1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiểu sử của các nhà vật lý học

Chủ đề trong 'Vật lý học' bởi Milou, 01/07/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Tiểu sử của các nhà vật lý học

    Nhà bác Học Stephen Hawking

    Hoàng Nga

    Đây, nhà vật lý lỗi lạc của thế kỷ 20, sánh ngang Einstein.
    Con người siêu phàm ấy gần như bất động hoàn toàn trên chiếc xe lăn từ 30 năm qua.
    Nhưng đang sửa soạn công bố một khám phá, một giải thích toàn bộ về "Lịch sử cấu tạo vũ trụ, từng là ước mơ bao đời của giới bác học thượng thừa. Ngày xưa, Eistein đã chịu bó tay, thất baị ở địa hạt này!
    Bước vào năm 2000, bác học gia người Anh Stephen Hawking ở tuổi đời 58. Oâng theo đuổi các công trình nghiên cứu về vật lý không gian tại đại học đường Cambridge.

    Trong thành phần khoa học gia hàng đầu của nhân loại hiện nay, GS Hawking nổi bật như vì sao bắc đẩu, duy nhất có tư cách đạt đến kết quả cuối cùng trong công cuộc khám phá và giải thích toàn bộ "Lịch sử cấu tạo vũ trụ. Cái ước mơ bao đời của những người được mệnh danh là bác học đang trên đà hình thành trong ngày một ngày hai. Khi thế giới khoa học tiết lộ như thế, có nghĩa là kết quả đang ở trong tầm tay. Có điều lại chỉ ở trong tay một người. Người ấy không ai khác hơn là Stephen Hawking!

    Nếu như trước kia, nhà bác học Einstein cha đẻ của "Thuyết Tương Đối" mở đường cho con người đặt chân vào không gian, sử dụng nguyên tử với hạt nhân, thì giờ đây, người kế tục sự nghiệp của ông ?" nhà vật lý kỳ diệu Hawking lại quyết tâm kết hợp nó với "Lượng Tử Thuyết" (Théorie des Quanta) của chính ông ta, để tạo thành một kiệt tác định lý: "Đại Tổng Hợp Không Gian" - Einstein ngày xưa đã bó tay , thất bại ở địa hạt này.

    BÁC HỌC GIA STEPHEN HAWKING LÀ AI?

    Cách đây 37 năm, ông đã là nhà toán học phi thường, là tay bơi thuyền đua hữu hạng của đại học Oxford. Nhưng GS Hawking bất thần bị mắc chứng tê liệt bắp thịt. Buổi đầu ông phải chống gậy để di chuyển. Dần dà chứng bệnh càng nặng, kề cận cái chết. Từ lâu lắm rồi, không một danh sư nào dám đoạn quyết là GS Hawking có thể tiếp tục sống thêm trên cõi đời này. Chính ông biết rõ mình, đôi lúc tuyệt vọng. Ngày đêm, ông sống trong buồn nản, thần kinh thác loạn. Có nhiều ngày ông vùi đầu vào rượu. Muợn rượu để quên hết sự đời

    Nhưng rồi, tưởng cứ phải trở về với dĩ vãng kia ở ông, người ta mới nhận biết được hết lẽ huyền ri của tạo hóa: Vào cuối năm 1963, chỉ còn một đêm nữa bước sang năm mới, nhà vật lý trẻ trung Stephen vừa thoạt ngoài 20 tuổi đến dự party ở nhà một người bạn thân nơi vùng tỉnh nhỏ St. Aban, gần Luân Đôn. Tại đây, ông gặp nàng Jane. Tiếng sét tình ái mãnh liệt bỗng trói buộc hai người làm một. Chàng hơn nàng 3 tuổi. Sau này nhớ lại, Jane Hawking thổ lộ: "Kỳ lạ quá. Tôi thấy Stephen kiêu kiêu làm sao ấy, nhưng rõ ràng có một cái gì thật khó tả ở nơi chàng. Hình như có một tâm sự u uẩn đang dầy vò chàng?"

    Chẳng bao lâu sau, một bác sĩ chuyên khoa đã bảo thẳng cho Stephen biết ông mắc chứng nan y vô phương cứu chữa và chỉ sống được một hai năm nữa là cùng. Từ đó Stephen ngưng mọi hoạt động. Không còn thiết làm việc. Song định mệnh éo le, không cho nhà khoa học ấy được "quên". Quên Jane! Nàng vẫn lui tới, gần ông, mối tình chỉ tăng mà không giảm. Họ nhất định không thành hôn với nhau vào năm 1965. Từ sau ngày cưới, Stephen tận hưởng thời gian còn lại của đời người. Và cũng tận dụng nó để làm một việc gì nghĩa lý hơn. Bà Jane Hawking tâm sự: Chính tôi cũng không biết vì sao đã tiến tới hôn nhân. Nó sẽ đưa chúng tôi về đâu? Tôi chỉ thấy rằng Stephen đang trải qua giai đoạn bấn loạn thần kinh. Tôi phải giúp chàng, đúng với lòng tôi muốn. Có lẽ đó là nguyên nhân chính mà tôi đi tìm kiếm. Và rồi chúng tôi thực sự trở thành cặp tình nhân yêu nhau tha thiết ***g trong đời sống vợ chồng.

    Nhưng chẳng bao lâu, gốc bệnh của nhà vật lý cứ tăng triển và cùng lúc danh tiếng ở ông thì nổi như cồn. Các phần thưởng khoa học trao tặng cho ông dồn dập và các trường đại học khẩn khoản mời ông đến thuyết giảng liên tiếp. Ngoài công việc, ông gắn bó với mái gia đình, và tình trạng sức khỏe của ông càng lệ thuộc vào sự chăm sóc tận tụy của bà vợ.

    Tiếng nói ở ông mỗi lúc một phát ra khó khăn dẫn đến mất hẳn. Oâng được đưa qua Genève, trao vào tay các danh y hoàn vũ. Bác sĩ giải phẫu cắt bỏ các giây phát âm bị nhiễm trùng. Một hiệp hội từ thiện ở Hoa Kỳ quan tâm đến tình trang kinh tế của bà Hawking, họ đề nghị được chịu trách nhiệm về mọi phí khoản giải phẫu, thuốc men. Ngày đêm, một đội y tá gồm 3 người túc trực săn sóc nhà bác học. Lần đầu tiên, kể từ ngày lấy nhau, bấy giờ bà vợ mới được nghỉ ngơi đôi chút, vì có người cùng chăm lo mạng sống của chồng bà. Suốt từ nhiều năm qua, hai ông bà với 3 người con sống nơi căn nhà thuộc từng cuối bệnh viện King?Ts College ở Luân Đôn. Bà là giáo sư sinh ngữ.

    Ngày nay, giới khoa học gia thế giới có niềm tin chắc chắn là không còn bao ngày nữa, GS Stephen Hawking sẽ tìm ra chiếc khóa vàng mở toang cánh cửa bí mật bao đời bị khép kín ?" cho phép thế giới khoa học nhìn thấu đến ngọn nguồn "vũ trụ". Và vì thế, nhà bác học Stephen Hawking cứ cần phải tồn tại thêm một thời gian nữa. Người ta đang dốc lòng cầu nguyện Thượng Đế ban ân lành gìn giữ ông. Bộ óc của ông thật vĩ đại nhưng cơ thể ông luôn trong tình trạng suy nhược. Từ những năm 30 tuổi, ông đã không thể rời khỏi chiếc xe lăn được trang bị tân kỳ. Các nhà y học đã mổ cuống họng ông, và ông mất hẳn tiếng nói từ trước đó. Bác sĩ phẫu thuật phải bỏ ngỏ một lỗ trống nơi yết hầu, nhờ vậy ông còn thở được. Song nước miếng luôn chảy lòng thòng nơi vành môi. Mỗi lần cơn ho chợt kéo đến thì toàn thân ông bị co quắp, quằn quại trông thương tâm vô cùng. Oâng không khác một cái mền len được đưa lên cao rồi buông thả xuống chiếc ghế xe lăn di động. Nhà bác học chỉ có thể lắc lư nhẹ cái đầu và quơ quơ đôi bàn tay một cách vô thức. Họa hoằn lắm mới bắt gặp nụ cười vụng dại chợt đến, để lộ hai hàm răng rộng ở ông. Thế đấy! Nhưng nhà bác học vẫn không chịu bó tay như thuở ngày đầu lâm bệnh. Hệ thống máy móc quan sát tinh vi cho biết bộ não ông không ngừng nghỉ. Nhờ máy siêu điện tử, ông đàm thoại với một số nhà khoa học bên ông bằng cách bấm nút, để rồi mặt chữ hiện lên màn ảnh vô tuyến và sau đó phát thành "âm thanh". Gọi là "bấm nút", song những ngón tay mặt ở ông đã chỉ cử động được thật khó khăn, chậm chạp. Tính ra, trong một phút, chỉ có thể đưa lên màn ảnh 10 chữ là cùng. Đã có biết đến bao nhiêu là điều quan trọng ở trong ông đáng được cấp tốc phổ biến đến đội ngũ bác học mà trở ngại lại quá nhiều! Tuy nhiên con người lỗi lạc Stephen Hawking triền miên suy tư. Oâng đã thảo nhiều bản thuyết trình được đánh giá là những viên ngọc quý, thường xuyên xuất hiện trước các bậc danh tài Âu Mỹ. Oâng tỉ mỉ hệ thống hóa mọi phương trình toán học không gian vĩ đại nhất, giải thích về từng vần đề một vào máy điện tử, và chân thành tin tưởng, xác định: kết quả đang hiện ra. Nó không ở một mình ông mà từ một công cuộc chung giữa các đồng nghiệp khoa học gia, tiến tới phụng sự nhân loại tốt đẹp nhất, tuyệt vời nhất?

    Đành rằng cơ thể ông đã bị hủy hoaị đến tột cùng của sự hủy hoại (và đã là người thì ai mà rồi chẳng có lúc phải qua cầu ấy) nhưng cái điều huyền diệu phi phàm ở nhà bác học Stephen Hawking mà người khác không thể có, không thể đạt được, là tâm hồn ông thì lại luôn bay bổng trên trời cao vòi vọi, ẩn ẩn hiện hiện hết hành tinh này sang hành tinh khác.

    ***

    Chúng tôi vừa thuật lại cùng bạn đọc một câu chuyện có thật. Gom góp qua các tài liệu mới nhất được công bố về nhà bác học Stephen Hawking. Con người vĩ đại ấy đang sống kề cận chúng ta ngay tại thành phố Luân Đôn (Anh Quốc). Xin không dám đi sâu vào chi tiết ?" những chi tiết khoa học, mà chỉ cốt nêu lên những khía cạnh bình dị nhất xen lẫn những điều khác diệu về sức sống can đảm phi thường của một nhân vật phi thuờng. Có nhiều điểm lại đã làm chúng ta ngậm ngùi, xúc động trong sự khâm phục cùng cực.

    Tưởng nếu còn có điều đáng nói thêm, thì xin đề cập đến một cảm nghĩ nhỏ nhoi thoát thai từ những ám ảnh tường có trong tâm tư người dân Việt "Thiên cơ bất khả lậu!" Chúng ta vẫn nghe nói thế. Vậy, phải chăng người anh tài xuất chúng Stephen Hawking kia bỗng trở thành phế nhân đã 30 năm qua, có phần nào bắt nguồn từ sự toan "đoạt quyền Thượng Đế"?

    Nếu nhà bác học không bị hành xác, chắc chắn ông đã đạt điều mơ ước "khám phá công trình tuyệt tác tạo dựng vũ trụ của Thượng Đế" từ lâu rồi?

    Vậy, vấn đề cứ là chờ xem, một là, sự "khoan dung" của Thượng Đế sẽ diễn ra, hay là sự "thịnh nộ" trừng phạt hiện đến, khi loài người bước vào đúng thời điểm của năm 2000 này!

    Hoàng Nga


    Được dr_slums sửa chữa / chuyển vào 01/07/2002 ngày 19:59

    Được milou sửa chữa / chuyển vào 08/07/2002 ngày 02:21
  2. NguyenVanTeo

    NguyenVanTeo Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/05/2002
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    0
    Lão nào biết các web site nói về Lão Stephen Hawking gửi lên đây cho anh em vào xem, tham khảo thêm nhá. Xin cảm ơn!
    --------------- Nguyễn Văn Tèo ---------------
  3. LungTungBeng

    LungTungBeng Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    09/05/2002
    Bài viết:
    556
    Đã được thích:
    0
    Không phải là "lão" nhưng vẫn gửi địa chỉ này: http://www.hawking.org.uk . Website chính thức, vô đây xem là đủ rồi.
  4. NguyenVanTeo

    NguyenVanTeo Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    29/05/2002
    Bài viết:
    416
    Đã được thích:
    0
    Góp ý cho nhà bác MOD dr_slums cái nhá: Bác đổi tên chủ đề một cách tự tiện mà không thực sự phản ánh nội dung của chủ đề gì hết. Ví dụ trong chủ đề này, người tạo đang muốn nói về nhà bác học <<Stephen Hawking>> với một ý định rất rõ ràng. Bác lại đổi uịch một phát thành <<Tiểu sư của các nhà bác học>>. Có thể bác muốn như thế nhưng người tạo chủ đề đang muốn tạo một chủ đề riêng về ông Stephen Hawking thì sao?
    Thiết nghĩ việc đổi tên chủ đề nên cân nhắc để tránh tình trạng <<treo đầu dê nhưng lại bán thịt chó>>. Hơn nữa, các thành viên nên có quyền đặt tên chủ đề theo cách họ nghĩ. Nếu bác thấy không hợp lý, trước tiên bác nên yêu cầu họ cân nhắc, sửa đổi cho hợp lý. Nếu người đó không phản ứng và không đưa ra lý do giải thích một cách có lý, lúc đó bác hãy đổi tên chủ đề.
    Bác không vừa lòng chỗ nào cứ xóa bài của tôi.
    --------------- Nguyễn Văn Tèo ---------------
  5. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Bác Dr làm gương đưa các bài khác vào đi nhá .
  6. dr_slums

    dr_slums Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    14/03/2002
    Bài viết:
    1.531
    Đã được thích:
    2
    Nhưng nếu chúng ta phát triển không có quy củ thì mấy hôm nữa sẽ không có đất đâu các bạn có muốn mỗi khi tìm bài lại phải đi tìm hết trang này đến trang khác không ? Hơn nữa chúng ta không chỉ có mỗi Stephen Hawking chúng ta còn có Newton , Anbe , Galile , .... còn rất nhiều nhà bác học nữa nếu mỗi người đều có 1 chủ đề riêng thì sẽ không thể nào đủ chỗ cho tất cả mọi người được còn các vấn đề khác để thảo luận nữa chứ ! Chắc các bác tưởng em làm MOD thì sướng thích lock ai thì lock , thích xoá bài ai thì xoá phải không ?các bác nhầm rồi bên dưới thì bị các bác than phiền bên trên thì bị ATC " hướng dẫn " không dễ chịu tí nào dâu ! bài của các bác em không xoá bài nào từ khi thành lập box đến giờ duy chỉ có 1 bài là do gửi 2 bài cùng 1 chủ đề và 1 bài quảng cáo thành lập box chat và internet vi phạm nghiêm trọng quy định TTVN là gửi 1 bài vào nhiều diễn đàn do có yêu cầu của ATC nên em xoá thôi . Còn bài của các bác em đổi tên là cho phù hợp cho sự phát triển sau này thôi nếu vấn đề này không còn gì để bàn nữa thì sẽ phí băng thông cũng như dung lượng ổ cứng máy chủ làm các bác load lâu thôi ( Theo quy định của TTVN thì chủ đề sau 1 năm không có bài mới thì sẽ bị xoá vĩnh viễn ). Các nếu vẫn chưa thoả mãn thì hãy link vào đây : http://www.ttvnonline.com/forum/topic.asp?TOPIC_ID=94279
    ***************
    Với thế giới bạn chỉ là một người , nhưng có thể với một người bạn là cả thế giới.
  7. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    250 năm sau thí nghiệm thả diều hứng sét của Franklin

    Ông Benjamin Franklin
    Tháng 6 vừa qua là tròn 250 năm, kể từ ngày học giả, nhà khoa học Benjamin Franklin thả một chiếc diều và một chiếc chìa khóa lên bầu trời đầy dông bão ở Philadelphia (Mỹ), và tìm ra một khám phá bất ngờ: Sét là sự phóng điện.
    Thí nghiệm táo bạo đã làm khuấy lên làn sóng phê bình của giới tăng lữ, những người cho rằng Franklin đang thách thức Chúa trời, đồng thời lại mang đến những lời ca tụng trên khắp châu Âu và châu Mỹ, coi đó như là một trong những ý tưởng vĩ đại nhất trong thời đại của ông. Nó còn là đề tài cho cuộc tranh cãi kéo dài hàng thập kỷ giữa một số nhà sử học, những người cho rằng không phải Franklin, mà chính là một nhà khoa học ở Marly, Pháp, mới là người chế ngự được bí ẩn của thiên lôi.
    ??oNgay cả nếu ông ấy đã làm điều đó, thì chúng ta cũng không biết chính xác là vào khi nào và ở đâu. Đó chính là một điểm tạo nên sự nghi ngờ về thí nghiệm của Franklin???, Richard Rosen, một sử gia của Đại học khoa học và Nghệ thuật, thuộc Đại học tổng hợp Drexel (Philadelphia) nhận xét.
    Các sử gia khác lại cho rằng có những bằng chứng để thấy Franklin đã thực hiện thí nghiệm nổi tiếng này. Bất chấp thực tế không có một báo cáo nào được lưu lại, cũng như không có các nhân chứng nào ngoài con trai của ông và những lời tường thuật chi tiết do cộng sự của Franklin là Joseph Priestley kể lại, khoảng 15 năm sau đó.
    Theo câu chuyện của Priestley, vào một ngày tháng 6 năm 1752, nhà phát minh 46 tuổi và cậu con trai 21 tuổi William đã thực hiện thí nghiệm để chứng minh giả thuyết của Franklin về tính chất tự nhiên của sét. Hai cha con ra cánh đồng và chờ đợi một cơn bão lớn. Một đám mây dông trôi qua - không phải là một tia sét - đã tích điện âm cho chiếc diều, sợi dây và cái chìa khóa. Franklin không bị giật vì ông cầm một mảnh lụa khô cách ly khỏi dòng điện. Nhưng khi chạm vào chiếc chìa khóa, một tia sáng loé lên trên tay ông. Phát hiện này đã mở đường cho những cuộc cách tân về sau trong nhiều lĩnh vực, từ sản xuất ắc quy tới thuốc nổ.
    David Rhees, giám đốc điều hành Nhà bảo tàng và thư viện Bakken ở Minneapolis cho biết, Franklin không phải là người đầu tiên nhận ra sự tương đồng giữa hiện tượng tĩnh điện và các tia sét, nhưng ông là người đầu tiên đề xuất một cuộc kiểm tra để xác minh hiện tượng đó là có thực. Rhees nói thêm "ngay cả khi nhiều nhà sử học đã đúng khi cho rằng một nhà khoa học ở Marly, Pháp có thể đã thực hiện ??othí nghiệm Philadelphia??? trước khi chính Franklin thử nghiệm nó, thì vẫn có vô số lý do để tổ chức kỷ niệm thành tựu của ông".
    http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2002/07/3B9BDC21/
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  8. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Albertt Einstein nhân vật của thế kỷ 20
    Thiện Nhân Nguyễn Khánh Do tổng hợp
    1. Tiêu chuẩn của sự chọn lựa danh nhân số một của thế kỷ.
    Năm cuối cùng của thế kỷ 20, tạp chí Times của Hoa Kỳ xuất bản một số đặc biệt trong đó tạp chí này chọn lựa những người lừng danh nhân loại trong thế kỷ 20 về 5 lãnh vực: lãnh tụ và làm cách mạng, nghệ thuật và trình diễn, xây dựng và canh tân, khoa hoc và tư tưởng, anh hùng và thần tượng, và quang trọng, danh dự hơn cả là : ??odanh nhân của thề kỷ.???
    Sự lựa chọn một người để vinh danh là ??odanh nhân của thề kỷ hẳn phải dựa trên một tiêu chuẩn thuận lý nào đó. Cái tiêu chuẩn ấy báo Times nêu lên nguyên văn như sau: ??oPerson of the Century is that person who, for better or worse, most influenced the course of history over the past 100 years ??" Người của thế kỷ là kẻ, tốt hoặc xấu hơn, ảnh hưởng lớn nhất tới dòng lịch sử của 100 năm qua .??? Người ta không phải mất nhiều thì giờ cũng đã tìm ra con người ấy, và không ai ngoài Albert Einstein!
    Mặc dù tên tuổi ông đã được ngưỡng mộ trong giới khoa học trong hai thập niên đầu của thế kỷ 20, và ông đã được trao giải Nobel về Vật Lý học năm 1921, nhưng phải tới năm 1945, sau khi 2 quả bom nguyện tử của Hoa Kỳ nổ ở Hirosima và Nagasaki, tên tuổi ông mới trở thành lừng lẫy khắp nơi, dường như không nơi nào trên thế giới là không biết đến cái tên Einstein, và người ta đã xưng tụng ông là cha đẻ của kỷ nguyên Nguyên Tử.
    Đa số con người trên trái đất biết đến tên ông, và nhiều người cũng ??obiết??? đến ba trong những công trình lừng lẫy nhất của ông ??" nhưng kỳ dị thay, người ta lại hiểu lờ mờ nhất, hoặc ... chẳng hiểu gì cả, về những điều mà người ta ??obiết!??? Biết mà không hiểu, không thể hiểu, không bao giờ có thể hiểu, dù bỏ bao nhiêu thời giờ ra để tìm hiểu,!
    Ba công trình đó là: thuyết Tương Đối hạn chế liên quan đến vấn đề tốc lực cực nhanh, thuyết Tương Đối tổng quát liên quan đến hấp lực của vật thể trong vũ trụ, và công thức liên quan tới năng lượng, vật chất và tốc độ của ánh sáng E=m*c*c (năng lượng bằng trọng khối nhân với bình phương vận tốc của ánh sáng).
    Thật ra những công trình nghiên cứu và khám phá của ông về khoa học trải rộng nhiều, rất nhiều, lãnh vực quan trọng đến độ chúng trở thành nền tảng cho một số ngành khoa học. Ít người biết rằng giải thưởng Nobel về vật lý ông được trao năm 1921 không phải do 3 khám phá lẫy lừng nói trên mà do sự giải thích của ông về ??ohiệu ứng của quang điện???(photoelectric effect), và vào thời điểm đó nhiều người đã coi ông như một trong những nhà sáng tạo thông minh nhất của nhân loại.
    Amazone, nhà sách đầu tiên và lớn nhất trên internet cho biết là có hơn một trăm cuốn sách viết về Einstein, con số này là chỉ nói tới các sách viết bằng những ngôn ngữ có nhiều người đọc như Anh, Pháp,Tây Ban Nha, Ý, Nga, Đức, Do Thái, có thể có Hoa, Nhật và Ấn ngữ, và chắc còn thiếu một số sách viết bằng các ngôn ngữ khác nữa. Dĩ nhiên người ta chưa nói đến hàng trăm tác phẩm của chính Einstein về khoa học và toán học. Với sự bùng phát của các website trên internet cũng có hàng trăm website chỉ chuyên đề cập tới Enstein.
    Nhưng tất cả những công trình khám phá, những hào quang nói trên chưa đủ để người ta quyết định chọn Einstein là nhân vật số một của thế kỷ, căn cứ trên cái tiêu chuẩn: ??omost influenced the course of history over the past 100 years ??" ảnh hưởng nhất trong dòng lịch sử của 100 năm qua.??? Để có những dữ kiện đầy đủ hơn, chúng ta hãy lược qua đôi dòng tiểu sử, công nghiệp, ảnh hưởng của những khám phá, và đặc biệt là những tư tưởng của ông, bao trùm và làm lay chuyển nhiều nền tảng, trên hầu hết mọi lãnh vực khoa học, tư tưởng đời sống, tâm lý, tôn giáo, chính trị, kinh tế, v.v..

    2. Gia thế và những năm tháng đầu về nghề nghiệp của Einstein.
    Einstein sinh năm 1879 trong một gia đình Đức nhưng gốc Do Thái. Năm 1980 cha ông, Hermann Einstein , và chú ông, Jakob Einstein, di chuyển từ Ulm tới Munich để mở một cơ sở kinh doanh về nghề điện. Tại Munich ông được cho theo học một trường rất chặt chẽ về kỷ luật, và trong thời gian đó ông chưa có gì tỏ lộ là người có khả năng siêu việt cả. Còn mẹ ông thì lại muốn ông phải học về vĩ cầm. Dù về sau ông cũng trở thành một tay vĩ cầm có hạng, nhưng suốt đời ông chỉ chơi vĩ cầm hoàn toàn với mục đích giải trí mà thôi. Hai người chú của ông lại chính là hai kẻ đã khơi động cho ông những thiên năng mà ông sẽ trở thành khoa học gia bất tử về sau: Jakob kích thích sự ham mê về toán học, và người chú khác, Casar Koch, thì kích thích trí tò mò của ông về khoa học.
    Năm 12 tuổi Einstein quyết định dùng tài năng của mình để thiên hẳn về sự giải quyết những kỳ lạ của vũ trụ. Ba năm sau, vì có điểm rất xoàng về 3 bộ môn sư ký, địa lý và ngôn ngữ, ông rời trường học, không có bằng cấp, và đến Milan đoàn tụ với gia đình, lúc đó cha ông đã di chuyển gia đình ông sang Milan sau khi công việc thương mại ở Đức thất bại. Einstein tiếp tục theo học 4 năm ở Thụy Sĩ, đặc biệt chú trọng về toán học và vật lý ở ??oHàn Lâm Viện Bách Khoa Liên Bang??? tại Zurich. Sau khi tốt nghiệp vào mùa xuân năm 1900 ông trở thành công dân Thụy Sĩ, làm nghề dạy toán (2 thánng) rồi làm nhân viên khảo sát bằng sáng chế cho văn phòng của viện này ở Bern. Năm 1903 ông lập gia đình với người bạn cùng học và cũng là người yêu của ông, ở đại học đó, là Mileva Maric.
    Đầu năm 1905 ông cho in luận án ??oMột xác định mới về kích thước của phân tử??? trên nguyệt san chuyên về khoa vật lý nổi danh bằng Đức ngữ ??oAnnalen der Physik??? và ông đã nhận được bằng tiến sĩ của đại học Zurich. Cùng trong năm ấy, thêm 4 tác phẩm khác nữa của ông đăng trên tờ Annalen, và chính 4 tác phẩm này đã làm thay đổi vĩnh viễn cái nhìn của con người về vũ trụ.
    Trong khoảng thời gian làm việc cho cơ quan khảo sát bằng sáng chế, và sau đó là dậy ở trường Bách Khoa ở Zurich, ông có những tháng năm sống hạnh phúc với gia đình và hai người con là Hans và Edward Einstein .
    Tháng 4 năm 1914, gia đình ông di chuyển tới Berlin, tại đó ông nhận chức vụ trong Hàn Lâm Viện của nước Phổ. Vợ ông và 2 người con đi nghỉ mát ở Thụy Sĩ rồi vì đệ nhật thế chiến nên bị kẹt lại, chuyện này ít năm sau dẫn đến việc ông ly dị với bà vợ. Trong thời gian này ông khám phá ra nhiều thuyết mới , quan trong nhất là thuyết Tương Đối tổng quát , trong đó ông làm đảo lộn một quan điểm đã được chấp nhận từ lâu của Newton cho rằng ??ogravity??? là một hấp lực. Ông lập định rằng: ??ogravity: không phải là một hấp lực mà là một ??otrường hình cung??? trong một khung cảnh ??okhông gian??"thời gian??? tạo nên bởi sự hiện diện của trọng khối.
    Lý thuyết này của ông , tháng 11 năm 1919 một nhóm khoa học gia của hội Khoa học gia thuộc Hoàng Gia Anh Quốc ở Luân Đôn đã nhân vụ nhật thực ngày 29 tháng 5 năm đó, ở Vịnh Guinea, tính toán, và kiểm chứng hoàn toàn cẩn thận những điều chính Einstein đã phát biểu trước qua lý thuyết Tương Đối tổng quát của ông. Kết quả của thí nghiệm kiểm chứng đó khiến người ta đã thán phục, coi ông như là thiên tài vĩ đại nhất của thế giới vào lúc đó. Cùng năm đó ông lấy Elsa, người vợ thứ hai của ông.
    Ông cũng bắt đầu dùng uy tín của mình để tranh đấu cho ý niệm về hòa bình, ông chỉ trích thái độ mang tính quốc gia cực đoan ở Đức. Trong suốt 3 năm, ông di chuyển không ngừng, đi hầu hết khắp nơi, từ thủ đô các nước ở Âu hâu, tới Á châu, Trung Đông, và Nam Phi để vận động cho vấn đề này. Năm 1921 trong khi đang ở Thượng Hải, ông được thông báo là đã được trao giải Nobel về vật lý qua căn cứ vào ??othuyết quang điện và những tác phẩm của ông trong lãnh vực vật lý lý thuyết.???
    Từ năm 1920 ông có cao vọng khám phá một lý thuyết bao hàm tính phổ quát của vật chất và năng lượng vào một phương trình hay một công thức giản dị mà ông gọi là thuyết Thống Nhất (Unified Field Theory). Thuyết này, cho tới khi ông mất, ngày 18 tháng 4 năm 1955, vẫn còn là một thuyết chưa có kết quả cụ thể.

    3. Nhân vật số một của thế kỷ.
    Là khoa học gia ưu việt số một của thế kỷ, những tiêu chuẩn của thời đại ??" bom nguyên tử, thuyết ??obig bang,??? vật lý về hạt nhân, và điện tử ??" tất cả đều mang những dấu ấn sâu đậm của ông. Điều khiến người ta lạ lùng là về tính giản dị của con người siêu việt đó. Tỉ dụ như ông tham dự vào những vụ dùng cà vạt và bí tất để trao đổi áo lót hay quần lót bị nhậy cắn. Hoặc nói những câu như ??okhoa học sẽ tuyệt vời nếu người ta không phải bám vào nó mà kiếm sống.???
    Những tư tưởng của Einstein, cũng như của Darwin, vượt quá lãnh vực khoa học, mà ảnh hưởng cả tới những lãnh vực văn hóa, như hội họa và thi ca. Lúc đầu, ngay cả nhiều khoa học gia cũng không hiểu thuyết Tương Đối, người ta hỏi Arthur Edington, một vật lý gia thiên thể học (astrophysics) , người có tinh thần dí dỏm cao độ: ??ongười ta nói là lúc đầu chỉ có 3 người hiểu được thuyết Tương Đối của Einstein thôi, có đúng vậy không???? Ông Edington đã trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi chậm rãi đáp: ??otôi đang suy nghĩ không biết ai là người thứ 3 đây!???.
    Khi đảng Quốc Xã lên cầm quyền ỡ Đức, Einstein bị buộc phải rời Đức, và nhận một chức vụ dạy ở viện Khảo Cứu Cao Cấp thuộc đại học Princeton, tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ. Khi hỏi về lương bổng thì Einstein, một người rất ngây thơ về tài chính, chỉ đòi số lương $3000, trong số đó ông lại phải trao $1600 cho Elsa (người vợ sau của ông và cũng đã ly dị).
    Khi được khoa học gia người Hung Gia Lợi, Leo Szilard, thông báo là người Đức có thể tìm cách chế tạo bom Nguyên Tử, Einstein đã viết cho tổng thống F.D. Rosevelt một lá thư đề cập tới chuyện này, dù rằng ông chẳng biết gì về sự mới phát triển của khoa vật lý nguyên tử .
    Sau này, khi biết sự tàn phá của bom nguyên tử đối với hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật ông đã hết sức ngậm ngùi, đau khổ. Sau đệ nhị thế chiến Einstein càng trở nên mạnh mẽ vận động cho việc cấm sử dụng võ khí nguyên tử.
    Về vấn đề võ khí nguyên tử, nhiều người thường gán cho ông là cha đẻ ra bom nguyên tử, nhưng thực ra ông chỉ là cha đẻ ra công thức lừng danh E=m*c2 mà căn cứ vào đó các nhà khoa học khác, như Openhomer, đã làm ra bom nguyên tử. Về vấn đề này, trước sau cả thảy ông gửi cho tổng thống Hoa Kỳ DFR 4 lá thư (xin xem bản Anh ngữ của 4 lá thư này trong phần tài liệu của Thanh Nghị số này.)
    Sau đệ nhị Thế Chiến ông trở nên người vận động và tuyên bố mãnh liệt về việc cấm làm võ khí dùng nguyên tử năng. Ngoài sự vận động cấm thực hiện vũ khí nguyên tử, ông còn lên án kịch liệt chính sách chống Cộng quá khích ở Hoa Kỳ (McCarthyism) và hỗ trợ vận động chấm dứt sự tin tưởng mù quáng vào vấn đề chủng tộc.
    Khi chiến tranh lạnh đạt tới mức cao độ, những phát biểu của vị giáo sư lừng danh dường như có ý nhĩa rất nhiều, tuy đôi khi có vẻ chất phác. Tạp chí ??oLife??? thời gian đó đã liệt kê tên ông vào danh sách 50 vị lừng danh ??odu hành và bị lừa bịp.???
    Cassidy viết: ??o Ông ta có một ý niệm đạo đức thẳng băng mà những người khác không thể thấy, ngay cả những nhà đạo đức khác.??? Gerald Holton, nhà vật lý kiêm sử gia, thêm vào: ??oNếu những ý niệm của Einstein là thô thiển thì thế giới ngày nay thực tình sẽ ở trong một hình trạng tồi tệ.??? Thực ra, Holton cho rằng những thiên khiếu về dân chủ và bản năng của Einstein là ??omột mẫu mực chính trị lý tưởng cho thế kỷ thứ 21,??? sự biểu hiện tốt nhất của thế kỷ này cũng như những hy vọng cao nhất cho thế kỷ tới, chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn nơi một người là hiện thân của 100 năm qua?
    Kết luận, và kết quả thì chúng ta đề đã biết rồi: ??o trong những vĩ nhân của thế kỷ 20, ai là người xứng đáng hơn Einstein để được tuyên dương là NHÂN VẬT của THẾ KỶ 20?
  9. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    CHA ĐỠ ĐẦU CỦA KỶ NGUYÊN NGUYÊN TỮ:
    ALBERT EINSTEIN: Thuyết tương đối
    Hoài Châu và Từ Huệ dịch
    (từ tác phẩm ??oBooks that changed the world??? của Robert B Downs, ấn bản đầu tiên, năm 1956)
    Albert Einstein là một trong số rất ít những nhân vật trong lịch sử, mà ngay khi còn sống đã trở thành một vị anh hùng huyền sử. Tư tưởng của ông càng bí hiểm, người đời lại càng muốn hiểu và tưởng tượng tiếng nói của ông ở từ thượng đỉnh núi Olympia vang lại. Bertrand Russel đã nhận xét rất đúng: ??oAi cũng biết Einstein đã làm được những công chuyện kỳ lạ, nhưng rất ít người biết đó là công chuyện gì???. Cho rằng, mặc dầu là không đúng hẳn, trên thế giới này hiếm ra thì có chừng một tá người hiểu được trọn lý thuyết của Einstein về vũ trụ, sự kiện này đã thách thức và kích thích hàng ngàn nếu không là hàng triệu người quyết tâm cố tìm biết xem nhà toán học phù thủy đó đã nói những gì.
    Einstein khó hiểu là vì phạm vi tư tưởng của ông vô cùng rộng lớn và phức tạp. T.E. Bridges đã nhắc đến một nhà khoa học Anh, từng viết rằng:
    Học thuyết của Einstein phối hợp sự kiện vật lý với sự kiện toán học và chỉ có thể giải thích bằng toán học. Muốn hiểu học thuyết của Einstein không thể không có một trình độ toán học rất cao???.
    George W. Gray cũng nói tương tự:
    ??oEinstein trình bày thuyết tương đối bằng danh từ toán học, vì vậy nên rất khó trình bày thuyết này bằng một thứ danh từ nào khác. Nếu trình bày thuyết Tương Đối bằng danh từ thông thường thì chẳng khác gì dùng độc chiếc kèn Saxophone để dạo khúc hòa tấu số 5 của Beethoven???.
    Tuy nhiên có lẽ có một vài nét trong vũ trụ quan của Einstein có thể diễn đạt bằng danh từ thông thường mà không cần đến danh từ số hệ toán học. Đây thật là một thứ thế giới kỳ ảo, làm đảo lộn những tư tưởng bắt rễ hàng bao thế kỷ nay , ??omột món hổ lốn (I) lạ lùng rất khó tiêu đối với nhiều người???. Einstein bắt chúng ta tin những điều khó tin, thí dụ như : không gian hình cong, đường ngắn nhất nối liền hai điểm không phải là đường thẳng, vũ trụ có hạn nhưng không có biên giới, hai đường song song cuối cùng sẽ gặp nhau, tia sáng đi theo đường cung, thời gian có tính cách tương đối và mỗi nơi phải đo một cách, phải đo chiều dài tùy theo tốc độ, vũ trụ không phải là hình cầu mà là hình ống, một vật thể chuyển động thì kích thước co rút lại, nhưng khối lượng lại tăng thêm, thời gian là chiều thứ tư thêm vào ba chiều cao, dài và rộng.
    Những đóng góp của Einstein cho khoa học nhiều không kể xiết, nhưng trước hết phải kể đến thuyết tương đối mà theo lời Banesh Hoffman ??ocó một tính cách vĩ đại để đặt Einstein ngang hàng với những đại khoa học gia của mọi thời đại như Isaac Newton và Archimède. Những nghịch lý mê hoặc và những thành công rực rỡ đã kích động mãnh liệt trí tưởng tượng của mọi người???.
    Cuộc cách mạng của Einstein bắt đầu vào năm 1905, tức là năm tờ Chuyên San Vật lý Học ở Đức Annalen der Physik đăng một bài dài chừng 30 trang với cái nhan đề tầm thường là ??oĐộng điện của những vật thể chuyển động???. Năm đó Einstein mới có 26 tuổi và là một công chức tầm thường trong nha sở cấp bằng sáng chế ở Thụy Sĩ. Einstein sinh trong một gia đình Do Thái trung lưu ở Ulm, Bavaria vào năm 1879. Khi còn nhỏ không có cái gì chứng tỏ ông là ??othần đồng???, ngoại trừ môn toán học. Vì hoàn cảnh gia đình, nên năm 15 tuổi, Einstein phải sống tự lập. Sau này di cư sang Thụy Sĩ, Einstein theo học khoa học tại trường Đại học Bách khoa ở Zurich, thành hôn với một bạn sinh viên và trở nên công dân Thụy Sĩ. Không thực hiện được giấc mộng làm giáo sư đại học để kiếm sống, Einstein phải nhận làm công chức có nhiệm vụ thảo báo cáo và viết lại những đơn từ của các nhà sáng chế gửi cho cơ quan cấp bằng sáng chế. Thời giờ rảnh, Einstein nghiên cứu rộng rãi các tác phẩm của các nhà triết học, khoa học và toán học. Rồi chẳng bao lâu ông đã chuẩn bị đầy đủ để tung ra một loạt những đóng góp tân kỳ cho khoa học, những đóng góp sẽ có những vang dội rộng lớn sau này.
    Trong tác phẩm năm 1905, Einstein tung ra thuyết Tương Đối Đặc Biệt làm rung chuyển quan niệm chung về không gian, thời gian, vật chất và năng lượng. Toàn bộ thuyết tương đối này dựa vào hai giả thuyết cốt cán. Giả thuyết thư nhất là: mọi sự chuyển động đều có tính cách tương đối. Để có ý niệm cụ thể về nguyên tắc này người ta thường hay lấy thí dụ một người ngồi trong toa xe hỏa đang chạy. Nếu tất cả các cửa đều đóng kín tối như bưng và nếu ít có cả chuyến thì người ngồi trên xe không có ý thức gì về tốc độ và phương hướng và có lẽ không biết cả xe đang chạy nữa. Một người đi tàu thủy, nếu các cửa cũng đóng kín cũng ở trong tình trạng tương tự. Chúng ta quan niệm sự chuyển động một cách tương đối với các vật khác. Ngay cả trái đất quay chúng ta cũng không nhận thấy, nếu không có những tinh cầu khác để so sánh.
    Giả thuyết trụ cột thứ hai của Einstein là: Tốc độ của ánh sáng không bị lệ thuộc vào sự chuyển động của nguồn sáng. Tốc độ của tiasáng bao giờ cũng là 186.000 dặm một giây đồng hồ, bất kỳ ở nơi nào trong vũ trụ, bất kỳ giờ nào và phương hướng nào. Tia sáng xuyên qua trong chiếc xe hỏa đang chạy cũng có một tốc độ ngang với tốc độ tia sáng chạy ở ngoài chiếc xe. Không có một mãnh lực nào có thể làm tăng hay giảm tốc độ của tia sáng. Hơn nữa, không có vật thể nào, tốc độ nào vượt được tốc độ của ánh sáng, chỉ có tốc độ điện tử mới suýt soát với tốc độ của ánh sáng. Như vậy ánh sáng là thực thể độc nhất trong vũ trụ không bao giờ biến đổi.
    Cuộc thí nghiệm nổi tiếng do hai nhà khoa học Mỹ Michelson và Morley thực hiện vào năm 1887 đã là nền tảng thuyết của Einstein về ánh sáng. Để đo tốc độ của ánh sáng cho đúng một cách tuyệt đối, hai nhà khoa học đã chế ra một hệ thống máy móc như sau: Hai đường ống, mỗi đường ống dài chừng một dặm được đặt thẳng góc với nhau. Đường ống thứ nhất đặt theo chiều hướng trái đất quay chung quanh mặt trời, và đường ống thứ hai ngược lại với chiều quay của trái đất. Ở đầu mỗi một đường ống có một tấm gương rồi cùng một lúc chiếu vào cả hai đường ống một chùm ánh sáng. Thời đó người ta tin rằng chỗ nào trống không, là có khí éther, và nếu thuyết này đúng thì một tia sáng sẽ chạy theo đường ống như người bơi ngược chiều, và một tia sáng khác sẽ chạy theo đường ống như người bơi xuôi chiều. Nhưng sau cuộc thí nghiệm, mọi người đều ngạc nhiên thấy rằng cả hai chùm tia sáng cùng đội ngược lại và đúng một lúc như nhau. Thí nghiệm đó được coi là một thất bại.
    Thuyết của Einstein tung ra năm 1905 để trả lời những thắc mắc của Michelson, Morley và các nhà vật lý học khác. Trong các khoảng trống không, không có khí éther, và cuộc thí nghiệm với hai đường ống đã đo rất đúng tốc độ của ánh sáng. Căn cứ vào thí nghiệm này, Einstein đã suy diễn ra điểm quan trọng là tốc độ của ánh sáng không bao giờ thay đổi dù đo dưới điều kiện nào và sự chuyển động của trái đất quay chung quanh mặt trời cũng không có ảnh hưởng gì đến tốc độ của ánh sáng.
    Trái với Newton, Einstein xác định rằng không làm gì có sự chuyển động tuyệt đối. Quan niệm có vật thể chuyển động một cách tuyệt đối trong không gian là một điều vô lý. Sự chuyển động của vật thể này tương đối với sự chuyển động của vật thể khác.
    Trạng thái của mọi vật thể là chuyển động ở trên mặt đất và ở khắp cả trong vũ trụ, không có một vật thể nào là tuyệt đối im lặng. Trong vũ trụ động, từ vật thể nhỏ như nguyên tử đến những giải thiên hà bát ngát, sự chuyển động là trạng thái vĩnh cửu. Trái đất quay chung quanh mặt trời với tốc độ là 20 dặm một giây đồng hồ. Trong vũ trụ tất cả đều chuyển động, và không có cứ điểm đứng im lặng một chỗ, thì làm gì có tiêu chuẩn để đo tốc độ, chiều dài, kích thước, khối lượng và thời gian, ngoại trừ đo với sự chuyển động tương đối. Chỉ có ánh sáng là tuyệt đối, vì tốc độ của ánh sáng lúc nào cũng là 186.000 dặm một giây đồng hồ, bất kể nguồn sáng, bất kể vị trí quan sát, đúng như cuộc thí nghiệm Michelson ??" Morley đã chứng tỏ.
    Trong số những quan niệm của Einstein về vũ trụ, quan niệm về sự tương đối của thời gian là đi ngược với tư tưởng cổ truyền, và khó hiểu hơn cả. Einstein chủ trương rằng: những biến chuyển xảy ra ở nhiều nơi khác nhau có thể xảy ra cùng một lúc đối với kẻ này, nhưng xảy ra khác lúc đối với kẻ khác ở một vị trí chuyển động tương đối với người trước. Thí dụ như hai biến cố xảy ra cùng một lúc đối với kẻ quan sát đứng trên đất, có thể xảy ra khác lúc, đối với một kẻ quan sát đi xe hỏa hay đi máy bay. Thời gian không tuyệt đối, mà là tương đối với vị trí và tốc độ của người quan sát. Áp dụng thuyết này để nhận định vũ trụ, người ta thấy rằng một biến cố, thí dụ như một vụ nổ xảy ra ở trên một tinh cầu xa lắc, không cùng xảy ra một lúc đối với người quan sát ở ngay trên tinh cầu đó và người quan sát ở trên mặt đất. Một biến cố diễn ra ở trên một tinh cầu xa lắc có thể hàng năm mới chuyển hình ảnh được tới mặt đất, mặc dầu ánh sáng chạy với tốc độ 186 ngàn dặm một giây đồng hồ. Vì tinh tú ta quan sát hôm nay chỉ là vì tinh tú của những bao nhiêu năm về trước, và có thể là tinh tú ấy không còn nữa.
    Theo thuyết tương đối của Einstein thì người ta có thể đuổi theo kịp quá khứ và sinh ở tương lai nếu người ta có tốc độ vượt ánh sáng. Mỗi tinh cầu chuyển động có một hệ thống thời gian riêng khác hẳn mọi tinh cầu khác. Một ngày ở trên trái đất chỉ là thời gian đủ để trái đất quay một vòng trên trục của nó. Mộc tinh mất nhiều thời giờ hơn trái đất để quay chung quanh mặt trời, vì vậy một năm ở trên Mộc Tinh dài hơn một năm trên trái đất. Tốc độ càng nhanh, thời gian càng chậm. Chúng ta đều quen nghĩ rằng mọi vật thể đều có ba chiều, nhưng Einstein chủ trương rằng thời gian cũng là một chiều của không gian,và không gian cũng là một chiều của thời gian. Thời gian và không gian không thể tách rời nhau được. Mọi vật luôn luôn chuyển động, cho nên quan niệm của Einstein, chúng ta sống trong một vũ trụ có bốn chiều mà thời gian là chiều thứ tư.
    Nói tóm lại tiền đề căn bản của thuyết Einstein trình bày lần đầu tiên nửa thế kỷ trước đây là lẽ tương đối của mọi sự chuyển động và tính cách tuyệt đối độc nhất của ánh sáng.
    Triển khai nguyên tắc tương đối của mọi sự chuyển động, Einstein còn làm sụp đổ một quan niệm vững chắc xưa cũ khác. Từ trước người ta vẫn tin rằng chiều dài và khối lượng trong mọi trường hợp có thể quan niệm được vẫn là tuyệt đối và không thể thay đổi. Bây giờ Einstein chủ trương rằng khối lượng hay là trọng lượng cùng chiều dài của một vật thể tùy thuộc tốc độ của vật thể đó. Einstein đưa ra thí dụ một đoàn xe lửa dài một ngàn bộ chạy với tốc độ 4 phần 5 tốc độ của ánh sáng. Đối với người đứng yên một chỗ thì đoàn xe chạy chỉ còn dài có 600 bộ, nhưng đối với người ngồi trên xe thì đoàn xe vẫn dài đủ 1000 bộ. Tương tự như đoàn xe, một vật thể chuyển động trong không gian cũng đều rút ngắn lại tùy theo tốc độ. Một chiếc gậy dài một 100 mã, nếu phóng lên không gian với tốc độ 161.000 dặm một giây đồng hồ, sẽ co rút lại chỉ còn dài có nửa mã. Trái đất vì xoay quanh trục nên chu vi cũng co rút lại chừng sáu phân mét .
    Khối lượng cũng có thể thay đổi. Tốc độ càng nhanh thì khối lượng của một vật thể càng tăng. Nhiều cuộc thí nghiệm đã chứng tỏ rằng vật thể bắn lên không gian với tốc độ lên tới tám mươi sáu phần trăm tốc độ ánh sáng, cân nặng gấp đôi đối với khi còn đặt yên dưới đất. Sự kiện này có hậu quả quan trọng trong công cuộc phát triển năng lực nguyên tử sau này.
    Thuyết tương đối Einstein trình bày năm 1905 được gọi là ??oLý thuyết đặc biệt về sự tương đối??? vì chỉ áp dụng riêng đối với sự chuyển động đều theo đường thẳng và không áp dụng đối với những sự chuyển động khác. Tuy nhiên, trong vũ trụ chúng ta, những tinh tú, những hành tinh và những thiên thể rất ít khi chuyển động đều theo đường thẳng. Mỗi lý thuyết phải bao gồm được đủ mọi thứ chuyển động, mới đủ để mô tả vũ trụ. Vì lẽ đó nên Einstein đã phải dành mười năm để cấu tạo nên ??oLý Thuyết Tổng Quatù Về Sự Tương Đối???, trong đó ông nghiên cứu cái sức mạnh huyền bí đã hướng dẫn sự chuyển động của các tinh tú, sao chổi, vẩn thạch, thiên hà và những vật thể khác quay cuồng trong khoảng không gian bát ngát.

    Trong ??olý thuyết Tổng Quát Về Sự Tương Đối??? công bố năm 1915, Einstein đề ra một quan niệm mới về hấp lực, đảo lộn hẳn những quan niệm về trọng lực và ánh sáng được người ta chấp nhận từ thời Sir Issac Newton. Trọng lực Newton cho là một ??osức mạnh???. Nhưng khác với Newton, Einstein chứng tỏ rằng khoảng không gian ở chung quanh một hành tinh hay một thiên thể khác, là một trường trọng hấp tương tự như từ trường ở chung quanh đá nam châm. Những vật thể lớn như mặt trời, các vì tinh tú đều tỏa ra chung quanh một trường trọng hấp rất rộng. Địa cầu và nguyệt cầu hút nhau là vì vậy. Thuyết trường trọng hấp còn giải thích những chuyển động sai lạc của Kim Tinh, một hành tinh gần mặt trời nhất, những chuyển động làm vỡ óc các nhà thiên văn học từ bao thế kỷ nay và là một trường hợp ngoại lệ đối với định luật hấp lực của Newton. Trường trọng hấp các tinh tú có sức cực mạnh có thể bẻ cong tia sáng được. Vào năm 1919, tức là mấy năm sau khi thuyết Tổng Quát Về Tương Đối được tung ra đời, những bức hình chụp được trong một vụ nhật thực đã xác nhận thuyết của Einstein: những tia sáng đi theo đường cong, chứ không phải đường thẳng qua trường trọng hấp của mặt trời.
    Từ tiền đề đó Einstein suy diễn ra rằng: không gian có hình cong. Chịu ảnh hưởng của mặt trời, các hành tinh quay theo những đường ngắn nhất, tương tự như một con sông chảy ra biển, tùy theo cảnh thổ chảy theo những đường tự nhiên nhất, dễ chảy nhất. Trong phạm vi địa cầu, một con tầu hay một chuyến phi cơ vượt biển, đi theo không phải đường thẳng mà là đường cong nghĩa là cung của một vòng tròn. Hiển nhiên là đường gần nhất giữa hai điểm không phải là đường thẳng mà là đường cong. Định luật này còn đúng cả đối với những sự chuyển động của hành tinh hay tia sáng.
    Nếu chấp nhận thuyết không gian có hình cung, phải đương nhiên chấp nhận thuyết không gian hữu hạn. Ví dụ, một tia sáng xuất phát từ ở một vì sao, sau hàng triệu năm ra đi, vẫn sẽ trở về nguồn sáng cũ, chẳng khác gì nhà du lịch đi vòng quanh thế giới. Vũ trụ không phải là diễn ra bất tận trong không gian, mà có những giới hạn tuy không thể thiết định được những giới hạn này.
    Trong số những khám phá vĩ đại của Einstein về khoa học, đóng góp của ông cho công cuộc nghiên cứu về nguyên tử là có tác dụng trực tiếp và sâu rộng nhất đối với thế giới ngày nay. Ít lâu sau khi tờ chuyên san vật lý học tung ra thuyết tương đối vào năm 1905, Einstein còn cho đăng ở báo này một bài báo ngắn có tầm vang dội rất lớn, nhan đề là ??oquán tính của một vật thể có tùy thuộc vào năng lực của vật thể đó không???? Einstein xác định rằng: ít ra là trên lý thuyết năng lực nguyên tử có thể sử dụng được. Sức mạnh khủng khiếp của nguyên tử có thể được giải tỏa theo một phương trình do Einstein đề ra: E = mc2 nghĩa là: Năng lực bằng khối lượng nhân với bình phương tốc độ của ánh sáng. Nói một cách cụ thể, Einstein cho rằng; Trong nửa cân Anh của bất kỳ chất gì đều có chứa một chất năng lực tương đương với sức mạnh của bảy triệu tấn TNT. Một nhà bình luận đã nhận xét rằng: Nếu không có phương trình của Einstein ??ocác nhà khoa học vẫn có thể mò mẫm tách được nguyên tử Uranium, nhưng không chắc các nhà khoa học đó đã hiểu đây là một nguồn năng lượng, khủng khiếp, vật liệu của những trái bom khủng khiếp .???
    Trong phương trình nổi danh E = mc2, Einstein đã chứng tỏ năng lượng và khối lượng chỉ là một vật thể, ở hai trạng thái khác nhau và khối lượng chính là năng lượng đặc lại. Barnett đã nhận định rất đúng là phương trình E = mc2 ??ođã giải thích được rất nhiều điểm về vật lý học, từ bao lâu nay vẫn còn là những điểm bí mật. Phương trình đã giải thích tại sao chất quang tuyến phản xạ như radium và uranium lại có thể liên tiếp trong hàng triệu năm bắn ra những tia li-ti chạy với tốc độ khủng khiếp. Phương trình còn giải thích tại sao mặt trời và các vì tinh tú lại có thể tuôn ánh sáng và sức nóng trong hàng tỷ tỷ năm, vì nếu mặt trời chỉ có lửa theo lối thông thường thì trái đất của chúng ta đã phải chết trong bóng tối tăm u lạnh từ hàng triệu năm rồi. Phương trình còn cho chúng ta thấy năng lượng ghê gớm chứa chất ở nhân nguyên tử và tiên đoán chỉ cần một số lượng rất nhỏ chất uranium cũng đủ để tạo ra một trái bom có thể phá tan cả một thành phố??????
    Cho mãi đến năm 1939 phương trình của Einstein vẫn còn là lý thuyết. Vào năm đó, sau khi bị Đức quốc xã trục xuất ra khỏi Âu Châu, Einstein sang Hoa Kỳ rồi ít lâu sau ông nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Einstein được tin Đức quốc xã đang lùng để nhập cảng Uranium và đang nghiên cứu về bom nguyên tử, ông liền viết cho Tổng Thống Roosevelt một bức thư tối mật:
    ??oNhững công cuộc nghiên cứu mới đây của E. Fermi và L. Szilard mà bản thảo đã được gửi tới tôi, khiến tôi nghĩ rằng trong tương lai rất gần chất Uranium có thể biến thành một nguồn năng lượng mới mẻ và quan trọng???
    Hiện tượng mới này còn có thể dẫn tới việc chế tạo bom, và có thể tin rằng ??? chỉ một trái bom loại đó, mang dưới tầu và cho nổ ở hải cảng có thể tàn phá toàn thể hải cảng và các vùng phụ cận.???
    Kết quả tức khắc bức thư của Einstein gửi cho Roosevelt là việc khởi công xây cất dự án bom nguyên tử Manhattan. Năm năm sau, trái bom nguyên tử đầu tiên được đưa ra thử ở Almagordo Reservation thuộc New Mexico và ít lâu sau Hoa Kỳ thả bom nguyên tử tàn phá Hiroshima, để sớm kết liễu chiến tranh Nhật Bản.
    Bom nguyên tử là một trong những kết quả thực tế vang dội nhất của lý thuyết Einstein. Tuy nhiên người ta vẫn còn phải kể đến một kết quả thực tế khác nữa. Vào năm 1905, năm thuyết tương đối ra đời, các nhà khoa học triển khai định luật về Điện ảnh học (Photoelectric Law) của Einstein, để giải thích những tác động điện ảnh huyền bí và do đó mở đường cho vô tuyến truyền hình, chiếu bóng nói, ??ocon mắt thần??? cùng những áp dụng khác. Chính vì khám phá này nên Einstein đã được trao tặng phần thưởng Nobel về vật lý học vào năm 1922.
    Trong những năm về cuối đời, Einstein vẫn không ngừng nỗ lực xây dựng Thống Nhất Trường Thuyết (Unified Field Theory) nhằm chứng minh tính cách hòa hợp và đồng nhất của tạo vật. Theo Einstein những định luật về vật lý học chi phối nguyên tử nhỏ bé cũng có thể áp dụng đối với những vật thể lớn lao trong không gian. Do đó Thống Nhất Trường Thuyết của Einstein giải thích được mọi hiện tượng vật lý theo một khuôn mẫu cố định. Hấp lực, điện lực, từ lực và nguyên tử lực tất cả đều là những năng lực có thể giải thích được bằng một lý thuyết duy nhất . Vào năm 1950, sau gần nửa đời nghiên cứu Einstein lần đầu tiên trình bày Thống Nhất Trường Thuyết của ông trước thế giới. Ông ngỏ ý tin rằng thuyết này nắm giữ được chìa khóa của vũ trụ, thống nhất trong một quan niệm, từ thế giới cực nhỏ và quay cuồng của nguyên tử đến không gian mênh mông của các tinh cầu. Vì những khó khăn về toán học cho nên thuyết của Einstein vẫn chưa được những sự kiện vật lý học kiểm chứng toàn bộ. Tuy vậy Einstein vẫn vững tin rằng Thống Nhất Trường Thuyết của ông giải thích được ??otính chất nguyên tử của năng lực??? và chứng minh được sự hiện hữu của một vũ trụ có sắp đặt rất trật tự.
    Tư tưởng triết lý đã gây cảm hứng và hướng dẫn Einstein qua bao nhiêu năm lỗ lực, và những phần thưởng của những nỗ lực đó, đã được Einstein trình bày trong bài giảng về nguồn gốc lý thuyết tổng quát về Tương Đối tại trường Đại Học Glasgow năm 1933.
    ??oKết quả cuối cùng rất giản dị, bất kỳ một sinh viên thông minh nào cũng có thể hiểu được một cách dễ dàng. Nhưng chỉ có thể hiểu được sau khi trải qua. Những năm âm thầm tìm kiếm một sự thật mà người ta chỉ cảm thấy chứ không thể nói lên được, chỉ có thể hiểu được điều đó khi lòng ham muốn nồng nhiệt, vì khi đã trải qua những giai đoạn tin tưởng rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi tin tưởng cho tới một lúc nào đó, bừng hiểu rõ được sự thật sáng sủa???.
    Trong một dịp khác, Einstein đã bộc lộ cá tính tinh thần của ông:
    ??oCảm xúc đẹp nhất và sâu xa nhất của con người là cảm xúc trước sự huyền bí. Chính cảm xúc này đã khiến cho khoa học chân chính được nẩy nở. Những kẻ không còn có những cảm xúc đó, không còn biết ngạc nhiên và chỉ biết đứng ngẩn người ra vì sợ hãi thì sống cũng như chết mà thôi. Biết điều huyền bí mà con người không thể sao hiểu nổi, là vì nó chỉ biểu lộ ra khi mà tư chất đáng buồn của chúng ta chỉ hiểu được những hình thức đơn nguyên hơn hết của cái khôn ngoan ở cao độ hơn hết và cái vẻ đẹp rạng rỡ hơn hết, chính sự biết đó và cảm xúc đó đã là nền tảng thực của tôn giáo???.
    Những nhà khoa học tán dương Einstein không kể xiết. Chúng ta hãy đọc hai tác phẩm đã viết về Einstein, để hiểu địa vị độc nhất của ông trong khoa học giới. Paul Oehser viết:
    ??oĐối với Albert Einstein người ta không thể nói đến ảnh hưởng. Phải gọi những lý thuyết của ông là cách mạng vì đã mở ra kỷ nguyên nguyên tử. Kỷ nguyên này sẽ đưa nhân loại đến đâu chúng ta không thể biết. Nay chúng ta chỉ biết rằng Einstein là một nhà khoa học, nhà triết học vĩ đại nhất của thế kỷ. Trước mắt chúng ta Einstein có dáng dấp một thánh nhân mà những công trình đã khiến cho chúng ta thêm tin tưởng ở tinh thần con người. Ông còn là hình ảnh bất diệt của con người luôn luôn tìm hiểu.???
    Một nhà khoa học Banesh Hoffman đã kết luận như sau:
    ??oEinstein vĩ đại không hẳn vì những tư tưởng khoa học mà còn vì tác dụng tâm lý. Trong một giai đoạn nghiêm trọng của lịch sử khoa học, Einstein đã chứng minh rằng, những tư tưởng xưa không hẳn đã là thiêng liêng bất di dịch. Chính sự chứng minh đó đã mở đường cho trí tưởng tượng của những người như Bohr và De Broglie khiến họ có thể thành công trong địa hạt lượng tử. Toàn thể khoa vật lý học của thế kỷ 20 đều mang dấu vết không xóa nhòa được của thiên tài Einstein???.
  10. Milou

    Milou Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/06/2001
    Bài viết:
    7.928
    Đã được thích:
    0
    Einstein và Black Hole
    Phạm Thái Lai
    Trong thời gian trên dưới một thế kỷ qua, và nhất là trong những thập niên gần đây, các khoa học gia danh tiếng trên thế giới đã tranh luận một cách sôi nổi chung quanh những học thuyết liên quan đến sự hiện hữu của Black Hole trong vũ trụ do bác học Eistein khởi xướng. Nhiều khoa học gia nhìn nhận những Black Hole trong vũ trụ là những tụ điểm với một sức hút khổng lồ khiến cho tất cả các vật chất một khi rơi vào Black Hole đều bị nghiền nát và mật độ của vật chất dưới áp suất khổng lồ của Black Hole sẽ bị dồn nén đến mức, chỉ cần một khối lượng vật chất có thể tích nhỏ bằng một giọt nước cũng có thể có trọng lượng nặng hàng triệu tấn. Cả một chiếc tàu đi biển khổng lồ, nếu bị rơi vô Black Hole, sẽ bị dồn nén nhỏ lại bằng mũi kim. Vì có một sức hút khổng lồ vượt xa tất cả các dạng sức hút trong vũ trụ, Black Hole có khả năng đưa tất cả các vật chất bay đi với một tốc độ nhanh khủng khiếp khiến tất cả những khái niệm từng được coi là nền tảng về không gian và thời gian của con người đều bị đảo lộn. Người có công đặt nền tảng cho những học thuyết nghiên cứu về
    Black Hole trong vũ trụ chính là nhà bác học thiên tài Eistein, người vừa được tạp chí Time suy tôn là Nhân Vật Thế Kỷ 20.
    Để có thể hiểu được phần nào tài năng của Eistein cùng ảnh hưởng của Black Hole, nhân dịp xuân mới, tôi xin giới thiệu cùng độc giả một số quan điểm cùng những tiên đoán của các khoa học gia trên thế giới đối với sự hiện hữu của Black Hole, một sự hiện hữu tuy đã được tiên đoán từ lâu nhưng chỉ thực sự có vóc dáng, có hình hài một cách rõ nét trong mấy thập niên gần đây.
    * * *

    Trong khi nhiều nhà thiên văn học, nhiều nhà vật lý không gian cho rằng sự hiện hữu của Black Hole chính là sự hiện hữu của một cái gì tận cùng của vũ trụ thì trái lại, Eistein lại cho rằng, Black Hole chính là một cửa ngõ, một hành lang bí mật nối liền vũ trụ nơi con người đang sinh sống với những vũ trụ khác con người chưa khám phá.
    Cũng trong chiều hướng tranh luận về sự hiện hữu cùng những đặc tính khoa học của Black Hole trong những thập niên gần đây, các khoa học gia đột nhiên nhận thấy, những câu chuyện hoang đường, những huyền thoại, những tiểu thuyết khoa học giả tưởng về Black Hole từng được nhân loại thêu dệt qua không biết bao nhiêu thế hệ đã không còn là những đường nét ly kỳ thuần túy của trí tưởng tượng mà đã trở thành những đường nét gói ghém phần nào chân diện đích thực của Black Hole.
    Vậy thực sự Black Hole là gì? Căn cứ vào sự trình bầy của một số khoa học gia chuyên nghiên cứu về Black Hole trong thời gian nhiều thập niên qua, thì nếu sự hiện hữu của vũ trụ được nhìn nhận như là một tấm thảm khổng lồ trong không gian, Black Hole chính là một lỗ hổng trên tấm thảm khổng lồ đó. Nguyên nhân chính yếu tạo nên một Black Hole là do sự cáo chung của một vì sao trong vũ trụ. Tại vùng có Black Hole, tất cả mọi dạng vật chất, thậm chí ngay cả ánh sáng, đều bị cuốn hút với một sức mạnh mãnh liệt vô phương kháng cự. Một khi vật chất, bất kể trạng thái nào, bị cuốn hút vào trong Black Hole, mọi khái niệm về không gian như trên dưới, phải trái đều không còn hiện hữu và vai trò của thời gian cũng như không gian sẽ hoàn toàn thay đổi.
    Cũng tương tự như con người cùng vạn vật sinh sống trên trái đất dù muốn dù không cũng phải di chuyển cùng sự chuyển động của trái đất và thái dương hệ trong khái niệm thời gian tương ứng, một khi vật chất bị cuốn hút vào trong Black Hole, vật chất đó cũng sẽ bị lôi đi với một sức mạnh khủng khiếp khiến vật chất bị nát tan và sự hiện hữu của vật chất không còn trong nguyên dạng bình thường mà chỉ còn là sự hiện hữu của những electron, proton, thậm chí quark. Giống như một luồng nước xoáy khổng lồ trong cơn đại hồng thủy, chung quanh Black Hole sẽ là một vùng rộng lớn có bán kính vài cây số chịu ảnh hưởng từ sức hút khổng lồ của Black Hole nên vạn vật một khi trôi vào, lập tức sẽ bị cuốn đi với một sức hút mạnh hơn bất cứ nơi nào trong vũ trụ. Vì có một sức hút ngoại hạng như vậy nên bất cứ vật gì đã trôi trong Black Hole cũng đều bị tan nát và mọi tín hiệu điện từ hay quang phổ đều trở thành vô hiệu vì những tín hiệu đó không thể nào thoát khỏi sức hút của Black Hole.
    Trong số những nhà bác học thiên tài có công nghiên cứu về Black Hole, ta không thể không kể đến nhà bác học Albert Einstein và thuyết tương đối của ông, một học thuyết quan trọng đặt nền tảng cho một loạt những học thuyết cùng những công trình nghiên cứu tìm hiểu những bí hiểm trong vũ trụ.
    Nhưng mặc dù đông đảo các khoa học gia thừa nhận, học thuyết về Black Hole cùng những bằng chứng chứng tỏ sự hiện hữu của Black Hole trong vũ trụ là những sản phẩm của khoa học thuộc thế kỷ 20, ngay từ năm 1798, một nhà thiên văn học người Pháp tên là Pierre Laplace đã tiên đoán về sự hiện hữu của Black Hole trong vũ trụ.
    Trong một tác phẩm trình bầy những công trình nghiên cứu về vũ trụ nhan đề Exposition du Systeme du Monde Pierre Laplace đã đưa ra một học thuyết cực kỳ táo bạo và tưởng chừng như mâu thuẫn khi ông cho rằng trong vũ trụ có những vì sao con người không thể nhìn thấy không phải vì những vì sao đó không tỏa sáng mà trái lại, chính những vì sao vô hình đó lại là những vì sao chói lọi nhất, rực rỡ nhất.
    Dựa vào học thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton trong đó nhìn nhận sức hút của một vật tỷ lệ thuận với trọng lượng của vật đó, Pierre Laplace đã đưa ra một giả thuyết cho rằng, nếu một vì sao trong vũ trụ có một tỷ trọng tương tự như tỷ trọng của trái đất, sức hút của những vì sao có một khối lượng khổng lồ trong vũ trụ sẽ là một sức hút mạnh đến mức độ ngay cả ánh sáng của chính nó cũng không thể khuyếch tán trong vũ trụ.
    Vì những vì sao có một tỷ trọng như vậy sẽ là những vì sao chói lọi và rực rỡ nhất trong vũ trụ nhưng không thể tỏa sáng hậu quả từ sức hút của chính nó, Pierre Laplace đi đến kết luận, những vì sao sáng nhất trong vũ trụ lại chính là những vì sao vô hình, không tỏa sáng. Mặc dù học thuyết của Pierre Laplace là một học thuyết táo bạo và hợp lý trên lý thuyết, trên thực tế, dưới quan điểm của khoa học thời hiện đại, các khoa học gia cho rằng trong vũ trụ không thể nào có được những vì sao có một tỷ trọng ghê gớm như Pierre Laplace đã mô
    tả.
    Đặc biệt, quan điểm Black Hole được hình thành hậu quả từ sự bùng nổ của những vì sao do Pierre Laplace đưa ra cách đây ngót hai thế kỷ cũng được coi là không hợp lý dưới ánh sáng khoa học thời hiện đại. Trái lại, các khoa học gia ngày nay cho rằng, chính tiến trình bùng nổ có tính cách nội tại khiến vật chất của một vì sao thay vì bành trướng, lại có khuynh hướng ngày càng co lại, dẫn đến tỷ trọng của vì sao ngày càng cao cho đến khi cả một vì sao khổng lồ, to gấp hàng trăm ngàn lần trái đất bị thu nhỏ thành một khối cầu có đường kính
    hai ba chục cây số. Chính tiến trình bùng nổ nội tại dẫn đến sự thu nhỏ về thể tích đã khiến cho tỷ trọng của một vì sao đạt đến mức độ khó có thể tưởng tượng được. Nói một cách cụ thể hơn, khi một vì sao khổng lồ bị thu nhỏ lại thành một khối cầu có đường kính hai ba chục cây số, một khối lượng vật chất nhỏ chỉ bằng một giọt nước của vì sao sau khi bị thu nhỏ, cũng có thể cân nặng tới hàng triệu tấn.
    Cho đến hiện nay, các nhà khoa học đều thừa nhận, toàn bộ học thuyết liên quan đến Black Hole ở thời đại ngày nay đều được đặt trên nền tảng thuyết tương đối của Albert Einstein, một học thuyết được hình thành vào năm 1916 và trở thành một học thuyết chính thống trong thời gian ngót một thế kỷ qua.
    Khác với Pierre Laplace xử dụng thuyết vạn vật hấp dẫn của Newton làm nền tảng, Albert Einstein đã đặt nền tảng cho học thuyết của ông trên căn bản những khái niệm mới mẻ về thời gian, không gian và vũ trụ.
    Mặc dù học thuyết của Albert Einstein đã được soạn thảo cách đây ngót một thế kỷ, trong những thập niên gần đây, với những phương tiện khoa học hiện đại và đặc biệt là cùng với sự phát minh của máy điện toán, các khoa học gia đã thực hiện những thí nghiệm chứng tỏ những điều tiên đoán của Albert Einstein về vũ
    trụ là đúng.
    Căn cứ vào những luận thuyết của Albert Einstein, các nhà thiên văn học, toán học, các nhà vật lý không gian đã có thể tự tin không những đi tìm sự hiện hữu của những Black Hole trong vũ trụ mà còn có thể tính toán được những biến chuyển bên trong những Black Hole.
    Sự thực, ngay sau khi Albert Einstein cho xuất bản cuốn sách nhan đề General Theory of Ralativity vào năm 1916, không đầy mấy tháng sau, một nhà thiên văn học người Đức tên là Karl Schwarzschild đã cho xuất bản một tài liệu trong đó mô tả sự hiện hữu cùng những đặc trưng kỳ bí của Black Hole.
    Nhưng ở thời điểm đó, số lượng khoa học gia am tường thuyết tương đối của Albert Einstein có thể nói là rất hiếm hoi nên dư luận thời bấy giờ khó có thể đi đến chấp nhận sự hiện hữu của một sức hút khổng lồ trong những Black Hole do Karl Schwarzschild tiên đoán.
    Cho đến năm 1939, một nhà vật lý tài danh người Hoa Kỳ từng được mệnh danh là "cha đẻ của bom khinh khí" tên là J. Robert Oppenheimer cùng với một khoa học gia khác tên là H. Snyder nghiên cứu và tính toán trước khi đi đến kết luận: Một Black Hole có thể được hình thành ngay tại tâm điểm của một vì sao khi vì
    sao này bị rơi vào tình trạng bùng nổ nội tại.
    Tuy nhiên, trong những năm trước Đệ Nhị Thế Chiến, nhiều nhà thiên văn học có uy tín trên thế giới vẫn từ chối không chịu nhìn nhận sự hiện hữu của Black Hole. Nhiều nhà thiên văn học thời bấy giờ đã cho rằng, toàn bộ những công trình nghiên cứu về Black Hole chỉ là chuyện "dã tràng xe cát" vì khả năng của con người không thể nào có thể phát hiện và nghiên cứu được sự hiện hữu của Black Hole, một sự hiện hữu có thể nói là bé bỏng, vô hình và cách xa trái đất hàng triệu triệu cây số.
    Trong những thập niên gần đây, với sự phát triển của một loạt những phương tiện khoa học kỹ thuật tân kỳ, các khoa học gia đã biết được một số những kỳ bí trong vũ trụ và tính được tuổi thọ của mặt trời là bốn tỷ 600 triệu năm. Qua những công trình nghiên cứu được thực hiện trong thời gian gần đây, các
    khoa học gia cho rằng, trung tâm điểm của một vì sao có khả năng như mặt trời là một lò phản ứng nguyên tử khổng lồ trong đó khí hydrogen liên tục bị biến hóa trở thành khí helium giống hệt như chu kỳ phản ứng trong một trái bom khinh khí.
    Chính năng lượng nguyên tử khổng lồ trong quá trình phản ứng khiến cho một vì sao có khả năng tỏa sáng. Cho đến khi khí hydrogen dần dần cạn và được thay thế bằng helium, tâm điểm của vì sao sẽ càng ngày càng thu nhỏ trong khi khối cầu lửa bên ngoài càng ngày càng lớn khiến cho thể tích của một vì sao to gấp hàng trăm, hàng ngàn lần thể tích ban đầu.
    Một khi trung tâm điểm của mặt trời trong thái dương hệ chúng ta chất đầy khí helium, nó sẽ trở thành một quả cầu lửa khổng lồ nuốt luôn cả Thủy Tinh, Kim Tinh... Khi đó, trái đất sẽ bước vào ngày tận thế.
    Nói tóm lại, cho đến nay những học thuyết chung quanh sự hiện hữu của Black Hole không phải là những chuyện huyền hoặc và các khoa học gia đã nhận thức được, trong vũ trụ đôi khi vật chất có thể trải qua những biến chuyển dữ dội khiến cho chúng vượt qua ranh giới được mô tả là "không mất đi mà chỉ biến đổi từ dạng này qua dạng khác."
    Một khi vật chất vượt qua ranh giới đó, một Black Hole sẽ được tạo thành và qua nó, một cửa ngõ mới tới một vũ trụ mới đầy huyền bí hơn là điều được các khoa học gia thừa nhận. Tuy nhiên, điều khiến nhà bác học Eistein lo ngại là di chuyển trong Black Hole bằng phương tiện gì và di chuyển như thế nào để có thể an toàn khỏi bị nghiền nát? Cho đến khi qua đời, nhà bác học Eistein chưa tìm được câu trả lời cho câu hỏi hóc búa này. Và như vậy, người ta e rằng, câu hỏi này sẽ còn tiếp tục lơ lửng trên đầu nhân loại trong vài thế kỷ tới...

Chia sẻ trang này