1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu nhà Tây Sơn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 10/06/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dukooon

    dukooon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0

    Chiến sự ở Diên Khánh
    Năm 1793,Nguyễn Vương Phúc Ánh cho xây thành Diên Khánh có 6 cửa,mỗi cửa đều có vọng lâu,trên có bố trí súng đại bác. Ngoài luỹ có hào.Ngoài hào có luỹ chắn ngang.
    Thành nằm ở lưu vực sông Đà Diễn (Đà Rằng) phì nhiêu, có sức cung cấp quân lương cho binh sĩ trấn thủ. Diên Khánh trở thành tiền đồn xuất phát của Nguyễn Vương, Phú Yên trở thành tranh địa. Tây Sơn giữ được thì có bình phong che trở cho Tông Thành Qui Nhơn. Nguyễn Vương chiếm được thì có thể uy hiếp Qui Nhơn 1 cách mạnh mẽ.
    Về phía Tây Sơn, sau khi ổn định được tình hình phủ Qui Nhơn, các tướng Nguyễn Văn Hưng, Trần Quang Diệu bắt đầu nghĩ đến việc khu trục Nguyễn Vương ra khỏi Diên Khánh. Đầu năm Giáp Dần (1794) nguyễn Văn Hưng đem quân vào Phú Yên, Trần Quang Diệu đem quân vào Nha Trang vây thành Diên Khánh.
    Để giảm bớt áp lực cho Diên Khánh, tháng năm, Nguyễn Vương đem quân ra đánh Thị Nại mục đích ép Trần Quang Diệu phải triệt binh về cứu đất căn bản là Tông Thành. Nguyễn Vương thắng được những trận nhỏ ở Tiều Cơ, Mai Hương nhưng đến tháng sáu nhận ra thế lực của Tây Sơn còn rất mạnh, Nguyễn Vương lui quân về Xuân Đài, để Nguyễn Văn Thành trấn giữ La Hai, ngăn đường tiến của quân Tây Sơn.
    Tháng Giêng năm Ất Mão 1795, Trần Quang Diệu lại tăng binh vây đánh Diên Khánh. Trong thành lương tiền nhiều, Võ Tánh yên tâm cố thủ để chờ cứu binh Gia Định, Trần Quang Diệu khởi sự vây thành sớm vì đương mùa gió Bấc. Nguyễn Vương không thể ứng cứu nhanh chóng được.
    Trần Quang Diệu đã khích lệ binh sĩ dưới quyền :
    -Diên Khánh tân thành tráng
    Cam Linh thuỷ thế thâm
    Xuất sư yêu hiến tiệp
    Bảo quốc hiệu đồng tâm.
    ( người biên sử đời sau dịch :)
    Diên Khánh thành trì mới
    Cam Linh thế nước sâu.
    Lòng sơn lo báo quốc
    Phải chiến thắng cho mau.
    Tháng ba, Nguyễn Vương cầm quân đi cứu Diên Khánh nhưng bị Trần Quang Diệu chận tại Trường Cá (Phương Sài), nên phải đóng ngoài biển Nha Trang và các nơi hiểm yếu trên đất. Quân không tiến lên Diên Khánh được. Võ Tánh phía trong thành cũng mở nhiều đợt đột kích ra phía ngoài nhưng vòng vây vẫn xiết chặt. Ưu thế hoàn toàn nằm trong tay Trần Quang Diệu.
    Chợt có tin chính biến ở Thuận Hóa và Thăng Long. Thái sư Bùi Ðắc Tuyên ( cậu ruột vua Quang Toản ) bị Võ văn Dũng bắt giết. Con là Bùi Ðắc Trụ ở Qui Nhơn cũng bị gia hình. Trần Quang Diệu thất kinh bảo các tướng dưới quyền : ?o Trong nhà có nội biến , đánh thắng ngươì ngoài sao được ?? Rồi rút quân vây thành Diên Khánh, theo đường núi Nhự Phi về Qui Nhơn. Quân Gia Ðịnh không thạo địa hình,ngẩn ngơ không biết đường nào truy kích.
    Trần Quang Diệu về đến Qui Nhơn rồi đem binh ra Phú Xuân đóng ở Nam ngạn sông Hương cự địch với Võ Văn Dũng ở phía bắc.
    Vua Cảnh Thịnh thấy tình thế nguy cấp, sợ có biến loạn lớn nên phải giáng xuống một đạo đặc chiếu giảng hòa, lại có thêm Võ Ðình Tú đứng ra hòa giải nên bọn Diệu Dũng giảng hòa với nhau, đem các tướng vào chầu chia nhau ra giữ các chức vụ trọng yếu. Võ Văn Dũng là đại Tư Ðồ, Nguyễn Văn Danh làm đại Tư mã, Nguyễn văn Huấn làm thiếu bảo, Trần Quang Diệu làm thiếu phó. Ðương thời gọi là tứ trụ đại thần.
    Nội nạn vừa yên, quân Tây Sơn chưa dám tái chiến Diên Khánh. Nguyễn Vương thừa cơ hội tốt lo tu bổ, kiên định thành trì.
    Năm sau, Ðinh Tỵ 1797, nguyễn Vương đem quân thám kích Ðà Nẵng. Sai Võ Nguyên Lượng làm khâm sai Chiêu thảo sứ bắt mối liên lạc với các hào kiệt Thanh Nghệ. Tây Sơn dò biết được bắt giết Võ nguyên Lượng và vợ là Hoàng Thị Hân. Tuy nhiên , đến lúc này thế lực Nguyễn Vương ở Diên khánh đã vững lắm rồi. Tây Sơn không sao lay chuyển nổi nữa.
    Chiến sự ở Qui Nhơn
    Tháng 9 năm Ðinh Tị 1797, nguyễn Vương cho Trần Phúc Chất sang Xiêm, trình bày kế hoạch đánh ép Tây Sơn . Vua Xiêm ban đầu đồng ý nhưng rồi việc hưng binh sau đó do dự vì những kỉ niệm về rạch Gầm, Xoài Mút còn mới mẻ quá.
    Sang đến năm Mậu Ngọ 1798, Nguyễn Vương bắt đầu uy hiếp Qui Nhơn nặng nề. Từ lúc này trở đi, Qui Nhơn trở thành trung tâm quân sự quan trọng bậc nhất cho cả đôi bên.
    Văn Bảo ( Nguyễn bảo ) không được kế vị cha là vua Thái Ðức, chỉ được gọi là Tiểu Triều nên đã có âm mưu về hàng Nguyễn Vương. Cơ mưu bại lộ, Văn Bảo bị dìm nước chết. Những người liên quan đến vụ Văn bảo như Nguyễn Văn Huấn, Lê Trung đều bị giết. Lê Chất trốn thoát xin về hàng Nguyễn Vương.
    Năm Kỉ Mùi 1799, nguyễn Vương đại cử binh lực tiến đánh Qui Nhơn. Tháng tư, chiến thuyền Gia Ðịnh tiến vào cửa Thị Nại. Trận đánh ở núi Càn Dương, quân Tây Sơn bị thua, trận đánh ở núi Hội An ( thuộc Phú Yên ) tham đốc Tây Sơn là Phạm văn Ðiểm xin hàng tướng bên Nguyễn Vương là Nguyễn Văn Thành.
    Hai bức bình phong che chở Qui Nhơn là Càn Dương ở phía bắc,Hội An ở phía nam đều mất hết. Tháng 5 quân Gia Ðịnh vây thành Qui Nhơn. Võ Tánh lại đánh thắng tượng binh Tây Sơn ở xứ Kha Ðáo. Vòng vây Qui Nhơn lại càng xiết chặt.
    Vua Cảnh Thịnh sai Võ văn Dũng và Trần Quang Diệu đem 20.000 quân vào cứu Quí Phủ ( tức phủ Qui Nhơn gọi theo cách Tây Sơn ) Cánh quân của Trần Quang Diệu vào đến đèo Bình Ðê, cánh quân của Võ Văn Dũng vào đến núi Chung Xá. Ban đêm quân tiền lộ thấy có con nai từ trong rừng nhảy ra, la to : Nai ! Nai ! Quân ở sau tưởng lầm là quân Gia Ðịnh- Ðồng Nai đón đường , nháo nhắc hỗn loạn. Cùng lúc này, Tống Viết Phước, tướng của Nguyễn Vương đóng quân ở núi Cung Quảng tới Sa Lung thừa dịp đem quân xung kích,cánh quân của Võ Văn Dũng trốn chạy tơi bời. May cho tây Sơn là Trần Quang Diệu giữ vững trận địa nên Võ Văn Dũng không đến nỗi thảm bại. Võ Văn Dũng cảm phục xin kết bạn sinh tử với Trần Quang Diệu. Hai tướng giữ vững đường Diên Trường- Thạch Tân nhưng chưa dám tiến quân tiếp.
    Tổng quản thành Qui Nhơn là Lê Văn Thanh chờ lâu không thấy quân Thuận Hóa vào cứu bất đắc dĩ phải xin hàng. Nguyễn Vương đổi tên thành Qui Nhơn thành Bình Ðịnh. Thế là Tây Sơn mất một lực lượng trấn thủ đông tới 40.000 quân và 120 con voi.
    Vua Cảnh Thịnh được tin Tông Thành thất thủ bèn cử thủy lục đại binh tiến vào sông Trà Khúc. Bấy giờ đương mùa gió nam, việc thủy chiến bất lợi về phía Tây Sơn. Quân Gia Ðịnh đã chiếm hết địa lợi nên vua Cảnh Thịnh bất đắc dĩ phải theo lời tâu xin của các tướng rút quân về Thuận Hóa. Vua để Võ văn Dũng, Trần Quang Diệu ở lại giữ đất Quảng Nam, Nguyễn Văn Giáp giữ sông Trà Khúc.
    Tháng 9,Nguyễn Vương đem thi hài thượnh sư bá Ða Lộc về Gia Ðịnh, Ðể Võ tánh và Ngô Tùng Châu giữ đất Bình Ðịnh.
    Tháng 11, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đem quân đi đánh Qui Nhơn. Ðầu năm Canh Thân 1800 Trần Quang Diệu lấy lại hết các vị trí thuận lợi đã bị mất. Võ Tánh chỉ một mực cố thủ tránh các cuộc giao tranh. trần Quang Diệu bèn cho đắp trường lũy bao vây thành Bình Ðịnh, ý đồ làm Võ tánh tuyệt lương tuyệt viện. Thủy trại ở Thị Nại cũng được dàn thành trận thế hùng hậu sẵn sàng ứng chiến.
    Ðể phân chia quân thế tây Sơn, nguyễn Vương sai nguyễn Văn Thụy làm Thượng đạo tướng quân đến Vạn Tượng, liên lạc với tù trưởng Mường là Hà Công Thái quấy nhiễu thượng du Thanh Hóa, Phan bá Phụng nổi dậy ở Hưng Hóa. Nguyễn Vương tiến ra cửa Cù Mông, lập đồn lũy kiên cố, chặn đánh một đoàn ghe tiếp tế của Tây Sơn lấy được 30.000 vuông gạo.
    Vẫn trong tháng 11, Nguyễn văn Thành dò biết được đường núi Hà Thanh ở tây nam huyện Tuy Viễn, rồi cùng với Lê văn Duyệt Tống Viết Phước tập hậu hỏa công doanh trại Tây Sơn. Ðô đốc Thu của tây Sơn phải xin hàng.
    Ngày 27 tháng 11, quân Tây Sơn mở một trận đại phản công vào đồn lũy Nguyễn Vương. Theo lời Barizy, số quân Tây Sơn hôm ấy đông đến 233.000 người. Nguyễn Vương nhờ có 400 khẩu chiến pháo xạ kích rất chính xác nên đẩy lui được các đợt xung phong của quân địch.
    Ngày 11 tháng chạp, quân Tây Sơn lại phản công một lần nữa nhưng cũng không sao đánh bật đươc Nguyễn Vương ra khỏi Cù Mông.
    Được dukooon sửa chữa / chuyển vào 19:51 ngày 01/04/2005
  2. dukooon

    dukooon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/03/2005
    Bài viết:
    25
    Đã được thích:
    0
    Một trận thuỷ chiến tối kịch liệt
    Đầu năm Tân Dậu 1801, ngày rằm tháng giêng, Nguyễn Vương đem các tướng Võ Di Nguy, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Trương cùng 3 sĩ quan Pháp Chaigneau, Vannier, De Forgans mở cuộc thao diễn thuỷ quân. Trời hôm đó thời tiết rất đẹp. Nguyễn Vương nảy ra ý tấn công thuỷ trại của Tây Sơn.
    Hạm đội của Nguyễn Vương gồm có :
    26 chiến thuyền, mỗi chiếc có 1 đại bác và 200 quân.
    65 Pháo hạm, mỗi chiếc có 1 đại bác và 80 quân.
    Lực lượng của Tây Sơn gồm có :
    9 tàu, mỗi tàu có 66 đại bác khẩu kính 24 với 700 thuỷ thủ.
    5 tàu, mỗi chiếc mang 50 đại bác khẩu kính 24 với 600 thuỷ thủ.
    40 tài nhỏ, mỗi chiếc mang 16 đại bác khẩu kính 12 với 200 thuỷ thủ.
    93 chiến thuyền, mỗi chiếc mang 1 đại bác khẩu kính 36 với 150 thuỷ thủ.
    100 tầu buồm, mỗi chiếc có 70 thủy thủ.
    Quân Nguyễn Vương xuất xư vào đầu giờ chiều, đến khi trờ nhập nhoạng tối 12.000 quân Gia Định đổ bộ lên bờ biển gần đồn luỹ Tây Sơn. Quân trú phòng của Tây Sơn vẫn không hay biết gì cả. Đến nửa đêm, thuỷ đội tiên phong của Nguyễn Vương gồm 62 pháp hạm áp sát vào sườn 3 chiếc tàu chiến Định Quốc hàng đầu của Tây Sơn. Một cuộc hỗn chiến diễn ra. Quân Tây Sơn ở đồn Tam Toà nổ súng vào các pháo hạm của Nguyễn Vương. Võ Di Nguy trúng đạn ngã quay xuống nước. Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Trương dẫn quân xung kích, đốt phá các chiến hạm của Tây Sơn. Nguyễn Văn Trương vào sâu quá trong thuỷ trại địch không có đường rút liền tự đốt pháo hạm của mình bắt buộc binh sĩ dưới quyền phải tử chiến. Đến rạng đông ngày 16 tháng Giêng, thuỷ quân Gia Định đã nắm được phần thắng rõ rệt. Tuy vậy, quân Tây Sơn vẫn cố cầm cự cho đến chiều.
    Theo lời Barizy, quân Nguyễn Vương bị thiệt hại lớn, mất 4000 binh sĩ tử thương nhưng phía Tây Sơn còn thiệt hại nặng hơn gấp 10. Ít nhất 50 000 tử thương. Tất cả thuỷ quân hùng hậu, 6.000 đại bác đủ cỡ, 1800 ghe buồm vận tải quân nhu, quân lương, vàng bạc tổn thất không biết ngần nào.
    Sử sách nhà Nguyễn ghi trận thuỷ chiến này là võ công đệ nhất.
    Phía Tây Sơn, sau khi mất các tàu Định Quốc, thuỷ trại tan vỡ. Võ Văn Dũng đem tàn quân về phối hợp với Trần Quang Diệu nỗ lực vây thành.
    Nguyễn Vương đóng ở Thị Nại sai người về Gia Định đốc thúc quân lương.
    Vào khoảng tháng 2 năm này, Đông Cung Cảnh lên bệnh đậu mùa rồi mất. Tháng sau, Vương tử Hy trấn thủ Diên Khánh cũng mất.
    Tuy liên tiếp bị hai cái tang trong gia đình song Nguyễn Vương cứ ở lại quyết chiến chứ không chịu ban sư.
    Võ Tánh và Ngô Tùng Châu bị vây khốn trong thành Bình định, một số người muốn làm nội ứng cho Tây Sơn tuy nhiên sau đó đều bị phát giác và bắt giết.Bên Võ Tánh,có nhiều người tình nguyện len lỏi vòng vây, phải lặn nước ra vào đem biểu văn của Võ Tánh dâng lên Nguyễn Vương. Đến tháng tư năm Tân Dậu, Nguyễn Vương nhận được mật biểu của Võ tánh khuyên Nguyễn Vương nên mau thừa cơ hội này đánh ra Phú Xuân :
    ?o Nay quân tinh nhuệ của Tây Sơn đều tập trung cả vào Bình Định, thành Phú Xuân ắt là sơ hở. Như vậy bên mình chiếm được Phú Xuân thì vòng vây của Tây Sơn ở thành Bình Định không cần đánh mà tự tan vỡ. Thảng mà không kịp thì đem một mạng Võ Tánh mà đổi lấy Phú Xuân, quân ta vẫn còn lời to lắm ! Đó là kế tượng kỳ khí xa, đánh cờ thí xe vậy.?
    Nguyễn Vương y lời, để Nguyễn Văn Thành ở lại chống nhau với Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng còn tự mình đem quân ra Quảng Nam, Thuận Hoá.
    Hạm đội Bắc tiến thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Vương gồm có:
    1 tàu lớn mang 36 đại bác.
    15 tàu,mỗi tàu 18 đại bác, khẩu kính 12.
    42 chiến thuyền, mỗi chiếc 1 đại bác khẩu kính 36.
    300 pháo hạm, mỗi chiếc có 1 đại bác.
    Giám quân Nguyễn Văn Trương coi 1 phân hạm đội gồm có 6 tàu.
    Tàu Long Phi mang 32 đại bác do Chaigneau chỉ huy.
    Tàu Bằng Phi mang 36 đại bác Chánh đội De Forgans chỉ huy.
    Tàu Phụng Phi mang 26 đại bác do Vannier chỉ huy.
    3 tàu, mỗi tàu mang 18 đại bác khẩu kính 12 do Saint Phalle chỉ huy.
    Chiến sự ở Thuận Hoá
    Tháng 5 năm Tân Dậu 1801 Nguyễn Vương vào cửa Tư Hiền, Phò mã Tây Sơn là Nguyễn Văn Trị đem binh ra đóng giữ núi Qui Sơn ( Linh Thái ) Lê chất, Lê Văn Duyệt đem binh đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị phỉ bỏ đồn mà chạy rồi ngày hôm sau bị bắt với Đô đốc Phan Văn Sách. Đại binh của nguyễn Vương vào cửa Nhuyễn Hải ( cửa Thuận An ) Vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đem binh nghênh chiến.
    Thuỷ Quân Tây Sơn dự kiến gồm có 10 tàu, 14 chiến thuyền và nhiều pháo hạm đặt duới quyền của Tư Mã Nội hầu Lê Văn Lợi. Dàn trận hình bán Nguyệt chặn ngang sông dưới sự bảo vệ của các pháo đội bắn theo lối giao xạ, hai bên bắn chéo, dồn lại một điểm là địch quân. Trên các chiến thuyền của Tây Sơn treo cờ đỏ. Thuỷ quân của Nguyễn Vương treo cờ vàng.
    Chiến thuyền hai bên xáp vào nhau mà bắn phá. Đến quá trưa thì quân Tây Sơn thua. Quá đầu giờ chiều, Nguyễn Vương vào bến tiếp giáp với Hoàng Cung. Đến khoảng 6 giờ Nguyễn Vương sai một đột vệ binh canh gác kinh đô, truyền lệnh cho quân sĩ lại xuống chiến thuyền. Vương ngự trên một soái hạm.
    Lúc bấy giờ là ngày 3 tháng 5, năm Tân Dậu. Dương lịch là 14 ?"6-1801.
    Trong trận này, Nguyễn Vương bắt được 13.760 tù binh thu được 284 khẩu đại bác và nhiều súng đạn.
    Đội thân binh của vua Cảnh Thịnh gồm 2000 vệ sĩ và 70 con voi đã bảo vệ nhà vua đào tẩu. Tư mã nội đã giục nhà vua nên chạy vì tình thế tuyệt vọng rồi. Nguyễn Vương sai Lê Chất đem bộ binh, Nguyễn Văn Trương đem thuỷ binh truy kích đến bờ sông Linh Giang ( sông Gianh ) nhưng vua Cảnh Thịnh đã chạy được.Tướng Lê Văn Duyệt đem bộ binh vào cứu thành Bình Định.
    Tại Bình Ðịnh, Võ tánh bị Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bao vây tuyệt lương,tuyệt viện phải nhảy vào lửa tự thiêu mà chết, có Chánh cơ Nguyễn Tấn Huyên nhảy vào lửa mà chết theo. Ngô Tùng Châu đã uống thuốc độc chết trước vài bữa.
    Trần Quang Diệu ,Võ Văn Dũng vào thành treo bảng an dân rồi nghĩ cách thu phục kinh thành Huế.
    Trần Quang Diệu sai Tư khấu Ðịnh dẫn một đạo quân 10 000 người đi đường thượng đạo, bôn tập Phú Xuân.
    Nguyễn Vương đã ra lệnh mộ 50 000 tân binh cho phối hợp với đoàn quân cũ. 30 000 quân được đưa vào Quảng nam, nhắm các hướng tiến vào Bình Ðịnh. 60 000 quân được đưa ra các đồn ải Cát Dinh, Ðộng hải (Ðồng Hới ) , lũy Trấn Ninh. Tại Phú Xuân, số quân bảo vệ cựu đô chỉ khoảng 8- 9000 người.
    Sau 12 ngày len lỏi qua các ải đạo hiểm trở. Tư khấu Ðịnh đã đến trước kinh thành Huế nửa ngày đường. Tướng sĩ bên phía Nguyễn Vương vẫn chưa hay biết gì. Ðoàn quân viễn hành của Tây Sơn đang nghỉ mệt trong rừng, vài ba trẻ em địa phương đi tìm bò lạc. Chúng phát hiện ra những người lạ mặt và phi báo cho các nhà chức trách.
    Nguyễn Vương truyền lệnh dàn chiến thuyền trên sông rồi tự mình dẫn quân đi nghênh chiến. Sau một cuộc hành trình gần 2 giờ, quân của Nguyễn Vương đến đầu nguồn sông Tả Trạch. Tư khấu Ðịnh huy động quân sĩ hỗn chiến. Cuộc đụng độ kéo dài ba giờ, rốt cuộc Tư khấu Ðịnh phải rút lên một ngọn đồi lẩn trốn. 3 tướng tham mưu phụ tá Tư khấu Ðịnh là Ðô đốc Canh, Nguyễn Bá Phong, Nguyễn Bá Hạ đều bị bắt. Trương Phúc Phượng về hàng Nguyễn Vương.
    Mặc dù bị Nguyễn Vương dùng quân khuyển truy kích, truy nã, Tư khấu Ðịnh vẫn rút lui biệt dạng. Ðoàn quân bôn tập Phú Xuân bị thua tan.
    Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Ðiềm vào đánh Phú Yên nhưng bị tướng bên Nguyễn Vương là Nguyễn Văn Tánh chặn lại.
    Quân Tây Sơn ở Tông thành bị lâm vào cái thế tam diện thụ địch. Lê Văn Duyệt, Lê Chất ở Quảng Ngãi đánh vào, Nguyễn Văn tánh ở Phú Yên đánh ra, Nguyễn Văn Thành đem quân thủy từ cửa Thị Nại đánh lên. Trần Quang Diệu phủ dụ sĩ tốt, cố giữ Tông Thành chờ quân Bắc hà vào cứu viện ...
    Được dukooon sửa chữa / chuyển vào 12:56 ngày 02/04/2005
  3. Thiet_Moc_Chan

    Thiet_Moc_Chan Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/05/2004
    Bài viết:
    1.760
    Đã được thích:
    1.519
    Cuộc chiến giữa màu cờ đỏ của nhà Tây Sơn và màu cờ vàng của nhà cựu Nguyễn phải nói là rất hấp dẫn trong lịch sử. Trận tập kích vào Phú Xuân là ngón đòn rất hiểm, chiếm được địa lợi, chia cắt được quân chủ lực Tây Sơn, bắt được người nhà các tướng tá TS làm con tin, khiến cho mấy chục vạn quân tướng Tây Sơn ở Quy Nhơn mất tinh thần. Đất nước ta cong cong hình chữ S, kinh đô ở gần biển, thủy quân Tây Sơn lại vừa bị thua to ở Quy Nhơn nên đã đáng tiếc để xảy ra trận đột kích này. Nếu Nguyễn Ánh không đánh vòng ra Phú Xuân mà cứ cố đánh Quy Nhơn, thì cuộc chiến sẽ còn dai dẳng rất lâu. Vua Cảnh Thịnh sẽ ngày càng trưởng thành, Ánh khó có thể nghĩ đến chuyện thống nhất đất nước.
    Tuy nhiên, sau khi thất bại ở Trấn Ninh, thì quân Tây Sơn vẫn còn xứ Thanh Nghệ hiểm trở, Bùi Thị Xuân vẫn còn quân còn thành. Vì sao bà và chồng lại bị bắt nhỉ ? Nhờ dukon post tiếp
  4. ReadOnlyMemory

    ReadOnlyMemory Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2005
    Bài viết:
    324
    Đã được thích:
    0
    Những trận đánh ở đây hay thật đó, vậy mà sao chẳng thấy sách vở nào viết nhỉ, hay là có mà cũng quá ít??? Nói chung đọc mấy cái này thích hơn là xem chiến trận của Nguyễn Huệ (vì NH đánh 1-2 trận là thắng, mà thắng dòn dã luôn --> tất nhiên thế là tướng tài rồi, rất khâm phục nhưng đọc không hay vì cứ đánh là thắng chắng có hồi hộp tý nào cả). Ai mà có tài viết văn thì những chuyện này cũng hay không kém gì Tam Quốc Chí ấy chứ
    Hoan hô pac Dukon
  5. dukoon

    dukoon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2005
    Bài viết:
    346
    Đã được thích:
    0
    Trận trấn Ninh và những ngày tàn của quân Tây Sơn
    Từ khi thất thủ Phú Xuân,vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, đổi niên hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch hưng binh các trấn. Nguyễn Quang Thùy được lệnh vào giữ Nghệ An.
    Nguyễn Vương lại sai Lưu Phước Tường đi đường Cam Lộ truyền dụ cho Vạn Tượng và các Mường phải chỉnh đốn quân dung, ngăn đón quân Tây Sơn ở miền núi và các nẻo đường thượng đạo.
    Sai Trương Công Vỹ chiêu dụ hào kiệt Bắc Hà.Nguyễn Ðình Hoàng chiêu dụ nghĩa quân Thanh Nghệ.
    Tháng 11, vua Cảnh Thịnh đem quân thủy bộ hơn 30 000 ngươì vào đánh Linh Giang ( Sông Gianh ), vợ tướng Trần Quang Diệu là Bùi thị Xuân đem 5000 quân bản bộ tùng chinh. Tư lệ Ðinh Công Tuyết, Ðô đốc Lục phối hợp với 100 tàu Ô tiến đánh cửa Nhật Lệ.
    Năm Nhâm Tuất 1802, vào tháng Giêng,vua Cảnh Thịnh sai Nguyễn Quang Thùy, Tổng quản Siêu vây đánh lũy Trấn Ninh.
    Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương giữ mặt thủy, Phạm Văn Nhơn, Ðặng Trần Thường giữ mặt bộ.
    Quân Tây Sơn vây đánh lũy trấn Ninh từ sáng đến trưa, chưa hạ được lũy. Vua Cảnh Thịnh đã toan lui nhưng nữ tướng Bùi Thị Xuân can ngăn, đem quân bản bộ xông lên, quyết hạ cho được chiến lũy. Chợt có tin báo thủy quân của Tuyết , Lục đã bị Nguyễn Văn Trương phá tan ở sông Nhật Lệ, 20 tàu ô bị bắt, quân Tây Sơn đương vây chiến lũy ở Trấn Ninh phải tháo chạy. Vua Cảnh Thịnh chạy ra Ðông Cao ( huyện Bố trạch tỉnh Quảng Bình ) tướng tùy giá là Nguyễn Văn Kiên về hàng chúa Nguyễn.
    Nguyễn Vương lại sai Tống Phước Lương, Nguyễn Văn vân đoạt hết lương thực của tây Sơn trên sông Linh Giang bắt được thượng thư Nguyễn Thế Trực, Ðô đốc Trần Văn Mô.
    Nguyễn Vương trở về Thuận Hóa,sai Tống Phước Lương, Ðặng trần Thường giữ sông Gianh, Nguyễn Văn Trương giữ Ðồng Hới, Hoàng Văn Ðiềm giữ cửa Rôm.
    Ở mặt phía nam, năm trướcLê văn Duyệt thắng trận ở Trà Khúc, bắt được 3000 tù binh và vài tướng tây Sơn. Năm nay,thừa oai trận Trấn Ninh, Lê Văn Duyệt tiến xa hơn, vượt qua sông Trà Khúc, vào đến núi Dương Hạ ( Lộ Bôi ) ở ranh giới hai huyện Mộ Ðức và Ðức Phổ, đánh bắt được đô Ðốc Tây Sơn là Châu Hữu Mỹ.
    Tháng 3, Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bỏ thành Bình Ðịnh, theo đường phía ngoài sông Lê xứ mọi Con Rai chạy ra thượng du Nghệ An. Lê Văn Duyệt truy kích bắt được đô Ðốc trần Ðại cựu.
    Nguyễn Vương được tin báo tiệp liền truyền hịch cho các xứ Quảng Nam,Cam Lộ phải chia binh canh giữ nguồn, mục đích triệt đường ra bắc của Trần Quang Diệu.
    Lúc bấy giờ ở Bắc Hà, bọn Ngô Ðức Toán đã vâng lệnh Nguyễn Vương làm Hà Bắc chiêu thảo sứ, cổ võ dân Thanh Nghệ nổi dậy chống Tây Sơn. Bọn thổ hào huyện Nông Cống là Phạm Ngọc Thác, Phạm Ngọc Thụy chiếm giữ các nẻo đường xuyên sơn, có ý chờ quân của Nguyễn Vương ?o Phù Lê diệt ngụy?.
    Nguyễn Vương có phi hịch ra Bắc hà, nhưng chỉ nói rõ về cái nghĩa điếu dân, phạt tội, không nói gì về chuyện phù Lê cả. Dao Trì Bá Lê Huy Dao, người chuyên thảo sớ cho vua Lê ngày trước có mạo xưng nhân danh Nguyễn Vương thảo một tờ hịch chiếu triệu dân bắc Hà hưởng ứng quân Nam Hà với thâm ý muốn Nguyễn Vương đắc thắng thì phải phù Lê thật nhưng rốt cuộc sau này cũng không đạt được thành quả nhưng vào thời điểm đó việc làm của những di thần nhà Lê cũng đã tạo được những ảnh hưởng nhất định lên quân dân Bắc hà.
    Bên cạnh tờ thảo chiếu giả, các di thần nhà Lê còn tuyên truyền, phổ biến mạnh mẽ hơn bao giờ hết những câu sấm tiên đoán sự diệt vong của Tây Sơn :
    ?oÐầu cha lộn xuống chân con
    Mười bốn năm tròn hết số thì thôi?
    Hay :
    Cha nhỏ đầu,con lại nhỏ chân
    Ðến năm Nhâm Tuất thì thân chẳng còn.
    Nguyễn Vương tập trung lực lượng bắc phạt. Bộ binh đông gần 200 000 người. Tiền đạo 60 000 , trung đạo 86 000 , Hậu đạo ứng tiếp 50 000 người.
    Thủy quân tham gia Bắc phạt gồm 100 chiến thuyền, 800 pháo hạm, 550 khẩu đại bác,50 tàu và 50 000 quân đổ bộ.
    Tháng 6, vua ngự giá thân chinh ra Hà Trung,bộ binh bắt được Nguyễn Lân con vua Thái Ðức,thừa thắng tiến tới Diễn Châu. Ðô đốc Ðào văn Hổ của Tây Sơn đem quân ra hàng ở nghệ An. Quân tiền đạo của Nguyễn Vương vào Thanh Hóa bắt được Ðốc trấn Nguyễn Quang Bàn, Ðổng lý Nguyễn Văn Thận.
    Trần Quang Diệu đi đường thượng đạo từ Qui Nhơn ra bị Phó Ðô Thống chế Võ Doãn Văn bắt được ở núi rừng huyện Thanh Chương. Vua Gia Long tiếp tục hành trình ra Thanh Hóa. Thổ hào xã Ngọc Xá huyện nông cống bắt nạp Võ Văn Dũng.
    Ngự giá rong ruổi ra Ninh Bình, đến đâu cũng như vào chỗ không người.Quân Tây Sơn chưa đánh đã chạy tan.
    Vua Cảnh Thịnh cùng với các em là Nguyễn Quang Thùy ,Quang Thiệu,bầy tôi là nội Hầu Tứ, Ðô Ðốc Tư qua sông Nhị Hà.Vua muốn tự sát,bầy tôi ngăn lại,cùng chạy đến Xương Giang thì bị quân dân huyện Phượng Nhãn ( thuộc Bắc Ninh ) đón bắt. Quang Thùy thắt cổ chết, vua Cảnh Thịnh cùng bầy tôi bị đóng cũi giải về Thăng Long rồi về Thuận Hóa.
    Lễ hiến phù và cách xử trị của vua Gia Long
    Tháng 7,vua Gia Long làm lễ hiến phù,dâng tù binh lên anh linh tổ tiên ở nhà Thái Miếu.Sau đó tù binh được giam giữ ít lâu rồi đưa ra pháp trường tận pháp xử trị ( cùng cực nghiêm khắc và dã man chưa từng thấy trong lịch sử Ðinh,Lê,Lí,Trần,Lê.)
    Vua Tây Sơn trước ngày chết còn chịu cái đau khổ nhìn thấy quân sĩ nhà Nguyễn Gia Miêu đi tiểu vào di hài di cốt của cha mẹ, bà con họ hàng. Những di hài này đều bị chém đầu. Ðầu ba vua Quang Trung, Thái Ðức, Ðông Ðịnh Vương đều bị bỏ vào ghê sành xiềng lại. Dân trong tù gọi là 3 ông thần Ghê . ( Mãi đến năm 1885,kinh thành Huế thất thủ, dân trong tù phá ngục trốn thoát,rinh 3 ông thần Ghê đi biệt tích. Không rõ hạ lạc về đâu ?)
    Giáo sĩ La Bissachere chứng kiến tận mắt những cảnh hành hình man rợ.
    Vua Cảnh Thịnh bị bốn con voi xé xác,trước khi chết vua còn ngoảnh đầu lại nhìn di hài di cốt của mẹ cha.
    Ðịch thủ đáng sợ nhất của Gia Long là Trần Quang Diệu phải chịu tội lột da, vợ là Bùi Thị Xuân bị voi giầy.Gia đình và bản thân tướng Võ Văn Dũng may mắn thoát chết. Ông đã vượt ngục đưa gia đình và vợ con lên An Khê nương nhờ dân Thượng. Quan quân nhà Nguyễn đành chịu bó tay hết cách truy tầm.
    Cuộc tranh hùng Nhị Nguyễn chấm dứt.Nhà Tây Sơn kể từ năm Mậu Tuất 1778 năm vua Thái Ðức xưng đế đến năm Nhâm Tuất 1802 vừa được 24 năm. Kể từ Mậu Thân 1788 năm vua Quang Trung xưng đế thì được 14 năm.
    Năm Nhâm Tuất chính thức cáo chung nhà Tây Sơn, mở đầu một kỉ nguyên thống nhất cho lịch sử Việt Nam.
    Được dukoon sửa chữa / chuyển vào 23:12 ngày 03/04/2005
  6. dukoon

    dukoon Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    05/03/2005
    Bài viết:
    346
    Đã được thích:
    0
    Tây Sơn vẫn còn địa lợi nhưng hiềm một nỗi thiên thời đã cạn, lòng người lại bất hòa.
    Trong triều vừa xảy ra nội biến _ quan tướng chưa hết bàng hoàng , ngoài trận tiền liên tiếp thất bại_quân sĩ hoảng loạn , giới sĩ phu Bắc Hà vẫn hướng về vua Lê _lòng dân không phục, lại thêm Nguyễn Ánh lại rất khéo léo khi tạo được những lực lượng ********* ngay trong lòng Tây Sơn .Có thể nói vào thời điểm đó cái tráng khí mà Nguyễn Huệ thổi vào hồn quân sĩ, cái uy đức ban đầu khiến quan dân đều qui thuận đã tan rã mất rồi ! Với một lực lượng bạc nhược như vậy , làm sao Tây Sơn lúc đó có thể chống cự được quân nhà Nguyễn không những mạnh mẽ,tràn ngập lòng tin qua những chiến thắng liên tiếp mà còn áp đảo về số lượng ?
    Bàn thêm về Nguyễn Vương, ông đã có 9 đời chúa đi trước làm chủ Ðàng trong ,uy đức thấm khắp lòng người . Tướng sĩ trung dũng, tài năng không phải là ít . Vương lớn lên trong buổi loạn li, từ trẻ đã quen mùi chiến trận lại là người ôm chí lớn phục quốc báo thù .Kết hợp với khí số Tây Sơn đã suy, Nguyễn Vương thật không thiếu bất cứ yếu tố gì để dựng lên đại nghiệp.
    Từ hôm nay tiểu đệ có việc phải xa HN dăm bữa nửa tháng, cố gắng gõ vội vài dòng cùng các bác. Cảm ơn các bác đã quan tâm.
    Được dukoon sửa chữa / chuyển vào 07:48 ngày 04/04/2005
  7. phuocldbk

    phuocldbk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/05/2004
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Em tìm trên net được một bài viết về Nguyễn Huệ - Nguyễn Ánh, cuộc đối đầu và tác động lẫn nhau của mỗi người đối với sự nghiệp của người kia, rất hay, mời các bạn trong 4rum tham khảo !
    ?zNGUYỄN HUỆ - NGUYỄN ÁNH?o
    CUỘC TRÙNG PHÙNG MAY MẮN
    HAY BẤT HẠNH CỦA LỊCH SỬ ?


    Lịch sử là một chuỗi sự kiện phản ảnh quá trình tiến hóa để tồn tại của một dân tộc trên nhiều lãnh vực.
    Đặc biệt không ít những sự kiện còn in đậm dấu ấn của những nhân vật đã góp phần chi phối mạnh mẽ đến sự thịnh suy của đất nước. Nhưng sau những thăng trầm, đâu phải lúc nào hậu thế cũng đánh giá đúng tầm vóc cùng bản chất đời thường vốn sẵn của họ?
    Do đâu vẫn còn đó trong từng trang được gọi là chính sử đôi điều đáng tiếc, nếu không bắt nguồn từ những con người trót được mệnh danh là những nhà viết sử ?


    I. SỬ GIA & SỰ KIỆN

    Đã gọi là sự kiện lịch sử tất tự thân không thể có sự đổi thay, song diễn dịch chúng như thế nào điều ấy vẫn còn tùy thuộc vào quan điểm của những nhà viết sử.
    Nếu nhà viết sử là công cụ của triều đại, nội dung sự kiện sẽ được nhào nặn theo chiều hướng thuận lợi cho dòng họ hay thế lực đương quyền. Họ chính thực là công thần của dòng họ vua chúa hoặc thế lực ấy chứ chưa phải là một sử gia đúng nghĩa.
    Nếu viết sử chỉ để miêu tả hiện thực, người viết sử sẽ chẳng hơn kém gì một nhân viên văn thư ghi chép nhật ký hành chính, đáng trân trọng chăng về tính cần mẫn ở vị trí của một công bộc mà thôi.
    Một sử gia đích thực thì khác, ngoài lòng yêu nước còn phải hội đủ những tố chất lẫn ý thức trách nhiệm khác nữa: trí phán đoán, tính khách quan, sự dũng cảm và lòng chính trực? Không chỉ chép đúng, sử gia còn phải lý giải được tính muôn mặt của mỗi sự kiện nhằm thuyết phục tầng lớp thống trị, cùng lúc dẫn dụ được quãng đại quần chúng nhìn nhận vấn đề theo một ý nghĩa tích cực nhất.

    Chuyện kể về Đổng Hồ nhà Tấn (Đông Châu Liệt Quốc):
    ?zDi Cao (Tấn Linh Công) vô đạo, mưu giết tướng quốc Triệu Thuẫn. Thuẫn trốn, gặp cháu là Triệu Xuyên can hãy đợi. Liền đó Xuyên đến Đào Viên cùng giáp sĩ giết vua. Thuẫn vốn trung nghĩa không lấy thế làm hài lòng, một hôm sang sử quán thấy bản thảo chép ?zthu Ất Sửu, Triệu Thuẫn giết vua Di Cao?o Thuẫn kinh hãi bảo ?" ?zThái sử lầm rồi, ta đã chạy xa kinh thành khi sự thể xẩy ra, sao đổ lỗi cho ta??o. Hồ nói ?"?zLàm tướng quốc chưa ra khỏi địa giới nước nhà đã xẩy ra chuyện giết vua, lúc về lại không trị tội kẻ nghịch thần. Bảo việc này không do ngài chủ mưu thì ai tin ??o. Thuẫn hỏi chữa kịp không ? Hồ thưa ?" ?zĐã là tín sử thì có thế nào chép thế đó, đầu tôi có thể cắt chứ không thể chữa?o. Thuẫn thở dài ?"?zThế mới biết quyền chép sử trọng hơn quyền tướng quốc. Tiếc thay, ta chưa ra khỏi địa giới để phải chịu tiếng muôn đời !?o.
    Đáng khen thay họ Đổng nhưng liệu ông ta có dám quyết nếu Triệu Thuẫn là một tướng quốc bất nhẫn và việc giết một hôn quân có hàm ý vị quốc hay tham vọng cá nhân ?
    Đổng Hồ có làm sáng tỏ sự cố ấy theo tinh thần một sử gia hay chỉ hoàn thành nhiệm vụ của một viên quan chép sử ?
    Phải chăng cũng bắt nguồn từ một nguyên nhân như thế mà hằng trăm năm sau, khi ấn tượng hãi hùng về những trang sử tắm máu cuối đời hai triều Lý và Trần ít nhiều phai nhạt, hậu thế mới thừa nhận tài chỉnh trị vô song của thái sư Trần Thủ Độ lẫn tính cách mạng qua những cải cách của Hồ Quý Ly, thay vì cả hai phải chịu tiếng gian hùng hay tiếm ngôi ?
    Thật đáng sợ hệ quả của ý niệm ?zgiang sơn là riêng của một dòng họ?o hay ?zvua là con trời, dân là con đỏ?o đã ăn sâu vào tiềm thức người dân qua các thời đại phong kiến. Từ đó, nẩy sinh một sự đánh giá thiên lệch về người lẫn sự kiện chỉ thuần dựa trên cảm tính và sự tồn tại bền lâu hoặc ngắn ngủi của kẻ thắng người bại, sau các cuộc mưu đồ vương bá ?
    Thử hỏi nếu cuộc chính biến êm đềm cuối triều tiền Lê và biến cố nhằm giành ngôi báu từ Lý sang Trần kéo dài chỉ với một đời Lý Công Uẩn hoặc Trần Cảnh, liệu Lý và Trần có được xem là chính thống (1)?
    Tính chính thống do đấy vẫn còn tùy thuộc vào quá trình chứng thực sau cuộc thay ngôi đổi chủ. Liệu kẻ xưng hùng hay tiếm ngôi có củng cố được một hệ thống cầm quyền vững chắc, lập những kỳ tích ổn định và xây dựng đất nước cụ thể như triều Lý mang lại sự thịnh trị cho nhân dân hoặc nhà Trần ba lần đại phá Mông Nguyên cứu nguy dân tộc, sau khi loại bỏ hậu duệ của các tiên triều thường yếu hèn và biến chất ?
    Sự thành bại về mặt an sinh quả là một yếu tố quyết định, nói cách khác công và tội của những nhân vật lịch sử, lắm lúc cần phải được thẩm xét một cách nghiêm túc và công bằng hơn.


    II. MỘT TRƯỜNG HỢP LỊCH SỬ KHÁC THƯỜNG

    Trong tinh thần ấy, chúng ta thử lần lại một trường hợp lịch sử khác thường về Thái tổ Võ hoàng đế NGUYỄN HUỆ và Thế tổ Cao hoàng đế NGUYỄN PHÚC ÁNH (thường quen gọi theo niên hiệu là vua Quang Trung và vua Gia Long) nhằm tự hỏi : liệu sự đánh giá từ trước đến nay về sự nghiệp của hai nhân vật này có hoàn toàn đầy đủ và chân xác ?
    Tinh thần thượng tôn pháp luật vốn không cho phép bất cứ ai viện dẫn như một sự hồi tố công lao của chính mình, nhằm biện minh cho những hành vi phạm pháp đương thì. Vậy thì sẽ bất công quá chăng nếu chúng ta chỉ thuần dựa vào một đối sách bất cập (2) mang tính tình thế, rồi phủ nhận gần như toàn bộ thành quả của một nhân vật tượng trưng cho cả một triều đại. Nhất là ngay đang khi tại vị, nhân vật trong cuộc này đã ý thức nhằm sửa sai (3) những di căn trót bắt nguồn từ một sự chọn lựa trong quá khứ ?
    Đấy là chưa loại trừ dã tâm giăng bẫy sẵn của thực dân phương Tây qua chính sách chi viện khí tài, tận dụng sự mâu thuẫn nội bộ tại các quốc gia nhược tiểu hòng khống chế, chiếm lĩnh và bành trướng thuộc địa vào những thế kỷ trước.
    Để đi đến một nhận định khách quan, tưởng cần phải gạt sang bên từng luận điểm một chiều của các tay chép sử thuộc trường phái này hay trường phái kia. Như những câu chuyện hoang đường ghi trong Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện của dòng họ Nguyễn Gia-Miêu (gọi theo nguồn gốc xuất thân của dòng họ chúa Nguyễn) chẳng hạn, nhằm xuyên tạc ý định dời đô ra Nghệ An cũng như nghi vấn về cái chết bất thần của Nguyễn Huệ(4). Đồng thời hãy cho lắng xuống bao mối bất bình về tham vọng khôi phục nghiệp chúa bằng mọi giá cùng cách hành xử cạn tình của Nguyễn Ánh đối với vua tôi Tây Sơn sau ngày toàn thắng. Chúng ta cũng khoan xét tới yêu cầu nặng mang tính đấu tranh giai cấp vốn là một yếu tố chính trị hiện thực, phụng sự cho một thời kỳ cách mạng ?zbài Phong đả Thực?o của dân tộc vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Ngõ hầu có được một cái nhìn đạt lý hơn về sự trùng phùng của hai con người ?zHUỆ và ÁNH?o mà lằn ranh phân định giữa sự bất hạnh và may mắn quá đỗi mong manh.
    Một khía cạnh tế nhị khác, lòng yêu nước đâu chỉ để độc quyền xưng tụng các bậc cái thế, những chiến tích lẫy lừng, sự hùng vĩ của các kỳ quan? Lòng yêu nước còn phải được thể hiện chung cho những phần lãnh thổ đìu hiu, từng nỗi đau chiến bại lẫn vô vàn tình huống bi thương khác nữa. Có như thế mới lý giải được phần nào giá trị của những vinh nhục, giải phóng được phần nào từng nỗi oan khuất đầy tính bi kịch của tiên nhân.


  8. phuocldbk

    phuocldbk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/05/2004
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    Trở lại tình hình chính trị đất nước trước ngày Nguyễn Huệ - Nguyễn Ánh chào đời.

    ***
    Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê dựng ra BẮC TRIỀU ở Thăng Long (triều Mạc).
    Năm 1533, Nguyễn Kim tìm con cháu nhà Lê lập nên NAM TRIỀU tại Thanh Hóa (nhà Lê trung hưng).
    Kim mất, rể là Trịnh Kiểm nắm quyền củng cố vai trò CHÚA TRỊNH (đàøng Ngoài) lấn át nhà Lê và vô hiệu hóa vai trò nhà Mạc kể từ 1592 (5).
    Con của Kim là Nguyễn Hoàng nhận rõ mối hiểm họa từ phía Trịnh, xin vào trấn Hóa Châu (1558) tạo dần một thế lực mới tức CHÚA NGUYỄN (đàng Trong) lần lượt mở mang bờ cõi đến tận cực Nam (Cà Mau) ngày nay.
    Từ đó lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến, Trịnh-Nguyễn mở đầu một thời kỳ phân tranh lâu dài nhất trong lịch sử (1558-1786).
    Năm 1655, quân Nguyễn lần đầu tiên chủ động tấn công quân Trịnh chiếm Nghệ An. Sau liệu không giữ được bèn rút về mang theo những di dân, trong số có tổ tiên họ Hồ vào ở vùng phía trên đèo An Khê lập nên ấp Tây Sơn. Giữa thế kỷ 18, một người là Hồ Phi Phúc theo vợ về sống tại Kiên Mỹ (Bình Định). Họ sinh hạ được ba con (đời thứ tư) đấy chính là ba anh em nhà Tây Sơn : Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
    Lớn lên cả ba chuyển sang họ Nguyễn (họ nhà chúa ?) hẳn để thuận thời và xóa bỏ mặc cảm cách biệt với cư dân bản địa, hầu hết vốn là con cháu của những di dân thân thuộc nhà Nguyễn thuở đầu Nam tiến ?
    Việc đổi họ phải chăng còn manh nha từ một ý tưởng mang tính chiến lược cho cuộc dấy nghĩa sau này ?
    Nguyễn Huệ sinh năm 1753 trong một môi trường dân giả, chín năm sau Nguyễn Ánh chào đời (1762) thuộc dòng dõi quyền quí : lịch sử đã có một cuộc trùng phùng, bất hạnh hay may mắn ?
    Không như tuổi thơ hồn nhiên của Nguyễn Huệ, ngay từ khi còn bé Nguyễn Ánh đã mồ côi cha(6). Anh em mất sớm, chỉ mình Nguyễn Ánh sống sót trong sự bất an do tự thâm cung đầy dẫy những cuộc tranh chấp.
    Năm 1771, Nguyễn Huệ 18 tuổi là một trong những thủ lĩnh nòng cốt của phong trào Tây Sơn. Việc góp phần diệt Trương Phúc Loan của Nguyễn Huệ không đơn thuần loại bỏ một tên tham quan, đấy còn là một hành động vô hình chung giúp Nguyễn Ánh trả được mối gia thù và thoát khỏi một sự thanh trừng nội bộ rất có thể xẩy ra bất cứ lúc nào : Nguyễn Huệ có là vị ân nhân đầu đời của NguyễnÁnh ?
    Năm 1774 quân Trịnh tấn công Phú Xuân cùng lúc Tây Sơn đánh Quảng Nam, chúa Nguyễn Phúc Thuần giao trọng trách lại cho Nguyễn Phúc Dương để lánh vào Gia Định (mang theo Nguyễn Ánh). Trịnh lại vượt Hải Vân, quân Tây Sơn yếu thế rút về Quy Nhơn. Nhạc dâng thư tình nguyện (kế hoãn binh) làm quân tiền khu cho Trịnh đánh Nguyễn. Trịnh mừng, sai Nguyễn hữu Chỉnh mang ấn kiếm vào phong Nhạc chức Tráng Tiết Tây Sơn Hiệu Trưởng trước khi cho quân lui về Thuận Hóa (1775).
    Năm 1777 Nguyễn Huệ xuôi Nam chiếm Trấn Biên-Gia Định-Vĩnh Long làm chủ đàng Trong (Thuần và Dương bị giết). Nhạc xưng đế (Thái Đức, 1778) phong Nguyễn Huệ làm Tiết Chế thống lĩnh quân Tây Sơn.
    Nguyễn Ánh thoát xuống An Giang nằm gai nếm mật rồi nghiễm nhiên kế vị ngôi chúa (1780) quy tụ lực lượng phản công tái chiếm Gia Định, Bình Thuận và xưng vương. Năm 1782 tại Cần Giờ, thủy binh cùa Nguyễn Ánh có tàu đồng đại bác (Pháp, Bồ đào Nha) yểm trợ đã thua tan tác trước lực lượng thuyền chiến của anh em Tây Sơn từ Qui Nhơn vào.
    Nguyễn Ánh trốn ra Phú Quốc, sai người sang Xiêm cầu viện. Từ đấy, cả hai thực sự trở thành đối thủ không đội trời chung. Mỉa mai thay, qua việc truy bức chúa Nguyễn đến phải tử vong : ai đã chính thức mở lối cho Nguyễn Ánh khởi đầu vương nghiệp nếu không là Nguyễn Huệ ?
    Cuối 1782 bộ tướng nhà Nguyễn tái chiếm Gia Định, rước Nguyễn Ánh từ Phú Quốc về. Đầu năm sau Nguyễn Huệ trở vào, Nguyễn Ánh lại ra Phú Quốc và cho con đầu là hoàng tử Cảnh làm con tin theo Bá đa Lộc (giám mục Pháp) sang Pháp cầu viện. Năm 1784, Nguyễn Ánh (22 tuổi) được vua Xiêm giúp 300 thuyền và 3 vạn binh kéo về Gia Định hãm thành, bị thảm bại trước Nguyễn Huệ ở Rạch Gầm-Xoài Mút (1785). Nguyễn Ánh lại sang Xiêm, vua Xiêm muốn giúp một lần nữa nhưng do bầy tôi can ngăn(7). Nguyễn Ánh đành từ chối và lang bạt ở vùng Hà Tiên đến phải xin cơm nhà dân ăn.
    Năm 1786 Nguyễn Huệ đánh Phú Xuân, ngoài Võ văn Nhậm (rể Nhạc) và Nguyễn văn Lộc còn có Nguyễn hữu Chỉnh cùng đi. Chỉnh vốn là một tay giảo hoạt trước thờ Hoàng đình Bảo (tôn phò Trịnh Sâm nên bị kiêu binh giết) nay trốn vào Nam quy thuận Tây Sơn, y nhân cơ hội thuyết phục Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa ?zdiệt Trịnh phò Lê?o tiến thẳng ra Bắc.
    Nguyễn Huệ giao Phú Xuân cho Lữ rồi cử Chỉnh dẫn thủy binh đi trước, Nguyễn Huệ cùng Nhậm sẽ kéo bộ binh theo sau hẹn sẽ hội quân ở Vị Hoàng tiến ra Thăng Long.
    Ngày 6/6 Bính Ngọ tức 1/7/1786, Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ nhất, Trịnh Khải cho quân nghênh chiến bị thua. Khải trốn lên Sơn Tây đến Hạ Lôi thì bị bắt và tự vẩn. Nguyễn Huệ vào Thăng Long (21/7/1786) chính thức xóa sổ họ Trịnh, thống nhất đàng Trong với đàng Ngoài. Hôm sau yết kiến Lê Hiển Tông tại cung Vạn Thọ được vua phong làm Nguyên soái Uy quốc công và gả Ngọc Hân công chúa. Ngày 17/7 Bính Ngọ (10/8/1786) Hiển Tông băng, hoàng tôn Lê Duy Kỳ nối ngôi tức Lê Chiêu Thống.
    Sợ rằng Nguyễn Huệ một phương lừng lẫy khó kềm, Nhạc từ Qui Nhơn cấp tốc mang quân tín cẩn ra gọi khéo về. Nguyễn Huệ biết ý, đón dâng tờ trình rồi giữa đêm 17/7 nhuận (9/9/1786) cùng Nhạc xuôi Nam bỏ mặc Chỉnh. Chỉnh hoảng hốt đuổi theo xin trấn Nghệ An cùng với Nguyễn Duệ và Nguyễn hoàng Đức, riêng Võ văn Nhậm đóng ở Đông Hải trông chừng mặt Bắc.
    Nhạc phong Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương cai quản từ Thuận Hóa trở ra, Lữ làm Đông Định Vương Trấn Biên (Bình Thuận trở vào) còn mình tự phong là Trung Ương Hoàng Đế đóng tại Qui Nhơn.
    Ở đàng Ngoài, Lê Chiêu Thống chưa kịp yên vị thì Trịnh Bồng đã tự xưng. Chỉnh được mật gọi, ra đuổi Bồng rồi mặc sức thao túng. Hay tin, Nguyễn Huệ lệnh Võ văn Nhậm ra giết Chỉnh (Chiêu Thống hoảng sợ bỏ trốn sau khi sai người cầu viện nhà Thanh). Xong việc, Võ văn Nhậm lại tự tung tự tác mưu lập Lê Duy Cẩn, bị Ngô văn Sở cáo biến vào Phú Xuân.
    Tháng 4 Mậu Thân (5/1/88) Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ hai chỉ trong 10 ngày, giết Nhậm. Khoảng non tháng thì quay về, giao đàng Ngoài cho Sở cùng Ngô thời Nhiệm (danh sĩ Bắc Hà) lo việc.
    Nguyễn Ánh nhân thời cơ, từ Gia Định phản công khiến Lữ phải rút.
    Tháng 10 năm Mậu Thân (1788) Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn sĩ Nghị dẫn đại quân nhà Thanh, chia làm ba đạo tiến sang.
    Để yên lòng dân, Nguyễn Huệ làm lễ cáo trời đất lên ngôi hoàng đế niên hiệu Quang Trung (25/11/Mậu Thân tức 22/12/1788 tại núi Bân, Phú Xuân) và ngay trong ngày thống lĩnh đại binh thủy bộ lên đường.
    Nguyễn Huệ ra Bắc lần thứ ba ngày 22/12/1788 vây Hà Hồi, đánh Ngọc Hồi chiếm Yên Quyết và Khương Thượng? (Tôn sĩ Nghị lên ngựa bỏ chạy không kịp thắng yên cương) dẹp tan 20 vạn quân Thanh, tiến vào Thăng Long ngày 5 tháng giêng Kỷ Dậu ((30/1/1789) ở tuổi 36.
    Nguyễn Ánh bấy giờ được Pháp hổ trợ, miệt mài củng cố binh bị (8).
    Tháng 2 (Kỷ Dậu) Nguyễn Huệ về Phú Xuân sau khi đã hoà hiếu với nhà Thanh (cấp lương thực và phóng thích tù binh, tránh bị phục thù). Tháng 6/1790, lệnh tướng Diệu dẹp loạn Lê Duy Chỉ (liên kết với thổ dân Vạn Tượng, Xiêm toan chiếm Nghệ An) và khuất phục vua Ai Lao buộc phải triều cống và vua Miến Điện phải thông hiếu (1791).
    Mùa xuân 1792 (Nhâm Tý) được tin Nguyễn Ánh sắp đánh Quy Nhơn, Nguyễn Huệ liền chuẩn bị binh mã chinh Nam nhưng tháng 7 Nhâm Tý (15/9/1792) nhà vua bất ngờ ngã bệnh, mất ở tuổi 39.
    Nguyễn Quang Toản nối ngôi (Cảnh Thịnh) mới 13 tuổi, triều chính rơi vào tay cậu ruột là thái sư Bùi đắc Tuyên. Tuyên lợi dụng củng cố quyền lực, tạo băng đảng gây chia rẽ và hãm hại trung thần.
    Năm 1793 quân Nguyễn Ánh chiếm Phú Yên, đánh Quy Nhơn. Nhạc cầu cứu, quân từ Phú Xuân vào. Nhạc mở cửa thành, tướng của Cảnh Thịnh bất ngờ ra lệnh giải giáp quân đội của Nhạc, chiếm giữ các kho tàng khiến Nhạc tức uất thổ huyết chết (con của Nhạc là Nguyễn Bảo cũng bị giáng).
    Tây Sơn mỗi ngày mỗi suy yếu, trong lúc Nguyễn Ánh liên tục thua trận này bày trận khác, chủ động tập kích.
    Năm 1793 Nguyễn Ánh rút vào Diên Khánh đào hào đắp lũy xây tổng hành dinh, lập xưởng đóng thuyền chiến giao Nguyễn văn Thành trấn giữ. Năm 1794 Tây Sơn vào vây, Nguyễn Ánh đem binh giải cứu. Diệu tạm rút, năm sau quay lại. Nguyễn Ánh lại từ Gia Định ra, thế trận hai bên cứ vậy giằng co cho đến khi Phú Xuân có biến (9), Diệu được lệnh triệu về.
    Năm 1797, Nguyễn Ánh toan tái chiếm Quy Nhơn song lượng sức không được bèn dong buồm thẳng ra Quảng Nam, cuối cùng cũng phải quây về vì không đủ lương thực. Năm 1799, Nguyễn Ánh chiếm Quy Nhơn đổi tên thành Bình Định giao Võ Tánh và Ngô Tùng Châu giữ. Năm 1800 quân Tây Sơn vào, thành Bình Định mất, Võ Tánh tự đốt mình.
    Thay vì giải vây, Nguyễn Ánh ra tấn công Phú Xuân làm chủ Thuận Hóa, các nơi khác cũng dần lọt vào tay Nguyễn Ánh. Cảnh Thịnh bỏ chạy, Nguyễn Ánh thu ấn truyền quốc và đào mả Nguyễn Huệ nghiền xương, bỏ đầu lâu giam ngục.
    Tháng 7 Nhâm Tuất (1802) Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, niên hiệu Gia Long, quốc hiệu Nam Việt (1804, nhà Thanh mới sai sứ sang ban quốc hiệu Việt Nam) tiếp tục đánh chiếm Nghệ An, Thanh Hóa? rồi ra Bắc, vua tôi Tây Sơn lần lượt bị bắt và bị hành hình.
    Nhà Tây Sơn bị tuyệt diệt, Nguyễn Ánh tóm thu thiên hạ, bình định đất nước đến năm 1820 thì mất.

  9. phuocldbk

    phuocldbk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/05/2004
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    III- NGUYỄN HUỆ - NGUYỄN ÁNH
    SỰ ĐỐI ĐẦU BẤT HẠNH ?

    Xuất thân là dân ngụ cư, Nguyễn Huệ cùng anh dấy nghĩa năm 18 tuổi.
    Sinh thời không qua một trường lớp đào tạo chính quy nhưng ngoài tài dụng binh và thuật dùng người (10) Nguyễn Huệ đầy lòng nhân chứ không khinh mạn hoặc bạo sát như Lưu Bang hay Hạng Vũ thời Hán Sở.
    Linh hoạt và quyền biến, Nguyễn Huệ thừa thắng mang quân từ Phú Xuân thẳng ra Bắc (1786) diệt Trịnh nhưng không tiếp thu ngay do ý thức rõ tình hình chính trị bấy giờ chưa đủ độ chín muồi (11) dẫu với binh lực thừa cho phép Nguyễn Huệ hiện thực hóa giấc mộng đế vương. Ngay việc bất ngờ thả nổi Chỉnh cũng là một cách Nguyễn Huệ muốn thăm dò dư luận cũng như phản ứng của các thế lực sở tại đối với tay phản thần nhà Trịnh này.
    Tiếc thay, tuổi trẻ của anh em Nguyễn Huệ lẫn tập đoàn dưới trướng hầu như thiếu sự đầu tư và tiếp cận với những nguyên tắc kỹ trị cùng truyền thống an dân. Chỉ riêng sự thiếu lòng tin vào em mình của Nhạc (12) đã gián tiếp đẩy cuộc dấy nghĩa của họ vào tình huống bế tắc rồi suy vong.
    Còn đáng tiếc và sinh bất phùng thời chăng cùng với Nguyễn Huệ, xuất hiện một Nguyễn Ánh không kém trí dũng vốn được phò trợ bởi môt lực lượng văn võ hùng hậu, xuất thân từ dòng tộc quan lại sĩ phu thâm niên nhà chúa ?
    Chuyện kể sau nêu bật tính cách kỳ phùng của hai con người siêu hạng : Trong một trận thủy chiến tại Gia Định, tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn hoàng Đức bị bắt. Nguyễn Huệ thu dùng, nhưng tối ngủ Đức lại nằm mê mắng chưởi quân Tây sơn. Thuộc hạ muốn giết song Nguyễn Huệ cười, không bắt tội còn hậu đãi cho theo đánh Bắc thành. Sau này, Đức trốn về lại với Nguyễn Aùnh vẫn được Nguyễn Ánh tín cẩn phong làm Tổng trấn Bắc thành (1809) chứng tỏ Nguyễn Ánh chẳng phải tay vừa !
    Nguyễn Ánh ngỡ may mắn là con cháu nhà chúa, nhưng vừa chào đời gia đình đã chịu sự hãm hại bởi bọn quyền thần. Không chính thức được nối dõi, Nguyễn Ánh còn là mối hiểm nguy tiềm ẩn ?zđối tượng chính trị?o nhiều hứa hẹn sẽ là đích ngắm, nếu Trương Phúc Loan còn sống. Ấy thế, cậu bé qúy tộc và cô độc ấy vẫn từng ngày lớn lên giữa bao mối đe dọa như một điều kỳ diệu và khó tin. Thử hình dung tuổi niên thiếu của Nguyễn Ánh theo chân chúa lưu lạc. Chúa bị giết, một mình giữa rừng quan tướng vàng thau khó lường (tướng nhà chúa, tướng cừu thù trong gia tộc, tướng sơn lâm mãi võ chiêu mộ bao phen trên đường bại vong, tướng địch quy hàng?). Phải là người trí lực song toàn, Nguyễn Ánh mới chế ngự và duy trì được một lực lượng binh tướng ?zvạn lý trường chinh?o sau nhiều phen tan tác đến thế.
    Nguyễn Ánh là ai theo cách giải thích của người xưa, nếu không là kẻ có chân mệnh ?
  10. phuocldbk

    phuocldbk Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/05/2004
    Bài viết:
    246
    Đã được thích:
    0
    IV- QUANG TRUNG & GIA LONG
    SỰ AN BÀI MAY MẮN CỦA LỊCH SỬ ?

    a - KHÔNG CÓ NGUYỄN HUỆ, DỄ GÌ NGUYỄN ÁNH LÀ VƯƠNG ?
    Thuở đầu đời Nguyễn Huệ lẫn Nguyễn Ánh hầu như không có dấu hiệu tự thân mưu cầu (13), chính do sự quay cuồng của những sự kiện mang tính ?othời thế tạo anh hùng? đã đẩy đưa cả hai vào vai trò ?oanh hùng tạo thời thế? để rồi trở thành đối thủ của nhau.
    Từng trang sử máu lửa vào thời kỳ ấy vô hình chung chứng nghiệm, phải chăng để giúp Nguyễn Ánh hội đủ bản lĩnh trị vì bá tánh, thời thế đã sinh ra non một thập niên trước một Nguyễn Huệ anh hùng làm đối trọng, huấn nhục để tôi luyện Nguyễn Ánh ?
    Nguyễn Huệ chết trẻ nhưng đã kịp thời dẹp thù trong giặc ngoài, thống nhất bờ cõi tạo thuận lợi để Nguyễn Aùnh nối tiếp sự nghiệp trị quốc an dân? Điều mà anh em và con cháu Nguyễn Huệ chừng như khó hoàn tất do bất khả trong khâu ?otu thân, tề gia? (14)?
    Thật vậy, không có phong trào nổi dậy Tây Sơn mà Nguyễn Huệ đã vươn lên vị trí lãnh đạo chủ chốt, tính mạng Nguyễn Ánh chẳng khác chuông treo chỉ mành trước một Phúc Loan đầy tham vọng. Ngoài ra sự xuất hiện của Nguyễn Huệ trong cuộc thư hùng Nam Bắc, vô tình đẩy Nguyễn Ánh chệch khỏi tầm ngắm của nhà Trịnh, phần nào giúp kẻ thừa tự cuối cùng(15) của dòng họ chúa Nguyễn hội đủ thời gian để trưởng thành, khắc phục nghịch cảnh và tích lũy kinh nghiệm.
    Và nếu không có Nguyễn Huệ thì dẫu chỉ giữ hư vị, nhà Lê (trung hưng) vẫn tiếp tục tồn tại với ưu thế chính trị nghiêng về phủ Liêu (chúa Trịnh) : liệu Nguyễn Ánh có được cơ hội để vẫy vùng ?
    Nguyễn Huệ không trực tiếp diệt nhà Lê nhưng bằng sự cầu viện nhà Thanh trong lúc Nguyễn Huệ (rể vua Lê Hiển Tông) chưa thực sự là mối đe dọa, Chiêu Thống đã tự hủy danh nghĩa gián tiếp khai tử vị thế chính thống vốn sẵn của mình(16). Nguyễn Ánh nhờ vậy mới mạnh dạn xưng đế sau này thu phục nhân tâm mọi miền nhất là giới sĩ phu đất Bắc ít nhiều vẫn còn hoài niệm quá khứ (17)?
    Nếu thiếu vắng Nguyễn Huệ sau ngày Chiêu Thống cầu viện, lãnh thổ nước Nam ắt khó được bảo toàn. Nguyễn Ánh (thay vì Nguyễn Huệ) sẽ phải đối đầu với quân Thanh cùng nhiều thế lực khác, kể cả bạo loạn có thể dấy lên khắp nơi dưới danh nghĩa phục Lê kiểu Nguyễn Kim và Trịnh Kiểm. Nhưng nếu Nguyễn Huệ tiếp tục tại thế sau 1792, Nguyễn Ánh khó là đối thủ ngang tầm. Cuộc chiến hẳn sẽ triền miên với sự yểm trợ của lân bang (Pháp) về phía Nguyễn Ánh lẫn sự dòm ngó của nhà Thanh trong vị thế một ?ngư ông đắc lợi? mỗi khi sự phân rã quyền lực mỗi ngày mỗi trầm trọng hơn giữa anh em Tây Sơn.
    Nguyễn Huệ mất sớm để lại cho muôn dân sự tiếc nuối về dự tính mở mang bờ cõi ngược lên phía Bắc, qua việc cầu hôn công chúa nhà Thanh - liệu sự nuối tiếc ấy có đầy hoang tưởng ?
    Với dân số và quân số cùng diện tích lãnh thổ rất ư khiêm tốn sánh với Trung Quốc, do đâu Nguyễn Huệ và nhân dân ta đánh bại 20 vạn quân Thanh chỉ trong một thời gian ngắn, nếu không vì tinh thần dân tộc bị tổn thương và kẻ ngoại xâm thiếu chính nghĩa ?
    Giả dụ Nguyễn Huệ còn sống và thực hiện hoài bão, nói cách khác hoán đổi vị trí cho nhau, lẽ nào quân dân ta có chính nghĩa ? Nhân dân Trung Quốc liệu sẽ không mặc cảm bị xúc phạm bởi mất trắng Lưỡng Quảng(18) về tay người áo vải phương Nam đã hơn một lần làm bẽ mặt triều đình của họ ?
    Sẽ khó lường xiết bao nếu tái diễn một cuộc so gươm ngay trên xứ người giữa vị anh hùng chưa một lần nếm mùi chiến bại ?oQuang Trung? và hoàng đế vũ dũng Càn Long ? Dân tộc ta dễ gì tránh khỏi từng trận đòn thù hẳn khủng khiếp bội phần so với bao cuộc tràn quân xâm lược của họ trước đây ?
    Ấy là chưa xét đến vị thế của Ngọc Hân sẽ thế nào nếu vua Thanh chấp thuận lời cầu hôn của Nguyễn Huệ ? Dân chúng sẽ chịu thúc thủ để cho nàng công chúa tài hoa đất Bắc độ nào, vị Bắc Cung hoàng hậu đáng yêu bấy giờ bị phế truất ?
    Ngược lại, triều đình ?oĐại Thanh? liệu có chịu được sĩ nhục khi công chúa của họ kém thế

    b - THIẾU SỰ KẾ THỪA CỦA NGUYỄN ÁNH : ĐẠI NGHIỆP NHẤT THỐNG GIANG SAN CỦA NGUYỄN HUỆ DỄ GÌ BỀN VỮNG ?
    Bằng những chiến thắng thần tốc tạo nền cho một chính sách ngoại giao mềm dẻo thời hậu chiến, thiên tài quân sự Nguyễn Huệ đã khéo khuất phục kẻ thù từ binh tướng đến vua quan. Triều đình nhà Thanh chẳng đã trân trọng dành một sự đón tiếp có một không hai vị anh hùng áo vải cờ đào trời Nam (19) dẫu thừa hiểu là vua? Quang Trung giả (1790) ?
    Nhưng về đối nội, chưa tròn ba thập niên do đâu vương triều Tây Sơn nhanh chóng sụp đổ ?
    Trước hết do Nhạc quá đa nghi và tính cách nổi loạn buổi đầu của Nhạc chỉ trên tầm một biện lại ngang tàng hay ?otrại chủ Lương Sơn!? hào hiệp, chứ chưa thể đạt đến tầm vóc của một bậc khai sáng. Nhạc cũng không lường được tay phản thần đàng Ngoài vốn cơ trí nên đã mặc Chỉnh sát cánh cùng Nguyễn Huệ trong lần ra Phú Xuân, mở màn cho một cuộc chinh Bắc thần kỳ của em mình sau đó. Tham vọng của Nhạc chỉ gói trọn trong một phần lãnh thổ, một không gian quyền lực thuộc đàng Trong mà thôi. Lữ thì hiền hòa, thiếu tha thiết với việc mưu bá đồ vương và chết sớm (1787).
    Tuy nhiên, sai lầm nghiêm trọng của nhà Tây Sơn cũng chưa hẳn chỉ bắt nguồn sau khi Nguyễn Huệ mất.
    Chính sự tự thỏa mãn quá sớm với những gì vừa chiếm lĩnh được vốn đã vượt sức mình, Nhạc đã xé nhỏ từng phần lãnh thổ chưa thực sự ổn định để cát cứ. Sự vội vã phi chiến lược này đã gián tiếp làm phân rã nội bộ từ gia tộc đến binh tướng và nhân dân từng vùng, từng miền theo cách ?ochúa ai nấy thờ? của anh em Tây Sơn. Tóm lại từ một hành động phản kháng có tính địa phương, biện Nhạc dấy lên một phong trào cứu khổ phò nguy hạn hẹp chỉ giữa hai tầng lớp : quan lại thống trị nhà chúa (Nguyễn) và quần chúng bị bóc lột.
    Nguyễn Huệ sau đó mới là người trực tiếp biến sự tranh chấp quyền lợi giai cấp thành một lực lượng có chính nghĩa bao trùm ?odẹp giặc trong, chống thù ngoài? kết dính toàn dân thành một khối. Sau trận đại thắng quân Xiêm, Nguyễn Huệ đã chớp thời cơ và triệt để phát huy sức mạnh, công khai tuyên chiến với toàn bộ hệ thống phong kiến đàng Trong lẫn đàng Ngoài : ranh giới sông Gianh mặc nhiên bị xóa bỏ.
    Để rồi với cuộc tử chiến tiêu diệt gọn 20 vạn quân Thanh năm 1789, Nguyễn Huệ nghiễm nhiên trở thành vị đệ nhất anh hùng của chính dân tộc mình. Đối thủ thực sự của Nguyễn Huệ trên chiến trường chưa hẳn là? Nguyễn Ánh. Chỉ hiềm dưới trướng Nguyễn Huệ, quan quân ít kẻ xuất thân là khoa bảng cũng như hội đủ năng lực kinh bang tế thế. Do bị thôi thúc bởi sự căm thù ngoại xâm cùng bè lũ tham quan triều Nguyễn nên họ đã đứng lên. Nghĩa khí và sự can trường có thừa song chưa kịp kinh qua một quá trình tổ chức và điều kiện huấn luyện đủ để trở thành một lực lượng chiến đấu chuyên nghiệp. Quân Tây Sơn (gốc Kinh lẫn Thượng?) có thể sử dụng nhanh trong mỗi chiến dịch chứ khó duy trì bền.
    Bên trong triều đình Tây Sơn lại thiếu vắng những ?oquan văn chính thống? nổi trội, ngoài một Nguyễn Thiếp quân sư. Riêng Ngô thời Nhiệm vốn là cựu binh của xứ Ngoài, được ủy thác có giới hạn về sứ mệnh tham mưu và đối ngoại chứ chưa thực sự được toàn quyền gách vác trọng trách, giữa lúc quanh Nhiệm là một rừng hảo hán phương Nam.
    Cánh võ biền gồm vô số những tay hào kiệt nặng tinh thần nghĩa hiệp hơn là ý thức sâu sắc về quan điểm chính trị về lâu về dài. Thái độ khoan dung của Trần Quang Diệu đối với tướng sĩ của Võ Tánh (nhà Nguyễn) là một điển hình : Mùa hạ 1800 quân Tây Sơn hãm thành Bình Định, tướng giữ thành là Võ Tánh liệu bề không chống nổi bèn lên đài cao tự châm lửa đốt. Trước khi chết, Tánh gởi thư cho tướng Tây Sơn ?o ?otrong thành lương hết không thể giữ được nữa, tướng quân thua trận đáng chết là ta nhưng quân lính vô tội, chớ nên giết hại? ?o Diệu vào thành trông thấy thương chảy nước mắt lấy lễ thu chôn, tướng sĩ của Tánh không bị Diệu giết một ai và được tự do ra về?
    Lẽ ra Nguyễn Ánh phải biết, quan quân của Nguyễn Ánh phải nhớ mà nương tay sau này khi đánh bại Tây Sơn . Xưa Ngũ Viên vì thù cha mà quất thây Sở Bình Vương hay Dự Nhượng trả hận cho chủ cũ không thành mà cố xin Tương Tử chiếc áo ông ta đang mặc để đâm cho thỏa mãn ước nguyện. Đấy là cách hành xử của kẻ bầy tôi thời Chiến Quốc kém thế vốn đã bị đời chê trách.
    Nay qua sự xúc phạm hài cốt và hành hình dã man thân nhân cùng tướng tá của đối phương (Nguyễn Huệ) Nguyễn Ánh càng để lộ nỗi ức chế triền miên về sự bất lực của mình trước bóng dáng lớn lao của Nguyễn Huệ trong quá trình đối mặt. Nguyễn Ánh tự đánh mất ít nhiều phong cách của một bậc đế vương, lội ngược tinh thần đạo lý ?onghĩa tử nghĩa tận? của người Á đông. Chẳng những tự gây thương tổn mình, Nguyễn Ánh còn làm thương tổn bao thế hệ con tim vốn luôn ngưỡng vọng vị anh hùng bách chiến bách thắng Quang Trung. Nguyễn Ánh còn gián tiếp tự chọn cho mình vị thế đối nghịch với toàn dân qua những lần cầu viện ngọai bang (Xiêm, Pháp).
    Tuy nhiên vẫn phải thừa nhận Nguyễn Ánh cũng là một bậc anh tài. Ngoài sự kiên gan và tinh thần dám chịu mọi khổ nhục, Nguyễn Ánh còn khéo tận dụng và triển khai từng thành quả của đối thủ (Nguyễn Huệ) để tóm thu thiên hạ về tay mình cùng ổn định đất nước.

    Xét về một khía cạnh khác, sao có thể trách được Nguyễn Ánh ?
    Trong một tình thế thắng bại chưa thực sự nghiêng về ai, ngoài tâm trạng bất an Nguyễn Ánh còn bị chi phối bởi nhiều áp lực từ tập đoàn quan tướng phong kiến của mình. Biện pháp bất nhẫn Nguyễn Ánh áp dụng với kẻ thù ắt nhằm vuốt ve và ?omua đứt? sự dốc lòng của thuộc hạ vốn phải ăn sương nằm đất bao năm theo khuông phò ? Ai cấm họ không ngầm đòi hỏi Nguyễn Ánh, bằng mọi giá phải bảo toàn cùng xác lập vai trò khanh tướng vốn đã cận kề đối với họ? Ai trong số họ không nuôi giấc mộng một ngày trở về cố hương, dọn mình đón đợi ơn mưa móc của Nguyễn Ánh ?
    Nhưng dư âm của bao trận quyết tử ngày trước của quân tướng Tây Sơn, Nguyễn Ánh dễ gì thuyết phục và trấn an được những kẻ dưới quyền nếu nhẹ tay với bầy tôi trung dũng còn đó của Nguyễn Huệ ?
    Vả lại sự thắng thế của Nguyễn Ánh phần nào còn dựa vào âm hưởng của quá trình mở cõi bởi các tiên chúa nhà Nguyễn, khát vọng thanh bình muôn thuở của nhân dân sau hằng trăm năm binh biến? Trong cảnh huống ấy, không chỉ Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh mà bất cứ nhân vật nào dám nhận lãnh vai trò ?othế thiên hành đạo? tất nhận được sự cổ vũ của nhân dân. Đâu phải chợt dưng thiên hạ nghiêng về Nguyễn Ánh nếu Nguyễn Huệ không sớm bị tước đoạt tuổi trời ? Thiếu bóng minh chủ, quân Tây Sơn như rắn mất đầu đánh mất thế chủ động, bao phen bị dồn vào tình thế gần như trở nên cường đạo(20) và mất dần chính nghĩa.
    Nguyễn Huệ, vị chiến tướng lừng lững nằm xuống giữa lúc áo bào còn vắt ngang lưng ngựa và thắng lợi cuối cùng thuộc về Nguyễn Ánh sau khi không còn Nguyễn Huệ, tất cả cũng đã ? cát bụi trở về. Vẫn biết không thể lấy sự thắng bại để luận anh hùng, nhưng nếu tự thân thiếu ý chí hay không thừa hưởng cái chất anh hùng cha truyền con nối, Nguyễn Ánh làm sao hiện thực hóa được khát vọng ?trị quốc, bình thiên hạ? của mình ?
    Thời thế xưa nay hiếm dung cùng lúc lắm hào kiệt ?o trời sinh Du, sao còn sinh Lượng ? ?oNhưng riêng với Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh thì chưa hẳn, mỗi người mỗi danh phận, mỗi khí phách và trọn vẹn cuộc đời đã hoàn thành ?omột nửa sứ mạng lịch sử vinh danh lẫn đau đớn? của mình, sau những gì nhận được hoặc mất đi tưởng như nghịch lý. Bao nhiêu biến cố xoay vần ý chừng cũng thuận theo vận nước, một sự định phận tại thiên thư.
    Vâng, biết đâu sự trùng phùng giữa ?oNguyễn Huệ và Nguyễn Ánh? đấy chẳng là điều may mắn thay vì bất hạnh của dân tộc : đất nước đã sinh Nguyễn Huệ, lẽ nào thiếu Nguyễn Ánh !
    Đâu đó bên kia đời, hẳn cả hai - Thái tổ Võ hoàng đế NGUYỄN HUỆ và Thế tổ Cao hoàng đế NGUYỄN ÁNH khó lòng khước từ một sự tri ơn dẫu toàn tâm hay chừng mực, dẫu công khai hay thầm lặng của hậu thế ?


Chia sẻ trang này