1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiểu thuyết Ba người khác của nhà văn Tô Hoài - Nguyên văn

Chủ đề trong 'Văn học' bởi phuong_le, 10/01/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Tiểu thuyết Ba người khác của nhà văn Tô Hoài - Nguyên văn

    Tháng 12/ 2006 vừa qua, Tiểu thuyết Ba người khác của nhà văn Tô Hoài được NXB Đà Nẵng cấp giấy phép xuất bản sau 14 năm viết xong. Cuốn sách hiện đang gây xôn xao dư luận. Phương Lê xin post nguyên văn tiểu thuyết này, mong nhận được ý kiến diễn đàn từ phía các bạn quan tâm.

    Tiểu thuyết Ba người Khác
    Tác giả: Tô Hoài
    NXB Đà Nẵng, 12/2006
    Bản điện tử: www.talawas.org

    _______________________________________________


    TÔ HOÀI
    Ba người khác[/size=6]


    Các đội công tác vùng đồng bằng hạ lưu sông Hồng kéo về tổng kết đợt ở huyện lỵ, đông có đến cả nghìn con người. Suốt tháng triền miên nghe kể lể thành tích và những anh những chị rễ, chuỗi [1] ở xã lấy lên nay đã thành cán bộ đội vừa khóc vừa nói về cuộc đời bị đoạ đày xưa kia.

    Một việc, tôi nhớ mãi. Có một cố nông quê huyện Nga Sơn được lên cán bộ đội đã đi làm cải cách hai đợt. Anh kể lại đời anh, cả hội trường hàng nghìn người ai cũng ngậm ngùi, các chị khóc sướt mướt. Sổ tay tôi đặt trên mặt túi dết kê đầu gối mà không ghi được một chữ nào. Tôi đã nghe bao nhiêu chuyện kể khổ ở hội nghị, ở tổ rễ chuối, nhưng chưa khi nào nghe choáng váng ghê rợn đến thế. Ban ngày anh đi cày, tối tắm rửa sạch sẽ rồi vào giường cả đêm phải ngậm bòi thằng địa. Thằng địa bị bệnh tim la, mút đến nửa đêm cũng không hết được mủ tanh nhức óc. Cả hội trường ào ào đả đảo địa chủ... gian ác... đả đảo... Còn anh ấy nghẹn ngào nức lên không nói tiếp được nữa.

    Thế nào mà anh ấy bị lây cái máu dê của thằng địa đến tận giờ. Cơm hội nghị có thịt bò thịt lợn, lại chắm chép, đâm rửng mỡ, lúc nào cũng cuồng lên, đâm hủ hoá lung tung. Ngồi trước mặt cô nào cũng hau háu mắt nhìn cái đũng quần. Anh ấy phải kiểm điểm mấy trận tơi bời đau đớn. Rồi bị thải hồi trả về cơ quan huyện. Cả mấy chị cũng phải đuổi về xã. Tôi không quan tâm đến họ, mà chỉ nghĩ: thì ra cái máu chó của ********* kia truyền sang mày, gớm cái giống chó má chết tiệt.

    Tổng kết xong, các đội lại đi đợt mới. Cuộc ra quân rầm rộ có xếp hàng nghe mệnh lệnh xuất kích như chiến dịch thời kháng chiến. Đợt này, khu vực làm bao trùm cả Hải Dương, Kiến An, cải cách thẳng, không qua giảm tô. Nhiều huyện quanh Hải Phòng, ba năm trước, là vùng "hai trăm ngày", tàu hoả xuống qua ga Phú Thái đã vào sào huyệt địch còn lại, từ các nơi dồn về hàng nghìn người di cư cuối cùng chen nhau xuống tàu há mồm đi Nam.

    Chúng tôi được đưa từ Thanh Hoá ra hỗ trợ chỗ khó. Công tác ở vùng rắc rối thế này chắc là lôi thôi đây. Nhưng mà ở Nông Cống trong kia, đội tôi đã được cờ thành tích đánh địch. Có thế, mới được ra đây. Tôi cũng chẳng áy náy sao. Làm gì rồi cũng làm được thôi, tôi đã làm hai đợt công tác, trải việc ngót một năm rồi.

    Các đội ở hội nghị tổng kết ra, chia tay nhau giữa chợ huyện, đông thành mít tinh. Không đợi ô tô tải, không cần ô tô. Đội trưởng Cự đếm được đủ đầu chúng tôi mười hai người, thêm hai rễ mới vào cán bộ đội, rồi Cự bắc hai bàn tay làm loa, hét to: "Lập công ngay từ lúc xuất phát. Chúng ta tranh thủ đi luôn. ở dưới xã, nông dân đương nóng lòng đợi đội về".

    Mọi người đứng xếp hàng đôi, lưng đeo ba lô. Chúng tôi vẫn được nguyên đội ở Thanh Hoá thành tổ học tập rồi đến bây giờ đi. Đội trưởng Cự bên bộ đội sang - nghe nói là đại đội trưởng, tính quyết đoán nóng như lửa, gắt gao kỷ luật với mọi người. Cái khăn mặt bông trắng được phát từ ngày ra tập kết ở Sầm Sơn, đã cáu xám xỉn, mặc dầu đội trưởng rửa mặt chỉ chùi bằng ống quần. Tuy vậy, cũng đã thuộc tính nhau, cứ lựa lúc người cứng thì ta mềm, dù sao cũng hơn phải đổi một đội lạ lẫm khác.

    Thế là mười hai cái xe đạp, - hai đội viên mới không có xe, không biết đi bằng cách nào, tôi đạp xe lúc đường nhựa, lúc bờ đê, lù rù mò suốt đêm. Bóng tối có phần dịu. Đến lúc trăng lặn, nhấp nháy ánh sao đằng trước, tôi phanh khuy áo ngực, căng mắt dấn phăng phăng. Gần sáng, mắt như quáng gà. Đã sang đến đường 5, lổn nhổn dấu hầm hố của du kích đào đường. Có nơi còn lại cả mìn - nghe nói thế. Tôi buồn ngủ quá, hai lần đâm xuống hố. Không biết có phải vì tinh thần hăng hái đã làm nhãng ngay cái vất vả, xe với người chẳng xây xát gì cả. Chỉ sái một bên tay. Nhưng cũng nhờ đau mà đâm ra tỉnh ngủ đến sáng bạch.

    Vừa sớm, lọt đọt kẻ trước người sau đến chỗ đoàn uỷ miền. Chưa ô tô tải đưa đội nào tới. Đội trưởng Cự khoái trí, quay ra giơ hai tay: "Chúng ta đến trước tất cả!"

    Cơ quan đóng ở một ngôi đền bên trong đã san phẳng hết các bệ thờ. Hai bên tả hữu vu ngăn cót thành buồng. Tiếng máy chữ đổ rào rào như vẫn đập thế thâu đêm, văn phòng đoàn cũng tranh thủ làm như chúng tôi đã đi suốt sáng. Trong sân sau tường đền còn sót lại cây mộc mùi hoa sớm thanh khiết thơm thoang thoảng. Trước một gian phên bên kia che kín đáo, ngoài hiên đặt một dãy những giá gỗ tạp mới trên có thau men trắng vắt chiếc khăn mặt hoa. Chắc đoàn uỷ hay đoàn cố vấn ngủ trong ấy.

    Một người nhỏ nhắn, bộ quần áo nâu non mới sáng sủa, mặt trắng trẻo đeo kính trắng như học sinh mắt cận thị. Người ấy đạp xe từ ngoài cổng vào.

    ?oBên Quỳnh Côi sang phải không??
    ?oVâng, chúng tôi tranh thủ, không đợi xe.?
    ?oTinh thần lắm, hoan nghênh. Tôi thường trực đoàn uỷ đây. Chúng ta vào văn phòng làm việc ngay. Đội số mấy, đội trưởng đâu??

    Làm việc ngay, khẩn trương sao! Chỉ đôi ba câu đối đáp khét lẹt những công việc, lập tức ai cũng tan cơn ngủ, quên cả rửa mặt, không nhớ vừa ỳ ạch đi cả đêm. Một lúc sau, cuộc trao đổi công tác, giao nhiệm vụ đã xong. Thật thì chỉ có đội trưởng Cự hỏi đi hỏi lại, còn cả hơn mười người ngồi im, thỉnh thoảng ai dấm dớ hỏi một câu về cái xã sắp đến thì được trả lời mấy lần giống nhau "tài liệu đây, trong tài liệu có hết". Rồi người đoàn uỷ đứng dậy, xoa tay, nở nụ cười như thói quen cười nhạt nước ốc và xoa tay thế, nói lấy lệ: "Các đồng chí thông cả rồi chứ".

    Chúng tôi đã ra ngoài sân đền.

    ?oTài liệu mang về xã thế là đã sắp sẵn đủ cả. Chúc công tác thắng lợi. Bắt tay cái nào!?
    Mọi người lồm cồm dắt xe ra đường. Sắp nhảy lên yên, có tiếng đằng sau giật giọng:
    ?oNày! Này!?
    Quay lại, vẫn chỉ thấy người thường trực đoàn uỷ còn đứng đấy.
    ?oVào cả đây, vào đây.?

    Tôi háu đói, đã tưởng ra niềm vui có lẽ được vào nghỉ và ăn sáng. Cả đội lại đứng thành bọn trước cái cót che cửa văn phòng lúc nãy. Người đoàn uỷ bước lên thềm, dõng dạc:

    ?oCác đồng chí, bắt đầu từ hôm nay, đội đã vào cuộc đấu tranh công tác ba cùng. ở dưới xã, bà con nông dân khổ cực lắm. Chỉ bọn bóc lột mới có xe đạp, mới thảnh thơi ngồi mát bát vàng. Chúng ta về với nông dân không thể đồng sàng dị mộng. Không được đi xe đạp xuống xã.?

    Cái ông đoàn uỷ mặt mày học trò bé loắt choắt mà hắc thế. Tôi chưa bị đoàn uỷ nào bắt không cho đi xe đạp xuống xã. Dễ chừng vùng địch tạm chiếm cũ lại làm cải cách không qua giảm tô thì phải khác cũng nên. Thế là mất cả tiếng đồng hồ, người tìm tước bẹ chuối, người ra chặt cây dướng bóc vỏ bện thừng. Mười hai cái xe đạp được trói gô lại thành một bó, khiêng vào trong đền, lênh khênh như đống xương trâu. Điều bất ngờ ấy, cả đội trưởng Cự cũng không tưởng ra trước được. Tuy nhiên, lúc ghé vào cõng lô xe, đội trưởng vẫn mặt đỏ gay hăm hở. Không hiểu đội trưởng nghĩ gì. Chỉ khoái hai anh rễ đội viên mới không phải chạy theo như cả đêm, tự dưng được đi cùng.

    Qua chợ huyện, ai nấy đói lử. Nhưng bụng mình mình biết thế thôi. Trông vào cái chợ mùa đói, nháo nhào không biết đâu người ăn mày hay người mua bán. Sướng chưa, đội trưởng Cự bỗng nói: "Ta vào chợ kiếm cái ăn đã". Cả bọn đi hàng một từ tốn bước sau Cự. Dường như sợ đội trưởng thay đổi ý kiến, phải cố làm vẻ hiền lành thế. Chúng tôi đều quần áo nâu bàng bạc, dép râu, mũ lá, có người mặt bạc phếch như mới ốm dậy. Đội trưởng Cự thì lúc nào cũng phừng phừng, lúc nhếch mép cười, lúc cáu kỉnh, cũng thế.

    Chợ sớm dần dần đông. Đương mùa khô kiệt, những mẹt cám bày la liệt khắp nơi. Lác đác, người đem trẻ con đi bán như quảy quả mít, một bên đứa trẻ ngồi nhấp nhỏm víu quang gánh, một bên tảng đất để cho cân. Chúng tôi, anh mặc lành anh mặc tã, dị dạng, người trong làng về chợ nhìn tránh ra chiều e dè. Đã hai năm, đoàn uỷ đóng ở cái đền này. Hàng chợ đã thấy nhiều cán bộ đi về, áo cánh, áo vét khác nhau, nhưng ai cũng biết đấy là những "anh đội" xuống xã hét ra lửa. Chẳng bận đến, người ta cũng ngại, lẩn đi, bước né bên đường. Đội trưởng Cự đột nhiên đứng lại: "Chúng ta ăn bánh đúc!" Cả bọn lập tức sà vào hàng bánh đúc ngô. Mụ hàng hớt hải sang bên các lều bán nộm chuối, đu đủ xanh, nước chè tươi mượn mấy mảnh tre mới đủ ghế khách ngồi.

    Chợ đã nhiều người nhưng chợ sớm chưa ai lê la hàng quà. Bọn người lạ mà ai cũng đã biết là các anh đội, khiến những mụ ăn quà như mỏ khoét và cả đám ăn mày cũng không dám lảng vảng. Từng chiếc bánh ngô lưỡi mèo vàng hây, giữa rốn mỗi chiếc đặt mảnh cháy vàng rộm. Một bát đàn tương mặn chát. Có anh đội bưng hẳn bát tương lên để chấm và húp, khỏi phải cúi lom khom và ngồm ngoàm hay là có nuốt chửng cả cái không ai trông thấy. Anh đội cũng đói như mọi ai. Có người hỏi bâng quơ: "Bánh ngô chấm tương à? " Mụ hàng trả lời ngẩn ngơ như nói giữa trời: "Thời buổi khó khăn lắm, hạt vừng cũng là hạt vàng đấy".

    Chẳng biết khó khăn thế nào, cái bánh ngô xay bùi bùi, ngọt ngọt, vả lại đương đói móp bụng.

    Năm ấy, tôi ngót ba mươi. Từ tấm bé chỉ ở thành phố. Đến tuổi đi làm kiếm được chân giữ cửa trông kẻ cắp cho hiệu thịt bò "Sáp phăng giông" phố Tràng Tiền. Cách mạng thì vào tự vệ phố, đến lúc kháng chiến, không còn đội tự vệ nữa, nhưng tự cho mình đã là *********, tôi đi theo kháng chiến lên Việt Bắc. Những chuyện tôi đi được cũng là gian nan. Tản cư, vợ tôi và con gái mới ba tuổi chạy lên Nủa trên Sơn Tây. Tất cả trai tráng phố tôi ở lại vào tự vệ. Phố tôi bị Tây trong thành tràn ra vây phải dồn vào liên khu Một giữa thành phố. Ta điều đình được với Tây để cho người già, đàn bà và trẻ con được ra ngoài. Lối ra trên đê làng Yên Phụ. Có lãnh sự Anh và lãnh sự Tàu đứng trên chòi gỗ chứng kiến.

    Tôi trốn đội tự vệ trà trộn trong đám người lố nhố ra. Trời lạnh, tôi chít sùm sụp cái khăn vuông mỏ quạ, giả làm bà già, đi qua ngay trước mặt các ông lãnh sự trong trạm kiểm soát nhòm ra. Tôi thoát được lên Nủa tìm vợ con. Hỏi thăm cả làng, cả cái chợ giời tản cư, về sau gặp người biết, đã bảo mẹ con cô ấy theo người ta vào Hà Nội rồi.

    Tôi chẳng biết đi đâu, cũng không dám "dinh tê", sợ Tây đã biết tôi là tự vệ, tôi lần mò lên Thái Nguyên, rồi sang Tuyên Quang, lên thị xã Bắc Cạn, quanh quẩn ở những vùng đông người tản cư dưới xuôi lên. Cũng không có vốn mở hàng quán, tôi xin vào làm phát hành sách báo. Vào cơ quan bấy giờ dễ, cứ đến xin việc cũng được nhận ngay. Hàng ngày, mấy chục quang gánh báo Cứu Quốc và sách nhà Sự Thật quảy xuống khu Ba, khu Tư - như những đoàn người dưới đồng bằng thồ muối lên miền ngược. Không ai biết tôi trước kia làm loong toong, làm cu li giữ cửa và đã trốn tự vệ. Chỉ biết tôi là người trong Hà Nội ra có đôi ba chữ nên anh em cho giữ sổ sách văn phòng và kho. ở trong rừng, cơ quan chỉ có quyển sổ cái ghi các thứ trong kho, xà phòng, đường ta, quần áo khi nâu khi nhuộm thâm trên phát về.

    Sau chiến thắng Điện Biên Phủ rồi Hà Nội được giải phóng, tôi trở lại thành phố.

    Về đến Thái Nguyên cả cơ quan đàn ông đàn bà làm việc ở các cơ quan đều được may được phát quần áo một kiểu như nhau. Giày vải nâu, quần áo kaki xám nhạt. Và mọi người theo đúng điều lệnh tiếp quản: không về nhà, không mua bán, không ăn quà ngoài đường... Tối tối tôi vẫn lẩn đi chén phở. Không ai biết. Một hôm, được phép về nhà và ai có người quen được tới cơ quan thăm. Bố mẹ tôi mất đã lâu, tôi chỉ nhớ vợ con. Tôi hồi hộp về chỗ nhà cũ ở Tám Mái. Nhưng hàng xóm kể cho biết cô ấy đã lấy chồng làm cút lít cho Tây, tháng trước họ kéo nhau xuống Hải Phòng, vào Nam cả rồi.

    Tôi như đuổi theo cái bóng. Cũng chẳng buồn, chẳng ngán ngẩm. Chỉ đôi lúc phảng phất nhớ mụn con gái mà thôi. Cái năm xa cách, nó mới ráo máu đầu, chẳng biết rồi nhớn nhao thế nào. Tôi bây giờ mà hoá ra quan trọng, tôi giữ ba sổ chi thu, - chẳng học nghề bao giờ cũng được lên chức kế toán trưởng. Năm sau, tôi lấy vợ. Cũng dễ ợt, cô ấy làm cấp dưỡng, theo cơ quan trên Thái về, chúng tôi biết nhau đã lâu. Rồi vợ tôi sinh một thằng con trai. Bấy giờ "phóng tay phát động quần chúng", công tác cải cách ruộng đất là quan trọng nhất. Mọi người công tác ở cơ quan, từ cấp dưỡng đến cán bộ chuyên có biết đồng ruộng hay không nhất loạt đều phải đi làm "thổ cải". Thế là tôi đi. Tôi đi công tác cải cách, cu Ngẩu nhà tôi đã được sáu tuổi.

    Khi còn ở trên Việt Bắc mấy năm gần về Hà Nội, ai cũng đều đi làm giảm tô, có người giảm tô xong sang công tác cải cách. Tôi chẳng biết mặt mũi đồng ruộng bao giờ, tôi tìm cách lẩn. Bấy giờ không khó, bởi chỉ có mỗi mình tôi giữ sổ sách, không thể mỗi chốc đi đâu. Nhưng về thành phố thì chỉ còn trơ ra có tôi chưa được rèn luyện lập trường cách mạng ruộng đất. Ông giám đốc cũng chưa đi giảm tô, đi cải cách lần nào. Nhưng không ai dám nhắc ông ấy. Lại nói nịnh "bộ tư lệnh phải ở vị trí chỉ huy", bên trong thì ghé tai xì xào ông ấy sợ đứng dậy thì có người ngồi mất ghế. Chiều thứ bảy nào cũng họp kiểm điểm trong tuần, thủ trưởng lại đập bàn nói choang choác: "Giải phóng nông dân lao động khỏi ách địa chủ phong kiến, mọi người đều có nhiệm vụ tham gia...".

    Tôi cũng khéo lèo lái, lẩn lút tránh được tới khi về Hà Nội vẫn chưa đi. Tưởng chiến thắng về Hà Nội giải phóng thế là đã hết mọi việc xóm làng, hoá ra vẫn còn. Không thể thoát, bấy giờ mới chỉ hết giảm tô, còn cải cách. Cơ quan đã đi cạn kiệt cả, lần này đích tôi có tên trong danh sách đi rồi không còn ngõ ngách nào lẩn nữa. Thế là phải đeo ba lô đạp xe đi. Tôi vào Thanh Hoá dự tổng kết các bước công tác của các đội vừa qua dưới xã. Lúc đầu tôi lo cứ rối tinh. Nhưng rồi cả tháng vừa nghe vừa hỏi thì cảm như mọi việc khuôn phép dần đâu vào đấy, công tác này cũng thế thôi. Còn gì khó hơn cái sổ sách kế toán, mình chẳng học mà cũng thành nghề cộng trừ nhân chia, thế ra đi cải cách không đáng sợ như những đứa đã đi về đồn thổi, doạ dẫm.

    Mụ hàng bánh đúc chỉ đường cho chúng tôi về xã. áng chừng mươi cây số, hễ sắp hỏi thăm đã có người mách lối đi, như là ai cũng biết mình về đấy rồi. Cái ba lô trên lưng đã thấm đen mồ hôi, đoàn người nhấp nhô đi quá buổi trưa. Đội trưởng vẫn thoăn thoắt dẫn đầu cho nên không ai dám uể oải. Gió mát hây hây mà mồ hôi đổ ra dính lưng nham nháp. Mặt trời mờ mờ nghiêng trước mặt, người trên đê trỏ xuống cánh bãi bảo kia kìa, làng ấy đấy. Những khoanh tre xanh ngắt quây xóm làng ven con đê quai. Từng khúc dầm nước trong veo lác đác đám lá sen già đưa mùi thơm như rơm mới. Chắc xưa kia chỗ này vỡ đê hay dòng sông cũ còn lại hõm loáng thoáng thành những đầm nước. Giữa cánh đồng, một mỏm núi đá chơ vơ. Bên cạnh, còn trông thấy cái lô cốt xi măng tháp canh của bốt hương dũng.
  2. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Chúng tôi xuống, vào ngôi đền đầu thôn. Lại cái đền hoang, hai bên tường đổ trống huếch nhưng vẫn còn bệ gạch chưa ai ăn trộm. Đội trưởng Cự nhìn quanh, thấy người đi trên đê qua lại, chưa yên tâm đã được bảo mật. Cả bọn chui vào qua cái sân cỏ mọc lưng ống chân cho được kín đáo chặt chẽ. Những con chuột thấy động chạy rào rào vào hậu cung đã mất cả cánh cửa, ẩm ướt, tối om. Chúng tôi ngồi lại dưới mái hiên. Chỗ này, trên đê hay ngoài cửa không ai thấy. Kể ra cứ cẩn thận, chứ lúc ấy chưa chiều lắm, thế mà lúc nãy còn lác đác người bây giờ trên đê đã vắng ngắt.
    Đội trưởng Cự kéo mấy cái ba lô, kê lên, trải ra tấm bản đồ xã vẽ kẻ bằng tay lúc sáng nhận ở đoàn uỷ. Chúng tôi xúm quanh, chăm chú. Cự nói một mạch:
    ?oMột là, từ giờ phút này đội ta chịu trách nhiệm mọi mặt của xã. Xã đây ở vùng hai trăm ngày địch được đóng lại, địa chủ thì gian ác, tổ chức của địch để lại đã khéo ***g vào tổ chức ta, chúng nó đã làm giảm tô và cải cách giả. Công tác của chúng ta thật nặng nề. Hai là, xã có chín thôn, mỗi chúng ta phụ trách một thôn. Tôi đọc tên từng người đây. Tôi phụ trách chung và thôn Đìa với văn thư của đội, thôn Đìa cũng là trọng điểm, vì có nhà thằng bí thư chi bộ. Các đồng chí xem bản đồ rồi tự tìm đường về xóm. Không được hỏi han lung tung. Coi chừng tay sai địa chủ và tổ chức cũ sẽ đưa vào người nó bố trí sẵn. Kể từ bây giờ các đồng chí về vị trí chiến đấu dưới thôn cẩn thận cảnh giác không được liên lạc với tổ chức cũ, cứ chọn nhà thăm nghèo hỏi khổ, bắt rễ xâu chuỗi. Chiều thứ bảy, đúng giờ này - đội trưởng Cự cúi xem đồng hồ đeo tay, toàn đội về đây phản ảnh tình hình và duyệt rễ. Ba là, tuyệt đối bí mật, tuyệt đối bí mật.?
    Tôi đói quá. Không biết có bệnh giun sán hay sao, hễ quá bữa thì bụng réo rong róc, mắt nảy đom đóm, hai bàn tay toát mồ hôi lạnh. Cứ từng cơn thế, người như lả dần.
    Tôi duỗi chân đụng vào đít cái ba lô trước mặt để đặt bản đồ. Ngón chân hình như vướng vào mảnh lá chuối. Tôi lé con mắt dương hoa vàng mờ, cũng nhận ra cái lá chuối lòi ở góc mảnh bạt nắp ba lô. Bấm thấy mềm mềm. Tôi quờ tay. Ôi chao, tôi nhận ra cái lá bánh đúc ngô ở chợ. Tôi ngước mắt. Đội trưởng đương nói đến đoạn hăng, bắt đầu băm bổ bàn tay liên liến, hai con mắt trợn trừng như muốn bật ra. Tôi luồn tay dưới ba lô, thó luôn cả gói, bỏ nhẹm vào cái túi xách của tôi. Rồi lại vờ lơ láo nhìn mọi người. Ai nấy vẫn đăm đăm. Người hí hoáy ghi sổ tay. Người vừa chăm chú vừa thờ ơ nhìn đội trưởng. Người vẫn cắm cúi xem tờ bản đồ mở che kín trên mấy cái ba lô. Lúc ấy tôi mới bình tĩnh nhận ra thật cái ba lô ấy của đội trưởng Cự. Đúng rồi, ba lô bộ đội gờ nếp viền quai kỹ lưỡng, chắc chắn hơn những cái ba lô con cóc khâu túm mua ở cửa hàng bách hoá. Tôi sững sờ, nhưng rồi lại yên trí dần. Kỷ luật là ba cùng dưới xóm. Mà đội trưởng lại mua lén bánh đúc ở chợ. Bố bảo cũng không dám kêu mất. Và trông mọi người đương chăm chú thế kia thì chẳng ai nhìn thấy tôi vừa làm gì. Cho thằng đạo đức giả tối nay đói rã họng.
    Mọi người đứng dậy, xốc ba lô lên vai. Hai anh đội cán bộ cơ sở ở xã lên, nách kẹp mo nang tài liệu, xắm nắm đi ngay. Họ háo hức như được về xã nhà. Mà họ tự nhiên như thế cũng chẳng lạ, chỉ có tôi mới phải lo lắng loăng quăng chẳng biết chốc nữa vào nhà ai, có bắt được trúng rễ không. Đội trưởng Cự một tay xua xua không biết là cản lại hay bảo đi, một tay nắm đấm, hô: "Vì giai cấp nông dân, quyết chiến quyết thắng". Tiếng đáp lại rập một cái: Quyết thắng! Quyết thắng! Tôi thấy đội trưởng xách ba lô lên, sờ vào mép. Rồi nắn lại lần nữa. Mất mẹ nó rồi. Nhưng mặt vẫn bừng bừng như lúc đương nói, không khác. Đội trưởng đến trước mặt tôi. Tôi khúm núm co người túm miệng túi xách sợ lộ cái lá chuối, rồi nghiêng người đeo quai ba lô lên vai. Không phải đội trưởng tò mò gì về tôi mà Cự đến bắt tay từng người. Tôi kẹp chặt cái túi trong có gói bánh đúc ăn trộm rồi mới giơ bàn tay ra.
    Đội trưởng bảo:
    ?oĐồng chí đợt này được trên cử làm đội phó phụ trách toà án, cố gắng nhé.?
    Tôi nhẹ nhõm nắm tay Cự. Mỗi người vào các xóm một ngả. Chỉ có Đình rảo bước theo tôi. Tôi hỏi:
    ?oCậu về cùng lối với mình à??
    Lúc chỉ có hai ba người, chúng tôi thường cậu cậu tớ tớ - chỉ có mấy anh ở xã lên vẫn nghiêm túc "đồng chí" như khi họp. Riêng với đội trưởng tác phong quân sự thì không mấy khi dám cợt nhả, lúc nào cũng "đồng chí" cẩn thận.
    Đình đáp:
    ?oMình phụ trách xóm Chuôm láng giềng cậu. Về Chuôm đi xuống lối bờ đầm đằng kia gần hơn.?
    ?oThế sao lại đi lối này??
    Đình cười hếch cái mũi đỏ.
    ?oĐi vài bước, cho nó vui mà.?
    Tôi ừ hữ nhạt nhẽo. Đình ghé tai tôi, nói nho nhỏ:
    ?oNày chia cho tớ bánh đúc với. Ông anh nhanh tay quá đấy. Tớ nhìn thấy trước đằng ấy cơ.?
    Tôi ơ mặt như đứa ăn cắp bị bắt tại trận - mà thật thế, còn như nỗi gì. Gói bánh có bốn chiếc, tôi lẳng lặng lấy ra đưa Đình hai cái. Nhìn theo hút lúc ấy đội trưởng Cụ đã khuất vào bờ tre. Bỏ bánh lên túi ba lô rồi Đình cũng tất tả về phía ấy. Ôi trời, nó đi báo cáo thì toi mạng! Nhưng tôi lại dửng dưng ngay. Nó nói ra thì nó mất bánh. Mà đội trưởng đã định ăn vụng, đội trưởng trù cho thì cũng chết dở.
    Tôi lững thững vào thôn Am. Đi bắt rễ khác nào đi câu. Còn chưa tối, mới chạng vạng mà trước mặt, sau lưng vắng tanh. Chiều chiều thông thường lúc này cổng đồng có người đi làm về, những con trâu bước thong dong, đàn vịt rúc bờ ruộng chân tre, trẻ con đương vác sào ra dồn về. Thế mà đường vào xóm quạnh quẽ, tưởng như không cả con chuồn chuồn chập chờn, con nhện nước loăng quăng. ít ngày sau, tôi mới được biết cả mấy thôn này đã được biết tin đội về từ lúc đội còn ngồi ăn bánh đúc trên chợ huyện. Thế là gà qué, chó má, trâu bò người ta tất tả nhốt chặt. Cả người cũng không ai dám ló mặt ra ngõ.
    Có thể nhận biết một làng mới thoát khỏi vùng tề tiêu điều khác hẳn các làng hậu phương um tùm cây cối xanh mát trong Thanh Hoá. ở đây, cây đa, cây si ngã ba xóm, những luỹ tre và bờ bụi bị phạt trơ ra như những cái đầu trọc lông lốc. Đồn bốt Tây bắt triệt thế cho du kích mất chỗ ẩn nấp, đêm đến cả các chòi gác bốt hương dũng giữa làng rọi đèn pha phía nào cũng được.
    Tôi nhòm ngó một vòng xuống cuối xóm rồi quay lại. Cả đến những giậu ô rô, giậu duối và bờ xương rồng cũng xơ xác như tóc cạo dối chẳng còn mấy. Trên những mái rạ mục đen sẫm không vẩn vơ một sợi khói bếp. Các cổng tán, cánh liếp mở há ngoác mồm. Tôi không biết người ta cốt làm thế để đội về khỏi nghi giấu giếm cái gì trong nhà.
    Tôi toan cứ vào bừa một nhà nào nghỉ ngơi cái đã. Nhà ấy không dựa được thì mai đổi đi nhà khác. Tôi đã mấy đợt qua cái bỡ ngỡ lần đầu tiên ngày đầu đi bắt rễ rồi. Chợt trông thấy sau mấy cây duối quăn queo một người đàn ông cởi trần gầy nhom, quần xắn móng heo. Người ấy vừa đi vừa quay mặt vào trong cái sân đất, như nói với ai trong ấy: "Ông đã chặt cổ cả thằng Tây, ông đếch sợ anh đội". Ngẩng lên thấy tôi, người ấy thoáng bối rối rồi nhìn trân trân: "A anh đội! Mời anh đội vào nhà em xơi bát nước!" Cái mặt người này dại dại, mắt trơ tráo, không biết nó dở người hay nó là thằng địch trắng trợn ra đặt bẫy. Giả vờ thế nào được với tôi, tôi không đáp. Tôi đâm cảnh giác, không dám vào bừa nhà ai như đã định thế, rồi cứ lúng túng, vẩn vơ...
    Một quãng, gặp một đống rạ. Trong kia, thoáng bóng người quần nâu bạc đã tuông cả gấu, leo khoeo rút rơm. Tôi khấp khểnh lẩm nhẩm: đây rồi... đây rồi... rễ đây chứ rễ đâu... Tôi xăm xăm tạt vào. Người đàn ông đứng lại dưới mái rạ, hai tay luống cuống như vụng trộm thế nào. Khuôn mặt rỗ hoa xám nhợt đã luống tuổi. Người ấy phờ phạc ngẩng lên:
    ?oLạy anh đội...?
    Gian nhà lợp rạ nát xám xịt như mặt người ấy. Tôi bước vào. Còn mấy người trong nhà, chốc mới nhận ra dần dần. Một người đàn bà ngồi xổm trong xó luồn, tay chống lên mảnh gỗ con. Một chú nhóc đóng khố một cởi trần đứng tựa cột. ở chái bếp bước vào một cô gái áo nâu lành lặn. Có lẽ có người lạ vào, cái áo vừa được mặc vội, một chiếc khuy đỏ chưa cài hở mảnh đuôi yếm cũn cỡn.
    ?oAnh đội vào chơi. Nhà chẳng có chỗ nào ra hồn...?
    Tôi ngồi xuống một mảnh vầu úp và nói:
    ?oTôi tên là Bối. Cả nhà cứ gọi tôi là Bối, anh Bối.?
    Rồi trong bụng thoải mái yên chí chưa thăm nghèo hỏi khổ mà đã trúng phóc ngay. Tôi lại nói:
    ?oTôi là cán bộ đội về công tác. Ta đây là xóm Am, phải không??
    ?oVâng ạ, xóm Am.?
    Cô gái lại vào trong bếp lấy ra một cái bát đàn. Nhưng không có nước. Cô bối rối đứng. Bố cô rụt rè nói: "Nhà chẳng có hạt nụ vối, chẳng còn nồi chè xanh nào". Tôi cười: "Vẫn uống nước mưa ngoài vại chứ gì. Vẽ, tôi cũng thế". Nói rồi tôi cầm chiếc bát ở tay cô gái ra cái vại bên gốc cau có buộc cái mo cau hứng nước mưa. Tôi múc đầy bát nước, bưng vào, ừng ực làm một hơi hết tiệt. Quả là tôi đương khát se họng. Và mấy lâu nay ở với làng xóm tôi cũng quen ăn uống lôm lam, sống xít. Quả nhiên, chỉ cạn bát nước lã tôi lại cảm thấy công tác ba cùng đã đưa tôi gần gũi mọi người rồi. Đã chiều hẳn, phía bờ đầm nước, đôi chim chích choè bay rỡn nhau hót những tiếng dài ngắn gọi bạn vào hoàng hôn. Trong nhà nhoè nhoẹt xâm xẩm, chỉ còn thấy khuôn mặt cô gái trăng trắng.
    Tôi đã thuộc mọi người. Bố tên là Diệc. Mẹ bị tàn tật ngồi trong vách đấy. Con gái là cô Đơm và mấy em, những thằng Vó, cái Lưới, thằng Cò... Nhà cò nhà diệc, những ao ước cầu mong hàng ngày đơm đó sông nước chỉ có vậy. Nghèo đến thế chứ nghèo sao nữa, những cái tên cũng đã khiến tôi gối đầu ngủ yên được. Chưa trông rõ hết, cũng đoán ra cái nhà tranh vách tuềnh toàng ẩm mùi rêu đất, đằng cuối sân, một chiếc hũ sứt hay cái chĩnh đội chiếc nón mê. Người đi làm đồng về được con cáy, cái tép thì ném vào cái hũ đã trộn lưng muối, vài tháng lại chắt ra làm cái mắm, thức chấm. Người ta đương tìm đây rồi. Thật cũng có may có rủi.
    Tôi bắt đầu mở bài lục vấn con số:
    ?oNhà ta cấy bao nhiêu??
    ?oChưa được hai miếng ạ.?
    ?oRuộng nhà a??
    ?oThưa, cấy giẽ thôi.?
    Tôi nghĩ sắp đặt ngay: "Bố với con, thế là nhà này đã được một rễ, một chuỗi. Bố làm trưởng thôn, con thì tổ trưởng dân quân. Hay!". Trong nhà đã tối om. Một thằng cu vào bếp thổi đống trấu châm một que đóm. Phao đèn hoa kỳ không bóng sáng lung lay chẳng khác sợi lửa đóm. Tôi hỏi:
    ?oNhà chưa cơm chiều à??
    ?oCó... có... chưa, chưa...?
    ?oChưa thì cho tôi ăn với. Tôi có phiếu gạo đây. Mai cô Đơm đem lên đong gạo cửa hàng trên huyện.?
    Người ta ở đâu dường như cũng đã biết lề lối đội cải cách đến thì ăn, thì ở ra sao. Những đồn thổi, những tiếu lâm, bao nhiêu chuyện buồn cười và chuyện rùng rợn về những anh đội. Năm trước, khi còn cái bốt hương dũng tề nguỵ lù lù giữa làng, thế mà những chuyện giảm tô, cải cách đã bay từ ngoài kia vào. Có người tò mò lẻn đi xem đấu địa chủ tận "hậu phương" bên kia sông. Nhiều nhà khá giả sợ xanh mắt, đã xuống Hải Phòng đi Nam. Người ở lại cũng mỗi người nói một khác, người ngóng đợi, người lo vu vơ.
    ?oCũng sẵn rồi nhưng cơm chẳng ra cơm đâu, mời anh đội ăn tạm.?
    Cô Đơm bưng bày xuống mặt đất giữa nhà, lần lượt một nồi cơm, một cái chảo trông nhờ nhờ như muối. Đơm xới một bát cơm, gắp ra mấy cọng rau sam đặt lên bát rồi đem vào xó nhà cho mẹ ngồi bốc ăn trong ấy.
    Tôi hỏi vui:
    ?oCơm trộn kê hay sao mà vàng ngon thế??
    ?oVâng. Cám đấy ạ.?
    Rồi bác Diệc nhẩn nha kể: "Cả vùng này mùa vừa rồi nhốn nháo vì người các nơi qua lại đổ xuống Hải Phòng. Các cụ đạo vào tận đây rủ người đi, chả dưới xóm Đìa có người theo đạo mà. Ai đi đâu thì đi, chỉ chết con nhà nông chúng tôi đi hay không thì cũng rối tinh lên chẳng cấy hái ra gì. Của ăn được thì còn chơi vơi ngoài đồng, không biết rồi nhặt nhạnh thế nào, bây giờ may lắm còn moi móc ra cái cám ăn cứu người".
    Hồi dự tổng kết trong Thanh rồi tôi về huyện Thiệu Hoá thực tập, ở nhà rễ, ngày hai bữa ăn toàn cám, bấy giờ được ăn cám còn phúc bảy mươi đời. Thanh Hoá đã kiệt lực, đói to. Cả một vùng các huyện trên xưa nay ỷ vào nước đập Bái Thượng chỉ quen làm một vụ lúa, không biết làm màu. Máy bay Pháp bỏ bom phá vỡ đập Bái Thượng. Người ta nói cái thằng Pháp chỉ đánh bom dấn một năm nữa thì cả tỉnh chết đói hết. Ngoài chợ tỉnh cũng bày bán trẻ con nhan nhản như bán chó. Tôi dự một cuộc đấu địa chủ. Có người rễ bị đói đã lâu quá, đứng lảo đảo, hét một tiếng rồi lăn ra chết. Những đơn vị trong Nam tập kết đóng quân dọc sông Mã. May được các chiến sĩ khu Năm đem ra kinh nghiệm và giúp dân trồng rau khoai, rau muống chống đói. Các mảnh vườn, các cánh ruộng khô nẻ được cuốc lên, đánh luống. Chỉ hơn một tháng, đã được hái lá ăn. Rau muống luộc, rau lang rau muống phơi làm lương khô và muối dưa, nấu lẫn cám nuốt tạm đợi mùa.
    Tôi còn đem ra đây cái nhớ khủng khiếp về những bữa ăn cám. Có đến cả phiên, mấy phiên chợ không đi ỉa được. Mình mẩy ngứa nổi mẩn da cóc. Suốt đêm bứt rứt rôm cắn, không tài nào chợp mắt. Sợ quá, phải về bệnh viện tỉnh định xin thụt. Xuống đến chợ Rừng Thông, người ta mách ăn đu đủ xanh cũng rửa ruột được. Thế mà hiệu nghiệm có lẽ như thụt. Bây giờ cơm lẫn cám chắc ăn đỡ táo hơn dạo ấy. Cũng chưa biết thế nào, chỉ thấy từ ngày bị trận táo bón tắc ruột, bụng tôi như chắc lại, thỉnh thoảng mới phải tào tháo đuổi. Mà tối nay cũng chỉ nhấm nháp qua loa. Còn hai cái bánh đúc trong túi cơ mà.
    Tôi ngồi xổm, cầm bát, định lùa luôn mấy đũa. Nhưng miếng cơm cám nguội ngắt, rắn như vôi vữa. Rồi từ từ nhai, tôi cũng tọng được hết bát rồi kiếu là đã ăn trên chợ huyện còn lửng bụng.
    Một nhoáng, cả nhà đã xong bữa.
    Giữa nhà, tôi và bác Diệc ngồi bên ánh đèn lom đom, mà tôi đoán nếu không có tôi, mọi người chỉ ngồi trong bóng tối. Người đàn bà què đã nằm im lẫn vào đất. Tiếng dế ti tỉ buồn như chấu cắn, như kèn đám ma.
    Dần dà, tôi được biết bác Diệc năm nay bốn mươi mốt. Cả đời chỉ quanh quẩn trong làng chưa khi nào bước chân lên con đường cái Tây bên kia sông. Phải năm trời làm bệnh tả, bố mẹ chết cả. Còn trơ trụi có Diệc. Rồi bệnh đậu mùa để lại cho bác Diệc những lỗ chỗ vết rỗ hoa khắp mặt. Lăn lóc nhà này qua nhà khác. Diệc không thể nhớ được thuở tấm bé đứa trẻ chỉ biết gào khóc đòi ăn thì thế nào, nhưng đến khi biết đi biết chạy, cũng là lúc làm quen với cái thừng con trâu, cái liềm cắt cỏ, chiếc đòn gánh quảy nước rồi chẳng bao lâu đã thông thạo mọi việc đồng áng. Những trận đi làm thuê bị đòn đánh và cái đói, cái khổ nhục tháng ngày, làm sao nhớ được bao nhiêu khiêng. Tôi còn muốn hỏi Diệc lấy vợ bao giờ, tại sao vợ lại ốm đau thế. Nhưng chưa biết lựa lời thế nào.
    Bác Diệc nói:
    ?oAnh đội đi cả ngày, nhọc rồi. Đi ngủ thôi.?
    Quả là hai mắt tôi đã cứng đơ. Tai nghe câu chẳng câu chuộc. Chốc chốc, ngật cổ một cái, lại choàng tỉnh.
    ?oỪ, ừ...?
    ?oAnh đội nằm ở cái chõng kia. Chõng vẫn bỏ không, thỉnh thoảng mới đem ra ngồi hóng mát ngoài sân. Cả nhà tôi nằm đất đã quen, mùa rét thì lót lá chuối khô, ấm lắm.?
  3. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Cũng chẳng phải đợi chủ nhà giục lần nữa, tôi nói: "Tắt đèn nhé" - đốm đèn tắt phụt. Tôi ngả lưng xuống chõng, gối đầu lên ba lô. Thèm ngủ thế, nhưng vẫn nhớ trong túi dết có gói bánh đúc. Cái mảnh lá chuối rơi tuột đâu đấy, tôi ngoạm như nuốt chửng vừa hết bay hai cái bánh ngô thì cũng thiếp đi luôn.
    Hôm sau, tôi thức dậy, trong nhà im phăng phắc. Cái chống liếp cửa trước đã được dựng lên từ bao giờ. Cả trong gian nhà cũng sáng bạch. Sau cái cột tre, người đàn bà ngồi yên thế như từ hôm qua tới giờ - hai bàn tay ếch đặt lên hai mảnh gỗ. Con mắt ngước trắng dã như miếng mảnh sành.
    Tôi hỏi:
    ?oCả nhà đi làm rồi a??
    Cái bóng rũ rượi im lìm. Người tàn tật này có lẽ còn mắc các chứng câm điếc và thong manh nữa. Tôi xếp cái ba lô vào góc chõng rồi bước ra cổng. Đường xóm buổi sáng không đến nỗi vắng tanh như chiều hôm qua. Ngoài đồng, lúi húi người cào cỏ. Đuôi lúa con gái ngậm đòng rập rờn phe phảy mơn man trong làn gió nhẹ như sắp trông thấy hạt thóc mẩy về đuổi đi bát cám trộn. Một đám trẻ con trần truồng mình mẩy lấm như trâu đằm đứng rụi mắt nhìn tôi lững thững qua.
    Vào liền mấy nhà đều im ắng như nhà hoang. Tôi đã biết một làng bình thường chẳng mấy khi có người ở nhà buổi sáng. Ai cũng còn đi moi móc đào bới, đơm đó lấy cái ăn. Nhất là các xóm trong ngoài luỹ tre phờ phạc, bên những chân tre còn sót lại, trồi ra những mái rạ như cây rơm, như chuồng trâu khác các chòm nhà giữa làng. Những nhà có máu mặt tụ hội ở xóm trong, xóm giữa, dần dà mới thêm ra xóm trẽ, xóm đồng, xóm bãi. Ngày trước hẳn đây là cổng đồng rồi người trong làng nhà đông san ra ở, người bơ vơ ở đâu tới ngụ cư lập nên xóm đuôi xóm trại. Xóm này chắc cũng mới thành nơi ăn chốn ở vài mươi năm nay, nhiều chỗ nền nhà chưa hoàn thổ, đất tảng mốc rêu. Những vườn xoan cây chỉ nhỉnh cao bằng sào nứa.
    Tôi lại qua bụi cây duối rậm rịt buông xuống những nạm dây tơ hồng vàng rượi. Cái thằng quần xắn móng lợn vẫn như hôm qua. Chòm râu quai nón lủa tủa. Như nó vẫn đứng đấy rình tôi.
    ?oChào anh đội, đêm qua anh đội đã bắt được rễ, yên chí rồi thì hôm nay vào nhà em được chứ? Anh xâu chuỗi em đi. Đố anh tìm được thằng chuỗi nào hơn em. Hôm qua mà anh vào nhà em thì em đã được là rễ rồi, rễ cái chứ chẳng chơi, nói thật đấy.?
    Tôi lặng lẽ theo hắn. Không để tâm những câu nói lẩn thẩn, lảm nhảm. Không phải nó say rượu, cũng không phải nó dở người, vẻ nó táo tợn nhưng nói khôn như người ta. Có thể nghe nó mà biết tình hình, mà kiểm tra, được việc cũng nên. Nhà này còn tồi tàn hơn nhà Diệc. Ba phía vách tuông ra, huếch hoác, lá khoai non xanh mát mắt phủ kín, dây bìm leo chằng chịt lên cả cột nhà như cái cọc tre. Một người đàn bà lúi húi trong bếp đương sàng sảy cái gì không biết. Tiếng lạt xạt khe khẽ như gà con bới đống dấm ủ bếp.
    ?oAnh ngồi xuống. Nhà tôi ngồi chỗ nào cũng như nhau. Tôi là tiên chỉ cái làng này, tiên chỉ bần cố ấy chứ chẳng vừa đâu. Nhưng mà tôi không kể khổ với anh. Tôi chán ngấy cái khổ, cái kể khổ rồi. Tôi nói với đội việc khác.
    "Lúc kháng chiến ấy mà. ở trong này tôi là du kích tập trung huyện. Tôi không báo công đâu, công tôi thì không đếm xuể, mà công bao nhiêu cũng hoá công cốc rồi. Tôi chỉ kể những chuyện ai oán thân tôi. Đêm ấy thình lình tôi lẻn về cái nhà này. Tôi nhòm liếp, đèn còn sáng, thằng xếp bốt hương dũng đương nằm với vợ tôi đúng chỗ cái cột này. Con vợ tôi kia, cái đứa làm chứng sống còn đấy. Tôi xông vào. Cũng ghê lắm. Thằng xếp bốt cứ trần truồng lăn xả vào tôi. Tôi mà không ghì lại nổi, nó chỉ lùi được mấy bước quơ được súng thì tôi ăn băng đạn tôi chết toi rồi. Nhưng tôi cũng bị nó quật mấy hòn gạch tưởng vỡ đầu. Bây giờ phải khi giở giời đầu tôi cứ buốt từ óc xuống xương sống. Thằng bệnh viện huyện bảo tôi đứt mất một dây thần kinh. Thì điên à? Đứa nào bảo ông điên? Ông điên mà ông nhớ được chuyện cổ tích a, nhớ được công lao kháng chiến của ông a?"
    Người đàn bà trong bếp nghe láng máng tiếng người trên nhà cũng thò đầu lên như hóng chuyện. Cái mặt mụ nhăn nheo xém ngoét, miệng há hốc trơ ra lợi hàm dưới đỏ hỏn, đã mất hết răng. Như là nghe nói ai ở đâu chứ không phải chuyện về cái thằng xếp bốt năm ấy ngủ với mụ ta. Dáng ngơ ngơ, mụ ấy mới lẩn thẩn.
    "Bấy giờ tôi khoẻ như ông hùm ấy chứ. Tôi lôi thằng dê xồm ra chỗ gốc duối kia. Tôi hoa mã tấu lên. Cái đầu nó nhảy nhốp nhốp dưới đất như con cóc phun nước. Tôi xách cái đầu lâu nó về huyện đội. ấy thế mà rồi sau tôi xin huân chương, chúng nó bảo tôi báo thù thằng ngủ với vợ chứ không phải là thành tích. Báo thù thì tao phải beng cổ cả vợ tao chứ, có phải không ******?".
    Người đàn bà quay mặt vào, không ừ hữ một câu. Lại nghe tiếng sảy hạt tấm hay mày ngô rào rào như mưa thưa. "Anh đội tính cho tôi thế nào? Công tôi to chứ, phải không?"
    Tôi ậm ừ.
    ?oĐược rồi.?
    ?oỐi, anh đã bảo được đấy nhé. Làm giấy cam đoan đi rồi cho tôi làm trưởng thôn, phế thằng tư Nhỡ đi. Tôi sẽ vạch cho đội lôi ra hàng đàn địa chủ. Cứ tính đứa nào có ruộng thì ghi tên nó là thằng địa, nhiều ít mặc kệ, có ruộng có đất chẳng là thằng địa thì là con hùm ăn thịt người à, có phải không anh đội??
    ?oĐược, để đội xét.?
    ?oCái gì cũng bảo để xét, trên huyện cũng nói để xét, rồi mất hút con mẹ hàng lươn. Để xét thì ăn mẹ gì! Thôi, mời anh cút, cút đi.?
    ?oNóng tính thế. Tên là gì??
    ?oAnh là Tây đồn hỏi lục vấn tao để bắt bỏ tù à??
    ?oKhông phải. Tây nó về nước Tây rồi, đội hỏi để biết.?
    ?oThế thì báo cáo đội tôi là bần cố, tên tôi là bần cố Vách. Cả hàng huyện này ai cũng biết Vách đồ tể. Ngày trước mổ Tây, bây giờ mổ lợn. Hôm nào được con lợn có lòng ngon anh đội đến đánh chén sớm nhé. Không, không được. Đội đương còn phải ăn cháo cám với dân kia mà. Cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm. Cùng hai thứ thôi chứ, đừng cùng ngủ với con cái Đơm nhé. Khớ! Khớ!?
    Vách rụt cổ cười rũ rĩ. Về nhà, tôi hỏi bác Diệc:
    ?oCái thằng Vách ấy là thế nào??
    ?oTrước kia nó là du kích huyện, Tây bắt được, bị đem rập đầu vào tường một ngày rồi sau đâm ra lẩn thẩn. Nhưng nó mổ lợn thuê khéo lại nhanh mà cũng lắm lúc nói khôn đáo để.?
    Có hôm tôi hỏi thì cô Đơm lại nói khác:
    ?oChú Vách đi du kích thoát ly, nửa đêm về bắt được ông xếp bốt hương Dũng nằm với thím ấy, chú ấy dong xếp bốt ra đem trôi sông, từ đấy bị cái ma oán đâm ra dở người.?
    Buổi trưa, Đơm đi đâu chưa về. Ban ngày tôi mới trông rõ bát cơm màu vàng cám, lổ đổ vài hạt gạo còn sống nhăn. Tôi lại sợ tắc ruột, chỉ và nhếu nháo mấy miếng rồi ra ngoài vại chiêu bát nước lã. Tôi bảo bác Diệc:
    ?oSáng nay làm gì??
    ?oChẳng làm gì cả.?
    ?oMai có đi làm rủ tôi với.?
    ?oTôi đi cả buổi, nhưng anh... anh ở nhà...?
    ?oTại sao, đi cả buổi mà??
    ?oĐi đào lỗ rắn thôi, anh không làm được, không, anh không được làm. Mùa này rắn bắt đầu vào ngủ hang. Đi bắt vài con về làm thức ăn.?
    Cái đòi đi cùng làm của tôi chết ngấm. Bắt rắn! Tôi sợ rợn gai người. Tôi im lặng không nói gì nữa. Bác Diệc cười gượng, rồi chép miệng:
    ?oNhà có khách mà chẳng có gì ăn. Thằng bé đi câu ếch ngoài ruộng cũng về không. Mai ba bố con đi bắt rắn, bắt chuột. Cũng là còn sớm chưa có hạt lúa chưa chắc chuột nhà đã ra ở đồng. Nhưng mà trông anh...?
    Không thấy rủ tôi đi bắt chuột, tôi nhẹ người. Tôi hỏi:
    ?oĐồng áng thế nào mà hết rắn lại chuột...?
    ?oTháng ba ngày tám, chỉ còn ngồi trông ngọn lúa. Thỉnh thoảng cào cỏ. Nhà tôi có mỗi miếng ruộng, quơ nửa buổi đã sạch trơn. Chẳng đào đâu ra việc cả.?
    Bác Diệc lại hoe hoe cười như không:
    ?oTrông anh nhai cám tôi ái ngại lắm.?
    Tôi ngượng, kiến bò rần rần trên mặt.
    ?oTạng tôi cơm nước thế nào cũng đểnh đoảng vậy thôi.?
    ?oHay là mai đi với tôi. Anh đứng trông rọ thôi. Tôi đã thấy một hang đất đùn, không phải vết lườn bụng rắn, chân chuột nhìn rõ ghê.?
    Tôi chối khéo:
    ?oSáng mai tôi phải lên hội ý đội.?
    Rồi tránh quanh quẩn rắn với chuột, tôi sang việc khác:
    ?oNhà nào có bát ăn nhất thôn này??
    ?oNhà trưởng thôn tư Nhỡ.?
    ?oChỗ nào??
    ?oBên kia cái ao có mấy cây dừa.?
    Tôi toan giở ngón lười, vặn vẹo thêm bác Diệc mấy câu nữa để lấy con số. Nhưng lại nghĩ: Bước một của ta thế là thắng lợi trông thấy rồi, mai đi báo cáo thì ta nhất đội chứ ai. Nhưng cứ điều tra tình hình tường tận mọi mặt rộng ra, chẳng mất gì. Mấy lỵ chịu khó bây giờ, bước hai sẽ được thong thả.
    Nghĩ thế, tôi đi đến nhà trưởng thôn tư Nhỡ. Diệc đứng dậy, nói: "Anh đừng..." rồi không nói thêm.
    Tôi cũng chẳng để ý, bước ra ngõ.
  4. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Những cây dừa xanh om bên kia ao tôi đã trông thấy từ chiều hôm trước, nhưng không biết đằng sau vườn dừa còn có nhà. Vào quá mép bờ nước, trước mặt trải ra một con đường lát ba hàng gạch nghiêng, đi phía ngoài không nhìn thấy. Hai bờ giậu, hàng dâu xanh mướt. Những cây dừa lửa mùa này lúc lỉu chùm quả vàng xẫm. Trong kia, như trổ vào giữa luỹ tre, một chiếc cổng tán buông kín khít giữa hai cột tre đực, trên nóc cổng tán lòng vòng mấy hàng chông dây thép gai. Cái cổng ngõ chống cướp chống càn của thời nhiễu nhương vừa qua. Bên trong, ẩn một ngôi nhà ngói mái phủ trĩu rêu xanh xẫm, hai đầu mái nhô đầu chuôi vồ ngất nghểu.
    Đàn chó xông ra sủa râm ran. Nhưng không phải chó dữ, chỉ là mấy con chó giữ nhà đánh tiếng. Một ông lão áo cánh năm thân nhuộm vỏ dà, bộ râu dài đen mướt như tóc buông. Hai con mắt còn nhưng nháu thế kia, tôi đoán không thể lão đã lên ngôi cụ mà lão chỉ là người chơi nuôi râu. Ông ta cúi, rút chốt nhấc cổng tán, suỵt đuổi những con vện, con vá lốc nhốc chạy quay vào dưới nhà ngang.
    ?oMời anh đội vào chơi.?
    Trên một bên cánh cửa treo tấm gỗ mộc ở giữa sơn đen một dòng chữ to: Hutte cent ans [2] . Tôi đánh vần bập bõm, nhưng không biết nghĩa. Trong nhà, đúng kiểu cách nếp nhà phong lưu đồng quê, phản gỗ mít, giường thờ hương án sơn then, đôi giải y môn màu hoa hiên đã úa.
    Chủ và khách ngồi bên chiếc tràng kỷ mây đan, giữa bàn đặt một bát điếu mộc và cái ấm rỏ. Chủ rót mời chén tống nước chè nụ âm ấm.
    ?oBác là bác tư Nhỡ trưởng thôn??
    ?oThưa, tôi là tư Nhỡ. Còn trưởng thôn thì tuỳ đội bây giờ thương để cho thì được.?
    ?oNhà ta đi vắng cả??
    ?oMẹ nó, với các cháu lên chợ huyện. Chả ngoài vườn có buồng chuối, buồng cau đem bán, nhân thể mua mắm muối. ấy làng xa chợ vất vả thế, mỗi việc đi mất cả buổi. Thế anh đội về ở nhà ai??
    ?oNhà bác Diệc.?
    ?oÀ, nhà Diệc...?
    ?oNhà ta năm nay...?
    ?oCảm ơn anh thăm nghèo hỏi khổ. Tôi xin kể sự tích tôi về cái xóm Am này cho anh nghe. Năm trước, tôi học trên huyện. Thời Tây, trên huyện mới có trường mà. Rồi bố mẹ tôi mất cả. Tôi phải bỏ học về trông nom cửa nhà. Nhà tôi độc đinh, tôi là con một. Ruộng nương có một ít, lại xâm canh bên kia sông.?
    ?oSao con cả lại là tư??
    Tư Nhỡ vuốt râu, cười:
    ?oẤy, tư là tư văn. Mua cái tư văn, được ra văn chỉ điếu đóm các cụ, khỏi bị xách nhiễu phu phen tạp dịch.?
    ?oBao nhiêu tuổi thì được vào tư văn??
    ?oKhông lệ tuổi, chỉ biện mâm xôi con gà với khoản tiền khoán. Tôi năm nay ngoài ba mươi.?
    ?oBa mươi bao nhiêu??
    ?oBa mươi tư ạ.?
    ?oThế mà để râu dài đến rốn!?
    ?oẤy bộ râu cũng có sự tích bộ râu ạ. Quê chúng tôi gọi râu này là râu chống càn. Chả là mỗi lần Tây các bốt quanh vùng kéo qua đây, khi lấy phu vác đạn, khuân đồ, khi bắt lính, bắt người đẩy ra đường 5 đi trước hứng mìn. Râu tôi dài thế này, già nua thế này, tôi lại chỉ lên biển có hàng chữ Tây "Cái lều một trăm năm" kia, thế là chúng nó cười hố hố, xuống lục trứng chuồng gà, ra vườn đẵn chuối, lấy đu đủ rồi cút. Lần nào tôi cũng thoát, anh ạ.?
    ?oBây giờ thì cắt râu được rồi.?
    ?oDạ.?
    Tôi ngồi một lúc, không còn gì hỏi nữa, đứng dậy. Tính nhẩm đã vào các nhà trong xóm, mấy người... mấy người... Tối nay họp rễ chuỗi, chiều mai ra sân đền họp đội. Nhất định mình bơi loại một, thoạt đầu đã trúng rễ, lại chuỗi, mấy chuỗi. Có thể cả tư Nhỡ, ruộng vài ba miếng, lại xâm canh đồng làng khác thì chưa phải địa, phú mà lại có tinh thần chống càn. Nhưng mà trưởng thôn, lúc nãy quên mất chưa tuyên bố cắt chức trưởng thôn Tư Nhỡ, vì tổ chức cũ phải giải tán, có cử lại anh ta thì cũng là tổ chức mới. Sắp sẵn người khác, hay là Vách, Vách khùng có được không, còn Đơm thì đội du kích rồi... Trông Đơm lam lũ, rách rưới, nhưng cái vai, cái lưng mây mẩy và hai con mắt thì ngon như củ khoai lùi ăn được. Chạnh lòng nhớ cái câu trắng trợn của thằng Vách nói "ba cùng nhưng không được cùng ngủ với con Đơm". Là đùa, cũng là thật, thằng khùng mà ma xó.
    Về đến nhà bác Diệc. Cũng như chiều hôm trước Đơm đương lúi húi trong bếp. ở góc buồng ngoài, hai con mắt trắng rợn của người tàn tật nhìn lên. Đơm ra rút rạ.
    ?oAnh đã về.?
    ?oTrưa nay Đơm đi đâu??
    ?oEm xuống chợ mua cái này.?
    ?oChợ huyện à??
    Đơm không trả lời mà lấy trong yếm ngực ra giơ lên một gói lá chuối. Mảnh lá chuối cong cong, thò hai chiếc bánh đúc ngô vàng hây, cả miếng cháy ở giữa đen giòn. Đơm đưa bánh cho tôi.
    ?oÔ hay, sao thế này??
    ?oEm thấy anh thích ăn bánh ngô.?
    ?oSao em biết??
    ?oEm nhặt cái lá ở gầm chõng, còn dính bánh...?
    Chết tôi rồi. Đơm cười, nét mặt cô gái dậy thì xanh xao bỗng đỏ hồng, xinh hẳn. Có lẽ cô cười cái mặt nhăn nhó, méo mó khó hiểu của tôi. Nhưng tôi cầm ngay cái gói bánh. Vừa thấy cái bánh, cơn đói đã bồn chồn lên rồi. Tôi chẳng ngại. Năm ngoái ở Quảng Xương, ở Thiệu Hoá, ở Nông Cống, không ở đâu tôi chịu đói. Tôi vẫn ăn vụng. Mỗi hôm đi họp đội, tôi lại tạt vào chợ, vào quán, mua kẹo, bánh đa ướt, có khi lùa vội bát bánh đúc chan canh cua. Chỉ cốt trông trước trông sau, không để ai nhìn thấy thôi. Mà biết đâu, suy bụng ta ra bụng người, có lẽ cả đội cũng thế, cũng ăn vụng.
    Tôi bỏ gói bánh vào cái túi đeo vai. Nhưng tôi vẫn nắm tay Đơm. Trong mảnh áo rách vai, cái chân vú nần nẫn. "Em ngoan quá". Tôi lấy trong khe quyển sổ ghi chép ra hai tờ giấy bạc một đồng kẹp trong đấy.
    ?oCầm lấy, thỉnh thoảng mua bánh đúc cho anh. Đừng để ai trông thấy nhá. Anh đương phải ba cùng.?
    ?oEm biết rồi.?
    Đơm cầm tiền, đút vào mép yếm.
    ?oEm có cái túi hay nhỉ??
    Tôi thò theo lách vào ngực Đơm.
    Đơm đẩy tay tôi ra.
    ?oRõ cái anh!?
    ?oAnh xem cái chỗ để tiền.?
    ?oNgoài này kia mà, lại đi sờ vào trong.?
    ?oAnh nhầm.?
    Tôi lại thọc vào ngực Đơm như vừa rồi. Lần này Đơm đứng tây ngây, mặt đỏ lịm, để yên cho tay tôi vân vê.
    Chập tối, tôi nói với bác Diệc: "Đi bảo cậu Vách xem còn người nào trong xóm cũng nghèo như cậu ấy thì rủ vào đây tối nay họp rễ chuỗi". Một lúc, mấy người lục tục đến, cả Đơm cũng được họp, mỗi người tìm cái cột ngồi tựa vào. Im lặng, chờ tôi nói. Tối mít chẳng ai nhìn thấy mặt ai. Đến lúc bác Diệc thấy tôi mở quyển sổ túi xách mới vào bếp cầm ra cái đèn đom đóm như đêm trước.
  5. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Một bóng người cao lớn lù lù vào cửa. ánh đèn vừa loé thấy tư Nhỡ. Vẫn tấm áo năm thân lụng thụng, nhưng bộ râu ria đã cạo nhẵn, mặt trơ khấc, lơ láo trông khác hẳn.
    ?oChào các đồng chí!?
    Vách đứng bật ngay lên, sừng sộ.
    ?oAi đồng chí đồng chuột với mày! Mày là thằng trưởng thôn của đế quốc, ai bảo thằng tổ chức cũ đến đây. Anh đội cho thằng này họp với chúng tôi à??
    Tôi bước ra, nói nhỏ với tư Nhỡ:
    ?oHôm nay chưa họp xóm, tối mai.?
    Tư Nhỡ tiu nghỉu quay ra, mất hút ngay vào bóng tối.
    Vách còn đay đi đay lại hỏi người nào gọi thằng tư Nhỡ đi họp rễ chuỗi. Ai cũng im thít, không ai nói và cũng bởi vì không ai biết. Chỉ tại tôi, lúc chiều ở nhà tư Nhỡ ra, tư Nhỡ theo, nằn nì: "Tối nay họp à? - Không hiểu sao, tư Nhỡ đã biết. Anh cho đàn em họp với". Tôi cũng ừ ào, thế là nó cạo râu, đến.
    Tôi mở sổ tay, mặc dầu ánh đèn không thể nhìn ra chữ, tôi cúi xuống làm như nhìn giấy rồi ngẩng lên nói một thôi, một hồi: ... phóng tay phát động... giai cấp nông dân đánh đổ giai cấp địa chủ... Tối mai họp xóm tôi công bố... tôi chỉ định đồng chí Diệc ra làm trưởng thôn xóm Am...
    Vách hỏi:
    ?oThay thằng tư Nhỡ à??
    ?oGiai cấp nông dân ta từ nay làm chủ.?
    Một mình Vách vỗ tay.
    ?oThế thì được.?
    Tôi tuyên bố giải tán cuộc họp.
    Vách sửng sốt lại hỏi:
    ?oCòn cụng đầu tố khổ kia mà.?
    Tôi gạt đi.
    ?oVừa rồi thế cũng là tố khổ. Chúng ta làm việc phải hết sức khẩn trương.?
    Tôi nói và đứng dậy. Phải, họp cũng là tố khổ chứ còn gì. Cái thằng Vách nửa điên nửa tỉnh này có thể rầy rà đây. Mọi người về rồi, tôi lại nằm trên cái chõng. Tôi lần túi lấy hai chiếc bánh đúc ngô của Đơm, ăn xong chỉ kịp nhớ quờ tay bỏ mảnh lá chuối vào túi dết rồi ngáy khò khò.
    Sáng hôm sau, bố con bác Diệc đã biến đi từ bao giờ. Không biết Đơm đi đào chuột với bố hay lại lên chợ huyện mua bánh đúc. Bác Diệc không rủ tôi như hôm qua nói. Và bác tưởng tôi phải đi họp. Thôi thế cũng may, bắt chuột cũng khiếp như bắt rắn, những cái nợ đời gớm ghiếc ấy. Mà tôi biết bụng người ta chẳng ai dám thật lòng rủ đi làm. Anh đội bảo thì phải rủ thôi. ở Nông Cống, tôi cũng vác cuốc ra đồng, rồi quảy đất đắp đê, sưng tấy cả bên bả vai. Thấy tôi lớ ngớ ngứa cả mắt, lại đau vai, hôm sau anh rễ xin tôi cứ ở nhà nghiên cứu tài liệu, trông đỡ trẻ con và quét nhà. Thì ở đây cũng thế.
    Tôi mở sổ tay ra, kê lên ba lô. Người mẹ ốm như cái cọc bếp, có cũng bằng không, tôi chẳng để ý đến. Thực tôi cũng không có việc phải nghiền ngẫm sổ tay. Tôi ngồi rình xem Đơm có về. Tôi nhớ cái vú nây nây. Con mèo đợi vồ chuột. Đêm ngủ say quá chứ thèm từ chiều hôm qua. Khác nào thỉnh thoảng được cái bánh đúc, nuốt hết rồi mà môi mép vẫn tóp tép. Nhưng không thấy Đơm về.
    Đến gần trưa, bác Diệc lùi lũi vào cổng. Những vết bùn xám xì lấm lên tận mặt. Không được con rắn con chuột nào. Chuột làng mới chỉ đánh hơi tìm hang mà chưa ra đồng ở. Về qua cái vũng trâu đầm, be lên, bắt được mấy con tép. Mọi khi thì ném vào cái chĩnh làm nước cáy. Nhưng nhà có khách, đem nướng cho bữa có mùi thịt cá. Không thấy Đơm cùng về. Đơm đi đâu? Hay bởi nồi cơm cám nuốt khé cổ buồn như chấu, chỉ có người mẹ không lạch đi được đành ngồi nhai nghẹn từng miếng. Chứ ai kiếm được cái ăn chỗ nào cứ việc đi, chẳng cần bữa ở nhà. Vắng cả những thằng cu con. Tôi với bác Diệc ngồi ăn bát cám có mùi gạo tấm, mùi tanh con tép, cũng dễ nuốt, hơi khác mọi khi.
    Ngủ trưa dậy bác Diệc đã lại đi rồi. Tôi vào góc bếp, cầm một cái cào cỏ. Tôi vác cào lên, một bên vai đeo túi dết. Cả xóm biết anh đội đóng bộ đi làm đồng đấy. Ai chả biết anh đội làm trò, tôi mặc họ và thản nhiên. Tôi xắn quần, đi từ xứ đồng cao trong chân tre ra con ngòi sâu rồi lại lội qua mấy khoảnh ruộng trũng. Đương khi nông nhàn, đồng áng lơ thơ xa xa mấy người lúi húi cào cỏ. Thấy người lội đồng đội mũ, quần xoe trên gối, người ta ngẩng lên rồi lại cúi xuống quờ tay quanh gốc lúa. Anh đội, anh đội thăm đồng đấy mà.
    Tôi có thăm hỏi đồng áng gì đâu. Đi guốc vào bụng những anh đội mắt trố như mắt chó giấy, cái gì cũng lạ lại làm vẻ ta đã thạo. Nhưng tôi còn láu cá hơn cả những người có thể biết tôi vờ vẫn. Tôi cốt vác cào cỏ, sục mấy cái cho răng cào dính bùn và hai ống quần thì lấm tấm cỏ may. Tôi ra cửa đền ngoài chân đê hội ý đội. Làm bộ như tôi đi làm đồng về chưa kịp rửa ráy, vác cả cào cỏ đến thẳng chỗ họp.
    Tôi bước lên đường cái. Có người trong xóm chạy ra hớt hải gọi:
    ?oAnh đội! Anh đội!?
    Tôi quay nhìn. Lại thằng Vách. Tay Vách lăm lăm con dao bầu sáng loáng. Tôi chợt hoảng. Thằng này nổi cơn điên hay sao. Nhưng nhớ ra cái nghề mổ lợn của Vách, tôi bình tĩnh lại.
    ?oGì thế??
    ?oTôi bảo anh đội hai câu này nhé, hai câu thôi. Có nghe tôi mới nói.?
    ?oNói đi.?
    ?oTối hôm qua anh không cho tôi tố thằng tư Nhỡ, tối nay họp xóm tôi tố nó. Anh bảo phóng tay kia mà...?
    ?oCòn câu thứ hai, nói nốt đi. Đương vội đây.?
    ?oAnh ra đền họp bí mật với đội chứ vội quái gì.?
    Rồi Vách cười khạch khạch, giơ dao:
    ?oNày tôi mách anh: cái thằng Diệc làm rễ của anh là rễ thối đấy. Con cái nhà địa, anh biết chưa??
    Tôi đứng nhìn Vách, không biết nó lỡm hay thực.
    ?oTôi chỉ nói thế. Anh đi hỏi cả làng này xem.?
    Rồi Vách múa con dao quăng quả đi. Tôi có cảm tưởng câu nói của nó vừa rồi có lẽ là tỉnh, bây giờ hoa dao lên mới là điên. Tôi lặng một giây, rồi lại tiếp tục đi. Cũng chưa nghĩ ra thế nào.
    Tưởng đến sớm, hoá ra đội trưởng Cự và mấy anh đội bần cố ở xã lên chưa có tiền sắm đồng hồ thế mà đã đúng giờ ngồi trong đền. Hai anh đội này sợ Cự một phép, việc gì nặng nhọc cũng xung phong. Cả cán bộ Đình ở xóm bên cũng đã đến. Lại ngỡ chỉ một mình mình cầm cái cào cỏ có vết bùn. Không, xem ra người nào cũng khoe ngầm ta vừa chân ướt chân ráo ở nơi bán lưng cho trời bán mặt cho đất về đây. Người thì cái giỏ đeo đít; người cái cuốc trên vai hạ xuống; có người quang gánh lõng thõng để ngoài thềm, cái thừng và chiếc nõ xỏ mũi trâu lăn lóc trong đám cỏ làm như đương đi đuổi trâu. Nhưng ai ấy có khôn mà chẳng ngoan. Sợi thừng gác bếp còn rơi ra cả tảng bồ hóng. Biết tẩy nhau cả. Mọi người nhìn nhau chỉ nhác một cái và lặng lẽ quay mặt đi.
    Trong chân tường, chuột đùn lên từng đống đất. ồ, mai ta bảo bác Diệc ra đây mà hun chuột. Tôi chưa biết mùi thịt chuột thế nào, nhưng đã lâu chẳng được miếng thịt vào miệng, đã nghĩ thèm, thịt nào chẳng là thịt. Mọi người tới đông đủ. Chúng tôi như một bọn lén lút cờ gian bạc lận, kéo ra đây đánh xóc đĩa lột nhau giữa nơi hoang phế đồng không mông quạnh. Hoặc như ngày xưa, cánh cướp tụ bạ một chỗ đợi đêm tới bật hồng lên xông vào làng. Vẻ mặt người nào cũng ra chiều đăm chiêu, quan trọng. Chúng tôi đương làm thay đổi cái làng này, xã này. Cả nước đã đứng lên. Các tổ chức sẽ bị đánh đổ, bao nhiêu địa chủ và bọn bóc lột phải đạp xuống đất đen, chúng tôi phóng tay đưa bần cố nông lên vị trí và địa vị người chủ thực sự của đồng ruộng. Tôi đương làm thế, tôi đã làm thế, tôi đương làm từng ngày, từng ngày theo kế hoạch...
    Tôi nhấc túi trên vai xuống, kê cái cào, ngồi. Tự nhiên, tôi liếc nhanh cái ba lô đội trưởng xem có lá bánh lòi ra không. Gớm thế, cái đuôi mắt có ve của Đình đã nháy tôi một cái. Không biết thằng thâm thiểm này định ra hiệu thế nào. Có lẽ cũng chỉ thông báo: không có gì trộm được của đứa ăn vụng khác đâu.
    Tôi mở sổ tay ra nhẩm việc. Đã bắt được rễ, rễ cái chắc chắn. Đã họp rễ chuỗi. Chắc là cái thằng chuỗi điên dèm pha bác Diệc thôi. Ta phải quyết chứ. Tối mai họp xóm, giúp cho Diệc đứng vị trí vai trưởng thôn. Nguyên tắc: làm kỹ nhưng không được làm thay. Các bước sau còn dồn dập, còn nhiều cái khó. Đã nắm được tình hình xóm và tổ chức cũ. Cứ báo cáo cách ăn nói của Vách và cuộc thăm dò nhà tư Nhỡ, đi sau đi sát đến thế chứ thế nào. Có ba hôm làm những ngần ấy việc.
    Nhưng tôi vẫn còn lờ ngờ. Ai cũng trình bày sôi sùng sục. Chưa đến lượt tôi, nhưng thoáng so sánh, việc mình làm đâm ra chỉ bằng con muỗi mắt. Họ giỏi thế thật hay sao? Đội trưởng Cự đứng băm cả hai bàn tay, mắt đỏ đòng đọc. Lợi dụng lúc ấy, tôi đá ngầm cái đít túi dết. Quả là chỉ vấp cái mép bìa sổ cứng.
    ?o... Liền hai đêm đội họp rễ chuỗi. Cụng đầu tố khổ luôn, bộc lộ tức khắc tình hình. Tinh thần nông dân lên, chặn đứng mọi thủ đoạn âm mưu địa chủ. Đêm qua họp xóm tố khổ suốt sáng. Phải cản lại chứ nhiều người cầm dao vừa chạy vừa khóc đi tìm địa chủ (Tôi nghĩ bụng: - ờ mình đụt thật. Tưởng chưa đến bước ấy. Không sao. Sẽ báo cáo đã tố khổ suốt đêm, suốt hai đêm). Đến sáng, tất cả đầm đìa nước mắt. Tôi cũng khóc. Cái khổ như núi đè xuống, phải cứu giai cấp nông dân. Không đợi họp xóm, chưa đưa rễ lên làm trưởng thôn mới, cứ tập thể rễ chuỗi là trụ cột rồi. Tôi đã xin được lệnh đoàn uỷ cho bắt bí thư chi bộ xã, thằng bí thư hai mang. Hai tên khác có nhiều hối cải nên cho canh gác khống chế tại nhà. Xóm nào cũng phải phòng đưa nhân sự lên. Lấn bước sau, để có thì giờ dự trữ làm kỹ. Thế là đội ta đã chiếm lĩnh trận địa, dựng được một đầu cầu vững chắc ở thôn Đìa. Các xóm khác cho biết tình hình thế nào??
    Đình còn hăng hơn đội trưởng:
    ?oTôi đến đây họp thì ở nhà rễ chuỗi còn đương cụng đầu tố khổ, quên cả cơm trưa. Trưởng thôn cũ nghe mong manh đã chạy trốn, tôi cho đuổi tóm được giải về cũi vào chuồng trâu rồi.?
    Lúc đội trưởng Cự bắt bí thư và cho du kích canh gác nhà địa thì tôi câm như hến. Nhưng nghe cán bộ Đình nói thế tôi đứng phắt lên:
    ?oPhải có biên bản, tôi ký đề nghị bắt đã chứ. Tôi đội phó phụ trách toà án. Phóng tay, nhưng đúng pháp luật mới được.?
    Đội trưởng Cự nói như quát:
    ?oĐồng chí Bối phát biểu đúng.?
    Tôi phổng mũi nhưng lại xẹp mũi liên tiếp, khi đội trưởng vẫn nói:
    ?oSong không thể lề mề, lối bàn giấy như đồng chí Bối, thế thì xổng bu, xổng chuồng, chúng nó chạy ráo. Cứ như đồng chí Đình, đến khi bắt đầu bước hai, đội đặt văn phòng cố định bấy giờ bày biện giấy tờ ra cũng vừa. Bây giờ cứ miệng nói tay làm, nhanh nhanh lên, nhanh lên.?
  6. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Tôi chưa định thần thì đội trưởng trỏ tay, đến lượt tôi báo cáo. Đã nghe mấy thôn rồi, tôi biết cách thêm chi tiết dấm ớt, hơn hẳn những tính đếm dự định lúc mới đến. Riêng việc thằng Vách đón đường mách Diệc có liên quan địa chủ thì tôi giấu. Nói ra chỉ rắc rối, mà còn phải kiểm tra đã. Báo cáo tình hình thôn Am...
    ?oKhông được thì thào chuyện riêng. Nghe thôn Am...?
    Tôi thao thao dõng dạc, mạch lạc, tự tin, như thật. Không dữ dội bắt bớ, nhưng đúng phăm phắp bài bản ba hôm đầu tiên xuống xã.
    ?oCác đồng chí góp ý kiến với thôn Am nào. Mau lên, tối nay còn họp xóm cho kịp lịch công tác.?
    Bên kia đê, mặt trời đã xuống vàng khé. Bỗng nhiên đội trưởng Cự choảng tôi chan chát:
    ?oĐồng chí Bối bắt ngay được rễ, lại xâu chuỗi, cụng đầu tố khổ rồi nắm tình hình xóm và đi xem xét đồng ruộng, thế là ưu điểm. Nhưng mà ưu điểm ấy chỉ để thằng biết võ đánh nhau với thằng biết võ. Kẻ thù không cần như thế, đồng chí còn đương múa may ra võ, nó đã thò tay bóp dái đồng chí ngã lăn đùng ra rồi. Nó phá ngay trước mặt mà đồng chí không biết gì cả. Cái thằng khiêu khích, thằng Vách ấy phải gô cổ nó lại, sao lại để cho nó họp chuỗi. Không được, về cho bắt ngay. Phải gác nhà thằng tư Nhỡ, nội bất xuất ngoại bất nhập. Thằng này vờ vẫn mua chuộc cán bộ đấy.?
    *
    Tháng ba năm ấy, làng vào hội lệ.
    Xưa nay, làng này chẳng có hội bao giờ. Chẳng phải vì sự tích ông thần hoàng, vì cái hèm có kiêng kỵ, mà bởi làng nghèo không đủ người có tiền giắt lưng đóng góp được xuất việc làng. Đến ngày kỵ thánh hàng năm cũng chỉ có mâm xôi con gà, thẻ hương của hội tư văn biện lễ. Rồi thì gặp năm phong đăng hoà cốc, được vẻ no ấm mới gọi phường xứ Đông sang hai ba đêm chèo hát. Thế thôi, mọi thứ chỉ thèm mà không có rồi đi xem hội, đi xem rước làng khác. Con trai, con gái nô nức đi nhòm ngó cái vui của người ta. Có lẽ bởi thế mà con gái làng, như cái Duyên, nhiều đứa lấy chồng thiên hạ.
    Tiếng trống chèo rộn từ chặp tối. Bốn bên lặng phăng phắc, người đã đổ ra bãi cỏ cây đa đầu làng. Nhà trên, nhà dưới, ngoài vườn nhà lão phó Thìn cũng im lìm như mọi nhà cả xóm. Lần lần vào đêm, tiếng mõ, tiếng trống, tiếng thanh la xa xa cứ thanh mảnh, giòn tan, có lúc trong gió vẳng lại cả tiếng hát ơi ới.
    Trong nhà vắng người, những con mối đuổi nhau vờn nhau trên vách, kêu roèn roẹt, rồi lại im như tờ. Dưới nhà ngang - ngày mùa vào vụ chiêm hay tháng mười, thợ cày thợ cấy, thợ gặt đến ở, kẻ ăn người làm tấp nập ngày đêm như phiên chợ. Cả khi vãn vụ cũng còn lại mấy người ở mướn quanh năm trông nom vườn ruộng.
    Đã gần nửa đêm. Bên kia những khoanh tre, tiếng trống, tiếng gõ beng beng sắp tan trò cứ sôi lên rồi lại phẳng lặng. Ngay từ sau cơm chiều với mấy chén rượu lão phó Thìn đã ngủ được một giấc, bấy giờ trở dậy. Lão ra sân, bước thong thả, không ra đi dạo, không đi canh nhà. Mà thói quen như đi tuần, như đốc phu, đêm nào cũng từ lúc ấy đến sang canh, tay cầm cái gậy tre, lão rà rà trên sân gạch xuống sân đất ra ngõ cổng tán rồi ngoài bờ luỹ. Cho đến lúc nghe tiếng con vạc đi ăn đêm về bay qua ngọn cây dừa, lão mới vào nhà, lại ngủ lại cho đến sáng bạch.
    Những đêm chèo hát thế này, lão phó Thìn còn thức đợi bọn người làm đi xem về, soát chúng nó đóng cửa có cẩn thận không, thường khi cứ phải chốt lại. Phó Thìn đứng ở cổng trong, cạnh bụi chuối, ánh trăng nhạt thấp thoáng những người đi chơi về không trông thấy, mà có nhìn thấy chắc cũng biết lão hay đứng như ma xó, chẳng phải rình mò gì. Nhưng phó Thìn đã đếm từng người vào. Lão lẩn thẩn đếm chơi, mà cũng thử xem thừa thiếu thế nào, ngộ có đứa phản chủ dắt đất đem kẻ cướp vào thì sao.
    Người đã về cả, lão ra mó máy những cái then, cái chốt đã cài, đã nêm kỹ chưa. Những tối thường ngày cũng làm thế, có vậy lão mới vào ngủ lại được.
    Diệc về sau cùng. Lão trông thấy bóng thằng Diệc cởi trần đi lênh khênh. Diệc ở nhà ông phó đã lâu. Diệc mồ côi cha mẹ, Diệc đã đến ở làm nhà này từ năm Diệc còn để chỏm, chưa nhấc nổi cái cày, chỉ xách nước và đi cắt cỏ suốt ngày. Lão phó Thìn nổi cơn tò mò. Quái sao thằng Diệc lại đi sang phía bếp, chúng nó ở bên nhà ngang cơ mà.
    Bếp có một gian, gian bên đựng củi, thùng rơm và chạn bát. Bên trong, con Khoèo ở. Nó không nói, không đi được. Để ở nhà trên không tiện cơm nước và mọi thứ. Lão cho vảy thêm một trái làm cái ổ cho Khoèo.
    Nghĩ đến con, lão phó Thìn khi nào cũng rầu rĩ trong lòng. Như là thói quen đi rà rà trong nhà ra vườn ra luỹ rồi mới về chợp mắt lại được. Nhưng đây không phải giấc ngủ mà là nỗi lo, là sự đăm chiêu cả đời. Vợ chồng lão đông con, đủ nếp tẻ, đều đã nên người, dẫu lấy vợ lấy chồng làng hay ở xa thì cũng cơ ngơi đầy đủ cả. Chỉ còn một cái khốn khổ này. Sao mà lại sinh ra cái quái, cái nợ thế. Không khi nào lão dám nghĩ hơn nữa.
    Thằng Diệc kia đi vào trong bếp làm gì. Lão chỉ nghĩ thấy lạ thế thôi, chứ lão cũng không sinh nghi. Thằng Diệc hiền như đất, không phải đứa trộm cắp. Mà trong bếp cũng chẳng có của nả để lấy và lão cũng không mảy may ngờ nó có tình ý ra sao với cái con Khoèo bộ xương ngồi xương nằm. Mà trời ơi, con Khoèo cũng ngoài hai mươi tuổi đầu, nhưng mà nó có phải là người đâu, nó có được làm người đâu, nó là cái phúc cái tội của nhà này thế nào đây.
    Nhưng trông thấy Diệc đi tới, lão phó lý chợt nảy một ý khác, lão phó chưa nghĩ ra thế bao giờ.
    Diệc đã trông thấy ông phó trong bụi chuối ra. Diệc chẳng lạ cái tính ông phó hay rà rẫm đêm hôm các xó xỉnh như thế.
    Diệc chắp tay:
    ?oÔng chưa đi nghỉ. Con đã chốt cẩn thận cổng tán, cổng trong rồi.?
    Lão Thìn vẫy cái gậy.
    ?oĐứng lại, tao hỏi. Mày vào bếp làm gì??
    ?oCon không vào bếp. Con đứng đái chỗ nồi nước thiếc ở ngoài.?
    Lão Thìn sừng sộ.
    ?oĐừng có chối. Ông đã trông thấy, ông đã biết, ông đã đi guốc vào đầu mày rồi.?
    Nói thế, ông phó Thìn lại dịu giọng, rẽ rọt buộc mở từng câu:
    ?oMày vào trong bếp với con Khoèo. Thôi tao cũng cho phép, đừng lén lút nữa mà tội nghiệp, tao cũng thương. Tao cho mảnh đất đầu đồng mà làm cái nhà, vợ chồng đem nhau ra đấy ở. Rồi làm hai miếng ruộng ở đồng cao ấy, tao cho. Tao cho không, nghe chưa??
    Diệc dạ nhịp. Diệc đã ngoài ba mươi nhưng biết là cái kiếp đi ở nợ cả đời rồi. Chưa bao giờ dám có ý nghĩ lấy vợ. Chẳng cơn cớ nào có thể để cho dám thế được.
    Ông phó đã nói thế, thế là thế nào. Thoạt đầu, câu nói lạ, khiến Diệc thảng thốt, Diệc nghe chưa thủng, đến lúc Diệc nghe ra rõ ràng thế rồi thì lại thấy êm êm.
    Một hôm, Diệc khiêng mấy cây tre ngâm trong ao ra, rồi dỡ cây rơm, quảy mấy gánh. Diệc lội ao vét bùn lên trộn trấu, ai hỏi bảo để chát bức vách. Chẳng mấy lâu, người đi qua đã trông thấy một túp nhà mái rơm mới.
    Đêm kia, trăng sáng nhàn nhạt như cái đêm hát chèo ngoài bãi cây đa. Diệc vào trong trái bếp, xốc cái Khoèo lên. Diệc vẫn cởi trần như đêm đi xem hát. Diệc cõng cái Khoèo ra nhà mới - cái nhà vẫn ở đến tận bây giờ.
    [1]Những bần nông, cố nông Đội Cải cách lấy lên làm cán bộ đội được gọi là rễ, chuỗi.
    [2]Tiếng Pháp, nghĩa là: Cái lều một trăm năm.
    Trời nắng ong ong đã mấy hôm, như sắp bão. Thôn Am rúc tù và từng hồi thúc người đi đắp đê quai phòng lũ. Người ra đồng cứ cung cúc như chạy mưa. Mọi khi chả việc công ích nào được nhanh nhẹn thế. Chính quyền xoá hết rồi, chưa có cả đến trưởng thôn. Vậy mà trên huyện vẫn có công văn thúc mọi việc. Thế là đội, các anh đội phụ trách xóm cáng hết. Ai cũng lội bì bõm như trâu đằm, cả các anh đội xung phong ra chuyển đất, bùn ánh lên mặt tôi nóng rát. Hò lơ... hó lơ... hò lờ... Lại hò hát. Kể ra mọi người cũng hăng thật, không việc công thì đi kiếm miếng ăn, cứ biền biệt từ mờ đất, trưa về lại ngồi học chữ.
    Ấy là chỉ có ở thôn tôi mở lớp. Đợt công tác nào tôi cũng giở môn võ mở lớp i tờ xoá mù chữ. Chưa nơi nào ê a nhai hết quyển vỡ lòng đã vỡ lớp bởi cải cách ở xã đã xong, hết đợt. Nhưng mỗi cuộc tổng kết tôi đều được biểu dương thành tích về văn hoá hơn các thôn khác. Chỉ có Đình cười nháy cái ve mắt. Chắc thằng này chửi thầm tôi úm phép mấy em. Quả là ở đâu cũng có các nàng dân quân đến lớp đông. Tối họp khuya, rồi đi gác rồi lại như ai dựng gáy lên từ mờ sáng. Không một lúc ngớt đầu tắt mặt tối. Hò lơ... hó lơ...
    Ngoài đê về, tôi vừa rửa chân tay xong dưới cầu ao, thấy đi vào một người, thoạt loáng thoáng, đến lúc ra khỏi bụi duối mới nhìn tường mặt một cô gái bước nhanh nhẹn, áo vải phin nâu, cổ tay tròn, mũi súng trường nhấp nhô bên mái tóc chít khăn đầu ngôi rẽ lệch. Không quen mặt, tôi đoán là dân quân thôn khác. Cô này gọn gàng, mắt sắc long lanh, cứng cỏi. Mấy hôm đầu mới về nhìn đâu, nhìn ai cũng chỉ thấy lam lũ. Cái áo tấc của Đơm về vệt bùn, bong mất cái khuy ngay giữa bụng. Ngửi người lúc nào cũng mùi cỏ khô. Nhưng lâu lâu, trông các cô cũng cứ hay mắt dần lên.
    Từ hôm tôi đánh vỡ cái ang quảy nước, bác Diệc bảo: "Anh đừng kín nước, cũng đừng ra đồng nữa, cứ ở nhà. Chẳng ai nói gì đâu". Tôi bảo: Anh mặc tôi, tôi phải cọ xát với bà con". Nhưng nói thế, bây giờ tôi định vào đánh giấc. Cả buổi sáng đắp đập be bờ vẹo xương rồi.
    Tôi ngồi xuống chõng. Bác Diệc gái im lìm trong xó tối, nhìn con cóc rình đớp mồi. Nhà không có ai.
    Cô gái nọ bước vào.
    ?oEm là chuỗi, em làm dân quân bên thôn Chuôm.?
    ?oÀ... vâng...?
    ?oĐồng chí Đình...?
    ?oĐình bên thôn Chuôm, tôi biết.?
    ?oBáo cáo, đồng chí Đình phạm kỷ luật.?
    ?oSao??
    ?oĐồng chí ấy dám hủ hoá.?
    ?oTôi không phải đội trưởng. Cái này đồng chí lên văn phòng đội.?
    ?oEm chỉ muốn nói riêng với anh thôi.?
  7. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0



    ặ mà lỏĂ, ai câng gỏằi nhau là 'ỏằ"ng chư, cô này lỏĂi "anh", dĂm thỏ à. Nhặng lỏĂi thỏƠy dơu dỏằm, 'i vỏằ>i nhau hai 'ỏằÊt, chỏng lỏĂ. Không phỏÊi nó chỏằ? tinh quĂi trông thỏƠy tôi thón cĂi gói bĂnh 'úc cỏằĐa 'ỏằTi trặỏằYng. Gơ câng vỏưy, nó tưnh 'ỏm và lỏưt mỏãt phfng phfng. CĂch bỏt rỏằ. cỏằĐa Đơnh câng khĂc ngặỏằi. ThoỏĂt 'ỏĐu, Đơnh sỏằƠc khỏp xóm mỏằTt lúc, vào nhà nào câng kê tiêu chuỏân ra hỏằi ngay: - MỏƠy nhÂn khỏâu? - Thặa, nfm ỏĂ. - Có bao nhiêu? - MỏằTt mỏôu hai. - Nfm khỏâu. Trung nông rỏằ"i - Tôi bỏằi quĂn triỏằ?t. Hà, hà... - Đơnh nói nói cặỏằi cặỏằi.
    BÂy giỏằ cô này tỏằ' cĂo Đơnh. Đơnh hỏằĐ hoĂ, tôi 'Ê gỏĂt 'i. Chỏng dÂy vào thỏng Đơnh. Nhặng thỏƠy cô con gĂi mà nói chỏằ hỏằĐ hoĂ ngon nhặ nói công tĂc, tôi câng thỏƠy hay hay. Tôi hỏằi:
    õ?oHỏằĐ hoĂ thỏ nào?õ?
    õ?oHỏằĐ hoĂ em ỏĂ.õ?
    Rỏằ"i tôi không kỏằc hai nhỏƠt 'ỏằTi, hỏt công tĂc rỏằ"i. CỏÊ ngày 'ỏằ"ng chư ỏƠy chỏằ? nỏm nhà. Em 'i làm vỏằ 'ỏằ"ng chư ỏƠy lỏĂi lôi em xuỏằ'ng bỏp. Em cào cho mỏằTt cĂi vào mỏãt chỏÊy mĂu ra 'ỏƠy, anh có trông thỏƠy mỏằTt vỏt quào ỏằY bên mâi 'ỏằ"ng chư Đơnh không?õ?
    õ?oViỏằ?c này phỏÊi lên...õ?
    õ?oTỏằ? lỏm, em không chỏằi bỏằ' em trong xóm.õ?
    õ?oTỏằ'i nào câng thỏ à?õ?
    Cô gĂi cặỏằi mỏằ?m khó hiỏằfu:
    õ?oVÂng ỏĂ. Nhặng em phỏÊi trỏằ'n chỏằâ!õ?
    õ?oĐặỏằÊc rỏằ"i.õ?
    õ?oTỏằ'i nay nhĂ, nhanh lên 'ỏƠy.õ?
    CÂu nói trỏằ'ng không thỏưt hỏằ-n mà lỏĂi êm tai rỏằ>t lỏĂi, tỏằ dặng tôi câng 'Âm tò mò hặĂn.
    Chỏằâ quỏÊ thỏưt bỏưn 'Âu 'ỏn tôi. Mà cĂi thỏng Đơnh câng Ăc ôn ra trò, phât lĂc mỏằTt tỏƠc 'ỏn trỏằi, lỏĂi tỏằ vỏằ lẵ sỏằ, 'ỏĂo 'ỏằâc, phỏÊi phỏt nó mỏằTt 'òn bỏằi có nặỏằ>c, bÂy giỏằ chỏằ? lĂc 'Ăc nhỏằng vâng ao chuôm, lúc nÊy nhặ nhỏằng con mỏt thao lĂo dặỏằ>i Ănh trfng. Thỏ mà vỏôn còn ngặỏằi mò 'ỏn, tiỏng lỏằTi làm bàm qua, lỏĂi thanh vỏng nhặ không. DỏĐn dỏĐn khuya, làng xóm bàng bỏĂc nhặ trfng suông. Nhỏằng lạm nhÊn nhỏƠp nhô lạ lạ, nhỏằng khoanh tre lỏằYm nhỏằYm và cĂi cỏằTt trỏằƠ ngôi 'ỏằn hoang cỏt bóng trên nỏằn trỏằi sao. Tôi 'ỏằâng nâp mỏằTt bên tặỏằng hoa, quỏĐn Ăo nÂu nhoà vào màu rêu tặỏằng, không ai có thỏằf nhơn thỏƠy.
    Chỏc 'Ê muỏằTn, nhỏằng con giun con dỏ vỏằôa kêu ti tỏằ?, 'Ê lỏãng ngỏt. Tôi nghâ cĂc chuyỏằ?n lofng qufng. Rỏằ"i dÂm trỏằÊn. Không phỏÊi sỏằÊ ma, mà có 'iỏằu vỏằ> vỏân bÂy giỏằ mỏằ>i nghâ ra. Có thỏưt con bâ ỏƠy ngặỏằi bên Chuôm, là chuỏằ-i, là dÂn quÂn. Hay 'ỏƠy là 'ỏằi? Có thỏằf lỏm, 'ang lúc mỏằ>i vào bặỏằ>c hai, công viỏằ?c rỏằ'i canh hỏạ, bỏằn phỏÊn 'ỏằTng, bỏằn mỏưt thĂm trĂ hơnh, cỏÊ ban chi uỏằã 'ỏằTi trặỏằYng Cỏằ 'Ê phĂt hiỏằ?n 'ặỏằÊc là tỏằ nguỏằà cài lỏĂi 'ỏằTi lỏằ't và chi uỏằã giỏÊ 'Ê mặu mô làm cỏÊi cĂch vỏằ trặỏằ>c khi 'ỏằTi vỏằ, chúng nó sỏp sỏàn cỏÊ rỏằ. chuỏằ-i cho 'ỏằTi dỏằa. Chúng còn bày vỏẵ 'ỏƠu dỏằ'i nỏằa. ĐỏƠu tỏằ' phặỏằng chăo thỏ nào mà thỏng 'ỏằc ỏằY mỏằTt bên mâi nó thỏưt, tôi quĂt:
    õ?oAi?õ?
    Đơnh xoă tay che mỏt bỏằ bên thôn Chuôm chặa?õ?
    õ?oChiỏn thỏng?õ?
    õ?oTỏằ> rơnh nfm tỏằ'i, tóm 'ặỏằÊc hai thỏng nhÊi ranh nâm 'ỏƠt làm ma nâm 'ỏằf không ai dĂm 'i hỏằp. Truy ra là Âm mặu cỏằĐa 'ỏằ sỏp 'ặỏằÊc biỏằfu dặặĂng toàn 'ỏằTi, lỏĂi bĂo cĂo lên 'oàn nỏằa. Biỏt không?õ?
    Rỏằ"i Đơnh lỏĂnh lạng thong thỏÊ buông tỏằông tiỏng nhặ tỏằông phĂt súng:
    õ?oNày mày hÊy lo cĂi thÂn mày 'Ê nhâ. Mày chặa moi 'ặỏằÊc thỏng 'ỏằ<a nào. Rỏằ. chuỏằ-i mày liên quan 'ỏn nhà 'ỏằ<a, thỏằ'i um lên, không ngỏằưi thỏƠy à? LÊo Cỏằ sỏp làm thỏằc.
  8. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Từ nách tường sau đền, cô Duyên chạy thoắt ra, vẫn khoác khẩu súng sau vai.
    ?oSao anh không bắt nó lại? Quả tang thế rồi mà.?
    ?oQuả tang quả táo cái con khỉ!?
    ?oRõ anh này. Đêm mai đồng chí nó lại mò sang, em biết đi ngủ ở đâu??
    Bỗng Duyên táo tợn thật lực ôm chầm lấy tôi, lúc lắc cái mũi súng sau lưng, cười hinh hích. Thân hình nóng ran ưỡn lên, tôi gồng người, dằn xuống. Chẳng còn biết ra thế nào, mày dẫn xác đến, ông đương bực mình đây. Duyên cởi khẩu súng dựng vào chân cột trụ sau lưng. Hai đứa lăn xuống bãi cỏ, chẳng còn biết trời đất ở đâu nữa. Tôi thở dốc, ngoi lên hớp từng hơi. Nhưng đến lúc thằng đàn ông sắp nghẹn cổ chết thì con đàn bà rên ư ử, nhũn ra.
    ?oEm cho anh...?
    ?oBận sau, bận sau. Em đương có tháng.?
    ?oĐâu nào??
    ?oSờ mà xem.?
    Cuộc quần thảo không biết còn ***g lộn bao nhiêu lâu nữa. Đến lúc tôi chỉ còn như con chó què, bước xiêu vẹo, lử khử. Lần được về nhà, nằm uỵch xuống chõng, thiếp đi.
    Mỗi buổi sáng đều có cuộc hội ý đội, sang bước hai càng khẩn trương. Cán bộ đội các thôn lên báo cáo, nhận công tác mới từng ngày. Họp xong, Đình và tôi về cùng đường.
    Câu chuyện ma quái đêm trước dường như mỗi người coi tựa không có. Chúng tôi đối đáp bâng quơ, không đầu đuôi. Đình hỏi tôi đã giảng hết tiêu chuẩn trung nông chưa. Tôi bảo xong từ lâu. Nói văng mạng thế chứ đâu ai vặn vẹo khám sổ tay của nhau. Mà các tiêu chuẩn bần, cố, trung, phú, địa đến công thương, dân nghèo, dân chài lưới, đến thế nào là *********, gian ác tôi đã ghi kỹ, tôi đã thuộc đã giảng từ trong Thanh, cứ vậy mà tương ra, màu mè vơ thêm mấy cái liên hệ mới nhặt được, chứ khó khăn gì. Tôi nói thật vậy, Đình khen tôi láu. Thì Đình, thì Cự chắc cũng rứa, xóm nào ở đâu và đợt nào cũng tương tự, dần dần chúng tôi tự hào có kinh nghiệm nắm tình hình nhanh. Như về đây chưa hết bước một đã tỏ rõ ngọn ngành cả các xóm xưa và nay. ở đâu thì nhà giàu, quan lại, địa chủ cũng ăn trên ngồi trốc. Nhà có máu mặt con cái chỉ mười lăm mười bảy đã đút tiền hộ lại chữa sổ khai sinh tăng tuổi lên để sớm ra làm chưởng bạ, làm thư ký hội đồng kỳ mục, rồi dần dần lên phó lý, lý trưởng, chánh phó hương hội, chánh phó tổng hàng phủ hàng huyện. Như ở đây, khi Tây chiếm làng mấy năm trước thì ra làm xã uỷ, hương chủ, trưởng đồn, xếp bốt hương dũng, tiên chỉ, tổng uỷ... Đã thuộc cả, moi đâu trúng đấy. Có thế công tác mới chạy nhanh như trâu bồn, bằng khen giấy khen bay về tới tấp.
    Lại các thứ chuyện. Biết nhau đến tận củ tỷ, cũng dễ ba hoa.
    Đình nói:
    ?oĐội trưởng Cự sắp cho cấy lúa thần kỳ ở trọng điểm xóm Đìa.?
    ?oĐương vội thế này, lúa má gì!?
    ?oCòn lạ đâu, lão ấy đã định làm thì sắt thép lắm.?
    Đình hỏi tôi:
    ?oCậu có biết lúa thần kỳ thế nào không??
    ?oChưa.?
    ?oCái ruộng lúa thần kỳ đến lúc sắp được gặt, người ta bước trên mặt thóc chắc chân như đi cầu qua sông. Mà chỉ một tháng thôi, thóc đã mẩy hạt.?
    ?oỞ đâu thế??
    ?oTrên thế giới khắp nơi. Cái khi lúa thần kỳ mới bí mật đem về trại thóc giống bên nước Manila, thế mà tình báo của ta lẻn vào lấy trộm được một vốc hạt. Cậu biết làm thế nào không, khách tham quan thón một vốc hạt, nhét vào trong giầy. Thế đã khiếp ta chưa.?
    ?oGiỏi nhỉ. Ta làm ở trọng điểm xóm Đìa rồi cấy lan ra cả xã chứ.?
    ?oChắc sẽ vậy.?
    Rồi Đình bĩu dài môi:
    ?oKhông nói phét. Tớ ấy a, giá còn cái trại đại đồng của tớ thì lúa thần nông, thần kỳ có đã lâu rồi.?
    Đình sôi nổi kể:
    ?oCậu còn nhớ không, cái hôm đội ta được thành lập sau hội nghị tổng kết khu ở Quỳnh Côi (Tôi nhớ rồi, hôm ấy có hai người được trên giới thiệu bổ sung xuống đội). Không biết vui miệng hay họ cốt khoe: người này thì thời Tây đã đỗ tú tài, người kia thời ta đậu kỹ sư bằng đỏ bên Liên Xô. Đội trưởng Cự cười nhăn mũi, hôm sau gửi lên trả đoàn cả hai người. Báo cáo là đội đã đủ khung rồi. Đội trưởng vẫn nói chỉ "cần người chữ nghĩa èng èng, học nhiều thì chỉ tài nói không tài làm, xuống xã tổ vướng chân". Có lần Cự hỏi học lớp mấy, tôi nói: học lớp ba thời thực dân, đến độc lập thì là cán bộ rồi, không học nữa. Cự cười: "Tớ còn kém cậu một lớp. Thế mà hay, học lắm thì chỉ lý sự cùn. Chúng mình đã giới thiệu lý lịch với nhau khi thành lập đội, hôm ấy tớ mới nói khi khởi nghĩa tham gia cướp chính quyền huyện chưa kể thành tích công tác thằng Đình này đã lập nên trại sản xuất, cả huyện có mỗi trại ấy. Tớ đặt tên là trại "đại đồng", đại đồng thế giới ấy mà. Còn hay hơn lúa thần kỳ nhiều. Nếu bấy giờ uỷ ban tỉnh mà nghe kế hoạch của tớ thì bây giờ cả tỉnh, cả nước đã thành trại đại đồng rồi.?
    Suốt dọc đường, rồi Đình còn theo về tận nhà, kể chuyện cái trại đại đồng. Đình thao thao nói, ve mắt nháy lia lịa, sùi cả bọt mép. Cái vết con Duyên cào cạnh mũi đã bong vảy, chỉ còn hơi đỏ. Tôi lại nghĩ lắt léo hay là lúc ấy sướng quá, nó bấu vào mặt thằng này. Đình đương hăng. Khi đấy, Đình làm tuyên truyền trên huyện. Khắp nơi tiêu thổ kháng chiến, nhà cao cửa rộng phá hết, đốt hết. Các làng, các thị trấn, thị xã dựng lên những cây tre cao như chân gầu sòng, giữa buộc thanh sắt đường ray, ngày đêm dân quân đâm đổ hết tường, sụp nhà cả dãy phố. Người đường xuôi từ các làng quanh Hà Nội lũ lượt chạy ngược dòng sông Hồng lên trung du. Người tản cư được chia vào ở nhờ các nhà trong làng. Đất rộng người thưa, dân cũng sẵn cái ăn, lá sắn ngắt về nấu canh, muối dưa, sắn trựa bỏ đấy cả mấy năm chưa đào, quả đu đủ chỉ để cho lợn thì bây giờ người ăn ngon. Chẳng mấy lúc, người tản cư ai quyết tâm ở lại cũng ổn cả, mặc dầu là tạm bợ, nhưng tin tưởng.
    Đình đã nghĩ được ra cái trại đại đồng cho mọi người vào ở tập trung qui củ, trật tự sản xuất. Huyện đã cử Đình đi báo cáo điển hình trại đại đồng nhiều nơi. Nghe cũng hay, nhưng không đâu làm nổi vì các huyện ở sâu vắng người tản cư, không được trên cấp tiền. Huyện ven sông này có quĩ của tỉnh cho để trợ giúp đồng bào, bây giờ gom người ở một nơi thì phát tiền cũng dễ. Nhưng không phải Đình chỉ vì một cái tiện ấy, Đình nói ngày trước ở Hà Nội, Đình làm phó nhỏ thợ xẻ đã vào ái hữu thợ mộc, Đình đọc sách và anh em bàn bạc đã biết rồi đây loài người sẽ lên thế giới đại đồng, thì cái trại đại đồng này là một bước đúng như thế.
    Năm dãy nhà dài một trăm thước, bên trong một loạt hai dãy giường nứa cho một trăm người. Nhà của phụ nữ riêng bên kia đồi cũng to rộng thế. Chỉ đánh một tiếng kẻng điều khiển được cả nghìn con người. Kẻng dậy, kẻng thể dục và hát, kẻng cơm, kẻng họp, kẻng đi sản xuất, kẻng về, kẻng ngủ... Ai nấy răm rắp, miếng cơm manh áo như nhau, không có ganh tỵ vì không ai hơn ai. Ngày chủ nhật, kẻng đi chợ, tối kẻng lửa trại vui nhộn. Buổi sáng buổi tối, cả trại ra đứng ngoài sân hô: khoẻ vì nước, kiến thiết quốc gia, quyết tâm lên thế giới đại đồng...
    Tôi hỏi dớ dẩn:
    ?oAi cấp lương cho ăn mà lên thế giới đại đồng được??
    ?oĐã nói từ nãy rồi mà. Quỹ trên đưa về, ai ở xuôi tản cư lên vào trại cũng được nuôi. Nhiều người tinh thần lắm, những thứ ở thành phố đem lên, quần áo, đỉnh nến, chén bát, đưa ra chợ bán hết lấy tiền bỏ vào quĩ trại. Nhiều quần áo sang trọng, nhưng trại đại đồng không cần những cái loè loẹt ấy của giai cấp tư sản bóc lột.?
    ?oCậu là trại trưởng à??
    ?oMỗ đây chứ còn ai vào đấy!?
    ?oCó được lương không??
    ?oCó chứ.?
    ?oSao bảo người địa phương không được ăn trợ cấp.?
    ?oNhưng tớ là lãnh đạo, tớ không phải địa phương, cũng không phải người tản cư.?
    ?oThế rồi sau ra sao??
    ?oSao à? Giá còn đến bây giờ chắc đã lên đại đồng rồi. Trồng sắn mau ăn lắm, lại chuối, lại dứa, lại trẩu, lại chè...?
    ?oThế rồi thất bại??
    ?oKhông, không thất bại. Không ai nản chí xin ra, không một người trốn. Không một vụ hủ hoá - Đình nghiêm nét mặt, nháy nháy ve mắt.?
    Tôi không muốn biết thêm ngọn nguồn nữa. Vì thấy Đình quả quyết "nhất định thắng lợi" quá. Nhưng lại nhẹ nhàng hỏi ơ hờ:
    ?oThế rồi làm sao??
    Định trợn ngược mắt.
  9. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    ?oLàm sao ấy à? Loài người đến tận bây giờ vẫn chưa đủ sức chống thiên nhiên, phải bỏ nửa chừng vì thế chứ làm sao. Nhưng mà có tiền nhiều chắc cũng vượt qua được. Tự nhiên lụt lội, bão, sét đánh đổ nhà chết người, cả sốt rét lăn đùng ra. Mới vỡ nhẽ người xuôi lên chưa quen, cả trai ốm ngã nước sốt rét ác tính chỉ hôm trước hôm sau đã đái ra máu. Nửa tháng chết vãn cả người. Đầu tiên còn mua gỗ đóng quan tài, cả trại đi đưa đám, có điếu văn đọc lúc hạ huyệt. Rồi sau người chết lắm quá, không kịp mua săng, phải bó nứa, hai người vác thuổng khiêng đi chôn. Thế là những người sống sót sợ, bỏ đi hết.?
    ?oCậu cũng chuồn??
    Đình cười hề hề, hồn nhiên:
    ?oỞ lại để bị lây chết mất ngáp à??
    ?oRồi cậu đi đâu??
    ?oTớ về huyện, lại công tác bán nói lấy ăn. Mấy năm sau được lên tỉnh, cho đến bây giờ. Chức vụ: phó phòng tuyên truyền.?
    ?oRồi có đâu làm trại sản xuất nữa??
    ?oTrại đại đồng chứ. Phi tay này thì thằng nào dám. Trên tỉnh cũng công nhận nếu không bị sốt rét phá hoại, trại đại đồng nhất định thành công. Tỉnh tớ năm nào cũng đạt tiền tiến tiên phong, mọi mặt công tác. Không nói phét!?
    Đình trợn mắt, giơ tay:
    ?oCả bây giờ đấy. Kể ra, nói cho công bằng, cái tỉnh này nó máu xung kích, xung phong. Trước kia, trong bóng tối, làng nào cũng có cơ sở. Kháng chiến thì đi bộ đội, đi dân công ra trò. Giảm tô, cải cách cũng cờ đầu. Tớ mới được thư tỉnh, chúng nó báo tin, tỉnh tớ được cử đi làm điểm về phúc tra. Cải cách ruộng đất xong phải qua phúc tra mới thật căn bản. Lại cùng một lúc, tỉnh tớ làm điểm chỉnh đốn tổ chức từ tỉnh xuống huyện, xuống xã, lôi ra được nhiều ********* chui vào tổ chức lắm. Đằng ấy có biết không, tỉnh tớ được chọn cán bộ đi giúp chỉnh huấn khu 5, Nam Bộ, rồi giảm tô cải cách trong ấy. Biết đâu tớ chẳng sắp được đi. Người tỉnh tớ thế mà ghê.?
    Đột nhiên, tôi cười to:
    ?oHa, ha, ha...?
    Đình nhăn mũi, không bằng lòng, tưởng tôi chế nhạo. Hỏi xẵng:
    ?oThằng đểu, cười chó gì??
    Rồi Đình không đợi tôi trả lời, Đình hạ thấp giọng, nhấm nháy:
    ?oTối hôm qua ấy, mày liệu hồn.?
    Vừa dứt cười, thật tình tôi đương buồn cười về những khoe khoang tận đâu đâu của Đình, tôi vẫn đùa:
    ?oTối hôm qua thì làm sao??
    Đình lùa thẳng tôi một quả:
    ?oSao ở trên trời ấy. Đằng ấy vật nhau với cái Duyên. Hì, hì...?
    ?oĐâu nào!?
    ?oBiết điều thì nghe tao dạy đây. Tớ mách cho mà biết, con ngựa cái ấy cú cáo lắm. Tớ đương theo dõi xem nó có phải quốc dân đảng chui vào lũng đoạn hàng ngũ chuỗi rễ.?
    Tôi im, dần dần bối rối, ỉu hẳn. Thằng này ma quỉ quá. Còn đi với nó, có ngày thì mất mạng.
    Nhưng Đình đã nói:
    ?oĐằng ấy ở phường phố, lớ quớ chẳng hiểu mẹ gì nông thôn. Tớ bảo cho miếng võ cảnh giác này mà phòng thân. Còn cái tối hôm qua thì tớ xuý xoá cho, không báo cú báo cáo lên lão Cự đâu. Tớ với đằng ấy về đây đã thông cảm xít xao từ hôm canh ty ăn trộm gói bánh đúc ngô của đội trưởng ở trong đền cơ mà.?
    Đình cong một ngón tay giơ ra cho tôi ngoặc. Như trẻ chơi móc xương móc xảu bỏ lỗi cho nhau. Thế là hai thằng cười hi hi, hà hà loạn xạ cái nhà vắng. Người đàn bà tàn tật ngồi trong xó vách vẫn dửng dưng.
    Rồi Đình về xóm Chuôm còn dặn lại "Nhớ nhé". Chẳng biết nhớ nhé ra làm sao.
    Cũng không biết nhớ nông nổi thế nào thật. Những tưởng bấy lâu rình rập hạ nhau, bây giờ ăn cánh với nhau, thấy trong lòng nhẹ hẳn nỗi lo nghĩ tính toán. Phải thôi, chẳng biết tội thằng Đình ở đâu, chứ tôi vừa dăng dện cái Đơm, lại cái Duyên. Kỷ luật cải cách hủ hoá phải ngồi chuồng trâu, phải đuổi về mà vẫn nhơn nhơn trơ trẽn như không. Thằng đàn ông như cái đó vác đi đơm, thế thôi. Nhưng đây là quả cấm. Mà cũng lạ, cứ cấm thì lại hay mân mê táy máy. Mà con bé mới gớm ghê, nó là quốc dân đảng thật hay sao, nó cho mình vào tròng, hay nó hại thằng Đình, hay là thằng Đình xỏ lá chơi tôi một miếng. Chỉ biết, nó đã nắm thóp hai đứa. Nó sang tận Am mách tôi về thằng Đình thì nó sẽ lên lão Cự báo cáo tôi, biết đâu là chừng. Tôi lại đâm lo.
    Tối tối, xóm Am đã cụng đầu tố khổ trong rễ chuỗi và mở rộng ra tổ nông hội. Có nơi đi nhanh, đã dấu địa chủ. Đội trưởng Cự nhanh nhất đã xin lệnh bắt bí thư chi bộ và một lúc sáu địa chủ có tội ác. Trong cuộc họp đội, Cự quát tháo "Phải ra tay mới phá được thế bị khống chế, bởi địch đã có tổ chức phá hoại, gây rối loạn. Ông lão loà ở xóm lội xuống ao trẫm mình, hay là địch dìm chết. Lại một đám cháy nhà. Đội trưởng nói: "Tăng cường tố khổ, mở rộng tố khổ để tìm ra đứa giết người, đứa đốt nhà". Chúng tôi hội ý đội buổi sáng, có khi cả lúc chập tối. Đứa nào bức tử, đứa nào đốt nhà cứ tố khổ rộng khắp cả thôn thì ra thôi. Đường làng vắng hẳn, người nào bần cùng lắm mới ra đường, đi len lét, không ai dám đến nhà ai. Gặp anh đội, người già lùi vào bờ rào ngoảnh ra cúi đầu chắp tay vái. Đội trưởng Cự vào đỡ tay bà lão, nói: "Nông dân làm chủ không được khúm núm thế, không được mắc mưu địch hòng xoá nhoà ranh giới bạn thù. Ta đương đấu tranh, nông dân phải ngẩng mặt tự hào, còn thằng địa chủ có quỳ giữa đường lạy ta cũng mặc xác nó, bà cụ biết chưa?".
    Những cuộc lên hội ý đội, lúc có đội trưởng thì rậm rịch, bối rối tít mù, nhưng vắng Cự thì lại uể oải, trễ tràng. Hai cậu bần cố ở xã được lên đi làm anh đội mà tôi vẫn xem khinh nửa mắt, cứ ngồi chầu hẫu, chốc lại ngáp, vừa ngáp vừa gãi nách kêu ối giời ơi rồi cuộn tròn tờ nội san: "Bận quá, cho em mượn về xóm đọc" - "ừ đọc báo thì càng thông suốt". Tôi đoán có cậu mới biết đánh vần, ngại mở tờ báo trước mặt người khác. Một đội viên thở dài khượt một cái: "Xóm của mày ít địa, có thì giờ nằm nghiền báo, sướng thật". Các thôn vẫn chưa lên đủ, mà Cự đi đâu không biết. Đã biết lệ, lão không về thì thôi, đã về muộn thế nào cũng nhiều việc quan trọng hay không cũng cứ đùng đùng, tới tấp. Một lúc sau, cũng chẳng thấy đội trưởng, thế là lả tả rút dần. Cũng chẳng biết là bận quá hay không, nhưng đã có lịch công tác hàng ngày, rồi quá giờ phải đi việc khác.
    Một hôm, đội trưởng Cự sang xóm Am tìm tôi. Đội trưởng đến là có việc, thằng lười tôi cũng ngại. Cự đặt bịch cái túi da bẹt đít xuống chõng. Những gì trong túi mà nặng thế, sổ sách tài liệu và khẩu súng, hay chỉ hòn đá bỏ vào bao cho oai, hay lại gói bánh đúc ngô. Anh nào cũng như ma ăn cỗ, ai biết đâu. Nhưng cái dáng buông túi nặng nề tất có chuyện. Mấy hôm nay tôi đương lo sốt vó. Được phổ biến là trên đoàn uỷ nhận xét: xã này chưa đạt chỉ tiêu địa chủ. (Mà thôn tôi thì chưa tìm ra mống nào). ở cuộc hội ý hôm trước, đội trưởng Cự nói: "Chỉ thị đoàn uỷ phải triệt để chấp hành, thực hiện bằng được. Đưa phú lên địa thì dễ thôi, một lúc cả chục thằng cũng có, nhưng làm ẩu mà bị kiểm tra thì hỏng hết. Cố lên, không được để cờ tuyên dương đợt này lọt vào tay đội khác".
    Trong những người phải cố, tôi khốn khổ nhất. Rễ chuỗi cả thôn tôi chưa tố ra được địa chủ. Tôi chưa phân tích tìm ra cái đầu cái đuôi địa chủ ở đâu. Hay là thôn này không có, không thể như thế, ở đâu có nông dân là ở đấy có địa chủ, sách lý luận thế. Không, không khi nào chưa đấu tranh đã rút lui. Chỗ nào có nông dân, có ruộng, tất có bóc lột. Tôi lên dây cót tôi. Hay là thằng tư Nhỡ? Nhưng cũng phải cẩn thận, chống ẩu mà. Các loại đất ruộng, đất vườn, đất thổ cư, các thứ lao động nhà nó chưa tính xong, không thể qui. Mỗi tiểu chuẩn địa, trên duyệt từng con số, bở hơi tai ra ấy chứ. Mà tôi nghĩ cũng chẳng nỡ. Mình thường qua lại nhà nó, hôm nào cũng chè thuốc, có hôm làm chén rượu tắc kè bổ dương, Cự biết thì đi đời anh đội, nhưng mà chỉ có mình với nó thì ai biết. Ruộng nhà ấy chia đầu người, lấy cả đất vườn gò, chưa đủ bình quân hai miếng. Mà nó cũng cổ cày vai bừa bao năm nay. Bắt nó cái phú cũng còn non. Đêm nằm bức bối nghĩ không chợp mắt. Thì lại lần vào xó nhà vày vò cái Đơm. Con bé cứ lúc mưa lúc nắng, cũng như trông nó khuôn mặt ngơ ngẩn trẻ con, nhưng cái người nó thì nùng nục con gái. Cứ vần như khúc gỗ, nhưng lắm bận Đơm nổi cơn, vừa động đến đã nóng rẫy rên lên, cắn bừa vào mũi vào tai tôi đau chết điếng mà không dám kêu. Tôi chỉ tránh nó ngoạm vào mũi, sợ thành sẹo như thằng Đình thì khốn. Dù sao, ấy thế cũng tan cơn nghĩ, ra ngã vào chõng mới ngủ được.
    Đội trưởng Cự ngồi xuống bên cái túi da bò vàng nghệ vững chãi như cái ấm giỏ. Cự không uống rượu, nhưng mặt lúc nào cũng đỏ găng. Trong cuộc họp, Cự lườm một cái lộn lòng trắng mắt, ai đương nói cũng phải nghẹn lời, đợi nghe Cự. Mỗi tiếng Cự văng ra cục cằn như ném gạch. Cách nói năng thô lỗ ấy cũng không giống kiểu chính trị viên đại đội mà nghệ thuật ăn nói phải hàng ngày, có khi tôi đoán lão Cự khai man, cóc phải chính trị viên cũng nên. Đợt trước hôm đầu tiên họp đội tố khổ và tự giới thiệu, cố nông Cự trình bày đã đi Vệ quốc đoàn từ 1945 bây giờ chức vụ chính trị viên đại đội. Cự được quân đội điều đi cải cách ngay khi đơn vị ở khu 5 ra tập kết. Nói thế thì biết thế, cũng chẳng ai hỏi lại. Cái việc lý lịch, ai cũng nơm nớp, như tôi cha mẹ họ hàng dấm dớ, nhỡ cái phải ngồi chuồng trâu thì bỏ đời. Vả chăng, Cự bẳn tính, hay cáu, hay xúc động. Có hôm họp đội đọc báo, tin vụ thảm sát ở Hướng Điền tỉnh Quảng Trị, cả 92 người thôn Tân Lập và Tân Hiệp bị giết, còn hai người sống sót vượt tuyến ra Bắc, đội trưởng Cự khoanh tay lên gối, cúi đầu khóc rưng rức.
    Cự ngồi xuống hỏi tôi:
    ?oỞ nhà à??
    ?oHôm nay không đi ba cùng được, tôi...?
    Cự cười nhếch mép - cũng là cái cười hiếm, có thể lúc ấy đương hiền từ, rồi Cự chống tay xuống mặt chõng.
    ?oBiết rồi, thằng rễ bảo cậu ở nhà quét nhà. Quảy chưa được gánh nước đã choang vỡ cái nồi của người ta.?
    Tôi tái người. Chuyện kín bưng thế mà Cự biết!
    Cự lại cười nhẹ nhàng. Tôi yên yên cơn lo. Cự thân mật, bỗ bã:
    ?oTối mai cậu xuống thôn Đìa dự đám cưới mình nhé.?
    Tôi trố mắt. Cự lại nói:
    ?oTớ lấy vợ.?
    Tôi không dám hỏi: "Anh chưa có vợ a? " Cự rủ rỉ: "Tôi ra tập kết chỉ biết lao vào công tác. Nhưng tuổi đã ngoài ba mươi, thì phải tính rồi. Vì tình thương yêu giai cấp, tôi lấy một cô cố nông ở thôn Đìa. Hôm qua họp toàn thôn, tôi ra câu hỏi: Khổ nhất thôn Đìa là ai? Cả thôn nhất trí cô ấy. Tôi tuyên bố tôi sẽ lập gia đình với người khổ nhất. Hội nghị cười râm ran, vỗ tay hoan nghênh. Dù việc riêng cũng công khai như ban ngày, càng thuận lợi cho công tác. Cậu nhớ bài báo về kỷ luật thằng Bổn chứ?
  10. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    ?oNhớ.?
    ?oLấy vợ không phải là hủ hoá, cần minh bạch.?
    ?oĐúng thế.?
    Chẳng những nhớ, tôi còn cắt giữ bài báo ở tờ nội san Cải Cách Ruộng Đất đăng cái nghị quyết của Đoàn ủy mà đội trưởng Cự đã bảo, tôi đã hai lần đọc to cho cả đội nghe để liên hệ và ngăn ngừa.
    Nghiêm khắc phê phán sai lầm nghiêm trọng của Nguyễn Bổn - Đợt 5 này là đợt đấu tranh giai cấp gay go quyết liệt. Phần lớn cán bộ đều có tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ. Đặc biệt, một số cán bộ xuất sắc đã được tuyên dương khen thưởng xứng đáng, nhưng bên cạnh những đồng chí tốt đó, tiếc thay có một số phạm sai lầm nghiêm trọng cần phải xử trí đúng mức. Đồng chí Nguyễn Bổn là một trong số đó.
    Đồng chí Nguyễn Bổn năm nay 30 tuổi, một cán bộ trao trả [1] đã đi cải cách (đợt 4 và 5), hiện là đội viên đội Đào Khê.
    Trong đợt 4, đồng chí Bổn đã phạm lỗi nghiêm trọng: vì hủ hoá mà phải đổi đi 4 xóm, đến xóm nào cũng lại hủ hoá ở xóm đó, hủ hoá với vợ bộ đội, vợ tử sĩ và chòng ghẹo cả bà già trên 50 tuổi. Điên cuồng hơn nữa, ngay trong đại hội nông dân, đồng chí Bổn đã công nhiên cắn vào vú, vào mặt một chị chuỗi tích cực. Tổng cộng trong đợt 4, đồng chí Bổn đã thông dâm với 8 người và có hoạt động chòng ghẹo nhiều người khác. Tác hại là cả 4 xóm ấy đều lạc hậu, rễ chuỗi bị hỏng, mất tác dụng, đồng chí Bổn bị kỷ luật cảnh cáo toàn đoàn.
    Mức kỷ luật đó chứng tỏ chính sách khoan hồng mở đường cho người sai phạm tự giác giáo dục, nhưng sang đợt 5 mới triển khai mà đồng chí Bổn đã tái phạm khuyết điểm với mức độ trầm trọng hơn trước nữa.
    Về xã Đào Khê mới ba ngày, đồng chí Bổn đã liên lạc với con ái, con địa chủ cường hào gian ác. Cho con ái vào dân quân, đêm đến nấu chè đậu đen cho nó ăn rồi hủ hoá với nó. Lại cho mẹ con nó đi họp nông dân khiến không ai dám tố bố nó là địa chủ cường hào gian ác. Đồng chí Bổn lại đưa con Hạnh thành phần công thương vào dân quân, đem con Hạnh về hủ hoá ở nhà rễ. Bố thị Hạnh có tội đánh chết người đã bị quần chúng tố, nhưng đồng chí Bổn che giấu không báo cáo với đội. Đồng chí Bổn lại hủ hoá với chị Chắt, thiếu nhi trong xóm đã bắt được 4 lần trong bụi cây. Chồng chị ấy đi dân công vắng; mẹ chồng bị loà, tối nào đồng chí Bổn cũng vào nhà chị ấy để hủ hoá. Tác hại: Suốt bước 1 địch phá không trấn áp, địa chủ cường hào gian ác lọt lưới không truy ra, quần chúng phát động không lên. Cả 3 xóm đồng chí Bổn phụ trách đều bị phân loại 3 xóm lạc hậu.
    Những sai lầm của đồng chí Bổn thật vô cùng nghiêm trọng. Đồng chí Bổn đã mất hết phẩm chất con người chứ không còn nói phẩm chất đảng viên và cán bộ cách mạng. Rõ ràng đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất không phải để phục vụ quần chúng mà để hủ hoá dâm ô. Đồng chí Bổn đã thành kẻ đầu hàng bao che cho địa chủ vứt bỏ hết quyền lợi nông dân, làm tổn hại đến cả sinh mạng quần chúng. Thực tế, đồng chí Bổn đi cải cách ruộng đất mà lại đã phá hoại cải cách ruộng đất. Đoàn uỷ quyết nghị thi hành kỷ luật đồng chí Nguyễn Bổn: đuổi khỏi đoàn Cải Cách Ruộng Đất, khai trừ đảng tịch, cho áp giải về cơ quan...
    Học tập bản kỷ luật đồng chí Bổn, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, đề phòng không để cho những tư tưởng xấu tấn công..."
    Ngày còn trong Thanh Hoá, khi tôi mới về đội này, đã nghe phong thanh Cự lấy một cô là "rễ cố nông" rồi Cự xin cho cô ấy đi làm cán bộ cải cách, được ra công tác ngoài Thái Bình. Những người ở đội trước xì xào thế, nhưng cũng không ai tò mò hỏi. Cũng là ngủ với đàn bà, nhưng mẹo như đội trưởng Cự không ngu dại như đội Bổn để vi phạm điều 4 trong 10 điều kỷ luật cán bộ phát động quần chúng "không được hủ hoá trai gái và rượu chè".
    Tôi vẫn tỏ vẻ vui vui, xun xoe:
    ?oCưới thật à??
    Cự trố mắt, mặt chững lại, trả lời không đáp vào câu cười cợt nhả của tôi:
    ?oTối mai liên hoan giản dị nước chè xanh thôi. Đồng chí sắp sẵn mục thơ ca hò vè. Bây giờ thì ta làm việc...?
    Tôi ngồi xổm xuống vỉa hè đất nện. Tôi lấy sổ tay, mở tháp cái bút máy oerơvơ.
    ?oSắp hết bước hai mà xóm này chưa có địa chủ. Các thôn đã lên hết, thôn Đìa dẫn đầu lên ba địa, năm phú. Thôn Am vẫn mù mờ không mống nào. Có nơi đã mít tinh quân dân chính đảng toàn xã, xã này cũng sẵn sàng rồi mà chỉ vì thôn Am...?
    Cự nhác nhìn tôi rúm ró ghi chép dường như thương hại.
    ?oTôi phải báo cáo che quạt nan cho trên thông cảm với cậu chứ không có thì cậu bị tróc về đoàn lâu rồi. Mới hôm qua họp, tôi phải đem danh dự bảo đảm với đoàn uỷ, tôi hứa đội sẽ giúp cậu.?
    Mồ hôi tôi chảy dài sống lưng.
    ?oCám ơn anh.?
    ?oƠn iếc gì, vào việc gấp thôi. Cái rễ của cậu dựa chưa thối nhưng đã lung lay, vì cậu không phát động cho vùng lên được. Địa chủ Thìn đã bị bắt, thằng Diệc rễ cậu là rễ nhà nó. Cái con vợ đui què câm điếc kia là con nhà địa chủ Thìn. Thằng tá điền Diệc phải rước của nợ đi, mà thằng địa chủ đểu cáng chỉ cho mượn hai miếng ruộng đầu đồng cuối đồng. Cho nên, về mặt nông dân, nó không liên quan, nhưng nó cũng chưa dám vạch tội ác địa chủ. Cậu đã hiểu như tôi vừa nói chưa??
    Quả tình, nhiều việc Cự nói tôi chỉ mang máng rồi lại tự gạt đi, tôi nhớ cái câu thằng Vách doạ hôm trước: "địa" đấy à, thế ra... Nhưng tôi đáp lời Cự nhanh nhẹn, như đứa học trò quen nói giấu dốt:
    ?oTôi hiểu... tôi hiểu ạ...?
    Hai con mắt Cự xếch lên như mắt diều hâu. Tôi run tay. Tôi đoán có khi Cự đã biết cả cái sự tối ngày tôi mò mẫm ăn vụng như thằng Bổn. Giời ơi, tôi phát sốt lên đây này.
    Cự nói to, dằn từng tiếng:
    ?oCũng không còn thì giờ để cậu loay hoay một mình. Xã vùng tề nguỵ này đặc biệt khó, nông dân bị chết mọi cách, chết đuối, treo cổ, địch giết hay thế nào. Đội ta đã giải quyết hết, chỉ còn mỗi thôn cậu. Đồng chí đã biết câu ở đâu có áp bức ở đấy có đấu tranh, tố khổ cả tháng mà không ra địa chủ, cái thằng rễ không mở mồm vạch thằng bố vợ gian ác một câu thì còn ai dám nói. Thằng Diệc được bồi dưỡng thế nào mà vẫn là cái đụn rạ, họp thôn ấp úng không nói đủ được câu "thưa toàn thể đồng bào", người ta xỏ lá phản ảnh lên là cốt cán ăn nói khinh nông dân. Tôi biết hết, chẳng cần báo cáo của đồng chí đâu. Việc xóm nào cũng không qua được mắt này. Từ nay đội trưởng Cự thay cậu kiêm phụ trách thôn Am.?
    Rồi Cự hỏi:
    ?oCó ý kiến gì không??
    Tôi nhẹ nhõm:
    ?oKhông ạ.?
    Cũng chẳng biết thế nào mà không với có. Nhưng cứ cung cách nói năng, vẻ mặt đội trưởng đã dịu, có lẽ tôi cũng không đến nỗi bị bắt lên chuồng trâu giam cảnh cáo trên đoàn. Bây giờ đội trưởng kiêm thôn này thì tôi có đôi ba chữ nghĩa tôi về làm văn phòng đội chăng. Nhưng cũng không dám hỏi. Con cua nằm co quắp dưới bàn chân con ếch, nhúc nhích một cái, nhỡ bị nuốt chửng thì chết ngay.
    Cự nói, như ra lệnh:
    ?oTôi điều đồng chí sang thôn Chuôm. Bên ấy, địa chủ Thìn đã vào tù, rễ chuỗi đâu đấy cả rồi. Chỉ còn đợi mít tinh tuyên bố xoá bỏ giai cấp địa chủ toàn xã...?
    Tôi "à" một tiếng như vừa mới hiểu. Nhưng Cự cũng không quan tâm, Cự chỉ để ý câu mình nói.
    ?oCậu thấy thế nào??
    Tôi nói:
    ?oTôi phụ trách thôn Chuôm chung với đồng chí Đình à? Bên ấy căng lắm, mới bị trận bão Lốc, tôi sang...?

Chia sẻ trang này