1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tiger II vs M1 Abrams !!!!

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi vietcong91, 21/02/2011.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. SSX100

    SSX100 Guest

    Thật ra là Mỹ thuê/bắt Đức thiết kế MBT70 lấy mẫu từ Leo với yêu cầu... Xịn hơn Leo. Nhưng cái thằng Mẽo trình còi nên không thể sản xuất được MBT70 theo thiết kế Đức. Cuối cùng, dựa vào bản vẽ MBT70 nó tự thiết kế ra M1 theo hướng giản tiện để sản xuất. M1 thì mang pháo nòng xoắn 105 của thằng Anh, mãi sau thấy đuội quá lại đi mua pháo nòng trơn của Leo.

    Kể ra thì Đức cũng chẳng giám nhận một cái thứ giản tiện như thế làm con cháu nhà Leo lừng danh.
  2. huyphuc1981_nb_aaad

    huyphuc1981_nb_aaad Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/12/2010
    Bài viết:
    196
    Đã được thích:
    67
    Mẫu M1 Abrams là Chrysler.

    Tiger và Leopard giống nhau chứ, Leopard II là tiến bộ hiện đại hoá của KT. Nhờ thiết kế mới, máy móc mới, và chủ yếu là cách bố trí kho đạn nhiều khoang, nên tháp pháo Leopard lùn xuống dẹt ra. Đồng thời, yêu cầu mới xuất hiện những năm 197x là đấu tank khoẻ nên ưu tiên trán. Một điểm nữa làm tháp pháo Leopard II trông rất rộng là hệ thống giáp hộp bao quanh tháp, giáp hộp được sử dụng ở cuối WW2, là phương tiện chống các đạn ATGM, B41, ĐKZ... tức chống tăng nhẹ của người và đặc biệt là chống chiến tranh du kích, chống chiến tranh đường phố.

    Còn T là hậu duệ của IS-2, IS-2 là xe tăng hạng nặng cơ KV nhưng thiết kế theo phong cách T-34, là giáp nghiêng, xe thấp. IS-1 nam đầu dùng 85mm. Pháo 122mm của IS có nhiều loại biến thể như D-25, nhưng đều là nòng cỡ súng lựu pháo tầm xa 122mm A-19 nhưng kéo dài nòng ra cho xe tăng. A-19 phiên bản nguyên thhuỷ pháo kéo có CaL 45, đã chớm thuộc vùng nòng dài, nhưng hơi non so với pháo tăng, tầm bắn A-19 này là 20km, sơ tốc 800m/s (hồi đó chưa có đạn giảm cỡ nhẹ, đây là sơ tốc AP).

    Trước đây, xe tăng Đức dùng nòng Flak 88mm CaL 70 như pháo chống tăng Flak -43, pháo chống tăng dùng nòng này nhẹ hơn, sức xuyên cao như tác dụng giảm cỡ, nhưng nòng không bền, nhược điểm trong chiến đấu là klhó bắn đạn đường kính lớn như trái phá, sức xuyên giảm nhanh theo tầm. Ở 1000 mét, Flak -43 có sức xuyên 200mm góc 90 độ, ngang đạn AP của Đ-25 (155mm, ngang nhau mặc dù con số khác nhau, đây là chênh lệch tiêu chuẩn Nga-Đức khác nhau ở tỷ lệ thành công). Sau đó, người Đức chuyển sang dùng khẩu 128mm biến đổi theo hướng Đ-25, nhưng 128mm Đức là súng thiết kế tiêu chuẩn nòng đạn sau, rất mạnh so với Đ-25 120mm, ngang tầm M-46 130mm. Nòng nhỏ dài là phương án ban đầu của T-34 với đường kính 57mm, nhưng vì những nhược điểm trên nên thay bằng nòng to và ngắn hơn chút 76mm. Tất cả các pháo tank nòng xưán Liên Xô và Đức đều xuất phát từ các khẩu Flak phòng không Đức.


    Tuy đi từ 2 dòng khác nhau nhưng Leo và T đều dẫn đến những đặc điểm giống nhau, đó là giáp nghiêng và xe thấp. Việc khác nhau chủ yếu ở hình dáng tháp pháo do đạn 120mm của Leo quá dài, còn T là đạn liều rời, ngắn, điều này là nhược điểm Leo gánh theo NATO. T-34 và các IS trước đây cố gáng làm nghiêng mặt trước tháp pháo, điều này làm không gian trong xe chật hẹp

    (Cần chú ý là giáp nghiêng không tăng chiều dầy đạn cần xuyên qua, ví như hình nàymáy ăn cắp não này, ví dụ ở hình này, khi nghiêng giáp đi để tăng chiều dầy xuyên, thì chiều dài của thanh giáp lại lớn, làm giáp nặng, và hiệu quá khối lượng không hề cải thiện. Lợi điểm của giáp nghiêng slooped armour là phân tán năng lượng của đạn, đạn AP cắm đầu vào giáp nghiêng, trượt nghiêng và đập thân vào, làm tăng thể tích hiáp cần phá nếu như muốn xuyên, tức là phân tán luồng xuyên. NHư vậy, toàn bộ bài viết này là tầm bậy.

    Việc chuyển chiều dầy cần xuyên từ chiều dầu tấm giáp đến hướng xiên của đạn được dùng để tính RHA, nhưng ở thế giới liệt não, công thức tính sin cốt này được cho là tiết kiệm khối lượng làm giáp, ví dụ hình ảnh , xứ liệt não lấy ảnh bảo tàng Phần Lan minh hoạ T-54 có chiều dầy xuyên dốc trước là 200mm , chưa nhân hệ số hợp kim. Tropng hình này, chiều dầy đạn cần xuyên qua giáp nhân gấp đôi thì chiều dài tấm giáp cũng nhân gấp đôi, không hêtằng hiệu quả khối lượng, mà lại làm hình dáng củ chuối, diện tích tăng, giảm hiệu quả khối lượng.)

    Các T về sau này có mặt trước tháp pháo không theo T-34 và IS-2 nữa, mà giống Tiger hơn, tức trán dựng đứng. Điều này làm giảm diện tích mặt ngoài, không gian bên trong tròn đều dễ bố trí, nhược điểm của T-34 là không gian bên trong rất chuối. Phần nghiêng phân tán không thực hiện trên giáp chính, mà đặt ra xa ở giáp hộp, nhà T giáp hộp là ERA thay nhanh. Cách bố trí này nhà Đức cũng dùng trên Leo. Chính vì hiểu đúng tác dụng của mặt nghiêng, là phân tán năng lượng chứ không tăng độ dầy giáp, nên mới làm như thế.

    Ngược lại, M48/60, M103 và M1 đều cố gắng nhái lại hai cái trán vát hai bên của T-34, điều này thừa kế cái trán cổ điển, không gian bên trong không đều, tăng diện tích mặt ngoài, tăng diện tích giáp... Và M1 Abrams tự rơi vào cái bẫy của tỷ số khối lượng / công suất. Nó không thể bỏ động cơ turbine và cũng không thể mặc thêm quần áo, luôn cởi truồng. Khối lượng rỗng 68 tấn, trong khi đó lượng dầu đạn lớn hơn nhiều xe khác và khối lượng chiến đấu 75 tấn là thường thấy. Tuổi thọ động cơ rất thấp, ở Iraq, mỗi ngày thay một turbine. NHư chúng ta thấy, hai cái trán quá vát đó là đặc trưng của việc thiếu giáp hộp, chiều dầy giáp chính thấp... do các lớp khối lượng nhẹ xen giữa không có hoặc không đáng kể.




    Trên internet, thường có cụm từ "phong cách MBT những năm 1970 ưu tiên giáp trước (trán ) mà ít chiến tranh đường phố", thật ra, đó chỉ là đồ lợn M1 Abrams. MBT70 khi bỏ giáp hộp được Hàn Quốc sản xuất thành xe tăng tiêu chuẩn K1 105 mm (1985) và K1A1 120mm (2001). K1 có một chút cải tiến về bộ nhún nhưng không đáng kể.
    [​IMG]




    MBT70 có giáp hộp phía sau tháp pháo, phía trước được che chắn bởi các thiết bị phụ trợ. Điểm khác biệt là giáp đúc, tháp pháo đúc liền một phôi, đây là kỹ thuật thích hợp nhất thời đó, đồ đúc bao giờ cũng tiết kiệm thể tích-khối lượng nhất. Xe có máy nạp đạn tự động, sử dụng pháo tăng 152mm trơn, với những lợi thế của pháo trơn là bắn đạn giảm cỡ và ATGM. Khi triển khai, giá Mỹ gia công quá đắt và Mỹ dừng.
    Mẫu M1 Abrams là Chrysler, đổi đúc thành hàn và bỏ các chức năng tiên tiến chạy đu với Nga -Đức đi, quay về khẩu L-7 105mm nòng xoăn Anh Quốc, thứ mọi rợ vẫn diễu võ giương oai ở Iraq 2003, nạm đạn thủ công,l tổ lái 4 người.... Ngày nay người ta hàn trán để dùng nhiều loại vật liệu khác nhau trong phức hợp, nhưng ngày đó M1 hàn cho dễ làm khi không thể đúc được phôi lớn như thế loại hợp kim và hình dáhg phức tạp. Về sau thối quá, M1 Abrams với K1 mới mua kỹ thuật pháo Leopard II thành XM-256, là khẩu 120mm ngày nay. NHưng vẫn đi sau một bước, khi Leopard II đá cái hàng thải CaL 40 thì mới được mua. Và vẫn nạp đạn thủ công.
    MBT70
    [​IMG]


    APDSFS của MBT70
    [​IMG]







    M1 Abram khi chuyển sang pháo nòng trơn cũng có một số biến đổi giáp. ĐFó là , cũng dùng giáp phức hợp. Nhưng chuyền dầy vật lý của nó quá lởm như phát đạn Maveric trong chiến tranh Iraq show lên. Chúng ta biết rằng, giáp rỗng, giáp hộp của Leopard II không cần nhét gì để giảm sức xuyên, khả năng giảm sức xuyên nó mang đến là đạn thanh xuyên KE nghiêng dần khi chuyển động trong khoảng trống đó, còn đạn HE thì phân tán luồng xuyên, dẫn đến giảm sức xuyên khi đập vào lớp trong. Như vậy, chiều dầy của phức hợp là yếu tố quyết định, kể cả khi không nhét gì vào chiều dầy đó. M1 có chiều dầy này không hề tăng so với giáp liên tục trước đó.

    Tổng cộng,giáp M1 có sức xuyên ngang 700mm RHA trước trán, nhưng không đều, có những điểm rất kém như phía dưới và hai bên nòng. So với T-72 và Leopard II đều cỡ 800-1 mét, T-90 là Leo đời sau 1,4 mét. Đổi lại điều đó, toàn bộ phần còn lại của xe trừ dốc trước và trán bị đạn BMP, IFV bắn liên thanh thủng tưng bừng, chứ đừng nói B41.

    Đây là truyền thống xe tăng cởi truồng =)):))>:)[:P]



    Cái nhược điểm giáp của M1 là hai cái trán suôn suôn như



    Nói ra thì xấu hổ, M1 Abrams có đẳng cấp T-34 và IS thế chiến 2, giáp liên tục. Đã thế, M1 còn suy giảm rất nhiều khả năng chiến đấu phức tạp, thực chất chỉ có mỗi giáp phía trước đáng gọi là xe tăng Thế chiến II. Còn thứ giáp bị đạn 20mm bắn nổ động cơ thì chỉ có thể tấn công thẳng vào ngân sách.

    Trong 2003, Mỹ tuyên có khoảng 70-80 M1 Abrams dính chưởng, nhưng đến 2005, hàng ngàn xe xếp đầy khắp các depot. Đấy mới là đánh du kich Iraq, không hiểu đanh đến Tầu Khưạ Ấn Độ thì đến đâu, đừng nói đánh Nga hay Đức. Đáng chú ý, trong số hình ảnh các xe dính năm 2003, thì có nhiều điều trên cả khủng khiếp:

    bị đạn 20mm của xe M2 bắn nổ động cơ
    bị loại pháo tương tự như T-54 bắn thủng tháp pháo
    B41 phát nổ sớm chỉ có tác dụng như lựu đạn cũng xé rách kho đạn
    gặp mìn thì xe tan tành
    Rất nhiều xe bị B41 đánh chặn bắn cháy khắp nơi, phần lớn các xe dính đạn B41 đều bị phá huỷ hoàn toàn với việc cháy kho nhiên liệu và đạn

    Đổi lại, không một bức ảnh nào cho thấy M1 đã bắn thủng trán T-72, kể cả T-72 nhái của Iraq sản xuất. Có một bức ảnh một chiếc xe đặt trong doanh trại Mỹdo khách du lịch và lính Mỹ chụp vết đạn bắn vào trán, nhưng đó là... hàng mẫu, và nhục nhã là nó vẫn chưa thủng (sau chiến tranh, khu vực này là nơi tập kết xác xe, hầu hết đã được đem đi, lính Mỹ lấy M1 ra nã một phát vào trán cái xác đem trưng bầy, gần đây rấy nhiều liệt não trưng cái ảnh ấy lên, nhưng soi kỹ thì nó chưa thủng).

    SUốt 8 nmăm qua, những ai liếm M1 Abrams thì chỉ còn những thành phần liệt sạch sành sanh não như vậy
  3. terminatorx

    terminatorx Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    19/11/2010
    Bài viết:
    725
    Đã được thích:
    1
    ^suốt ngày chê tank M vậy mà nó bắn tan tác T-54/72 thì ko thấy đả động gì :)) M1 cần quái gì giáp ERA giáp thô 100% là quá đủ

    [​IMG]

    T72M1 ERA bật tháp =)) con ấy cũng tương đương T của Iraq nên xét góc độ thì giáp trụ tank Ngố quá gà, còn nay tuy của Gruzia nhưng công nghệ của LX Nga ngố cả dễ =>> quân mình choảng quân ta, hậu duệ T-90 khi KHÔNG có ERA thì giáp thô của nó gọi M1 = cụ

    [​IMG]

    Tỉ lệ chiến giữa M vs T tích hợp hệ thống tối tân như SEP nâng cao khả năng sống sót của tổ lái sau 4-5 phát RPG hay nhiều phát bắn của tank địch \:D/ Thân và tháp pháo của M1 được bảo vệ bởi giáp cao cấp tương tự như áo giáp Chobham của Anh được chứng minh là good thông qua kinh nghiệm chiến trường.
    Gufl War 1 Mỹ có 1.955 xe tăng M1A1 Abrams tham chiến, không có thành viên tổ lái thiệt mạng do hỏa lực iraq, chỉ có 8 tank bị hư 4 tank repair lại ngon lành, ngoài ra tank M còn nổi tiếng là tiêu thụ xăng thuộc loại trung bình ko cần nhiều 300 lít cho 8 giờ nạp xăng chưa tới 10p, tank T thì uống xăng thôi rồi . Nếu chỉ xét về những đặc điểm kỹ thuật đơn thuần, bản thân chiếc M1A2 khó là chiếc xe tăng tốt nhất thế giới. Ví dụ như hệ thống điều khiển hoả lực và tác chiến điện tử của M1A2 kém hơn so với K2 của Hàn Quốc, giáp của M1A2 vẫn kém Challenger 2 và T-90. Nhưng còn phải xét đến 1 yếu tố khác, đó là khả năng triển khai của loại xe tăng này. Với tiềm lực của người Mỹ, việc sản xuất với số lượng khổng lồ là có thể. Thiết kế của M1A2 cũng khá đặc biệt, giống như các loại xe tăng trước của Mỹ, chiếc xe tăng này được thiết kế để tận dụng tiềm năng công nghiệp dân dụng nội địa (điều này giải thích việc M1A2 gần như không nhập các loại linh kiện phụ tùng của nước ngoài, dù việc này có thể làm giảm chi phí sản xuất). Trong trường hợp xảy ra chiến tranh, người Mỹ có thể điều động nền công nghiệp của họ sang sản xuất xe tăng. M1A2 cũng được thiết kế theo dạng module, các phần bị hỏng có thể thay thế riêng biệt mà không cần tốn quá nhiều thời gian. Hệ thống tự kiểm tra của xe có khả năng phát hiện các vấn đề để kịp thời thay thế và sửa chữa.
    -Một yếu tố nữa của M1A2 mà chúng ta cần đề cập là sự thoải mái mà M1A2 mang lại cho tổ lái. Khoang lái của M1A2 được thiết kế rộng rãi, mặt phía trong được thiết kế sao cho khi xe bị đạn pháo bắn trúng, một lượng tối thiểu mảnh có thể văng ra làm bị thương tổ lái. Các vấn đề mà M1A2 hay bị phê phán là việc không có hệ thống nạp đạn tự động và động cơ tua bin khí phiền toái và tốn nhiều nhiên liệu. Người Mỹ không phải không nhận ra vấn đề này, nhưng họ vẫn giữ nguyên thiết kế 1 phần quan trọng là để đảm bảo an toàn và thoải mái cho tổ lái. Vì đạn chứa trong khoang có cửa an toàn nên thiết kế một tay gắp đạn tự động là rất khó và cồng kềnh. Vấn đề này chỉ được giải quyết bởi các xe tăng sau này như Leclerc và K2, nhưng ngược lại nếu tay lên đạn kiểu này bị hỏng thì pháo chính của xe sẽ hoàn toàn vô dụng, mà tay lên đạn này là một trong những thứ bị hỏng đầu tiên nếu xe bị bắn trúng (dù đạn có không xuyên thủng thì sự rung, giật gây ra bởi cú va chạm cũng có thể làm hỏng các ống,van trong hệ thống thuỷ lực của tay lên đạn). Về động cơ tua bin khí, dù nó tốn rất nhiều nhiên liệu, nhưng thời điểm mà M1A2 ra đời, độ ồn, rung của động cơ tua bin khí thấp hơn rất nhiều so với động cơ diesel có công suất tương đương. Tuy nhiên, trong tương lai, có khả năng động cơ diesel loại mới có thể thay thế động cơ tua bin khí hiện tại

    [​IMG]

    M bị hư do RPG-29 bọn du kích iraq mua lậu, con này chắc vẫn repair lại ngon lành
  4. terminatorx

    terminatorx Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    19/11/2010
    Bài viết:
    725
    Đã được thích:
    1
    MAIN BATTLE TANK 70
    Trong bài này, mình chỉ xin nói về phiên bản của Mĩ.

    [​IMG]

    THÔNG SỐ
    Tổ lái: 3 người(lái xe, xạ thủ, xa trưởng)
    Trọng lượng rỗng: 48,5t
    Trọng lượng chiến đấu: 51,7t
    Chiều dài thân xe: 7,18m
    Chiều dài toàn bộ: 9,3m
    Chiều ngang toàn bộ: 3,5m
    Chiều cao toàn bộ: 2,96m
    Chiều cao gầm: 0,53m(có thể điều chỉnh từ 0,15 đến 0,63m)
    Đường kính vòng xoay tháp pháo: 2,56m
    Áp lực đất: 0,907kg/cm2(12,9psi)

    Động cơ: Continental AVCR-1100-3 12 xylanh, 4 thì, supercharge, công suất 1475hp@2800rpm
    Truyền động: Renk HSWL 354 4 số tiến, 4 số lùi
    Dung tích nhiên liệu: 1514l

    Tầm hoạt động: 643km
    Tốc độ tối đa(đường): 64km/h(ổn định)
    Lên dốc: 31độ(60%)
    Vượt hào: 2,8m
    Vượt vật cản đứng: 1,09m
    Độ sâu lội: 2,23m(không chuẩn bị), 4,9m(có chuẩn bị)


    LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
    MBT70 là chương trình hợp tác nghiên cứu giữa Mĩ và CHLB Đức vào thập niên 1960 nhằm đưa vào sản xuất một loại xe tăng chủ lực thế hệ mới với những tính năng tối tân nhất thời bấy giờ trong thập niên 1970 cho quân đội hai nước.

    Bản hiệp định đầu tiên của chương trình không nêu ra bất kỳ yêu cầu cụ thể nào về loại xe tăng chủ lực mới này, nhưng nó đưa ra đề ra công việc đầu tiên là phải lập một bảng danh sách các yêu cầu chung được 2 quốc gia đòi hỏi. Các tổ chức, cơ quan quân sự và dân sự chịu trách nhiệm nghiên cứu, thiết kế và điều phối được lặp ra để kết nối chương trình hợp tác xuyên châu lục này mà đứng đầu là PMB(Program Management Board) do chuẩn tướng(về sau là thiếu tướng) Welborn G. Dolvin chịu trách nhiệm lãnh đạo chương trình ở Mĩ và tướng Fritz Engelmann chịu trách nhiệm tương tự ở CHLB Đức. Hai cơ quan chính của chương trình là Cục kĩ thuật phối hợp(Join Engineering Agency/JEA) và Nhóm thiết kế phối hợp(Joint Design Team/JDT) có đại diện ngang bằng nhau từ 2 nước. Ở Mĩ, tập đoàn General Motors được trao hợp đồng hổ trợ chương trình trong khi ở CHLB Đức, một hiệp hội các nhà công nhiệp với tên gọi Deutsche Entwicklungsgesellschaft/DEG được thành lập vào tháng 7/1964 để làm công việc tương đương. Đức được chọn để làm nơi thực hiện công đoạn thiết kế ban đầu của chương trình và JEA và JDT được đưa đến Augsburg vào tháng 9/1964. Hai cơ quan này được lên kế hoạch di chuyển đến Detroit, Michigan, Mĩ sau khi công đoạn thiết kế ban đầu đã hoàn tất, nhưng nhiều trì hoãn đã ngăn cản điều nay cho đến tận tháng 9/1966. Mặc dù được yêu cầu phải phối hợp chặt chẽ với nhau, các nhóm làm việc bị chia rẽ vì các khác biệt về ngôn ngữ, thực tiễn công nghiệp và các thủ tục kĩ thuật khiến ngay cả các vấn đề nhỏ cũng trở nên khó giải quyết. Vì thế, hầu như mọi quyết định đều phải được sự thỏa hiệp giữa hai bên hoặc sẽ phải đưa lên cấp cao hơn để giải quyết. Điển hình là một thoả hiệp đã không đạt được ở JEA hay PMB vì việc bất đồng trong sử dụng hệ thống đo lường theo hệ của Anh(inch, pound…) hay là theo hệ metric(cm, kg…) và vụ việc phải được đưa lên đến cấp Bộ quốc phòng. Quyết định cuối cùng đưa ra là mỗi nước có thể dùng hệ thống đo lường của mình trong những thành phần mà mình sản xuất nhưng những kết nối giữa các thành phần phải được dùng hệ metric. Bởi vì 2 nước có tiếng nói ngang nhau trong việc thiết kế, nên thực tế có tới 2 sếp trong mỗi nhóm làm việc. Tất cả các khó khăn trên tạo ra sự hỗn loạn cho kế hoạch phát triển ban đầu và thời gian để chọn lựa khái niệm thiết kế bị kéo dài từ 6 tháng dự kiến lên 2 năm trên thực tế. Điều này, dĩ nhiên cũng sẽ tạo ra sự trì hoãn tương đương đối với thời hạn chiếc xe tăng sẳng sàng cho sản xuất.

    Việc chuẩn bị các đặc điểm chung cho loại xe mới cũng đòi hỏi phải hoà hợp nhiều nhiều yếu tố trái ngược nhau. Ví dụ như người Đức muốn một chiếc tăng được dùng chủ yếu ở Trung Âu trong khi người Mĩ lại muốn một chiếc xe tăng phù hợp cho hoạt động khắp thế giới. Cả 2 nước đều muốn một môi trường có kiểm soát cho tổ lái với giáp bảo vệ và chống phóng xạ tối đa ở trọng lượng thấp nhất có thể. Đức thích loại pháo tốc độ đạn cao để làm vũ khí chính trong khi Hoa Kì lại tin rằng tên lửa là cực kì quan trọng đối với độ chính xác ở tầm xa. Vũ khí phụ của xe được yêu cầu phải chống được cả mục tiêu trên bộ lẫn trên không. Để đạt các yêu cầu chung này, một lượng lớn các thiết kế đã được xem xét tại Augsburg. Chúng bao gồm gần như mọi thiết kế xe tăng đã được nghiên cứu trước đó tại Detroit cũng như một số mẫu mới. Các thiết kế bao gồm từ kiểu xe không tháp(casemate) với pháo có tầm xoay hạn chế cho khẩu pháo chính cho đến thiết kế dạng khoang(pod) với khẩu pháo chính được lắp bên ngoài. Thiết kế quy ước được xem xét với lái xe ở thân trước và nhiều kiểu tháp pháo. Tuy nhiên, thiết kế lái xe ngồi chung trong tháp pháo được nhóm Hoa Kì ưa thích. Một thiết kế của Đức đặt toàn bộ tổ lái trong một tháp pháo dạng hình cầu được ổn định 3 trục.
    [​IMG]
    Thiết kế xe tăng kiểu casemate ở bên phải và kiểu pod ở bên trái
    [​IMG]
    Thiết kế xe tăng với tháp pháo dạng cầu của Đức

    Để đánh giá các thiết kế được đưa ra, một hợp đồng đã được giao cho công ty Lockeed Missiles and Space để thực hiện một nghiên cứu về hiệu quả chi phí dựa trên thiết kế toán học. Nghiên cứu này sử dụng một mô hình toán học của một xe tăng có thể được hoán cải để đại diện cho các bản thiết kế. Các phân tích của máy tính sau đó đánh giá hiệu quả của các cấu hình xe tăng với nhiều thành phần được đưa ra đối đầu với các nguy cơ được mong đợi trong các điều kiện chiến đấu khác nhau. Bằng cách này, số lượng các ứng viên giảm xuống còn lại 5. Mô hình tỉ lệ thật của 5 chiếc này được chế tạo và đưa đến các nghiên cứu sâu hơn, cuối cùng giảm xuống chỉ còn lại 2 thiết kế cho quyết định cuối cùng. Và mẫu xe cuối được chọn mang các yếu tố kết hợp từ 2 ứng viên trên, các thành phần chính của xe được giao cho các nhóm của Đức hoặc Mĩ để thiết kế và chế tạo. Tuy nhiên, các phát triển song song vẫn được tiếp tục ở một số bộ phận để cung cấp bản dự phòng trong trường hợp ứng viên chính thất bại.
    [​IMG]
    Thiết kế cơ bản được chọn cho MBT70

    Như đã nói trước, nhóm Hoa Kì thích sử dụng phiên bản mới của loại pháo-ống phóng 152mm để làm vũ khí chính cho loại xe tăng mới. Hệ thống vũ khí XM81 nguyên thuỷ được kéo dài và người ta cũng bắt đầu nghiên cứu loại đạn xuyên giáp động năng cho pháo. Mang tên mã XM150, hệ thống pháo-ống phóng mới này cũng có thể bắn các loại đạn 152mm có sẳn. Các phát triển tiếp tục của tên lửa Shillelagh làm kéo dài tầm bắn và cải thiên độ tin cậy của nó. Mặc dù người Mĩ đã thuết phục được người Đức chọn thiết kế lái xe trong tháp pháo, nhưng việc sử dụng pháo-ống phóng 152mm không được nhười Đức mặn mà lắm. Đức vẫn tiếp tục phát triển loại pháo có tốc độ cao 120mm và lên kế hoạch trang bị ít nhất vài chiếc tăng của họ với loại vũ khí này.

    Sau khi đã chọn lựa được mẫu thiết kế, JEA và JDT được di chuyển từ Augsburg đến Detroit vào tháng 7/1966. Theo kế hoạch ban đầu, 8 xe tăng nguyên mẫu được cho phép sản xuất bởi mỗi nước, tuy nhiên, con số về sau giảm xuống chỉ còn 6. Nguyên mẫu đầu tiên được hoàn thành tại Hoa Kì vào tháng 7/1967 và được trưng bày cho công chúng lần đầu tiên vào tháng 9, cùng lúc với nguyên bản đầu tiên của Đức ra đời. Cả 2 đều chỉ là nguyên bản thử nghiệm độ cơ động và không được lắp bất kỳ thiết bị điều khiển hoả lực nào. Phần phía trước của thân xe và tháp pháo được bảo vệ bởi giáp rỗng và không gian dự phòng được làm để lắp lớp chắn phóng xạ nhằm đạt tỉ lệ làm loãng 20:1. Chiếc xe tăng mới này có tổ lái 3 người bao gồm xa trưởng, lái xe và xạ thủ. Hệ thống nạp đạn tự động nằm ở khoang sau tháp pháo loại bỏ yêu cầu về người nạp đạn. Tuy nhiên, nó không được lắp đặt trên nguyên bản đầu tiên. Toàn bộ tổ lái được đặt trong tháp pháo với lái xe ngồi trong một khoang dạng con nhộng(capsule) xoay đối nghịch lại với hướng xoay của tháp pháo nằm ở góc trái phía trước tháp pháo(nếu nhìn từ sau xe). Xạ thủ ngồi ở góc trước bên phải và xa trưởng ngồi ngay phía sau anh ta. Vối bố trí này, môi trường trong tháp pháo có thể được kiểm soát để chống lại tác nhân sinh hoá cùng với hệ thống làm mát/ sưởi ấm tạo sự thoải mái cho tổ lái. Một lưới cản đạn ở phần thân trên bên trái sườn xe che phủ bộ phận lấy khí cho thiết bị kiểm soát môi trường trong xe. Một hách thoát hiểm khẩn cấp được đặt ở dưới gầm tháp pháo. Tuy nhiên, vánh trượt cần phải được tháo ra và đẩy về một bên trước khi nó có thể sử dụng được. Để giàm trọng lượng, hách thoát hiểm được làm từ titan đúc.

    MIÊU TẢ
    MBT70 có thiết kế khá khác biệt so với các loại xe tăng bình thường khác, với toàn bộ tổ lái ngồi trong tháp pháo thay vì có lái xe ngồi ở thân xe trước. Kiểu thiết kế này nhằm gộp chung tổ lái lại ở trong khu vực có môi trường được kiểm soát và có lớp chắn phóng xạ.
    [​IMG][​IMG]

    Vị trí của lái xe bao gồm một khoang dạng capsule với ghế ngồi và mặt phẳng được treo vào nóc tháp pháo. Cupola nhỏ ở phía trên ghế ngồi bao gồm một hách ra vào và 3 kính quan sát. Ghế ngồi và mặt phẳng của lái xe là loại có thể điều chỉnh độ cao bằng thuỷ lực cho phép lái xe điều khiển xe khi đang ngồi hoặc đứng khom người. Tư thế đứng khom người được dùng khi đầu của lái xe lộ diện ra ngoài hách. Khoang capsule của lái xe luôn xoay đối nghịch lại với hướng xoay của tháp pháo để giữ cho lái xe luôn hướng về phía trước(vị trí 0 độ hoặc 12h) bất chấp góc của tháp pháo. Nó cũng có thể được khoá vào vị trí xoay nghiêng 50 độ về bên phải hoặc bên trái hoặc xoay về phía sau(vị trí 180 độ hoặc 6h). Vị trí xoay nghiêng 50 độ là nhằm cho phép lái xe sử dụng 1 trong 2 kính quan sát hai bên trong trường hợp kính quan sát chính bị hỏng. Bảng thông báo và điều khiển chính của lái xe được lắp dính vào trong khoang capsule, nhưng bảng dự phòng được gắn vào tháp pháo ở bên trái lái xe. Để dự phòng cho hệ thống điều khiển bằng điện, các thiết bị điều khiển khẩn cấp cơ học được lắp đặt trong thân xe ngay cạnh khoang lái xe. Tuy nhiên, cả khoang capsule lẫn tháp pháo phải được khoá vào vị trí hướng mặt về phía trước để có thể sử dụng chúng.

    Xạ thủ của xe được trang bị một hách ra vào ở nóc tháp pháo trên đầu anh ta. Ghế ngồi của anh ta được đóng vào thành của rổ xoay tháp pháo bằng nhôm và nó có thể điều chỉnh bằng cơ học. Cùng với thiết bị quan sát chính, một kính quan sát được cung cấp để tăng khả năng xác định mục tiêu và quan sát địa hình. Thiết bị quan sát phụ trợ của xạ thủ là một kính nhắm có khớp lắp ở bên phải khẩu pháo bên trên súng máy đồng trục. Kính quan sát này có khả năng quan sát hồng ngoại để hoạt động trong đêm nhờ vào sự chiếu sáng hồng ngoại của chiếc đèn dò.
    [​IMG][​IMG]
    Khoang capsule của lái xe(bên trái) và vị trí của xạ thủ(bên phải)

    Xa trưởng của xe ngồi ở góc phải phía sau của tháp pháo, đằng sau xạ thủ, bên dưới một cupola có 1 hách ra vào và 6 kính quan sát cung cấp vùng quan sát 360 độ để quan sát cự li gần xung quanh xe. Nắp che hách của xa trưởng và lái xe là loại có thể thay thế cho nhau. Thiết bị quan sát toàn cảnh và quan sát đêm được gắn ở nóc tháp pháo, bên phải và bên trái phía trước cupola. Ghế ngồi và mặt phẳng để chân được gắn vào rỗ tháp pháo và có thể được điều chỉnh độ cao bằng thuỷ lực. Các thiết bị điều khiển cho phép xa trưởng làm thế tạm thời công việc của xạ thủ hay lái xe trong trường hợp khẩn cấp để khai hoả pháo chính hay lái xe. Trong trường hợp sau, xa trưởng có thể điều khiển xe di chuyển, nhưng anh ta không thể dừng hay khởi động động cơ.

    Có 3 hệ thống cung cấp năng lượng phụ trợ hoạt động nhờ động cơ chính của xe để tạo ra điện và năng lượng thuỷ lực. Hệ thống điện bao gồm máy phát điện xoay chiều 3 pha có đầu ra 20kW ở 28V và 8 pin 12V cung cấp dòng điện một chiều 24V. Hai hệ thống thuỷ lực được cung cấp cho xe. Một hệ thống hoạt động ở 1500psi để vận hành tháp pháo và hệ thống nạp đạn tự động trong khi hệ thống còn lại tạo ra 3000psi để vận hành hệ thống treo thuỷ hơi (hydropneumatic).
    -----------------------------Tự động gộp Reply ---------------------------
    HOẢ LỰC
    Vũ khí chính của xe tăng MBT70 phiên bản của Mĩ là pháo-ống phóng 152mm XM150E5. Đây là phiên bản kéo dài nòng so với loại pháo 152mm của xe tăng M551 Sheridan và M60A2. Nó có thể phóng tên lửa Shillelagh và bắn các loại đạn thông thường có vỏ đạn cháy được dùng cho pháo 152mm nòng ngắn nhưng với sơ tốc cao hơn một chút. Ngoài ra, một loại đạn xuyên giáp động năng đã được phát triển và hy vọng rằng có thể bằng hoặc vượt mặt loại đạn APDS của pháo 105mm M68.
    [​IMG]
    [​IMG][​IMG]
    Đạn XM578E1 APFSDS(trái) và đạn XM617 flechette(phải)

    26 viên đạn pháo chính được mang trong máy nạp đạn tự động ở khoang sau tháp pháo. Máy nạp đạn này ban đầu được hãng Rheinmentall thiết kế để dùng chung cho 2 loại xe tăng của Mĩ và Đức. Tuy nhiên, về sau, một máy nạp đạn được hãng General Motors đã được gắn lên các nguyên mẫu xe tăng MBT70 của Mĩ, máy này mang 28 viên đạn thay vì 26 như loại của Đức. Lối tiếp cận vào máy nạp đạn là một cửa bản lề nằm ở mặt dưới của khoang sau tháp pháo và chỉ sử dụng được khi tháp pháo xoay ngang 90 độ so với thân xe. Máy nạp đạn của MBT70 bao gồm băng đạn xoay theo phương thẳng đứng, chứa các viên đạn đặt trên một “băng xích” liền và bộ phận đẩy đạn vào buồng đạn của pháo chính. Có 5 loại đạn có thể được chọn bao gồm đạn nổ mạnh, xuyên giáp động năng, đạn bee-hive chống bộ binh, đạn phốtpho trắng hoặc tên lửa Shillelagh. Khi nạp đạn, băng đạn sau khoang tháp pháo sẽ đưa viên đạn được chọn vào vị trí để nạp đạn. Đồng thời, khẩu pháo-ống phóng được ngắt tạm thời khỏi hệ thống cân bằng và chuyển về vị trí nâng 0 độ và khoá thẳng hướng với ống nạp đạn. Viên đạn sau đó được đẩy từ băng đạn, qua ống nạp đạn rồi vào khoá nòng của khẩu pháo. Sau khi đã nạp đạn xong, khẩu pháo chính sẽ được kết nối tự động trở lại với hệ thống cân bằng. Tốc độ bắn dự kiến của máy nạp đạn của Rhenmeintall là 10phát/phút với đạn thường và xe đứng yên. Các viên đạn dự trữ trong thân xe có thể được đưa vào máy nạp đạn thông qua một cỗng nhỏ trên thành sau của khoang sau tháp pháo. Tổ lái cũng có thể nạp đạn thủ công trực tiếp vào ống nạp đạn để đưa đạn vào pháo. 8 viên đạn pháo 152mm được đặt trong một khoang ngăn cách nằm sau rổ tháp pháo và chỉ có thể tiếp cận được thông qua một lối hở ở vị trí lái xe. 12 viên đạn pháo khác đặt trong rỗ tháp pháo ở phía trước và sau lái xe, nâng cơ số đạn tổng cộng lên 46 viên.
    [​IMG]
    Máy nạp đạn của hãng General Motors

    Vũ khí phụ của MBT70 là một pháo tự động 20mm Rheimentall RH202 điều khiển từ xa, gắn vào một khoang kín nước ở góc trái phía sau tháp pháo. Khi không sử dụng, khẩu pháo này sẽ được đặt dưới nắp bảo vệ, hướng nòng súng về phía sau xe, dọc theo tháp pháo. Khi được kích hoạt, 2 nắp bảo vệ phía trên sẽ mở ra và bệ súng được nâng lên, cung cấp vùng bắn 360 độ. Nó có thể được điều khiển bởi xa trưởng hoặc xạ thủ. 2 băng đạn chứa tổng cộng 750 viên được đặt ngay bên trong bệ súng. 2 loại đạn có thể được chọn lựa. Súng có tầm xoay 360 độ và tầm nâng hạ từ -10 đến +65 độ để tiêu diệt các mục tiêu trên bộ và trên không.
    [​IMG]

    Một súng máy đồng trục 7,62mm M73 được đặt ở bên phải của pháo chính, bên dưới thiết bị quan sát phụ trợ của xạ thủ. Các băng đạn gồm 3000 viên đạn 7,62mm được đặt ở thành trước rổ tháp pháo và được nối với khẩu M73. Ngoài ra còn có 3000 viên đạn khác đặt trong 15 thùng đạn để ở dưới gầm rổ tháp pháo.

    MBT70 được trang bị hệ thống điều khiển hoả lực tinh vi và phức tạp, cho phép xa trưởng làm thay thế nhiệm vụ của xạ thủ trong trường hợp phức tạp. Máy tính đạn đạo là một máy phân tích các tín hiệu khác nhau bao gồm các tín hiệu điện 1 chiều, xoay chiều, nhị phân, xung đến từ các cảm biến của nó, tay cầm điều khiển của xạ thủ, máy đo gia tốc, thiết bị quan sát chính của xạ thủ, máy đo góc tháp pháo, thiết bị tìm tầm laser cũng như các tín hiệu on-off từ thiết bị kiểm soát vũ khí của xạ thủ, thiết bị kiểm soát tầm bắn của xạ thủ và các tay cầm điều khiển của xạ thủ. Nhiều thiết bị cảm biến bao gồm cảm biến đo độ cong của pháo để dự đoán sự chênh lệch của nòng pháo do nhiệt độ thay đổi và một cảm biến đo thông số không khí để đo đạc nhiệt độ không khí, áp suất và tốc độ gió ngang. Một con quay hồi chuyển cũng được dùng để cung cấp thông tin về độ nghiêng của xe cho máy tính đạn đạo.

    Ngoài 6 kính quan sát xung quanh, thiết bị quan sát toàn cảnh và thiết bị quan sát đêm cung cấp cho xa trưởng vùng quan sát 360 độ và cho phép người này sử dụng pháo chính, đồng trục hay khẩu pháo tự động 20mm. Thiết bị quan sát chính của xạ thủ gắn ở góc phải phía trước nóc tháp pháo được tích hợp thiết bị tìm tầm laser và thiết bị theo dõi đường bay của tên lửa. Các thiết bị quan sát toàn cảnh của xa trưởng, thiết bị quan sát chính của xạ thủ, pháo chính 152mm, vũ khí phụ 20mm và bộ truyền tín hiệu tên lửa đều được ồn định theo 2 phương ngang và dọc. Thiết bị truyền tín hiệu đến tên lửa nằm ở mặt bên trái của tháp pháo và có một lớp vỏ giáp bọc bảo vệ, khi tên lửa đang bắn đi thì 2 nắp chắn phía trước phải được mở ra. Có hai loại thiết bị quan sát đêm được cung cấp cho xa trưởng. Loại thứ nhất là loại quan sát đêm trực tiếp sử dụng một ống khuếch đại ánh sáng được quan sát qua một thấu kính. Loại thứ hai sử dụng một camera ánh sáng thấp chuyển hình ảnh đến một màn hình TV ở vị trí của xa trưởng và xạ thủ cho phép cả hai dùng thiết bị này. Một đèn chiếu xenon của Đức được lắp vào mặt bên trái cạnh pháo chính. Tương tự như loại dùng trên các xe tăng Leopard của Đức, nó cung cấp ánh sáng trắng lẫn ánh sáng hồng ngoại. Các xe tăng chỉ huy cũng được dự liệu gắn thêm một hệ thống định vị trên bộ tự động báo cáo vị trí và hướng di chuyển của xe. Một camera cũng được lắp ở bên trái mặt nghiêng thân trước xe để cung cấp cho lái xe tầm quan sát gần phía trước xe. Hình ảnh được truyền một màn hình TV ở vị trí của lái xe. Màn hình này cùng loại với màn hình của xa trưởng và xạ thủ. Khi lặn sâu, camera này được dời đến đính của một trong các ống “thở” của xe. Một thiết bị quan sát đêm bị động cũng có thể được gắn từ bên trong xe để thay thế kính quan sát trung tâm của lái xe.

    BẢO VỆ
    Lớp giáp bảo vệ của tháp pháo bao gồm 2 lớp: lớp bên trong làm từ thép đồng chất đúc và lớp bên ngoài làm từ thép cán có độ cứng cao, ở giữa 2 lớp là một khoảng trống giúp tăng khả năng bảo vệ của xe trước các loại đạn nổ lỏm. Thân xe được làm từ các tấm thép đồng chất cán, đúc và một số tấm giáp nhôm được hàn lại.

    Hệ thống chống NBC của MBT70 bao gồm hệ thống tăng áp kiểm soát môi trường, thiết bị phát hiện hoá chất và phóng xạ cùng với một lớp lót ngăn tia phóng xạ. Xe có hệ thống phát hiện và chữa cháy tự động bằng khí halon cùng với một bính chữa cháy khí halon cá nhân đặt trong tháp pháo.

    Tám bộ phóng lựu đạn khói được đặt ở hai bên khoang sau tháp pháo, bốn bộ ở mỗi bên. Mỗi bộ gồm 2 ống. Chúng được kích hoạt từ vị trí của xa trưởng.

    DI ĐỘNG
    Xe tăng MBT70 của Mĩ được cung cấp động lực từ động cơ Continental AVCR-1100-2 hoặc AVCR-1100-3 diesel, làm mát bằng khí. Khác biệt chủ yếu giữa 2 loại là thể tích toàn phần. Đường kính xy lanh 4 7/8 inch của loại AVCR-1100-2 được làm rộng lên 5 3/8 inch ở loại AVCR-1100-3. Điều này làm tăng thể tích toàn phần từ 1120 inch vuông lên 1360 inch vuông trong khi chiều dài vẫn là 5 inch. Cả 2 loại động cơ trên đều có công suất 1475 mã lực ở 2800rpm. Động cơ xe vẫn còn trong quá trình phát triển và việc tăng thể tích là nhằm làm tăng độ bền của động cơ khi hoạt động ở công suất tối đa. Động cơ AVCR đặt công suất đầu ra cao nhờ vào việc dùng các piston có tỉ số nén điều chỉnh được. Được kích hoạ bằng áp suất thuỷ lực, các piston này cho phép hoạt động ở tỉ số nén cao(22:1) khi bắt đầu nhưng hạn chế áp suất tối đa của xylanh bằng cách giảm tỉ số nén(xuống còn 10:1) khi áp lực lên động cơ tăng lên. Để tránh nhầm lẫn trong quá trình đấu thầu, loại động cơ có thể tích toàn phần lớn được gọi là AVCR-1100-3 mặc dù điều này không theo đúng phép đặt tên thông thường. Về sau, một phiên bản nâng cấp của loại động cơ này đươc mang tên chuẩn là AVCR-1360. Cùng với động cơ là hệ thống truyền động Renk HSWL 354 của Đức. Bộ phận này có các tính năng: 4 số tiến và 4 số lùi, sang số tự động và thủ công, lái thuỷ tỉnh và phanh thuỷ động lực học. Xích của xe là loại mắc đôi Diehl 170 rộng 635mm và có các miếng cao su có thể tháo rời.
    [​IMG]
    Động cơ Continental AVCR-1100

    Hệ thống treo thuỷ hơi được phát triển bởi công ty National Water Lift ở Mĩ và Frieseke und Hoepner GmbH ở Đức. Phiên bản của công ty National Water Lift được dùng cho các nguyên mẫu số 1 và 2 của Mĩ trong khi phiên bản của Đức được dùng trên các xe còn lại. Cả 2 loại đều được kết nối với 12 bánh xe đi đường, 6 bánh ở mỗi bên xích. Hệ thống thuỷ lực 3000psi kiểm soát tách biệt 4 nhóm thiết bị treo ở vị trí bánh đi đường, mỗi nhóm gồm 3 vị trí. 4 nhóm này nằm ở các góc trước phải, trái và sau phải, trái. Vì thế, bằng cách điều chỉnh độ cao treo ở các góc, chiếc xe tăng có thể được nâng cao, hạ thấp hay nghiêng về các hướng. Hệ thống điều khiển cho hệ thống treo của công ty National Water Lift được đặt cạnh vị trí của xạ thủ, cho phép điều chỉnh độ cao ở từng phần của xe. Nó được xạ thủ điều chỉnh theo lệnh của xa trưởng. Độ căng của xích xe cũng có thể được điều chỉnh bằng cách dời các bánh chuyển hướng ở mỗi băng xích.Bình thường thì độ căng của xích được điều chỉnh tự động khi nâng hay hạ thân xe. Tuy nhiên, nó cũng có thể được điều chỉnh riêng biệt.
    [​IMG][​IMG]

    Ở khoang động cơ sau thân xe, có hai lỗ tròn bọc lưới lớn nằm trên nóc cung cấp không khí vào cho động cơ xe. Khí thải và không khí làm mát của động cơ được trộn và thải ra ngoài qua lớp lưới hình chữ nhật đặt ở thành sau thân xe.

    Hệ thống nhiên liệu của xe bao gồm 2 bình nhiên liệu bằng nhôm nằm hai bên khoang động cơ và một bình bằng cao su nhiều lớp đặt ở thân trước xe. Bơm nhiên liệu trong mỗi bình bơm nhiên liệu đến một bình tích trữ, tại đây, bơm của động cơ sẽ chuyển nhiên liệu đến bầu lọc xăng và động cơ. 2 lớp ngăn cách bọc giáp kín nước ngăn cách tổ lái khỏi các bình nhiên liệu ở đầu và cuối xe. Để giảm trọng lượng, nhôm được dùng để làm gầm khoang động cơ và cửa khoang động cơ.
    [​IMG]

    MBT70 có thể lội qua chổ nước sâu tới nóc xe mà không cần chuẩn bị đặc biệt. Điều này được thực hiện bằng cách đóng các lổ hở, thổi phồng một số niêm và bật các “ống thở” đặt ở 2 góc sau xe. Với một bộ thiết bị lặn sâu, chiếc xe có thể lặn sâu 6m. Thử nghiệm cho thấy khoang động cơ của nguyên mẫu xe tăng MBT70 của Mĩ đã bị ngập khi lội nước.

    KHÓ KHĂN VÀ HUỶ BỎ
    Khi mà các thành phần đã trở nên tiếp cận được, các cuộc kiểm tra các nguyên mẫu được tiến hành ở Mĩ và Đức. Nguyên mẫu xe đầu tiên của Mĩ được đưa đến bãi thử Aberdeen vào cuối năm 1969. Không cần phải nói, nhiều vấn đề đã phải được giải quyết với các hệ thống cực kì phức tạp của của chiếc xe tăng mới. Ở Đức, người ta gặp nhiều khó khăn với nhiều bộ phận của hệ thống điều khiển hoả lực và với máy nạp đạn của hãng Rheinmentall. Khó khăn sau đã dẫn đến việc máy nạp đạn của hãng General Motors được dùng để gắn lên các nguyên mẫu MBT70 của Mĩ. Động cơ Continental AVCR-1100 tuy đã được cải tiến thể tích xy lanh nhưng nhiều nghi vấn vẫn còn đó. Ngoài ra, tháp pháo do Mĩ chế tạo không thể hiện thoả mãn mà không có các thay đổi. Mặc dù vậy, các tiến bộ đáng kể đã được tạo ra và các xe nguyên mẫu thể hiện vượt trội khi tính đến tốc độ và sự di động. Khẩu pháo-ống phóng 152mm cũng hoạt động tốt khi các khó khăn về tên lửa và vỏ đạn đã được giải quyết. Tuy nhiên, các quan điểm khác biệt giữa đại điện của Mĩ và Đức lại một lần nữa nổi lên. Điển hình là chiếc tăng hiện đã vượt quá giới hạn trọng lượng đề ra ban đầu đến 4 tấn. Người Mĩ không cho rằng đây là quan trọng so với mức độ bảo vệ mà xe cung cấp. Nhưng, đối với người Đức, đây là một khuết điểm nghiêm trọng và họ yêu cầu thay đổi thiết kế để giảm tải. Người ta cho rằng có thể giảm một phần trọng lượng của xe bằng cách bỏ lớp lót cản phóng xạ, và điều này dẫn đến những chống đối mới. Một trong những lý do để chọn kiểu thiết kế lái xe-trong-tháp pháo là để dễ dàng cung cấp lớp chắn phóng xạ cho toàn bộ tổ lái trong một không gian gần. Nếu như sự bảo vệ này không còn được yêu cầu nữa, có lẽ người ta phải cân nhắc sự thay đổi thiết kế toàn bộ của xe.

    Tất cả các vấn đề trong quá trình phát triển và thay đổi đã dẫn đến kết quả làm chậm lại và tăng giá của chương trình. Tháng 9/1969, phó bộ trưởng quốc phòng David Packard đã yêu cầu xem xét lại toàn bộ chương trình. Bản báo cáo của quá trình xem xét lại dự đoán rằng chi phí để hoàn tất việc phát triển và chế tạo sẽ tốn 544 triệu $ và chiếc xe tăng mới sẽ có giá 1,2 triệu $ mỗi chiếc, gấp 5 lần giá ước tính ban đầu(giá một chiếc M1 Abrams về sau chỉ 750.000$). Và vào ngày 20/1/1970, các tin tức được đưa ra từ Bộ quốc phòng đã cho thấy sự kết thúc của chương trình. Sau đó, Mĩ và Đức tan đàn xẻ nghé, mỗi quốc gia tiếp tục phát triển và sản xuất một chiếc xe tăng chủ lực phù hợp với yêu cầu riêng của mình. Ở Đức, kết quả là chương trình Leopard II. Còn ở Mĩ, chiếc MBT70 được đơn giản hoá thành XM803 để giảm chi phí và được thiết kế lại để sử dụng các bộ phận do Mĩ sản xuất. Tuy nhiên, chương trình XM803 này cũng kết thúc mà không có kết quả và phải ngường chổ cho chương trình XM1 Abrams.

    [​IMG]
  5. huyphuc1981_nb_aaad

    huyphuc1981_nb_aaad Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/12/2010
    Bài viết:
    196
    Đã được thích:
    67
    Phiên bản có Mỹ nào
  6. huyphuc1981_nb_aaai

    huyphuc1981_nb_aaai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2010
    Bài viết:
    115
    Đã được thích:
    10
    khỉ, đổi acc

    Phiên bản có Mỹ nào.

    Lợn à, đã nói bên trên đó

    MBT70 là phiên bản xe tăng Đức thiết kế theo Leo 2, dành cho đơn đặt hàng Mỹ. Người Mỹ từ chối thiết kế này vì gia công kiểu Mỹ không thể thực hiện được. Xe hiện đang trưng bầy ở bảo tàng xe tăng bên Đức.

    Cho đến 198x, xe tăng Mỹ mới bỏ được cái pháo L7 nòng xoắn Anh Quốc mà mua bản CaL 45 bán thải của Leo2, khi Leo 2 chuyển sang Cal 55. Đến năm 199x M1 Abrams mới bắn được ATGM, nhưng chưa từng dùng trong thực tế. Cho đến nay, M1 vẫn là xe nạp đạn thủ công.

    Còn MBT70 cũng như T và Leo hiện đại, là xe nạp đạn tự động tổ lái 3 người, pháo trơn bắn APDSFS.

    Lợn vơ váo vào đâu thế.

    Cái xe M1 Abrams nguyên bản và xe tăng Cao Ly K1 phải nói đúng là xe tăng lạc hậu không khác gì xe thế chiến II, lợn vơ váo MBT70 định người sang bắt quàng làm họ chắc. Nguyên nhân vì giáp liên hợp (có nhiều lớp), giáp hộp (giáp có lớp trống ở giữa), máy nạp đạn tự động, hệ thống ổn định tháp pháo mạnh trong tốcc độ cao, cũng như pháo nòng trơn, đạn APDSFA và ATGM người Mỹ đều không thể thực hiện được. Vậy nên, quay lại giáp liên tục với pháo nòng xoắn bắn đạn AP của WW2.

    Trước đây, người ta đúc vì đúc làm thân phôi tròn và biến đổi chiều dầy phôi, tiết kiệm tối đa thể tích, trong khi tốc độ gia công cao. Sau này, T-90 chuyển sang hàn cái trán vì dùng những tấm phẳng bằng vật liệu phức hợp, gia công bằng áp lực thường có dạng phẳng cho dễ làm, ví dụ như các composite gồm các hạt rất cứng để chẻ đạn xuyên.

    Ngược lại, M1 bỏ đúc sang hàn để dùng thép ..... cán làm giáp trán, điều mà T-34 với IS cổ klỗ cũng phải chào thua, dĩ nhiên, điểm ăn cắp này làm giá thành và kỹ thuật đơn giản đi rất nhiều. Chưa hết, sau này cũng đắp coposite lên, nhưng do quá nặng không làm hộp nên vẫn tác dụng như liên tục. Và bị bó vào tỷ lệ công suất / khối lượng, nên mới cởi truồng xung trận đến nay và bị đạn 20mm của M2 bắn nổ động cơ.
  7. vietcong91

    vietcong91 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2010
    Bài viết:
    1.159
    Đã được thích:
    0
    xét theo nhiều góc độ thì MBT70 tương đồng với tank Sô cùng thời như T-64, 64 cũng autoloader đc,bắn tên lửa đc luôn, T-64 vs MBT-70 có ngang cơ nhau ko mấy pro !! mà sao tank M của tụi Mẽo tổ lái vẫn 4 mạng cần nạp đạn = tay là sao, mà em thấy nó cũng cơ động đấy chứ ko rõ có vừa đi vừa bắn được ko :D
    theo ý riêng T-64 có thể được xem là mẫu hệ của T-72 80 90 giống MBT70 ông nội của L vs M [:D]

    Theo ý tỡm tẹc là thế này : "Các vấn đề mà M1A2 hay bị phê phán là việc không có hệ thống nạp đạn tự động và động cơ tua bin khí phiền toái và tốn nhiều nhiên liệu. Người Mỹ không phải không nhận ra vấn đề này, nhưng họ vẫn giữ nguyên thiết kế 1 phần quan trọng là để đảm bảo an toàn và thoải mái cho tổ lái. Vì đạn chứa trong khoang có cửa an toàn nên thiết kế một tay gắp đạn tự động là rất khó và cồng kềnh. Vấn đề này chỉ được giải quyết bởi các xe tăng sau này như Leclerc và K2, nhưng ngược lại nếu tay lên đạn kiểu này bị hỏng thì pháo chính của xe sẽ hoàn toàn vô dụng, mà tay lên đạn này là một trong những thứ bị hỏng đầu tiên nếu xe bị bắn trúng (dù đạn có không xuyên thủng thì sự rung, giật gây ra bởi cú va chạm cũng có thể làm hỏng các ống,van trong hệ thống thuỷ lực của tay lên đạn). Về động cơ tua bin khí, dù nó tốn rất nhiều nhiên liệu, nhưng thời điểm mà M1A2 ra đời, độ ồn, rung của động cơ tua bin khí thấp hơn rất nhiều so với động cơ diesel có công suất tương đương. Tuy nhiên, trong tương lai, có khả năng động cơ diesel loại mới có thể thay thế động cơ tua bin khí hiện tại"

    cũng có lý phết [:D]
  8. huyphuc1981_nb_aaai

    huyphuc1981_nb_aaai Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    21/12/2010
    Bài viết:
    115
    Đã được thích:
    10
    Thật ra, BMT70 là mẫu thử sơ khai, nếu như quyết, thì còn lâu mới ra thực tế. Vì dụ như pháo 152mm trơn bắn APDSFS và ATGM không thực hiện được, ATGM không đủ tien cậy trong thử nghiệm và năng lực bắn APDSFS chóng xuống cấp. Sau này nhà Leo dùng 120mm trơn và cũng còn lâu sau đó mới đủ ATGM.

    K1 của Cao Ly cũng chuyển sang nạp đạn thủ công, tổ lái 4. Pháo 105mm L7 thực ra không hơn gì 100mm của T-54,trong khi khối lượng từ 35 tấn lên 70 tấn, nên cái M1 nòng xoắn này nó thối khắm khủng khiếp. Cai K1 Cao Ly coá thể coi là cái ruột M1 lắm vỏi MBT70

    Xe nào thì cũng vừa đi vừa bắn được thôi. NHưng tháp pháo nặng mà động cơ tháp pháo yếu thì phải đi chậm. Riêng K2, Merkava và M1 thì chỉ chiến đấu được với tốc độ như xe đạp.

    Cái bản tin nhồi sọ rằng nạp đạn GE hay hơn Rheilmetall, nên về sau M1 Abrams nạp đạn thủ công cho đến hôm nay.

    Thật đúng là chỉ ở xứa liệt sạch sành sanh não mới có người nuốt được loại cám này, và tung hộ vạn tuế xe tăng bị đạn 20mm của M2 là số một thế giới.
  9. vietcong91

    vietcong91 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2010
    Bài viết:
    1.159
    Đã được thích:
    0
    chà bọn Kầy pop vs USpop mà rành tiếng việt xem bác hp phân tích chắc nóng mặt lắm đây :))
  10. terminatorx

    terminatorx Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    19/11/2010
    Bài viết:
    725
    Đã được thích:
    1

    hãi nhất câu kết K2 Mer M1 chiến đấu vs tốc độ xe đạp, vậy 5 góc nato làm công nghệ tân tiến lên làm cái khỉ gì nữa, giữ nguyên M48 60 đập vào mặt T ghẻ 54 type 59 của Ngú khựa Sâm là song, có thằng điên mới phán bậy như vậy thôi, toàn dẫn chứng nguồn của bọn Nga mà cứ cho là đúng bó tay, sao nó ko đánh nổi bọn du kích mujahideen nhể =))

    Điều cay đắng là load = tay như Mỹ M1A2 Abrams , Anh Challenger 2 lại là ~ tank diệt tank nhiều nhất Challen còn là tank ko bị toi chiếc nào trong chiến trận, còn T-72 thì khỏi nói về chiến công tự đưa đầu cho người ta bắn =))

Chia sẻ trang này