then, lên giường ngủ để không ai biết rằng mình khóc con và khỏi trông thấy gia quyến kêu gào than vãn.
    sáng hôm sau hầu vừa thức giấc, tiếng kinh kệ đã lọt vào tai. Hầu bước ra nhà ngoài:
    Trước cái linh cữu phủ vải trắng, một nhà sư trẻ tuổi, ngồi gõ mõ tụng niệm, Hầu hỏi người nhà:
    - Sư ông nghe giọng thanh nhã, chắc không phải người ở vùng này.
    Người nhà đáp:
    - Bẩm cụ lớn, sư ông theo linh cữu trấn thủ từ Lạng sơn về hôm qua.
    Kiến Xuyên hầu ngồi xuống tràng kỷ nghe nhà sư tụng niệm.
    ít lâu nay hầu rất chăm xem kinh phật và hiểu thấu triết lý cao siêu của một đạo giáo đã an ủi lòng chán nản của nhà chí sĩ sống vào giữa lúc giao thời.
    Hầu thường đi ngao du, tìm đến thăm những nơi danh lam thắng cảnh, rồi ở đó, nếu gặp những nhà sư chân tu, cùng họ đàm đạo về ý nghĩa kinh phật.
    Một lẽ nữa khiến hầu yêu Phật giáo:
    Hầu muốn ngấm ngầm, lặng lẽ phản đối nhà Tây sơn. Từ ngày vua Nguyễn Huệ xuống sắc chỉ bắt phá hết các chùa nhỏ ở các làng, chỉ để lại mỗi hạt một vài ngôi có tiếng, thì hầuBỗng thấy hầu càng yêu đạo Phật lắm, yêu một đạo giáo hình như đã bị nhà Tây sơn ruồn ghét.
    Phạm Thái cúng Phật xong đứng dậy chắp tay chào Kiến xsuyên, vì chàng đã biết hầu đợi từ nãy. Kiến Xuyên đáp lễ, rồi mời chàng ngồi.
    Nghe một lão quan hỏi đến việc tu hành, đến các kinh bản một cách chu đáo rành mạch, Phạm Thái lấy làm lo sợ, vì bấy lâu ẩn nấp dưới bóng từ bi, chàng đã kịp có thì giờ khảo cứu đến sách phật đâu. Chẵng qua, chàng chỉ học thuộc mấy câu kinh kệ nhì nhằng để ê a che mắt thế gian, cùng là sửa sang cái điệu bộ hiền lành kính cẩn để ra vẻ một nhà chân tu mà thôi.
    Đời chàng là đời hoạt động của một tráng sĩ, mà tu đối với chàng chỉ có nghĩa là tập luyện tính tình cho khẳng khái, chí khí cho cứng cáp, gân cốt cho mạnh mẽ.
    Nát bàn của chàng là trả được thù cho cha, cho vua, cho các bạn đồng chí bị giết.
    Có một lúc nào tâm trí chàng được thư thái mà xem tới sự tích Phật tổ, mà tìm hiểu cái nghĩa vu khoát của những chữ:
    "hư vô, tĩnh tọa".
    Nay gặp Kiến Xuyên hầu mà chàng đóan chắc là một người hiểu tinh tường đạo Phật, nếu chàng không tìm cách giấu cái dốt của mình đi, e chẳng khỏi bị hầu khinh bỉ. Điều ấy chàng không muốn có, từ khi vụi nẩy một ý tưởng rất kỳ dị trong tâm trí chàng.
    Chàng liền xoay câu truyện từ chỗ đạo giáo ra chỗ văn thơ. Chàng đã được Thanh Xuyên cho hay tính tình và tư tưởng của cha. Chàng biết rằng Kiến Xuyên rất chuộng Đường thi và thích thú ngắm hoa vịnh nguyệt. Chàng liền hỏi:
    - Bẩm cụ lớn, bần tăng thường được quan trấn đọc cho nghe thi văn của cụ lớn Thực là lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.
    Kiến Xuyên quên bẵng ngay sự đau đớn, vui cười bảo Phạm Thái:
    - Sư ông tính, về trí sĩ như tôi đây thì ngoài cầm, kỳ, thi, tửu ra, còn có cái thú gì nữa? Nhưng nghe chừng sư ông cũng con nhà nho giáo thì phải.
    Phạm Thái biết thế nào Kiến Xuyên cũng hỏi đến gia sự nên đã xếp sẵn câu truyện từ trước .
    - Dạ dám bẩm cụ lớn, nhà bần tăng quả đời đời theo nho giáo. Gặp thời loạn lạc cha mẹ lại sa sút, nên cho bần tăng xuất gia ăn mày cửa Phật ngay khi mới lên mười tuổi. Nhờ ơn sư tổ dạy bảo bần tăng cũng biết ít nhiều chữ nghĩa.
    Kiến Xuyên mỉm cười, gật gù ngâm nga:
    "Vút bút nghiên theo việc đao cung, " Rồi nói tiếp:
    - Tôi chẳng biết sư ông vốn có giòng hào kiệt không, nhưng gặp thời loạn mà quẳng bút nghiên theo kinh kệ thì hơi tầm thường. Nhưng mỗi người có một nghiệp riêng theo như kinh Phật, phải không sư ông?
    Phạm Thái kính cẩn, vờ khúm núm sợ hãi:
    - Dạ, nghiệp của bần tăng là gõ mõ, thắp hương, tụng kinh niệm Phật.
    - Còn nghiệp của lão phu là làm thơ, phải không?
    Kiến Xuyên cười đau đớn nói tiếp:
    - Sư ông là bạn đồng chí của con trai lão phu thì hẳn sư ông cũng biết tài văn võ của nó đến bậc nào. Lão phu chỉ tiếc giữa việc lớn....
    Kiến Xuyên hầu ngừng lại, gọi người nhà pha nước, rồi nói lảng ngay sang việc khác hình như câu truyện tâm sự không tiện đem ra bàn với một người chưa quen thân.
    Về phần Phạm Thái, chàng cũng rất thận trọng lời nói, giữ gìn ý tứ, vì chàng biết tâm địa Kiến Xuyên hầu ra sao, chẳng rõ hầu còn trung thành với nhà Lê hay hầu đã đổi bụng, theo Tây sơn như nhiều vị quan già khác. Cứ lời Thanh Xuyên thì đã hai, ba lần Nguyễn Huệ triệu hầu ra tham chính, nhưng hầu lấy nê già yếu xin ở nhà dưỡng lão.
    Có một điều Phạm Thái hơi lấy làm lạ, là Kiến Xuyên hầu có mỗi một con trai. Nay người con ấy qua đời một cách đột ngột, sao hầu không tỏ lòng thống khổ, và nét mặt lại giữ được thản nhiên như thế. Há phải hầu không thương con?
    Hay hầu đã có cháu nối giõi tông đường rồi, nên hầu không lo ngại nữa. Phạm Thái muốn dò ý ông qua già, liền hỏi:
    - bẩm cụ lớn, quan trấn thủ Thanh Xuyên hầu thực là một người lỗi lạc, thất lộc đi thì nhân dân thiệt mất một vị minh quan, triều đình thiệt mất một bực lương tướng ở chốn biên thuỳ.
    Hầu cười nhạt đáp:
    - Trời này làm gì có minh quan, lương tướng ? Vả gần bốn mươi chết là vừa lắm rồi. Sống giai như lão phu chỉ thêm nhục.
    Phạm Thái nghe câu trả lời, trong lòng hớn hở mừng thầm, nhưng còn vờ không hiểu:
    - Bẩm cụ lớn, bần tăng thiết tưởng nhà cụ lớn phú quý tột bực, có điều chi mà cụ lớn phải buồn rầu, phẩn uất. Quan trấn thủ không may qua đời, thì mấy cậu cháu giai kia sau này làm gì không nối được nghiệp nhà mà quan cao, chức trọng.
    Kiến Xuyên vẫn cười nhạt:
    - Hừ? nghiệp nhà hừ? hừ quan cao, chức trọng thì làm gì?
    Rồi hầu nhìn thẳng vào mặt Phạm Thái:
    - Có lẽ đi tu như sư ông cũng hay.
    Nhà sư nhún nhường:
    - Bẩm cụ lớn cũng là một sự bất đắc d~ Bần tăng vẫn biết "vô quân, thần, phụ, Kiến Xuyên hầu ngắt lời:
    - Quân thần nào có ra quân thần? Còn phụ tử.... Đó sư ông coi:
    có hợp thì có tan, phải rời bỏ người mình yêu.
    Hầu nghẹn ngào không nói được dút câu, tiếng khóc nỉ non ở buồng bên đưa ra càng làm cho hầu đau đớn. Hầu nâng chén nước, yên lặng mời nhà sư, rồi uống một hơi cạn như muốn nuốt hết sự thống khổ xuống can tràng.

  6. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 34 - Long Cơ


    Xong việc tang ma của bạn đồng chí, Phạm Thái đã toan xin phép Kiến Xuyên hầu để trở lại nhà, vì chàng đương sốt ruột về công việc đảng Tiêu sơn, mà bấy lâu chàng không nhận được tin tức.
    Bỗng xảy ra một việc đau lòng.
    sáng sớm hôm ấy chàng ra viếng mộ bạn một lần cuối cùng.
    Xa xa chàng đã trông thấy từ mồ bốc lên một làn khói biếc lẫn trong sương buổi sáng thu. Chàng nghĩ thầm:
    'Mình tưởng vào giờ này thì chưa ai ra viếng mộ, thế mà trước mình đã có người đến rồi".
    Chàng định quay về, nhưng đăm đăm nhìn quanh mồ, chàng vẫn không thấy bóng một ai:
    "Có lẽ ngưòi đến viếng đã đi rồi? Nhưng người ấy là ai? Chẳng lẽ Long Cơ lại ra sớm thế?" Phạm Thái liền tiến đến gần. Chàng thoáng nghe tiếng rên khừ khừ se sẽ.
    Bỗng chàng giật mình. Cách mộ độ hai ngũ, dưới một cành dương liễu, chàng thấy treo lủng lẳng, lắc lư cái xác một người đàn bà vận tang phục. Dưới chân một đống gạch đổ ngổn ngang. Chàng hiểu ngay là người kia vừa tự ải.
    Vội vàng chàng trèo thẳng lên cây cởi cái giây lưng người kia cùng để thắt cổ.
    Thân người đàn bà rơi phịch xuống đất. Phạm Thái nhìn lại thì là Long Cơ. Chàng liền hô hoán gọi những người qua đường, và nhờ một người về bẩm với Kiến Xuyên hầu cùng phu nhân.
    Ai nấy đang xúm nhau lại gọi hồn Long Cơ lai tỉnh, thì gia quyến Kiến Xuyên hầu vừa đến. Trương phu nhân khóc oà:
    - Trời ơi? Mất con, lại mất luôn cả dâu. Gặp tình cảnh này thì già sống sao được, trời hỡi trời?
    Quỳnh Như đặt tay lên Long Cơ bảo mẹ:
    - Bẩm mẫu thân, chưa thất vọng đâu, còn thoi thóp, mà chân tay chưa lạnh.
    Ngàng liền vừa lay mạnh vừa gọi. Quả một lát sau, Long Cơ thở ra một hơi thật dài, rồi duỗi thẳng chân tay, một lúc nữa, cặp mắt nàng đã động đậy, lim dim.
    Kiến Xuyên hầu sung sướng bảo Phạm Thái:
    - Sư ông đã đưa giúp linh cữu con lão từ Lạng sơn về đây, nay sư ông lại cứu sống được con dâu lão, ơn ấy không bao giờ lão quên.
    Quỳnh Như đưa mắt nhìn Phạm Thái thấy chàng có vẽ lẫm liệt oai phong của một bậc hiệp sĩ. Nàng tự nhủ thầm:
    "Ta quyết người này không phải là sử" Phạm Thái cũng liếc trộm Quỳnh Như, ngẫm nghĩ "sao một tuyệt thế giai nhân như kia lại không ở trong đảng Tiêu sơn?" Giữa lúc ấy Long Cơ mắt trân trân nhìn thẳng, ngơ ngác không biết mình dương ở cõi dương hay cõi âm. Rồi nàng lại nhắm nghiền mắt lại, miệng ú ớ nói mê, tâm thần thiêm thiếp.
    Trương phu nhân hỏi thầm Phổ Chiêu:
    - Bạch sư ông, liệu có việc gì không?
    - Dám bẩm phu nhân, bần tăng chắc rằng không hề gì?
    sư ông xin phu nhân truyền bọn thị tỳ đem võng đưa Long Cơ về nhà.
    Hôm sau Long Cơ tỉnh hẳn, rồi nhờ về thuốc thang chữa chạy tẩm bổ nên chỉ trong vòng ba bốn buổi lại lành mạnh như thường.
    Nhưng suốt ngày ấy sang ngày khác nàng chỉ khóc không chịu ăn thứ gì, khăng khăng đòi tuẫn tiết theo chồng. Kiến Xuyên hầu phải giảng giải mãi nàng mới vâng lời, tạm nguôi phiền muộn và bỏ hẳn được cái chí quyên sinh.
    Từ đó bất kỳ mưa nắng, ngày ngày nàng ra mộ chồng nằm phủ phục kể lể tình xưa. Kiến Xuyên thấy vậy đem lòng thương xót và chuẩn lời nàng xin, truyền gọi thợ đến làm ngay một ngôi nghĩa lư bên mả, để nàng một mình ra đó thủ tiết cùng chồng.
    Cách ít lâu, Quỳnh Như đến thăm chị dâu thấy trên vách trắng có đề hai bài thơ, nét chữ tươi như hoa đào, già giặn như cành mai cỗi. Nàng đứng đọc nhẩm:
    Cuồn cuộn xe mây hp duổi dong, Dễmà theo hỏi chốn hành tông, Khêu sầu chín khúc chùng giây sắt, Diễn thảm năm canh quạnh giọt đồng, Niên đảo mơ màng hồi thú cổ sinh tiêu nghe lắng tiếng thiền chung, Huyền thương ví chẳng thù hồng phấn, Chi hếp trần hoàn trả chưa xong! Gió thu hiu hắt, khóm phương tùng, Thổi rụng hàng châu ngoẹn mà hồng, Cỏ biếc chẳng treo hiền sở trướng, Trúc vàng thù điểom giọt Ngu cung, Họa kề cổ trủng đeo tình nặng, Trăng rạng cô lư sáng tiết trong.
    Dệt gấm Thanh nê, câu nhất tiếu, Thêu nền Thúy ái chữa tam tòng.
    Đọc xong, Quỳnh Như nhìn giòng chữ lạc khoản hỏi:
    - Này chị, Phổ Chiêu thiền sư là ai vậy?
    Long Cơ đáp:
    - Là nhà sư trẻ tuổi tiễn tống linh cữu tôn huynh về đây bữa nọ.
    Quỳnh Như mủm mỉm cười:
    - Chị xin thơ người ta đấy à?
    Long Cơ lo lắng nhìn em chồng:
    - Không, thưa cô, hôm qua Phổ Chiêu đến quỳ bên mộ khấn khứa. Thấy tôi ra, nhà sư đứng dậy nói lại từ biệt linh hồn bạn một lần cuối cùng để mai đi Kinh Bắc.
    Rồi Phổ Chiêu xin đề tặng một bài thơ kỷ niệm. Tôi bảo người nhà lấy giấy bút, nhưng nhà sư không viết vào giấy, mà lại viết ngay bên vách luôn một lúc hai bài thơ nôm ấy.
    Quỳnh Như vẫn mủm mỉm cười đọc đi đọc lại mãi hai bài thơ. Nàng lẩm bẩm nói một mình:
    - Đã biết mà, có sai đâu. Người này không phải là sư.
    Long Cơ kinh ngạc:
    - Clô bảo gì?
    - Tôi bảo Phổ Chiêu không phải là sư, hay ít ra cũng không phải là một nhà chân tu. Là một nhà thi sĩ thì còn có lý.
    Long Cơ chau mày ngẫm nghĩ - Sao cô ngờ vực oan cho kẻ tu hành như thế? Trong đám thiền tăng cũng có người giỏi văn thi chứ.
    Quỳnh Như cười:
    - Giỏi văn thi đến đâu đi nữa, một nhà sư chân tu cũng không có những lời tình tứ như hai câu:
    "Gió thu hiu hắt khóm phương tùng, thổi rụng hàng châu ngoẹn má hồng". Sao mà chữ "ngoẹn" nó lẳng lơ thế, chị có thấy không? Nhưng hay chữ thì hay thật ?
    Quỳnh Như vốn là con nuông của Kiến Xuyên hầu. H^u thương yêu nàng hơn cả con trai và cho nàng còn thông minh hơn anh nàng nhiều, tuy anh nàng đã đậu tới tiến sĩ. Hôm ấy nàng đem câu truyện bí mật thuật với cha:
    nào khi gặp lần thứ nhất ở trên thuyền, nhà sư dùng cách bút đàmbảo cho nàng hay rằng Thanh Xuyên bị kẻ thù đầu độc, nào cử chỉ ngôn ngữ của một nhà sư giống cử chỉ, ngôn ngữ một võ sĩ. Nàng nói tiếp:
    - Nhất là lúc nãy con ra nghĩa lư thăm chị trấn thủ con, được đọc hai bài thơ của sư ông đề trên vách thì con không còn ngờ vực gì nữa. Chắc chắn là nhà sư kia là một tay quốc sự phạm ẩn thân trong bộ áo cà sa.
    Rồi nàng đọc lại hai bài thơ cho cha nghe. Kiến Xuyến hầu ngẫm nghĩ nói:
    - Ư, hay chữ? Nhưng có điều gì tỏ ra rằng hai bài thơ kia của một quốc sự phạm đâu?
    Bỗng Hầu mỉm cười nhìn con gái yêu. Hầu vẫn khen thầm nhà sư có vẻ mặt tuấn tú của bậc văn nhân và tấm thân tráng kiện của hàng dõng tướng. Nay nghe lời, hầu lại biết nhà sư có tài ngâm vịnh siêu thế nữa. Tự nhiên hầu lại nghĩ đến việc nhân duyên của con gái, nếu quả thật kẻ có văn tài kia chỉ đội lốt nhà sư để lánh nạn.
    Thấy cha nhìn mình một cách tò mò, Quỳnh Như đỏ bừng mặt khép nép thưa:
    - Dám bẩm phụ thân, con trình phụ thân điều ấy chỉ vì con sợ rằng nếu không đề phòng trước, biết đâu người kia lại không gieo họa cho nhà ta. Vâng, biết đâu người ta không có chân trong một đảng phản nghịch nào đó.
    Con nghe phụ thân nói ở hạt Kinh Bắc có nhiều đảng Lê thần đương ngấm ngầm phản đối triều đình. Thế mà nhà sư lại là người hạt Kinh Bắc, nên con e ngại lắm.
    Kiến Xuyên hầu gật gù suy nghĩ :
    - Được, để cha xem.

  7. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 35 - Thử tài


    Ngày chiều hôm ấy, Khiến Xuyên hầu truyền làm một bữa tiệc thật long trọng rồi cho mời Phạm Thái đến dự.
    Thấy đầy một mâm lớn sơn hào, hải vị, lại thêm một chóc rượn đặt trên cái giá sơn son thiếp vàng, Phạm Thái kính cẩn chắp tay từ tạ:
    - Bẩm tướng công, bần tăng đã xuất gia tu hành đâu dám nghĩ đến ăn mặn.
    Kiến Xuyên cười khà:
    - Bày vẽ? Vã ăn chay quanh năm, nếm thử một bữa cơm mặn chũng chẳng tội gì - Dám bẩm tướng công, bần tăng giới tửu đã quen....
    - Giới tửu thì thật đáng tiếc, nhất sư ông lại có tài ngâm vịnh phi thường.
    Phạm Thái nhún nhường:
    - Bẩm tướng công, bần tăng chỉ học có kinh phật.
    - Dù thế nào mặc lòng, sư ông cũng chẳng nên bỏ dỗi bữa tiệc tiễn hành của lão gia. Nhân hôm nọ sư ông ngỏ lời muốn về Kinh Bắc, nên hôm nay lão gia mới có chén rượn nhạt để trước là cảm tạ sư ông đã hộ tống linh cữu con trai lão gia, lại cứu con dâu lão thoát chết, sau là để tiển biệt một người bạn thiếu niên.
    Phạm Thái kính cẩn:
    - Bẩm tướng công, chúng tôi đâu dám.
    Kiến Xuyên hầu bỗng cười phá lên hỏi:
    - Sư ông hẳn thuộc sự tích Phật tổ?
    Phạm Thái giật mình, vì tưởng Kiến Xuyên hầu đoán biết cái lực lượng phật học của mình. Nhưng Kiến Xuyên nói tiếp luôn:
    - Hẳn sư ông đã đọc truyện người tiều phu bắn được một con lợn rừng, nhân có Phật tổ qua đường liền rước ngài về nhà khoản đãi. Ngài tuy đau yếu phải kiêng thịt,- Vì nếu không kiêng thì tất phải nguy đến tính mệnh - nhưng ngài không nỡ làm đỗi bữa tiệc của người tiều phu, bèn nhận lời đến dự. Cũng vì bữa tiệc lợn rừng ấy mà Phật tổ tịch Nát bàn. Vậy sao bữa tiệc của lão gia thết sư ông lại ế được, phải không sư ông? Dù sư ông có vì ăn mặn mà chịu thiệt không được lên Nát bàn đi nữa thiết tưởng sư ông cũng chẳng nên từ chối.
    Phạm Thái mỉm cười xin nhận lời. Rồi chủ khách vào tiệc.
    Lúc mới uống dăm chén rượn, Phạm Thái còn giữ được tự nhiên, chuyện trò ôn tồn vui vẻ. Nhưng khi đã quá số vài chục chén rồi, thì chàng quên hẳn rằng mình đương ngồi đối diện với một lão quan. Thấy chàng li bì chẳng nói chẳng rằng mà nốc rượn như nốc nước vối, Kiến Xuyên hầu nói đùa:
    - Trông sư ông như ông Di Lặc.
    Di Lặc đương để ý đến cái rèm che cửa buồng gian bên và nghĩ thầm:
    "Không gió mà chánh rèm động đậy thì hẳn có người đứng trong ghé mắt nhòm ra. Người ấy là ai? Hà tất ta còn phải hỏi".
    Vì thế Di Lặc tỉnh hẳn:
    Men rượn chỉ đủ làm cho chàng hết "li" (cái đức tính của chàng khi quá chén, và trở nên một người nói chuyện rất có duyện).
    Thấy nhà sư đãng trí, luôn luôn đưa mắt về phía cửa buồng bên, Kiến Xuyên hầu hỏi:
    - Sư ông nhìn gì vậy?
    Phạm Thái luống cuống. May sao ở ngay vách bức bàn gần đấy có treo tờ tranh lớn vẽ một người tố nữ. Chàng liền vịn ngay vào đó để chữa thẹn:
    - Dám bẩm tướng công, xin tướng công tha lỗi bần tăng mải ngắm bức tranh; tinh thần nét bút, càng nhìn càng tươi. Dám bẩm tướng công ai là tác giả bức danh họa này?
    Trương công cười:
    - Sư ông quá khen. Tôi coi nét vẽ còn non nớt lắm, mà còn non nớt cũng phải, vì họa sĩ chỉ là một người con gái mười sáu tuổi.
    Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
    - Bẩm tướng công, vậy ra....
    Thấy chàng ngập ngừng, Kiến Xuyên đỡ lời:
    - Phải, tranh ấy chính tay tiện nữ Quỳnh Như phát họa.
    Phạm Thái khen, có lẽ cốt để Quỳnh Như đứng sau bức rèm nghe rõ:
    - Đại tài kỳ nữ?
    Trương công lại cười:
    - Sư ông quá tán tụng. Nhưng lão gia nghe đồn sư ông có tài thất bộ thành thi, vậy sư ông đề một bài thơ Đường luật vịnh người mỹ nữ trong tranh xem nào.
    Phạm Thái chắp tay lễ phép:
    - Bẩm tướng công, bần tăng đâu dám múa rìu qua mắt thợ. Nhưng tướng công đã truyền bần tăng cũng xin đánh bạo vâng lời, có kém chỗ nào, xin tướng công phủ chính cho. Vả bức tranh còn thừa nhiều khoảng trắng quá. Bài thơ của bần tăng có dở đi nữa cũng được cái công dụng giúp cho bức tranh đỡ trống trải.
    - Thi sĩ nhúng nhường quá?
    Hầu liền gọi người nhà lấy bút mực.
    Phạm Thái ngồi ngắm kỹ bức tranh và ngẫm nghĩ một lát rồi quả quyết đứng dậy viết một mạch xong tám câu thơ chữ Hán sau này:
    Thanh xuân toa? liễu lãnh tiêu phòng, Cẩm trục đình châm ngại điểê m trang.
    Thanh rạng đỗ liên phi bất lục, Đạm bi tạn cúc thái sơ hoàng.
    Tình si dị tố liêm biên nguyệt, Mộng xúc tằng liêu trưởng đỉnh sương.
    Tranh Khúc cưỡng hêu sầu mỗi bận, oanh ca nhật vĩnh các tiêu hương.
    Đề xong thơ, Phạm Thái lại ngồi vào tiệc rượn ngâm lại một lượt rồi hỏi Kiến Xuyên hầu:
    - Bẩm tướng công, bần tăng chữ nghĩa còn kém....
    Nhưng Kiến Xuyên ngắt lời:
    - Thiên tài ? Thiên tài ? thực là Lý B ạch tái thế.
    Hầu lại gần bức tranh dương mục kính đọc đi đọc lại mãi. Bỗng hầu kêu:
    - Trời ơi? dễ thường sư ông.... Phải rồi, oanh, tranh, tình, thanh, xuân.... Gỉoi thực, giỏi thực? Đại tài, đại tài?
    Rồi đọc đảo ngược bài thơ chữ thành một bài thơ nôm, lời văn chải chuốt và tự nhiên:
    Hương tiêu gát vắng nhặt ca oanh, Bận mối sầu khêu gượng khúc tranh, sương đỉnh tường gieo tường dục mộng, Nguyệt bên rèm tỏ sễsi tình, Vàng thưa thớt, cúc tan hơi đạm, Lụcphấtphơ, sen đọ rạnh thanh, Trang điể hm ngại chăm dừng trục gấm, Phòng tiêu lạnh lẽo khóa xuân xanh.
    Hầu quay vào tiệc rót chén rượn đầu, mời Phạm Thái mà rằng:
    - Xin tặng thi hào một chén rượn.
    Phạm Thái giơ hai tay kính cẩn đỡ lấy, vái đáp:
    - Tướng công ban thưởng, bần tăng xin bái l~nh xin chúc tướng công thiên tuế.
    - Nhưng ngày tôi hỏi:
    sao sư ông không để ba chữ "hồi văn cách" để người đọc hiểu ngay.
    Phạm Thái khiêm nhượng:
    - Dám bẩm tướng công, có lẽ ngẫu nhiên mà được thế. Nhưng bần tăng cũng xin vâng theo tôn ý.
    Rồi chàng đứng dậy cầm bút đề vào bên bài thơ ba chữ "hồi văn cách" thực nhỏ Kiến Xuyên hầu bảo chàng đọc lại một lượt. Chàng vâng lời cất giọng sang sảng bình văn. Đến câu "nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình" thì không biết ngẫu nhiên hay định ý, chàng đăm đăm nhìn cái rèm rung động che cửa buồng bên.
    Phạm Thái bình xong, Kiến Xuyên hầu lại rót một chén rượn đầy nữa:
    - Đây là mừng riêng nhà bình văn tốt giọng.
    Thực ra Phạm Thái đã cố sửa sang cho giọng mình lên bổng xuống trầm, có nhịp nhàng tình tứ. Không một lần nào sư ông đọc kệ hay bằng thế.
    Phạm Thái vội đỡ chén nói:
    - Chết? Tướng công quá yêu, làm bần tăng tự thẹn, vì tài mọn của bần tăng không được xứng đáng với tấm lòng lân tài của tướng công.
    Kiến Xuyên cười phá lên:
    - Hay? sư ông không nhắc đến chữ lân tài, thì suýt nữa lão gia quên bẳng rằng sư ông là một bậc đãi tài.
    Phạm Thái cho câu nói có ý riễu, lặng thinh cúi mặt, nhưng Trương công nói tiếp ngay:
    - Phải, tôi hỏi, sao thiền sư không ra tiến thân để trị dân giúp nước?
    Rồi muốn dò ý Phạm Thái, Trương công nhìn thẳng vào mắt chàng, trù trừ nol:
    - Hay là thế này.... lão gia tiến cử.... thiền sư lên triều đình.
    Phạm Thái lạnh lùng:
    - Xin đa tạ tướng công, bần tăng đã xuất gia tu hành, đâu còn dám mơ màng quan cao, chức trọng. Vả miếng đỉnh chung thời này....
    Phạm Thái tuy say, nhưng còn đủ tỉnh để giữ gìn lời nói, nên ngừng ngay được Kiến Xuyên hỏi dồn:
    - Miếng đỉnh chung sao kia, thiền sư? Thiền sư nói miếng đỉnh chung thời này là có ý gì?
    Phạm Thái kính cẩn:
    - Xin tướng công đại xá cho, chúng tôi say, có khi nói mà không biết nói gì.
    Kiến Xuyên lại cười to:
    - Còn gì sướng bằng lúc say mềm nói chuyện mà không biết mình nói gì. Vậy xin mời thiền sư cùng lão gia uống cho thật say mềm đã rồi hãy nói chuyện.
    Dút lời, hầu giốc cạn nậm rượn vào chén mình rồi mở chóe, thân cầm gáo và phễu triết đầy nậm, dù Phạm Thái đứng lên xin để chàng làm giúp, hầu cũng không nghe:
    - Tráng sĩ cứ để mặc lão gia.
    Phạm Thái giật mình nhìn Trương công:
    - Thôi tướng công say rồi. Có tráng sĩ nào ngồi hầu rượn tướng công đâu?
    Kiến Xuyên đầu lắc lư, tay run lẩy bẩy đặt nậm xuống bàn.
    - Ờ mà có lẽ lão gia say thực. Lão gia nhìn thiền sư ra hẳn một tráng sĩ, nét mặt đầy dõng cảm, chí khí.
    Men rượn mỗi lúc một làm cho truyện thêm hăng hái. Đến nhá nhem tối, khi chóe rượn đã cạn quá nửa, thì không còn ai tưởng đến giữ gìn nữa, bao lời tâm quyết về thời thế đem giốc hết ra mâm rượn.
    Rồi ánh sáng mấy ngọn sáp le lói chiếu vào hai cái đầu gục lên hai góc bàn, một cái bạc phơ và một cái tóc đen mới mọc lởm chởm.

  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 36 - Rượu tiễn chưa tàn


    Nửa đêm Phạm Thái thức giấc, thấy mình nằm ngay ở sập rượu. Mâm và các thức đã cất hết cả rồi, chỉ còn trơ cây sáp cháy trên cái đài làm theo hình hoa sen và lá sen.
    Phạm Thái ngồi vỗ trán nghĩ mãi mới nhớ ra rằng buổi chiều có ngồi uống rượu với Kiến Xuyến hầu. Chàng cũng chỉ nhớ thế thôi, còn mọi sự xảy ra trong bữa tiệc, chàng quên hết.
    Bỗng chàng nhác trông thấy bức tranh treo trên vách cạnh bàn, liền cầm đài sáp ghé gần lại xem. Đọc bại vịnh mỹ nữ, chàng vụt nhớ đến truyện đề thi và hơn nữa, đến bức rèm rung động trước cửa buồng bên. Ngẫu nhiên, chàng quay lại nhìn:
    Cánh cửa buồng đóng chặt, mà hai cành rèm the màu xanh đã mắc lên đôi móc bạc.
    Phạm Thái mỉm cười, chống tay vào cầm ngồi mơ màng tưởng tới những truyện Liêu Trai đầy tiên cô và yêu quái. Chàng đăm đăm nhìn về phía buồng ngâm lại bài thơ nôm, và ao ước hão huyền rằng đến câu "Nguyệt bên rèm tỏ dễ si tình , thì tự nhiên cánh cửa buồng sẽ mở tung ra để đón mời chàng vào.
    Tiếng gà gáy nửa đêm làm chàng giật mình. Chàng sợ mướt mồ hôi, đưa tay lên vẩn vơ xoa đầu. Lúc bấy giờ chàng mới kịp nhớ ra rằng mình là sư, và hơn nữa là đảng viện, một đảng Lê thần.
    Chàng lấy làm tự thẹn và tự giật mình:
    "Chẳng lẽ nào mình lại thế được." Rồi dần dần, trí chàng trở nên sáng suốt. Chàng cố ôn lại những lời bàn với Kiến Xuyên hầu trong bữa tiệc. Chàng nghĩ thầm:
    "Chẳng biết mình có vô ý để tiết lộ những điêu bí mật của đảng không?
    Chàng lo lắng và hối hận vô cùng. Nhác thấy một tờ giấy hoa tiên màu xanh lá mạ, gấp trong gối xếp và để thò ra một nửa, hình như cốt để chàng lưu ý đến.
    Chàng rút ra xem, thì đó là một bài thơ thất ngôn bát cú. Liền ghé vào ánh sáng cây sáp, lẩm nhẩm đọc:
    Véo von bên liễu liế cng hoàng oanh, Khuyên khắc đừng quên chí chiếa n tranh.
    Giữa lúc nước nhà đang hoạn nạn, phải khi tráng sĩ vướng tơ tình ?
    sông trơi đất Bắc in giòng đỏ, Núi đứng trời Nam nhuộm vẻ thanh.
    Khúc khải hoàn ca rồi mạnh mẽ, Phòng tiêu đầm ấm rạng ngày xanh.
    Phạm Thái sung sướng mỉm cười:
    - Bài thơ họa không có lạc khoản, nhưng còn ai vào đây nữa? Kín đáo và tình tứ, mà lẫm liệt biết bao, tuy viết vội, nên lời thơ không được chuốt.
    Chàng tưởng tượng ra một cảnh lặng lẽ, khi mâm rượn bưng đi rồi, Trương Quỳnh Như từ khuê phòng rón rén bước ra.
    Bức vẽ dần dần hoạt động. Phạm Thái mơ màng thấy một thiếu nữ mặt trắng như ngà, giơ bàn tay xinh xắn vén cánh rèm the ngó nhìn quanh phòng một lượt.
    Rồi hai bàn chân nhỏ nhắn trong đôi hài con phượng nhẹ nhàng khoan thai đặt trên nền gạch Bát tràng to bản, một bước một ngừng vì sợ chàng nghe tiếng động giật mình thức dậy.
    Thiếu nữ lại gần sập ngắm chàng say mềm nằm gục đầu vào gối xếp, rồi thong thả bước lên sập, đứng đọc bài thơ đề trên tranh, vừa mỉm cười, Phạm Thái như còn ngửi thấy mùi hương phảng phất trong phòng và nghĩ thầm vơ vẩn:
    "Biết đâu cô Quỳnh Như không lay mình dậy, như vì mình say quá, không hay '.
    Chàng lắc đầu nghĩ tiếp:
    "Không, chắc không thể thế được?" Giấc mơ tỉnh của Phạm Thái vẫn đi. Chàng thấy Quỳnh Như quay về phòng khuê lấy bút mực để họa bài thơ của chàng, rồi lại như lần trước, rón rén bước ra nhà ngoài khẽ đặt tờ giấy hoa tiên vào trong gối xếp.
    Một tiếng gà gáy làm tan giấc mộng. Chàng cầm bài thơ đọc lại một lượt:
    "Nàng khuyên ta nên đi Kinh Bắc để dấn thân vào nơi nguy hiểm:
    sông trôi đất Bắc in dòng đỏ. Sao nàng biết ta.... biết chí lớn của ta? Thôi, chỉ vì trong khi ta quá chén, ta thốt hết tâm sự ra với Kiến Xuyên hầu. Nàng đứng nấp sau bức rèm đã nghe rõ câu chuyện.
    Chàng sung sướng thì thầm:
    - Thực ta đoán không sai, nàng quả là một bực cân quắc anh hùng. Nàng khuyên ta làm việc lớn, rong ruổi bước đường gió bụi, chờ lúc hát khúc khải hoàn trở về Nàng ước hẹn cùng ta. âu yếm biết bao ? . . . Phòng tiêu đầm ấm rạng ngày xanh .
    Một bức tranh khác kế tiếp hiện ra:
    Bức tranh náo động vẽ một bãi chiến trường:
    Cả một thời kỳ theo Nguyễn Đoàn, thời kỳ đầy nguy hiểm, gian lao.
    Chàng cười con ngựa tía phi trong đám dáo, gươm, tên, đạn, coi cái chết nhẹ như chiếc lông hồng. Cái chí nguyện bình sinh của chàng là được da ngựa bọc thây chôn trên cồn cát trắng. Ngẫu nhiên, chàng ngâm khẽ mấy câu thơ trong truyện Trinh phụ của bà Thị Điểm.
    Chàng trẻ tuổi vố hn giòng hào hệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
    Thành liền mong tiến bệ rồng, Thước gươm thề quyết chẳng dong giặc trời.
    Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, Giao Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
    Dã nhà đeo bức ch iếựn bào. . .
    Phạm Thái cười chua chát, ngừng lại "mình làm gì có chiến bào chỉ có tấm áo cà sa. Còn nhà thì chẳng còn nhà đâu mà dã, họa chăng dã cô Quỳnh Như....
    Nhưng chẳng hay cô có.... đưa chàng lòng dằng dặc buồn không?" Chàng ngẫm nghĩ một lát rồi quả quyết đứng dậy, dáng bộ hùng dũng. "Phải đi, phải đi ngay?" Tiếng gà gáy ran nghe như tiếng giục quân.
    Quên hẳn rằng mình đương ở đâu, Phạm Thái cất tiếng ca dõng dạc:
    Bóng cờ tiế nng trống xa xa.
    sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
    Nghiên mực và quản bút vẫn cón để trên một tủ trè. Chàng tìm giấy không thấy, liền xé nửa mảnh hoa tiên không có chữ và viết mấyu câu sau này:
    "Xin hnh chào tướng công cùngphu nhân.
    ~ có việc khẩn cấp phải hấp tấp ra đi, nên không hp bái biệt, xin tướng công cùng phu nhân tha tội.
    Phổ Chiêu thiền sư bái bút. " Chàng đã toan thêm một câu chào cô Quỳnh Như và nàng Long Cơ, nhưng nghĩ kỹ thấy không tiện, chàng lại thôi.
    Ra sân chàng ngửa mặt nhìn trời:
    Trời đầy sao lấp lánh, nên chàng trông cũng rõ lối đi Chàng sung sướng nghĩ đến anh em đồng chí nhất là Trần Quang ngọc, Lê Báo, Nhị nương mà chàng xa cách đã bao lâu, không biết tin tức ra sao. Chàng coi như vừa thoát được tai nạn gớm ghê hơn cả những tai nạn trong rừng gươm dáo ? "Trời ơi, mình mà chìm đắm vào bể tình, thì bao giờ báo đền được ơn vua, trả thù cho nhà, cho đảng?" Đến cổng, chàng đã tưởng cổng đóng, và phải trèo qua để vượt ra ngoài.
    Nhưng lạ thay, cánh cửa hé mởi. Chàng vừa ra khỏi, quay đầu nhìn lại thì chẳng hiểu ai đã đóng sập lại rồi, hình như để bảo cho chàng hay rằng đừng do dự nữa.
    Chàng còn bỡ ngỡ chưa biết tiến về phương nào. Bỗng bên bờ tre trong bóng tối có tiếng lạt sạt. Chàng định thần trố mắt nhìn kỹ, thấy một con ngựa, thắng yên cương đứng ngoạm lá tre. Giữa lúc ấy, một người ở trong nếp nhà tranh bên đường chạy ra hỏi:
    - Có phải sư ông Phổ Chiêu đó không?
    Phạm Thái kinh ngạc hỏi lại:
    - Ai biết bần tăng thế?
    - Chúng tôi chờ thiền sư ở đây từ giờ Hợi, để dâng thiền sư con ngựa này, với cái roi này.
    người lạ mặt vừa nói vừa đưa cho Phạm Thái một cái tay nải nâu:
    - Xin mời thiền sư khoác khăn gói vào vai, lên ngựa đi ngay cho, kẻo trời sắp sáng rồi. Thiền sư không cần sang đò, cứ rẻo bờ sông bên này đi chừng tờ mờ sáng thì ra tới đại lộ.
    Phạm Thái càng kinh ngạc:
    - Nhưng tôn ông là ai?
    - Thiền sư không cần hỏi điều ấy. Mời thiền sư lên ngựa ngay đi cho.
    Phạm Thái theo lời, khoác tay nải, nhảy phắt lên yên, nói:
    - Đa tạ tôn ông, tôn ông đã muốn giữ bí mật không cho bần tăng rõ tung tích thì bần tăng cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ xin cầu Phật tổ phù hộ cho tôn ông mà thôi.
    Dứt lời, chàng ra roi, Vẳng theo sau lưng câu dặn với:
    - Không cần phải trả lại ngựa. Các thứ nhu dụng đã có đủ cả trong gói.
    Phạm Thái rẽ ngựa qua cánh đồng khô vừa gặt hái xong, còn lởm chởm những chân ra., và theo ven bờ sông, trông phía Tây Nam thẳng tiến. Nắn tay nải, thấy có nhiều vật rắn và nặng, chàng đoán chắc đó là những nén bạc.

  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 37 - Cảnh điêu tàn


    Hai trấn sơn Nam Hạ, sơn Nam Thượng, Phạm Thái đi qua đều yên tĩnh. ở đó tuy bọn Lê thần cũng bất phục và ngấm ngầm phản đối triều đình Tây sơn, nhưng không lập thành đảng , thành hội như ở hai trấn Hải Dương và Kinh Bắc.
    Vì thế, sự canh phòng đỡ nghiêm ngặt và ở các bến đò, sự hỏi tín bài cũng không đến nỗi ráo riết như trên miền Bắc:
    quý hồ những người qua os6ng đưa trình là đủ rồi, viên tuần giang không mấy khi bắt cạp chỉ cùng là hỏi vặn lai lịch cặn kẽ.
    Nhưng bắt đầu từ sông Hồng Hà thì sự qua lại đã khó khăn và Phạm Thái đã phải phòng bị cẩn thận. Tuy kẻ xuất gia được miễn tín bài, Phạm Thái cũng cố tìm lánh những đãi lộ và không qua Bấc Thành. Chàng đi ngược mãi lên bến đò Trèm mới thuê thuyền sang ngang.
    Dòng dã bốn hôm đường trường, Phạm Thái về tới hạt Từ sơn. Chàng toan đi thẳng đến chùa Tiêu sơn, vì chàng nóng lòng muốn gặp mặt Quang Ngọc ngay.
    Nhưng khi xuống ngựa vào một cái quán nhỏ bên đường uống bát nước trè nóng giải khát, chàng được nghe bà hàng thuật câu truyện "ma hiện hồn tại chùa Tiêu sơn, nên sợ hãi không dám tiến nữa.
    Chàng cố giữ nét mặt thản nhiên. Một người bộ hành nhai trầu bỏm bẻm vừa hỏi người kể truyện:
    - Thế bây giờ lính còn canh giữ chùa ấy không?
    - Không. . . Nhưng ý chừng ông ở vùng Nam mới lên, hay ông. . .
    Bà hàng toan nói đùa:
    "Hay ông là thám tử của triều đình" - thời ấy, nhất ở hạt Kinh Bắc, bọn thám tử của nhà Tây sơn đông nhan nhản - nhưng ngừng ngay lại, lo lắng nhìn mọi người.
    - Không, tôi ở Thăng Long mới tới.
    Phạm Thái vờ phá lên cười, hỏi:
    - Ngày nay làm gì còn Thăng Long?
    Bấy giờ người hỏi chuyện mới kịp để ý đến nhà sư:
    - ấy tôi quen mồm rồi đấy, vả gọi là Bắc thành tôi cứ e lẫn với thành Kinh Bắc. Sư ông người vùng này?
    - Không, tôi người vùng Nam.
    Người đàn bà bán hàng nhanh nhẩu và muốn nói hết những điều mình biết, tuy đã đinh ninh rằng nhất định giữ gìn mồm miệng:
    - Bạch sư ông, sư ông tu hành ở Nam thì sao không cứ ở Nam, lên đây làm gì?
    ở đây các nhà sư bị bắt bớ, đòi hỏi khổ sở lắm.... Rõ đã xuất gia tu hành mà chẳng được an thân - Đòi hỏi ở đâu? Mà đòi hỏi vê việc gì vậy, bà hàng?
    - ấy chỉ câu truyện ma chùa Tiêu sơn mà lôi thôi thế đấy. Quan phủ ngài không tin có ma, ngài nhất định cho rằng những con ma ấy chính là các nhà sư tu ở chùa Tiêu sơn. Nam vô a di đà Phật? Vì ngài thấy từ ngày có ma hiện hồn thì sư cụ, sư ông chùa Tiêu sơn biến mất....
    Phạm Thái hoảng hốt:
    - Biến mất?
    - Vâng, bạch sư ông, biến mất. Mà nam vo a di đà Phật, chùa Tiêu sơn làm gì nên tội nên vạ.
    Bà hàng ngừng lại, đưa mắt nhớn nhác nhìn quanh. Người Bắc thành mỉm cươl:
    - Bà cứ kể, chúng tôi đây không phải thám tử, thám tiếc gì đâu.
    Bà hàng còn ngần ngừ, nhưng cái tính bép xép hay nói những điều mình biết bao giờ cũng thắng nổi lòng lo sợ.
    - Bạch sư ông, chẳng hay chùa Tiêu sơn đã làm nên tội vạ gì, mà bị quan quân đem binh lính về triệt hạ. Lũy tre bị chặt nhẵn nhụi, tường thời bị phá, hào thời bị lấp Đến những cây tháp đựng xương các sư tổ cũng bị phá đổ. Người ta đồn rằng quan phủ làm thế để trừ tiệt giống ma quỷ, yêu quái. Nhưng trừ ma tà thì sao không đón thầy bùa, thầy phù thủy, mà lại phá chùa như thế, phải không bạch sư ông? Có nhẽ phép vua phép nước cũng linh thiêng lắm, sư ông ạ, từ hôm phá phách như thế, giống yêu quái bỏ đi hẳn. Không dám bén mảng tới chùa nữa.
    Bà hàng hạ giọng se sẽ nói tiếp:
    - Mà người ta lại đồn rằng chùa Tiêu sơn là sào huyệt của một đảng cướp ghê gớm lắm.
    Phạm Thái phá lên cười ?
    - Nam vô a di đà Phật ?
    - Vâng, tôi thấy bác cai Đán cũng nói thế. Hình nhưnhững cây Tháp trong chùa toàn là tháp giả để chúa vàng bạc, châu báu cướp được trong dân gian.
    Nhưng điều ấy tôi không tin. Kỳ dâng sao năm ngoái, tôi về Tiêu sơn lễ Phật có gặp sư cụ PHổ T nh. Lạy trời lạy tổ, ngài phúc đức, hiền lành lắm. Khi nào ngài lại Phạm Thái ngắt lời:
    - Vậy bây giờ ngài ở đâu? Chắc ngài sợ hãi đi trốn tránh, đi lánh nạn.
    Phạm Thái không giữ nổi một tiếng thở dài. Người Bắc thành quay lại hỏi chàng:
    - Hẳn thiền sư có biết sư cụ chùa Tiêu sơn?
    Phạm Thái hơi luống cuống:
    - Không.... bần tăng.... biết tiếng.... mà thôi.... Nhưng rồi ra sao, bà hàng?
    - Bạch sư ông, tôi cũng chỉ biết có thể. Sư ông muốn biết rõ thêm thì xin lại điếm xem giấy yết thị.
    - Điếm ở đâu thế?
    - Cách đây một thôi ngắn. Bắt đầu từ đấy cho tới sông Cầu, cứ một quãng lãi có điếm canh.
    Người Bắc thành nghe nói vội vàng trả tiền trầu nước, rồi đứng dậy rủ Phạm Thái:
    - Hay ta cùng đến xem đi?
    Phạm Thái ngần ngại. Bà hàng cũng gạt:
    - Sư ông chẳng nên lại làm gì. Tôi thấy nhiều nhà sư bị đưa đến phủ tra hỏi rầy rà lắm.
    Bà ta chép miệng nói tiếp:
    - Vua với quan trên biết đấy là đâu, chẳng qua họ cứ bày vẽ ra để hạch sách....
    chứ đời thủa nào lại đi bắt bớ kẻ tu hành như thế.
    Người Bắc thành cũng bão Phạm Thái:
    - Bà ta nói thế mà phải ? Ngay, gian chưa biết đâu, hãy bị tra hỏi lôi thôi đã.
    Mà tra hỏi với tra tấn thường hay đi liền nhau, sư ông nên giữ gìn thì vẫn hơn.
    Chàng ta lấy làm tự phụ rằng tìm được một ý hay vuốt ria cười ha hả ra dáng thích chí lắm:
    - Vậy sư ông ngồi đây một lát nhé?
    - Vâng, cũng được. Ngựa của bần tăng, tôn ông cứ lấy mà dùng.
    - Ngựa của thiền sư đấy à? ồ ? Thế thì càng hay lắm.
    Chàng nhẩy phắt lên yên, ra roi phóng nước đại. Bà hàng nhìn Phạm Thái hỏi:
    - Sư ông quen biết ông ta?
    - Không.
    - Vậy sao ông lại cho người ta mượn ngựa? Nhỡ người ta không trở lại thì sao? Thời loạn lạc trộm cướp như rươi, sao sư ông quá tin người thế?
    - Kẻ tu hành không dám ngờ ai hết.
    Thực ra Phạm Thái liếc mắt ngắm nghía người bộ hành, biết chàng ta là bực phong lưu công tử, y phục chải chuốt và chững chạc, cái khăn nhiễu tam giang, cái áo lương La-cả, cái quần vóc trắng ngà làm tôn hẳn vẻ mặt tuấn tú và giáng điệu đài các của một văn nhân lanh lợi chốn cố đô.
    vả Phạm Thái cho rằng con ngựa kia chàng đã dùng được việc rồi thì dẫu người ta có lấy mất cũng chẳng hề gì. Cưỡi nó có lẽ một thiền sư càng làm cho người ta ngờ vực.
    Cái ý nghĩ ngờ vực khiến chàng hơi chột dạ. Chàng thì thầm:
    "Ư, mà nhỡ nó dùng ngựa của mình đi báo phủ...." Chàng toan rời hàng nước rẽ vào một làng gần đó trốn tránh thì đã nghe tiếng ngựa phi. Chàng thò cổ ra nhìn, lo lắng. Nhưng người Bắc thành đã kìm cương, cười nói:
    - Con ngựa của thiền sư tốt quá. Ý chừng thiền sư cũng thích chơi ngựa.
    - Nam vô a di đà Phật? Bần tăng có thích một thứ gì đâu. Con ngựa ấy nguyên một ngưòi ở xẽ Thanh Nê đã bố thí cho kẻ tu hành.
    Người kia vuốt ve con ngựa.
    - Tốt lắm. Con ngựa này thiệt giống ngựa Lạng sơn:
    chân nhỏ, bờm dầy, ức nở. Thực là ngựa trận, một ngày chạy trăm dậm không biết mỏi.
    Phạm Thái hỏi tới bản chỉ thị, thì người kia thò tay vào bọc rút ra một tờ giấy rộng và cuộn tròn, đầy những dấu ấn kiềm đỏ chói:
    - Đây, thiền sư đọc.
    Phạm Thái đỡ lấy xem thì đó là một tờ yết thị bằng chữ nôm như sau này:
    "Chùa Tiêu sơn là một nơi sào huyệt của một đảng cướp lớn. Quan trên đã khám phá ra đươc. Hiện nay tên đầu đảng cướp là Phạm Thái đội đạo hiệu Phổ T nh thiền sư cùng tên tướng của nó là Lê Báo đội hiệu Phổ Mịch còn lẩn lút trốn tránh. Hai tên ấy, dân vùng Tiêu sơn nhiều người biết mặt. Vậy yết thị cho ai nấy rõ. Kẻ nào tàng nặc hai tên ấy tức có đồng phạm. Kẻ nào biết hai tên ấy ở đâu mà không báo quan ngay để chúng trốn thoát bị phạt ba mươi trượng. Còn kẻ nào bắt đươc hai tên ấy đem nộp, dù sống dù chết, đươc triều đình thưởng tiền từ một nghìn quan trở lên, mà triều đình lại còn ban phẩm hàm cho nữa.
    Nay yết thị Từ sơn phủ phân tri Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứsáu Tháng mười ngày. . . " Dưới có bản tranh phác họa diện mạo hai nhà sư. Nét bút vụng về và bức vẽ không giống làm cho Phạm Thái phải bật cười.
    Người Bắc thành cũng cười, hỏi:
    - Thiền sư đọc xong rồi?
    - Vâng, nhưng sao tiên sinh lại dám bóc tờ yết thị?
    - ấy, tôi thấy trong điếm chẳng có một ai, liền bóc lấy cho chóng việc, chứ chép thì bao giờ xong, nhất tờ yết thị lại viết bằng chữ nôm.
    Mắt người ấy vẫn không rời con ngựa.
    - Đẹp thực ?
    - Ngài thích?
    - Còn phải hỏi ?
    - Vậy bần tăng để lại hầu ngài đấy.
    Người kia vui vẻ đáp:
    - Thực nhé? Thôi thế này. Sáng hôm nay tôi cũng cười ngựa sang đây. Khi đến quán Yên Viên, nó giở chứng không chị phi nữa, ra roi thế nào cũng làm thinh Tôi tức mình để lại cho người lái buôn ngựa, lấy có bốn mươi quan. Vậy bốn mươi quan ấy tôi xin nộp thiền sư.
    Phạm Thái đáp :
    - Bao nhiêu cũng được.
    - Thế thì còn gì bằng. Vậy xin thiền sư cùng đi Yên viên chơi. Rồi sáng mai ta cùng về Thăng Long.... Ta cùng đi Bắc thành một thể thiền sư tính sao?
    Phạm Thái vui mừng nhận lời ngay, vì chàng đương chưa biết đi đâu.

  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Hồi 38 - Quán Bạch Phượng


    Đã mấy hôm nay trong khắp các phố Bắc thành bày ra một cảnh rất náo nhiệt.
    Vì kỳ thi tuyển cống sinh sắp sửa bắt đầu nên hàng nghìn sĩ tử Bắc Hà vác lều chiếu từ các trấn xa gần kéo nhau về, lăm le tên chiếm bảng vàng rồng mây gặp hội.
    ở các cửa ô, từng bọn thí sinh áo lương khăn nhiễu, đầu đội nón sơn, chân dận dép da trâu, xúm xít đọc tờ chiếu chỉ dán trên thành tường. Tờ chiếu ấy viết bằng chữ nôm như sau này:
    sự kén chọn nhân tài rất có quan hệ đến sự thịnh hưng của một nước.
    Từ khi Trẫm lên nối ngôi trời trị dân, không một lúc nào Trẫm sao nhãng điều ấy Trẫm mong mỏi tìm bậc hiền sĩgiúp nước như người làm ruộng mong mỏi trởi mưa giữa thời hạn hán.
    ~ thế theo gương Tiên đế, nay Trẫm mở kỳ thi cống sĩ để các sĩ tử trong nước có dịp cùng nhau thi thố tài năng.
    Trẫm lại nghĩ một nơi đế đô không đủ chỗ cho sĩ tử khắp nước đến hội họp.
    Vả những kẻ ngoài Bắc hà phải lặn lội vào hnh đô, e đường xá xa xôi, nhất là đối với những ngưòi nghèo khó, phải lo kiếm tiền lộ phí để đi thi.
    Bởi những lẽ trên, Trâm đặt kỳ thi công sĩ ở ba nơi, một là hnh đô, một là Quy Nhơn, một là Bắc thành. Như thế người hạt nào đươc thi ở hạt nấy, thực là giản tiện. Rồi kẻ nào đậu cống sĩ sang năm vào Kinh đô dự kỳ thi bác sĩ.
    ở trường thi Bắc thành việc kén chọn nhân tài, Trẫm giao cho đại tự đồ Nguyễn Văn Danh cùng với Thị Trung Ngự sử Ngô Thì Nhậm đươc tuỳ nghi.
    Khâm thử Niên hiệu Cảnh Thịnh năm thứ sáu.
    Bên cạnh tờ chiếu chỉ lại có một tờ yết thị cũng bằng chữ nôm của hội đồng chấm thi như dưới:
    Thừa lệnh Hoàng đé, quan chánh chủ khảo yết thị cho các thi sinh biết rằng:
    Có ba kỳ thi:
    Kỳ đệ nhất:
    một bài giải nghĩa cùng bàn luận một câu tục ngữ hay ca dao viết bằng chữ nôm.
    Kỳ đễ nhị:
    một bài luận Nam sử cũng bằng chữ nôm.
    Kỳ đễ tam:
    một bài thơ chữ nôm, hoặc chữ Hán, một bàiphú chữ nôm hoặc chữ Hán.
    Đúng giờ Dần, các th í sinh đã phải có mặt ở trường th i, ai nấy phải mang theo lều chiếu cùng là bút mực giấy vở.
    Kẻ nào gian trá sẽ bị tội nặng.
    Nay yết thị Quan chánh chủ khảo:
    Ngô Thi Trung Nhự sử đại thần ở cửa ô Ưu-nghĩa, khi đọc xong tờ chiếu chỉ và tờ yết thị, một bọn học trò đủ các tuổi, từ mười tám đến ngoài năm mươi, đưa mắt nhìn nhau tỏ vẻ hoặc kinh ngạc, hoặc chế riễu. Một người đã đứng tuổi nói:
    - Năm xưa, đức Tiến đế mở khoa thi. Tôi phải lặn lội vào tận Phú Xuân, thế mà tôi còn bỏ không thi, nữa là năm nay ở ngay Bắc thành.
    Một thầy khoá đùa bỡn hỏi:
    - Sao vậy?
    - Tôi học đạo thánh hiền, dầy công đèn sách, nấu sử sôi kinh, lại thèm làm những bài nôm na mách qué hay sao?
    Dút lời dông đồ vút giấy bút xuống đất, giận dữ quay đi thẳng, khiến mọi người phá lên cười.
    Rồi họ xôn xao bàn tán. Kẻ phàn nàn chưa họ Nam sử, kẻ lo ngại quên mặt chữ Nôm. Lại có kẻ hỏi:
    - Không biết làm phú nôm thì làm sao?
    Một người đáp :
    - Khó gì? lại hàng sách mua lấy một quyển phú nôm, văn sách nôm của cụ Le Quý Đôn mà xem. Nhân tiện học lại chữ nôm một thể.
    Một người nữa mỉa mai:
    - Thi với cử? Chán ngắt? Văn nôm thì là phải nặng mùi, tờ yết thị dán ở cưa ô Ưu Nghĩa, phố hàng Mắm thực là đắc nghi.
    Một thí sinh có tuổi vừa nhìn trước nhìn sau, vừa bảo người kia:
    - Liệu giữ mồm miệng ?
    Rồi, từng tốp kéo đi các ngả.
    Một bọn năm người rủ nhau ra chơi đền Ngọc sơn. Nhưng vừa qua cầu sầm Công và rẽ sang phố hàng Bạc, các thầy khoá gặp một thiếu nữ gương mặt sáng sủa đứng ở hè phố dương mắt nhìn và mủm mỉm cười tình. Một người trong bọn bảo anh em:
    - Nghe nói con gái, Bắc thành ghê gớm lắm kia đấy? Chớ có trêu vào. Nên lảng xa ra là thượng sách.
    Nhưng người thiếu nữ nào có để cho các thầy lảng xa? Nàng tiến đến gần hỏi:
    - Thưa các thầy, em coi như các thầy đương đi tìm nhà trọ?
    - Có thế Chừng cô là chủ hàng cơm?
    - Thưa các thầy không. Em người Kinh Bắc, nhân gặp kỳ thi, về đây bán hàng trầu nước .
    Một thí sinh trẻ tuổi đã bạo, phá lên cười ha hả:
    - Chừng để kén chồng, để tuyển phu?
    - Thưa không ạ, em chỉ bán hàng để kiếm ăn. Em nghèo lắm, thuê một gian xép ở ỉru quán kia. Chủ tửu quán bảo hễ em đón được năm người khách trọ thì họ cho em ở nhờ không lấy tiền thuê. Vì thế em gặp năm thầy em mừng quá. Vậy xin năm thầy thương em nghèo mà đến đấy ở trọ giùm.
    - Đấy là đâu?
    - Thưa năm thầy, quán Bạch Phượng ở phố Cầu Gỗ.
    Năm người đưa mắt nhìn nhau. Rồi người trẻ tuổi nói:
    - Được, cô cứ về trước đi Lát nữa chúng tôi đến.
    - Tiện đường, em xin đưa các thầy về một thể.
    - Nhưng lều, chiếu, tráp, nải, chúng tôi gửi cả đàng kia.
    - Các thầy không ngại, để ở đâu rồi em xin đến lấy sau.
    Chẳng đừng được, năm thầy khoá phải theo cô kia rẽ sang phố hàng Đào rồi đến phố Cầu Gỗ.
    Tửu quán Bạch Phượng dựng ngay cạnh cái lạch nhỏ thông liền hồ Hoàn Kiếm với cái hồ nhỏ hàng Bạc. Trên lạch cái cầu hỗ bắt ngang, (vì thế mà người ta đặt tên là Cầu gỗ). Đó là một nếp nhà gạch khá rộng, có gác, tuy gác ấy thấp và không có cửa sổ trông ra phía đường, chỉ giống như cái mái chồng của một kiểu nhà hai mái, dốc sây thành bậc.
    Tửu quán ấy nguyên trước là nhà một người buôn lợn, khá giàu. Một hôm vợ lẽ chủ nhân đứng cửa ngắm phố. Bỗng hai viên vệ binh qua đó thấy nàng có chút nhan sắc, bèn thả lời trêu ghẹo. Cô vợ lẽ vốn người quê trấn Hải Dương mới theo chồng đến ở Bắc thành, nên chưa rõ oai oác các ông vệ binh xứ Nghệ. Nàng giở hết giọng chua ngoa tục bẩn ra đáp lại lời ngọt ngào của hai thầy vệ. Người chồng nghe tiếng ầm ĩ ở cửa chạy ra, thấy hai ông lính thì giật mình kinh hãi, nhưng đã quá muộn rồi. Chiều hôm ấy, gần một trăm vệ binh kéo đến nhà người buôn lợn phá phách, bắt hết lợn làm thịt. May mà vợ chồng con cái chủ nhà biết trước đã đi trốn tránh. Rồi sau họ dọn luôn đi ở nơi khác.
    Nhưng nào bọn vệ binh đã thôi đâu. Chiều chiều họ còn kéo nhau đi lượn qua cái nhà bỏ hoang để thị uy. Kẻ cười khoái chí, kẻ thét bô bô:
    - Đã biết tay chúng ông chưa?
    Một người khác lại tiếp:
    - Phải biết? Ai bảo trêu vào lính nà vua? Trêu vào lính quan tổng trấn?
    Hôm đầu cũng có người láng giềng thương tình ra xin các thầy vệ cho gia đình bác buôn lợn. Nhưng người khéo hứng việc ấy bị một quả đấm nên thân. Từ đó không ai dám hé môi nói nữa lời, mặc cho nếp nhà kia bị khóa trái không người ở.
    Vì ai dại mà đến thuê một cái nhà nguy hiểm như thế, nhất là khắp phố Cầu gỗ đều đã nghe rõ lời dọa nạt của các ông mãnh, lính hầu quan tổng trấn:
    "Đứa nào có giỏi cứ đến đây mà ở?" Hai tháng ròng, nhà người buôn lợn vẫn đóng cửa im ỉm. Bỗng một hôm có người khách lạ đến thuê. Hai bên hàng phố khúc khích cười khi nghe người ấy hỏi thăm xem chủ nhà ở đâu. Họ thi nhau thuật lại những truyện chẳng lành đã xảy ra, rồi khuyên người kia chớ nên trêu vào lính quan trấn thủ. Nhưng người khách lạ không tỏ vẻ mặt cảm động mảy may, hỏi đi hỏi lại chổ ở của chủ nhà để đến thuê, và nói nếu chủ nhà bán rẻ thì mua dút.
    Thấy vậy một người láng gi^ng nguyên có họ với bác buôn lợn mừng rỡ, đứng ra nhận bán cho người khác lạ lấy nghìn quan tiền, rồi làm văn tự liền lấy chữ ký của chủ nhà. Người khách chừng là một tay đại phú, vì trả ngay một lúc năm mươi nén bạc, mà cũng chẳng cần phải có hộ trưởng ký nhận cùng áp triện.
    Ngay mấy hôm sau nhà ngưòi buôn lợn đã trở nên một hàng cơm, ngoài cửa treo một giải cờ dài nhuộm đỏ có viết bốn chữ lớn "Bạch Phượng tửu quán '.
    Từ hôm khánh thành tửu quán, suốt phố người nào cũng ngó tới cái hà ghê gớm kia, mà bọn lính quan tổng trấn đã ra lệnh không cho ai được phép ở. Ngó tới để xem cuộc xung đột dữ dội đến bậc nào.
    Quả nhiên cách đlo vài ngày, năm người vệ binh đi qua phố Cầu gỗ. Thấy cái nhà bị cấm đã nghiễm nhiên trở nên một tửu quán, họ thì thầm bảo nhau:
    - Thằng cha nào mà già gan thế?
    - Ta thử vào xem sao.
    Năm cậu vệ vừa bước chân qua ngưỡng cửa thì chủ quán ở trong nhà đã bước vội ra chắp tay lễ phép chào, rồi vồn vã hỏi:
    - Thưa các thầy, có phải các thầy là vệ binh trong dinh quan tổng trấn không?
    Một ngưòi lính xừng xộ đáp:
    - Phải, anh muốn nói vệ binh của quan tổng trấn điều gì?
    Chủ quán lại vái dài một cái nữa, rồi mừng rỡ cuống quít:
    - Ồ, thế thì may cho chúng tôi quá, chúng tôi đương sắp sửa vào trong dinh mời các thầy ra chứng kiến cho bữa tiệc khánh thành tửu quán, thì các thầy lại quá bộ đến thăm. Thực là hân hạnh cho chúng tôi quá. Chúng tôi chẳng nói giấu gì các thầy, trước kia chúng tôi là vệ binh trong hai năm ở dinh quan trấn thử Lạng sơn.
    Chỗ đồng nghiệp....
    Rồi trong khi mấy người lính còn ngơ ngác nhìn nhau chưa biết xử trí ra sao, thì chủ quán đã cất tiếng gọi:
    - Em Hai ?
    Có tiếng dạ trong trẻo, rồi một người con gái rất xinh xắn, nhanh nhẹn, y phục gọn ghẽ, từ nhà trong chạy vội ra.
    - Thưa anh, anh bảo gì em?
    Mấy cậu vệ trố mắt nhìn, tấm tắc khen thầm.
    - Có các thầy cai ở trong dinh quan tổng trấn ra chơi, vậy em sắp rượn mời các thầy xơi Dút lời, chủ quán chạy xuống bếp bảo làm nhắm, để một mình cô em gái đứng tiếp chuyện với các cậu vệ. Giữ thể diện với một cô thiếu nữ cực kỳ xinh đẹp, các cậu cảm tạ và nhất định từ chối không nhận lời dự tiệc một cách quá đường đột.
    Nhưng các cậu làm thân ngay với chủ quán, người đã được diệm phúc có một cô em gái rất dễ thương. Và chẳng bao lâu, hết thẩy bọn vệ binh trong dinh quan tổng trấn, từ đội, cai cho đến lính, không còn ai thèm nhớ đến câu chuyện phá phách và thù oán nữa.
    Thế là Bạch Phượng tửu quán bắt đầu vào thời kỳ thịnh đạt ngay. Nay gặp kỳ thi cống sĩ, khách trọ đến càng đông, đông như trong động Hương Tích gặp ngày chảy hội vậy.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này