1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu nhà Tây Sơn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 10/06/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    Học giả Lê Bắc (tiếp tục)
    Trong quyển "Tìm về cội nguồn" (Tập 1, trang 670), Phan Huy Lê viết:
    . . . . . . .
    Phần nhiều các công trình nghiên cứu của chúng ta đều lấy con số 20 vạn, căn cứ theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện Sơ Tập (Q.30). Nhưng khi sử dụng tư liệu ấy, quan niệm của từng tác giả có khác nhau. Văn Tân cho đó là 20 vạn chiến binh và mỗi chiến binh, theo Lê Sử Toản Yếu có ba lương binh phục vụ. Như vậy toàn bộ số quân Thanh là 80 vạn. Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng lại quan niệm 20 vạn là chỉ tính lục quân, chưa kể thủy quân và quân "nghĩa dũng".
    Trong số những nhà sử học Liên Xô nghiên cứu về Tây Sơn, có người tán thành con số 20 vạn như H. A. Ognetov); có người tỏ ý băn khoăn sau khi đưa ra nhiều số liệu khác nhau trong các nguồn tư liệu, như G.F. Muratsova.
    Quả thật số quân Thanh xâm lược nước ta được ghi chép trong các sử sách của ta và của nhà Thanh hết sức khác nhau.
    Bộ sử chính thức của nhà Thanh, bộ Đại Thanh Thực Lục ghi chép đầy đủ những lệnh dụ của vua Thanh cho biết toàn bộ quân Thanh được lệnh sang xâm lược nước ta là 15000, trong đó số quân Lưỡng Quảng do Tôn sĩ Nghị trực tiếp thống lãnh là 10000 và số quân Vân Quý do đề đốc Ô Đại Kinh chỉ huy là 5000. Đó chỉ mới là số quân chủ lực tinh nhuệ điều động ở bốn tỉnh phía nam, chưa kể số "thổ binh", "nghĩa dũng" và dân phu chuyển vận lương thực. Theo tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh thì số dân phu phục vụ cho đạo quân Lưỡng Quảng đã hơn 10 vạn.
    Theo bài An Nam Ký Sự của Càn Long thì "số quan quân có hơn một vạn, số phu đài tải lương thực đến hơn 10 vạn". Một tác giả đời Thanh là Ngụy Nguyên lại chép trong "Càn Long chinh vũ An Nam Ký", số quân Thanh là 18000, trong đó đạo quân Lưỡng Quảng là 10000 và đạo quân Vân Quý là 8000. Nhưng Ngụy Nguyên cho biết thêm "bấy giờ các thổ binh, nghĩa dũng đi theo, tiếng đồn đại binh có vài chục vạn". Như vậy, số quân chủ lực có khoảng 2 vạn chưa tính số "nghĩa binh", "nghĩa dũng" và dân phu vận chuyển.
    Nhìn chung, sử sách nhà Thanh ghi chép tương đối thống nhất, số quân chủ lực điều động từ bốn tỉnh Lưỡng Quảng, Vân Quý là khoảng vài vạn (Đại Thanh Thực Lục: 1,5 vạn, Càn Long: hơn 1 vạn, Ngụy Nguyên: 1,8 vạn). Nhưng trực tiếp hay gián tiếp, các tài liệu đó cũng xác nhận là bên cạnh số quân chủ lực, còn có lực lượng khá đông gồm thổ binh, nghĩa dũng (đến gần vài chục vạn theo Ngụy Nguyên) và dân phu vận chuyển lương thực (trên 10 vạn, theo Đại Thanh Thực Lục).
    Sử sách của ta, nhiều cuốn không ghi chép rõ số quân Thanh xâm lược (như Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục, Lê Quý Kỷ Sự, Tây Sơn Thuật Lược ...) Hoàng Lê Nhất Thống Chí có chép lại "Tám điều quân luật" và "Bài hịch" của Tôn Sĩ Nghị. Trong "Bài hịch", Tôn Sĩ Nghị tuyên bố số quân Thanh có 50 vạn. Theo "Tám điều quân luật" thì "mỗi người lính được cấp một tên phu" (điều 8). Vậy số quân Thanh 50 vạn thì số phu cũng 50 vạn và toàn bộ lên đến 1 triệu người. Hầu hết các nhà sử học trong và ngoài nước đều cho con số đó có tính chất khoa trương, đe dọa.
    "Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện Sơ Tập" (Q.30) và "Nguyễn Thị Tây Sơn Ký" chép rõ số quân là 20 vạn, nhưng không xác định con số đó có bao gồm lực lượng thổ binh, nghĩa dũng và dân phu hay không. Vả lại, tỷ lệ giữa binh lính và dân phu trong các tài liệu cũng không thống nhất. Điều 8 trong "Quân luật" của Tôn Sĩ Nghị quy định 1 lính được cấp 1 phu, trong lúc "Lê Sử Toản Yếu" và "Minh Đô Sử" lại chép 1 chiến binh có 3 lương binh phục vụ.
    Gần đây, một tư liệu mới được phát hiện. Đó là bài "Chiếu phát phối hàng binh, binh nội địa" của Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết. Bài chiếu được công bố ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Thanh kết thúc thắng lợi. Người viết là Ngô Thì Nhậm, một trí thức yêu nước đã từng trực tiếp tham gia cuộc kháng chiến với cống hiến "nước cờ Tam Điệp" nổi tiê"ng. Bài chiếu còn được sao chép lại trong tập "Hàn các anh hoa" của bộ "Ngô gia văn phái".
    Bài chiếu của Quang Trung có đoạn viết: "Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị nhà các ngươi sức hèn tài mọn, không biết dụng binh, vô cớ động binh đem hai mươi chín vạn quân ra ngoài cửa ải, vượt suối trèo non vào nơi hiểm nguy, xua các ngươi, một lũ dân đen vô tội vào chốn mũi tên ngọn giáo. Đó là tội của tổng đốc của các ngươi". Theo bài chiếu, tổng số quân xâm lược Thanh tràn vào nước ta là 29 vạn.
    Trong các tư liệu của ta, bài "Chiếu phát phối hàng binh nội địa" của Quang Trung là một văn bản chính thức, đương đại, đáng tin cậy nhất. Con số 29 vạn quân xâm lược Thanh công bố ở đây lại được xác nhận bằng một số tư liệu đương đại của những người nước ngoài có mặt ở nước ta lúc đó và cũng phù hợp với qui mô cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Thanh.
    Một số thương nhân, giáo sĩ phương Tây đến nước ta vào khoảng thế kỷ XVIII đầu XIX có ghi lại trong hồi ký và thư từ, một ít tư liệu về cuộc kháng chiến chống Thanh.
    Hồi ký của giáo sĩ Pháp là De la Bissachère, theo bản xác minh và công bố của Ch. Maybon, cho biết quân Thanh sang nước ta là "một đạo quân đông" và riêng số quân bị tiêu diệt ở Thăng Long đã đến 40000. Số liệu đó phù hợp với bản công bố của Félix Renouard de Sainte Croix xuất bản ở Paris năm 1810. Nhưng cũng hồi ký của De la Bissachere theo bản xuất bản ở Paris năm 1812 thì số quân Thanh là 40000 và số bị giết chết tại trận là 20000. Một thương nhân Anh là J. Barrow đến nước ta năm 1792 lại ghi nhận một số liệu khác, số quân Thanh là 100000. Sự khác nhau trên là do những nguồn tin khác nhau mà những người nước ngoài có dịp đến nước ta lúc bấy giờ đã tiếp nhận được một cách gián tiếp.
    Một nguồn thông tin đáng tin cậy hơn là thư từ của một số người nước ngoài sống ở vùng Thăng Long ngay trong thời gian xảy ra cuộc kháng chiến chống Thanh. Số thư từ này còn được ghi lại trong tập "Nhật Ký của hội truyền giáo Bắc Kỳ" hiện lưu trữ tại Nha văn khố quốc gia Paris mà gần đây Đặng Phương Nghi đã sưu tầm và công bố. Một bức thư gửi từ Thăng Long đề ngày 25-10-1788 phản ánh một "tin đồn" về 300000 quân Thanh sắp kéo sang cứu viện cho Lê Chiêu Thống. Bức thư của một linh mục trông coi giáo dân ở vùng Thăng Long đề ngày 26-12-1788 cho biết rõ "Viện binh Trung Hoa gồm độ 280000 người, một nửa đóng trong thành phố, nửa còn lại ở bên kia sông". Những số liệu đó rất gần với con số 29 vạn quân Thanh trong bài chiếu của Quang Trung.
    Sử sách nhà Thanh cố tình hạ thấp số quân viễn chinh để giảm bớt nỗi thất bại nhục nhã của triều Thanh. Các tác giả đó không ghi chép đầy đủ các lực lượng của toàn bộ quân viễn chinh, chỉ ghi chép số quân chủ lực khoảng vài vạn làm cho người đọc tưởng như số quân Thanh xâm lược chỉ có thế.
    Nhưng chính những đoạn ghi chép của sử sách nhà Thanh, nhất là bộ Đại Thanh Thực Lục, lại bộc lộ nhiều mâu thuẫn. Rõ ràng số quân vài vạn đó là hoàn toàn không tính đến "thổ binh", "nghĩa dũng" và dân phu. Hơn nữa với đạo quân vài vạn thì không có lý do gì triều đình nhà Thanh phải cử tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị làm thống soái và dưới trướng gồm một loạt võ quan cao cấp như: Đề đốc Phó tướng Hứa Thế Hanh, Đề đốc Ô Đại Kính, Phó tướng Khánh Thành, Phó tướng Hình Đôn Hạnh; các tổng binh Thượng Duy Thăng, Trương Triều Long, Lý Hóa Long cùng nhiều Tham tướng, Tri phủ, Tri huyện, v.v... Riêng công việc hậu cần, nhà Thanh giao cho tổng đốc Vân Quý là Phú Cương và tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh lo liệu. Số lượng thực mà Phú Cương đã lo được là 24000 thạch và Tôn Vĩnh Thanh đã chuẩn bị đến 6, 7 vạn thạch. Chi phí cho đạo quân Lưỡng Quảng, kho bạc Quảng Tây không đủ nên Bộ Hộ phải điều 50 vạn lạng bạc của các tỉnh lân cận bổ sung thêm. Số phu tải lương thực phục vụ cho đạo quân Lưỡng Quảng đến hơn 10 vạn.
    Cả một bộ máy quân sự và hậu cần đồ sộ cùng với qui mô điều động dân phu, chuẩn bị lương thực, chi phí như trên rõ ràng để phục vụ cho một cuộc chiến tranh lớn, chứ không phải là cuộc dụng binh của vài vạn quân.
    Điểm qua và phân tích các cứ liệu có liên quan, có thể đi đến sự xác nhận, trong tình hình tư liệu hiện nay, số quân Thanh xâm lược 29 vạn được công bố trong bài chiếu của Quang Trung là đáng tin cậy nhất. Số quân đó hẳn bao gồm cả lực lượng "thổ binh", "nghĩa dũng" mới chiêu tập, nhưng lực lượng lòng cốt là quân đội chủ lực gồm bộ binh và kỵ binh, điều động từ bốn tỉnh phía nam là Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu.
    Được Hector sửa chữa / chuyển vào 26/06/2002 ngày 05:46
  2. marco

    marco Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/03/2002
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    hôm nay đi lạc vào đây, mới đọc bài bác Hector post có một đoạn mà đau cả mắt. Sao lão gì ấy viết dài thế, như là có thù 18 đời tổ tông với Nguyễn Huệ. Mà em thấy mọi người hỏi bác Hector có tin không, bác chẳng trả lời trả vốn gì cả cứ post bài liên tục như bỏ bom ấy. Hay bác định chơi chiêu Tăng Sâm giết người ?
  3. Ica

    Ica Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/03/2001
    Bài viết:
    1.783
    Đã được thích:
    0
    Thực ra thì cũng nên nhìn lịch sử theo nhiều chiều, cứ để bác Hector post đi. Nghe ca ngợi vua Quang Trung mãi rồi, bây giờ có vài bài viết phê bình thì có sao đâu.

    POUR LA PATRIE, LES SCIENCES ET LA GLOIRE!
  4. homosapiens

    homosapiens Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    11/12/2001
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Chú Hector có viết đâu, chú ấy cọp bi và phết đấy chứ.
  5. Ica

    Ica Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    30/03/2001
    Bài viết:
    1.783
    Đã được thích:
    0
    Thì anh có bảo chú Hector viết đâu. Thực ra thì những chuyện không hay về nhà Tây Sơn thì từ bé anh đã nghe rồi (truyền thống gia đình mà), dù vậy anh vẫn thần tượng vua Quang Trung như thường.
    Tớ thấy có bác so sánh Nguyễn Huệ với Napoléon, kể ra cũng hơi khập khiễng. Vua Quang Trung so làm sao với Napoléon được, dù là đánh cả đời không thua trận nào cũng vậy.

    POUR LA PATRIE, LES SCIENCES ET LA GLOIRE!
  6. cuoihaymeu

    cuoihaymeu Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    999
    Đã được thích:
    0
    Không rõ là các bác đang bàn luận chuyện gì, ngẫu nhiên đọc được đoạn này nên "ngoài luồng" một tẹo.
    Xưa nay người ta vẫn ca ngợi rất nhiều về chữ Nôm và công lao của người chính thống hoá chữ Nôm là Quang Trung. Nhưng trên thực tế chữ Nôm cũng chỉ được dùng như chữ viết chính thức trong có một thời gian ngắn còn trước và sau đó cho đến tận 1945 Hán tự vẫn là chữ viết chính thống và phổ biến. Những người ca ngợi mới chỉ nhìn nhận chữ Nôm thuần tuý ở khía cạnh dân tộc tính. Nhưng người ta lại quên rằng chữ Nôm cũng chỉ dân tộc tính được ... một phần, vẫn là dùng các yếu tố của chữ Hán, chủ yếu khác nhau ở ngữ nghĩa. Theo một nhà ngôn ngữ học đầu ngành hiện nay là GS Cao Xuân Hạo thì chữ Nôm lại còn khó học hơn chữ Hán cổ rất nhiều, gấp ... 5 lần. Đấy là lý do khách quan giải thích tại sao chữ Nôm cũng chỉ tồn tại như một loại ký tự hạng hai (tất nhiên còn nhiều lý do khác nữa). Nếu có cố bắt nhân dân dùng chữ Nôm thì có khi chưa chắc đã là yêu nước (kiểu đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hộ Thuỵ Sĩ ... ).
    Ngay cả vấn đề chữ Quốc ngữ cũng chưa hẳn đã là siêu việt. Nó dễ học, dễ sử dụng và một số thứ tiện lợi khác thì ai cũng biết, nhưng dân gian có câu "tiền nào của ấy". Nói chung, riêng về mặt thể hiện ngôn ngữ, truyền đạt ngôn ngữ bằng văn bản thì các dân tộc sử dụng chữ tượng hình chưa bao giờ thua kém các dân tộc sử dụng chữ ghi âm. Văn chương Tàu, Nhật .v.v. không hề thua kém văn chương nước nào (tức là khả năng sử dụng và thể hiện ngôn ngữ ở trình độ cao), giáo dục phổ thông của Tàu, Nhật, Hàn, kể cả Căm bu chia không hề chậm hơn VN hay bất kỳ một nước nào sd chữ ghi âm .v.v.
    Bất lợi lớn của VN khi sử dụng chữ Quốc ngữ là việc đó gây ra một sự đứt đoạn khủng khiếp với quá khứ. Tất cả những gì được ghi chép lại trong hàng nghìn năm trên sách vở, văn bia, đền chùa miếu mạo .v.v. trên khắp đất nước này coi như bỏ đi nếu không có người dịch từ Hán sang QN, mà thực tế đội ngũ làm công tác này cũng mới được đào tạo từ khoảng 3 chục năm trở lại đây và số lượng hoàn toàn không đủ đáp ứng nhu cầu hiện nay. Một điều nữa cũng phải chú ý là chữ QN vốn được cấu tạo trên cơ sở chữ viết của họ ngôn ngữ đa âm tiết, và dùng cho Tiếng Việt, là ngôn ngữ ... đơn âm tiết. Điều này về chuyên môn, bác nào ngâm kíu ngôn ngữ có thể nói rõ hơn về những bất lợi (không hề nhỏ) mà nó gây ra.
    Cho nên cái sự yêu nước không phải lúc nào cũng là thước đo, là tiêu chuẩn cho những cái sự khác, phải không ạ?!
    Kính các bác bàn tiếp chuyện Quang Trung !
    Khóc như thiếu nữ vu quy
    Cười như anh khoá hỏng thi về làng ...
  7. Hector

    Hector Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    08/05/2002
    Bài viết:
    280
    Đã được thích:
    0
    (Em cứ tưởng nhà bác CMH vào mắng, đang sợ, hì hì)
    Đoàn Hưng:
    Trong cuốn "Một vài sử liệu về Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ", xuất bản bởi nhà sách Đại Nam, sưu tập từ các tập san Sử Địa trước 1975. Có một bài tên là "Cuộc dàn xếp ngoại giao giữa vua Quang Trung và vua Càn Long - Vụ 16 châu và xây đền thờ Sầm Nghi Đống"
    Xin tóm tắt nội dung bài viết đó (dựa trên tài liệu sử Tây Sơn của Sở Cuồng (Lê Dư ?)
    ________
    * Ở miền Lai Châu, Sơn La có 16 châu thuộc lãnh thổ Đại Việt từ xưa đến giờ. Đến đời Hậu Lê suy yếu, các thổ quan có quyền thế tập, lũng đoạn cả quyền hành địa phương, đã bị nhà Thanh chiêu dụ, và họ quay sang quy thuận Trung Quốc
    * Dòng ho. Sầm Nghi Đống sống vùng cực tây nam tỉnh Quảng Tây, là thổ ty, chúa tể riêng cõi, rèn luyện đạo binh Nùng rất nổi tiếng. Nhà Thanh biết Sầm Nghi Đống rất có thế lực nhưng không muốn dẹp và tích cực sử dụng vì "Các thổ ty miền tây nam lân cận với Giao Chỉ không dám dòm ngó nội địa, ấy ngại bởi binh lực hùng cường của bọn thổ ty. Nếu ta tước nhược cái binh lực ấy, thì khác nào tự phá vỡ hàng rào ? Rất e nạn biên thùy còn to hơn nạn thổ ty vậy !"
    * Năm 1789 - 1790, sau khi đánh thắng quân Thanh, vua Quang Trung có phái sứ giả sang đòi lại 16 châu ở miền Sơn La, Lai Châu kể trên
    * Vua Càn Long ưng thuận quy hoàn, đem dư đồ 16 châu trao lại cho Nguyễn Huê.
    * Sở dĩ được thành tích kể trên, bên Quang Trung lại có phần đổi chác đễ vãn hồi thể diện nhà Thanh: ấy là vua Quang Trung chịu cho lập đền thờ Sầm Nghi Đống tại Thăng Long
    * Lý do tại sao ? Cái chết của Sầm Nghi Đống có một hậu quả đáng lo ngại cho nhà Thanh là lung lay tinh thần hơn năm triệu dân biên thùy dưới sự thống trị lãnh đạo bấy lâu nay của họ Sầm. (Họ Sầm thống trị gần phân nửa đất tỉnh Quảng Tây, lời của ông Lưu Tích Phồn). Vì xóa nhòa vết thương cảm đáy lòng dân biên thùy, khích lệ gương trung liệt, và Càn Long khôn khéo truy tặng chức Thái Thú cho Sầm, một quan chế thời Bắc thuộc và lập đền thờ, phái khâm sứ tế lễ.
    Sầm là một quan tri châu, bậc tùng thất phẩm mà vinh hiển được trội cả các tướng sĩ trận vong kia, tưởng cũng mát dạ các dân biên thùy lắm rồi !
    Quang Trung anh hùng lẽ tất nhiên thấu dụng tâm Càn Long, mà đền của Sầm có khác nào là nơi biểu dương vũ công của mình? Thế nhất cử lưỡng tiện đôi bên đều thỏa chí cả.
  8. Metalism

    Metalism Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    764
    Đã được thích:
    0
    Chủ đề này hay quá, kéo lên cho người cũ đọc lại, người mới tìm hiểu thêm về nhà Tây Sơn.
  9. tomsawyer

    tomsawyer Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    12/05/2002
    Bài viết:
    681
    Đã được thích:
    0
    Cả cái Topic Nhà Tây Sơn nhưng chủ yếu là Hector post những bài có tính đối lập với nhà Tây Sơn (do đó mà tạo nên sự "lạ", chứ chưa hẳn là sự "hay" như bác nào hào hứng nói). Nói chung, cứ cái gì ta ca ngợi và tôn vinh thì có một số người tìm mọi cách để bôi nhọ, cho dù giá trị đó, anh hùng đó, nhân vật đó là thực sự đi nữa. Và ngược lại, bất cứ cái gì ta lên án (dù có lúc chưa khách quan lắm) thì bên kia cố tìm cách để bảo vệ.
    tom
  10. linhtinhbeng

    linhtinhbeng Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/05/2003
    Bài viết:
    365
    Đã được thích:
    0
    Chút tư liệu, đủ để chứng minh Quang Trung vĩ đại như thế nào
    Một lá thư làm quan quân nhà Thanh run sợ
    Mặc dù hoàng đế Quang Trung bị coi là Ngụy Tây - Giặc Tây Sơn -, là kẻ thù không đội trời chung của nhà Nguyễn (Gia Long), nhưng khi viết về "Giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ", các sử gia của nhà Nguyễn cũng đã phải đặc bút viết lại trong Đại Nam Chính Biên Liệt truyện cái khí phách ngang tàng uy dũng của của vị hoàng đế tài ba, bách chiến bách thắng của nước Đại Việt. Tại sao ? Bởi vì cái khí phách nầy là biểu hiệu niềm kiêu hãnh chung của dân tộc Đại Việt mà bất cứ ai, không phân biệt là bạn hay nghịch thù, đều phải vinh danh !
    * Bài biểu nầy do ông Tạ Quang Phát phiên âm và dịch nghĩa trong sách Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện- NHÀ TÂY SƠN, do Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trach Văn Hóa phát hành tại Sài gòn năm 1970
    Nội dung bài biểu đó như sau:
    "Thần là kẻ áo vải đất Tây Sơn thừa thời cơ cử sự. Năm Bính Ngọ (1786) dấy binh diệtt họ Trịnh trả nước cho họ Lê. Vua Lê trước tạ thế, thần lại tôn lập tự tôn Lê Duy Kỳ (tức Lê Chiêu Thống) nối ngôi. Lê Duy kỳ là người dâm ô bạo ngược, quần thần trong nước cũng như dân chúng đếu chạy đến tố cáo với thần xin vì họ mà ra quân trừ loạn.
    Năm Đinh vị (1787), thần sai một tiểu tướng đem binh hỏi tội kẻ tả hữu đã giúp ông vua bạo ngược làm những điều xằng bậy thì Lê Duy Kỳ từ xa được tin, đang đêm chạy trốn tự mang lấy sự lo sợ vào thân.
    Năm Mậu Thân (1788), thần tiến ra thành Đô lại ủy thác cho Lê Duy Cận, con của vua Lê trước làm Giam quốc, (thần) đã sai sứ giả gõ cửa quan đem đầy đủ tình hình trong nước tâu lên, nhưng mẹ của Lê Duy Kỳ đã chạy sang trước ở cửa ải Đẩu Áo gởi thân xin cứu viện. Tôn Sĩ Nghị ỷ mình có địa vị là đại thần nơi vùng biên cương lại thêm tiền của đút lót và nữ sắc cho nên đã đem tờ biểu của thần xé nát và ném xuống đất làm nhục sứ giả, ý muốn động binh dấy quân.
    Không biết việcc đó có phải là do đại hoàng đế sai khiến hay do Tôn Sĩ Nghị vì nghe lời sai khiến của một người đàn bà (mẹ của Lê Duy Kỳ) đẻ mông lập công trạng ở chốn biên cương hầu mưu cầu lợi lớn.
    Thật vậy, nếu lấy nhân sĩ giáp binh của một dãy bờ biển nầy cũng không đáng bằng một phần muôn của triều đình Trung Quốc. Nhưng bị khe sâu ở phía trước, cọp dữ ở phía sau, tâm tình của nhân dân sợ chết mất cho nên đều phải lo phấn đấu. Thần không sợ mang tiếng đập chuộtt vỡ đồ cho nên lấy tráng đinh của năm ba ấp đem theo, ngày mồng 5 tháng giêng năm nay tiến đến thành Đô để mong cùng Tôn Sĩ Nghị một lần gặp mặt, hoặc là lấy châu báu ngọc ngà lụa gấm để thay cho khiên giáp gươm đao, biến quân xa làm hội áo quần.
    Nhưng quân binh của Tôn Sĩ Nghị lại ra đón đánh trước mà chỉ mới mộtt lần giao tranh thì đã bỏ chạy rã rời tứ tán. Những quân chạy trốn ở thôn trang ngoài thành thì lại bị nhân dân quanh thành giết chết gần hết.
    Thần ngày vào thành lập tức ngăn cấm không được giết càng, nhất thiết đều đưa tới thành Đô, tất cả hơn 800 tên, thần đã cấp cho lương thực.
    Thiết nghĩ, nước của ta từ thuở Đinh, Lê, Lý, Trần đếnn nay thế đời dời đổi không phải chỉ có một họ (được độc quyền làm vua). Nếu có khả năng thì phải vì Nam Giao mà ra tay bình định hàn gắn, dùng tài cán của mình mà vun bồi cho thì đấy chỉ là việc làm rất công bình nhân ái mà thôi
    Thần nghĩ rằng đại hoàng đế (vua nhà Thanh) thay trời
    thi hành việc giáo hóa thì cũng nên thuận theo lẽ tự nhiên mà tha thứ cho thần cái tội đón đánh Tôn Sĩ Nghị, nên xét lại lòng thành khẩn của thần đã bao lần đến cửa quan (chính quyền nhà Thanh ở biên giới) để trần tấu,yê cầu hãy đồng ý công nhận để cho thần lấy danh vị An Nam Quốc vương để được cai trị toàn cõi. Thần cẩn trọng sai sứ đến triều khuyết chịu là thần dân triều cống cùng đem những kẻ hiện còn giữ lại trả về giao nạp để tỏ lòng chí thành.
    Hãy nghĩ, đường đường là triều đình thiên tử lại đi so hơn thua với một di tộc nhược tiễu thì có lẽ là muốn làm khổ binh sĩ, dùng vũ khí tàn độc để được sướng khoái lòng tham tàn thì lẽ đâu thánh thượng lại đành lòng bất nhẫn như thế.
    Nếu khó thể ngăn được việc động binh không dứt khiến tình thế trở nên nông nổi thì không phải do ý muốn của thần và thần cũng không cần lý tới nữa."*
    Khi tiếp nhận tờ biểu của Hoàng đế Quang Trung, tướng biên ải của nhà Thanh là Thang Hùng Nghiệp rất lo sợ, kinh hải, nói với sứ giả Hồ Hổ Hầu rằng : " Nay không phải là lúc hai nước đánh nhau sao lại hành sự toàn một giọng giận dữ ? Nói như thế là muốn cầu phong tước hay muốn gây mối can qua chăng ?" Và không dám chuyển tờ biểu nầy về triều đình nhà Thanh.
    Trong khi hoàng đế Quang Trung đem quân về Nam thì người Tàu coi vùng Quảng Tây là Phúc Khang An lại chuyển ý cầu hòa, gởi thơ lấy việc lợi hại mà khuyến dụ.
    (1) Biểu ngôn: thần bản Tây Sơn bố y thừa thời cơ cử sự. Bính Ngọ/ hưng sự diệt Trịnh hoàn quốc vu Lê. Tiền Lê vương tạ thế. Hựu/ (2) ủng lập Tự tôn Duy Kỳ tập. Duy Kỳ vi nhân dâm bạo, quốc nội chi/ thần nhược dân bôn tố ư thần thỉnh vị xuất binh trừ loạn. Đinh vị thần/ (3) khiển nhất tiểu tướng dĩ binh vấn kỳ tả hữu chi trợ kiệt giả nhi Duy/ Kỳ vọng phong tiêu độn tự di y thích. Mậu Thân thần tiến chí Đô thành/
    (4) phục ủy tiền Lê vương chi tử Duy Cận giám quốc, kinh khiển hành giới khấu/ quan bị dĩ quốc tình đề tấu, nhi Duy Kỳ chi mẫu tiên phó Đẩu áo/ (5) ải ủy thân khất viện. Tôn Sĩ Nghị dĩ phong cương đại thần khước vị tài/ sắc chi cố tương thần chi biểu chương liệt trịch ư địa, lăng nhục hành giới/ (6) ý dục động chúng hưng nhung. Bất tri thử sự quả xuất Đại Hoàng đế sai/ khiển ức hoặc Sĩ Nghị vị nhất phụ nhân sở sử hạnh biên công dĩ yêu/ (7) đại lợi dã. Phù, dĩ hải tần nhất đái nhân sĩ giáp binh bất đương Trung/ triều chi vạn nhất. Nhi thâm giản tại tiền, mãnh hổ tại hậu, chúng tình phạ/ (8) tử hàm tư phấn lệ. Thần bất tỵ đầu thử chi báng, toại dĩ tam ngũ/ ấp đinh tương tùng, kim niên chinh nguyệt sơ ngũ nhật tiến chí Đô thành kỳ/ (9) dữ Sĩ Nghị nhất kiến, hoặc đắc dĩ ngọcc bạch đại can qua, chuyển binh xa/ vi y thường chi hi. Nãi Sĩ Nghị chi binh tiên lai nghinh chiến, tài nhất giao/ (10) phong bôn hội tứ tán. Kỳ tẩu đọa thành ngoại thôn trang hựu vị hoàn/ thành dân tiêm sát đãi tận. Thần nhập thành chi nhật, lập tức cấm chỉ bất/ (11) đắc võng sát, nhất thiết tống đáo Đô thành. Cai bát bách dư khẩu, thần dĩ/ cấp chi lẫm thực. Thiết niệm bản quốc tự Đinh Lê Lý Trần dĩ lai, thế/ (12) đại thiên cách bất thị nhất tính. Hữu năng vi Nam Giao bình hàn, tài giả/ bồi chi, duy chí công chí nhân nhi dĩ. Phục duy thể thiên thành hóa thuận/ (13) kỳ tự nhiên thứ thần nghinh địch Tôn Sĩ Nghị chi ti, lượng thần số phiên/ khoản quan trần tấu chi thành, tích thần vi An Nam Quốc vương tý hữu thống/ (14) nhiếp. Thần cẩn đương khiển sứ nghệ khuyết phụng phiên tu cống, tinh tương thiện tồn/ nhân khẩu hồi cấp dĩ biểu chí thành. Phù dĩ đường đường Thiên triều hiệu thắng/ (15) phụ ư tiểu di tất dục cùng binh độc vũ dĩ khoái tham tàn, lượng thánh/ tâm chi sở bất nhẫn. Vạn nhất binh liên bất chỉ, thế đáo ná lý thành/ (16) phi thần chi sở nguyện nhi diệc bất cảm tri dã.
    *

Chia sẻ trang này