1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu nhà Tây Sơn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 10/06/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Cách đó không lâu nhà Nguyễn Nhạc có kỵ. Khách khứa đông đúc. Cỗ bàn ăn xong thì trời đã khuya. Người ở gần thì lục tục ra về, khách ở xa đều phải nghỉ lại. Bỗng cảnh tượng hôm trước tái hiện nơi Trưng Sơn. Lần này tiếng chiêng tiếng trống lại rền trời, và ánh lửa lại sáng ngời cả núi. Tuy đã trông thấy cảnh tượng đó lần thứ hai, người trong vùng vẫn kinh sợ, và các tay võ sĩ tuy xem thường gươm giáo, nhưng lắm người cảm thấy ớn lạnh châu thân.
    Nguyễn Nhạc rủ mọi người lên xem quỷ thần làm trò gì. Phần đông đều e ngại. Chỉ có chừng mười người xin theo.
    Nai nịt gọn gàng, chân vũ hài, tay trường kiếm, trường côn, đoàn người mạnh dạn lên núi. Tiếng trống chiêng dứt, ánh lửa tắt dần. Khi lên gần tới đỉnh, thì trong ánh sáng chập chờn, thấy hiện ra một lão trượng mặc triều phục, râu tóc bạc phơ. Lão trượng phất tay áo, ra dấu bảo đoàn người dừng lại. Ai nấy đều ớn lạnh, đứng lại như cái máy. Lão trượng cất tiếng lanh lảnh hỏi:
    - Trong anh em có ai là Nguyễn Nhạc chăng. Nếu có thì hãy đến gần đây nghe lệnh. Còn các người khác thì đứng yên.
    Nguyễn Nhạc run sợ bước đến quỳ trước mặt lão trượng. Lão trượng lấy trong tay áo rộng một tờ chiếu rồi đọc lớn:
    - Ngọc Hoàng sắc mạng Nguyễn Nhạc vi Quốc Vương .
    Ðoạn trao tờ chiếu cho Nguyễn Nhạc rồi quay bước vào trong bóng tối.
    Từ ấy muôn người như một, trừ cụ giáo Hiến và những người tâm huyết trong tổ chức, ai cũng tin rằng trời đã cho Nguyễn Nhạc làm vua. Lòng mê tín không cho phép được nghi ngờ.
    Ðã có chiếu Trời rồi, còn phải có ấn kiếm nữa mới lên ngôi được.
    Một hôm Nguyễn Nhạc cùng bộ hạ ở An Khê về, đến Hoành Sơn thì ngựa Nguyễn Nhạc ***g lên, rồi thẳng cổ chạy nước đại. Nhưng không chạy tẽ ra hướng bắc để về Kiên Mỹ, lại chạy về hướng đông nam. Ðến chân núi phía trong Gò Sặt, cương ngựa bị đứt. Nguyễn Nhạc té nhào xuống ngựa, trặc chân không đứng dậy được. Ðám tùy tùng chạy đến xoa bóp hồi lâu mới bớt. Khi đứng dậy để ngựa trở về thì Nguyễn Nhạc chợt thấy chuôi kiếm ló ra nơi vách đá trên sườn núi. Sai người lên xem thì là một thanh kiếm xưa lưỡi sáng như nước. Ai nấy đều mừng là của Trời ban.
    Về nhà Nguyễn Nhạc nói cùng hai em và các đồng chí:
    - Ngọc Hoàng đã sắc phong ta làm Quốc Vương, lẽ tất nhiên là phải ban ấn kiếm. Nay kiếm đã có rồi, ta phải đi tìm ấn.
    Ðoạn tổ chức lễ cầu đảo tại chân núi Hoành Sơn.
    Cầu đảo ba ngày đêm. Ðêm làm lễ, ngày cho người đi tìm khắp vùng trên núi và dưới núi. Ðã hai ngày đêm rồi mà không thấy chi cả. Ðêm thứ ba, lúc nửa đêm, chiêng trống hành lễ vừa dứt, thì một vòi lửa như một làn pháo thăng thiên, bay từ hòn Một xẹt đến hòn Giải thì rơi xuống. Tiếp đó một tiếng nổ nhỏ như tiếng pháo tre, rồi một tiếng nổ lớn có phần dữ dội như tiếng sét làm chấn động cả vùng. Ai nấy đều thất kinh. Sáng hôm sau, Nguyễn Nhạc dẫn người đến hòn Giải xem, thì thấy sườn núi phía nam có một vùng lở và nám đen như bị sét đánh. Trèo lên xem thì thấy một quả ấn vàng nằm trong kẻ đá nơi bị lở. Quả ấn vuông vức, mỗi cạnh dài độ ba lóng tay, nơi mặt khắc bốn chữ triện Sơn hà Xã tắc.
    Ai nấy tin rằng Nguyễn Nhạc quả có chơn mạng.
    Nguyễn Nhạc được các người cùng hợp tác và các nhân sĩ đồng bào địa phương tôn làm Tây Sơn Vương.
    Ðó là vào năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 32, Ðịnh Vương Nguyễn Phúc Thuần thứ 6, tức năm 1771.
    Nguyễn Nhạc tổ chức lại cơ sở:
    - Quân sự giao cho Nguyễn Huệ, Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Ðình Tú.
    - Kinh tế tài chánh giao cho Nguyễn Thung, Bùi Thị Xuân và Nguyễn Lữ.
    - Dân sự (hành chánh, ngoại giao, tuyên truyền...) giao cho Võ Xuân Hoài và Trương Mỹ Ngọc.
    Ðất Tây Sơn trở thành một nước nhỏ.
    Mọi tổ chức được thực hiện trong im lặng.
    Lòng dân địa phương lại hướng hoàn toàn về Nguyễn Nhạc. Viên tri huyện Tuy Viễn không hay biết chi cả. Nhưng vì biện lại đồn Tây Sơn (có tên là Vân Ðồn) không chịu nạp thuế trong hai năm liền, viên tri huyện sai Ðốc Trung Ðằng đem quân lên vấn tội. Quân của Ðằng bị quân Tây Sơn đánh bại.
    Nhưng Nguyễn Nhạc và bộ tham mưu nhận thấy địa thế Tây Sơn Hạ không được an toàn, bèn dời tổng hành dinh và các cơ quan trọng yếu lên Tây Sơn Trung. Lấy dãy núi ở dưới đèo An Khê làm mật khu. Nguyễn Nhạc cùng bộ tham mưu đóng ở hòn núi cao nhất nằm phía nam chân đèo, Nguyễn Huệ cùng Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đóng tại hòn núi phía bắc. Do đó mà hai ngọn núi này mang tên là núi Ông Bình và núi Ông Nhạc.
    Khu kinh tế tài chính vẫn đóng ở Tây Sơn Hạ. Và những nơi đã được khai khẩn tiếp tục tăng gia sản xuất. Trường trầu vẫn phát triển đều đặn. Các phú gia ở khắp Tuy Viễn nhiệt liệt ủng hộ. Kho lẫm được canh coi chu đáo. Tiền, lúa nhiều nhưng không hề bị thâm lạm.
    Thanh thế của Tây Sơn Vương mỗi ngày mỗi thêm vững vàng vang dội. Kẻ sĩ gần xa được mời tham gia liền hưởng ứng. Bên văn có Triệu Ðình Tiệp người An Nhơn. Cao Tắc Tựu người Phù Mỹ, La Xuân Kiều người Phù Cát... bên võ thì có Nguyễn Văn Tuyết, người An Nhơn,
    Nguyễn Văn Lộc người làng Kỳ Sơn (Tuy Phước), Lý Văn Bưu người Phù Cát, Lê Văn Hưng người Tuy Viễn... đều là những người có tài có chí.
    Quân lính mộ thêm nhiều. Những người trước kia lo việc sản xuất, nếu tình nguyện, đều được đưa sang làm lính. Và tất cả quân sĩ, cứ sáu tháng ở trong quân đội, sáu tháng về các nông trại để vừa nghỉ ngơi vừa cày cuốc. Trong đám quân sĩ có một người, khi tập đã làm cho cấp chỉ huy thán phục là Lê Văn Hưng ở Kiên Dõng (Bình Khê). Ông này côn quyền đã tinh luyện, sức mạnh có thể nâng đá nhẹ nhàng như xách gàu nước, bưng nồi cơm. Nhập ngũ không bao lâu được làm đội trưởng.
    Nghe tin Nguyễn Nhạc bị truy nã gắt gao vì thâm lạm công quỹ, chạy vào núi chiêu tập bọn vong mạng định làm giặc, viên tuần phủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho quân lính đi lùng bắt. Nhưng nhiều lần quan quân đến Tây Sơn Hạ thấy nhân dân làm ăn yên ổn, không thấy dấu vết của giặc đâu cả, Tuyên cho là tin đồn nhảm, nên thôi đem quân càn quét vùng Tây Sơn.
    Ðỡ tốn công đối phó với kẻ thù, Tây Sơn Vương lo phát triển lực lượng.
    Nhận thấy người Thượng bắn ná giỏi, lại có sức mạnh và có đức tính chịu đựng bền bỉ, Nguyễn Nhạc quyết định dùng chính sách Thượng vận để lôi kéo các sắc tộc Xà Ðàng (Sédang), Rađê (Rhade), Giarai (Djarais) về với mình.
    Vương đã được người miền núi biết đến qua chuyện được kiếm thần.
    Trong dân gian Thượng cũng có chuyện được gươm thần như sau:
    Truyền rằng xưa kia Vua Chiêm bắt được một thanh gươm thần. Vua Chân Lạp bắt được vỏ gươm. Vua Chiêm xây một tháp cao để tàng trữ gươm thần. Ðêm đêm gươm tỏa sáng xa hàng vạn trượng. Vua Chân Lạp phải đem vỏ gươm đến dâng và hàng năm triều cống. Ánh hào quang của gươm tượng trưng cho thần lửa.
    Thần lửa là vị thần mà người Thượng miền núi từ Quảng Nghĩa vào Phú Yên tôn thờ do ảnh hưởng văn hóa Chiêm Thành. Ðạo Minh Giáo (đạo Ma Ní) mà ông Lữ theo cũng thờ thần lửa. Do đó, ông Lữ có khả năng thuyết phục người Thượng dễ dàng.
    Chính vì nắm được những lợi thế đó mà Nguyễn Nhạc giao quyền điều khiển cho ông Huệ và ông Diệu, rút ông Lữ về và thân hành cùng ông Lữ lên An Khê để vận động người Thượng.
    Ðã được kính mộ từ trước, lại thêm có thầy hỏa giáo đi theo. Tây Sơn Vương đến đâu được người Thượng hoan nghênh đến đó. Người Giarai (Djarais) coi Vương như thần và gọi là Vua Trời. Chỉ có người Xà Ðàng (Sédang) mà chúa đoàn là Bok Kiơm không phục. Bok Kiơm nói:
    - Ông Nhạc không phải người trời vì không có gì khác thường.
    Hai mươi tuổi trẻ măng,các cụ cũng gọi thầy mà nghe đỏ mặt
    Sáu chục xuân già cả,con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời
  2. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Ðể tỏ ra mình khác thường, Nguyễn Nhạc dùng giỏ bội gánh nước đi ngang qua buôn Xà Ðàng mỗi buổi sáng sớm.
    Bok Kiơm cho rằng có phù phép, chớ không phải có tài trời sanh, bảo:
    - Nếu ông bắt được con ngựa thần thì tôi mới phục.
    Nguyên trên núi Hiển Hách, tục gọi là Hánh Hót ở vùng An Khê có một bầy ngựa rừng hễ thấy bóng người là chạy tránh. Con ngựa cầm đầu sắc trắng tinh, lông gáy và lông đuôi dài và óng như tơ, tiếng hí vang cả rừng và nghe xa hàng chín mười dặm thẳng. Người Thượng gọi là Ngựa Thần.
    Phải bắt cho được con ngựa thần ấy mới thu phục được người Xà Ðàng, mà có thu phục được người Xà Ðàng thì vùng Tây Nguyên mới thật là đất Tây Sơn, vì An Khê người Xà Ðàng ở đông đảo nhất. Nguyễn Nhạc để Nguyễn Lữ ở lại tuyên truyền, một mình về Kiên Mỹ cho người đi mua một số ngựa cái lớn tốt, đem về dạy cho khôn, hễ nghe tiếng hú là chạy đến. Bầy ngựa đã thành thục, Nguyễn Nhạc đem lên thả trên núi Hiển Hách cho theo bầy ngựa rừng. Ít hôm ngựa rừng và ngựa đồng quen nhau. Hễ nghe tiếng hú thì ngựa đồng chạy về, ngựa rừng cũng chạy theo, nhưng vừa thấy bóng người thì quay đầu trở lại, nhưng chạy một đỗi xa xa thì quay đầu ngó lui. Nguyễn Nhạc lấy cỏ bỏ cho ngựa ăn, rồi trở về. Ngựa rừng liền quay trở lại ăn cỏ cùng ngựa đồng. Lần này ngựa rừng thấy bóng người không còn có vẻ hoảng sợ nữa, nhưng không dám lại gần. Nguyễn Nhạc không bỏ đi, đứng vuốt ve bầy ngựa, hết con này đến con khác. Mấy hôm sau bầy ngựa rừng nhận thấy người không có ý làm hại giống nòi, bèn kéo đến ăn cỏ. Khi bầy ngựa rừng đã dạn, Nguyễn Nhạc đem cỏ bỏ gần cho ăn, rồi từ từ tiến đến vuốt mõm vuốt lưng hết con này đến con khác. Con ngựa bạch cầm đầu, ban sơ còn tỏ ý không thuận, nhưng dần dần, đứng yên cho người vuốt ve.
    Chinh phục được bầy ngựa rừng rồi, Nguyễn Nhạc hẹn cùng Bok Kiơm nơi chốn và ngày giờ đến chứng kiến. Ðể cho bầy ngựa khỏi sợ vì đông người. Nguyễn Nhạc bảo Bok Kiơm cùng đám tùy tùng núp sau đá rồi cất tiếng hú. Bầy ngựa rừng theo bầy ngựa đồng chạy đến. Nguyễn Nhạc lấy cỏ cho ăn và vuốt ve như thường lệ.
    Người Xà Ðàng tin Nguyễn Nhạc là người Trời thật, hết lòng thần phục và bắt chước người Gia Rai gọi là Vua Trời.
    Tiếng Vua Trời trở thành tiếng chung của người Thượng từ An Khê trở vô Phú Yên và trở ra Quảng Nghĩa, dùng gọi Nguyễn Nhạc.
    Ở trong vùng An Khê lại có một sắc tộc thiểu số ở trong rừng sâu, ít giao thiệp với người ngoài. Ðó là người Ba Na (Banard) ở trong rừng Mộ Ðiểu.
    Rừng Mộ Ðiểu ở tại làng Cổ Yêm cách Tú Thủy chừng mười, mười hai cây số.
    Rừng rộng mênh mông. Giữa rừng nổi lên một ngọn đồi trông giống một hòn cù lao ở giữa biển cả. Mỗi buổi chiều, chim về nghỉ từng bầy, từng đám, tiếng kêu vang dậy cả rừng xanh. Do đó rừng mang tên là Mộ Ðiểu.
    Tuy ít giao thiệp với bên ngoài, vị đầu mục Ba Na cũng đã có nghe tiếng Vua Trời. Vì vậy không mấy chốc hai bên đã trở nên thân thiện. Ðể mối tình Kinh Thượng thêm nồng nàn khăng khít, viên đầu mục gả con gái cho Vua Trời, bà vợ Thượng của Vương, tục gọi là Cô Hầu.
    Nhận thấy đất đai trong rừng rất màu mỡ, Nguyễn Nhạc liền nghỉ đến việc khai khẩn. Vương mộ người Thượng làm nhân công và rút một số người chỉ huy kinh tế ở Tây Sơn Hạ lên điều khiển. Rừng Mộ Ðiểu nhờ sức lao động của người Thượng - nhờ tài hướng dẫn của người Kinh, trở thành một cánh đồng phì nhiêu rộng hàng nghìn mẫu. Việc khai khẩn, việc canh tác, việc thu hoạch do Cô Hầu đảm đương với một số người Kinh, người Thượng tâm phúc trợ lực.
    Nguyễn Nhạc dùng phần lớn thì giờ để cùng Nguyễn Lữ đi chiêu dụ các sắc dân miền Kon Tum, Pleiku. Hai anh em đi đến đâu thì người Thượng hoan nghênh đến đó. Cho nên tất cả người Thượng vùng cao nguyên đều quy thuận Tây Sơn Vương.
    Vương chọn trong những người khẩn hoang một số tráng niên có sức, có gan và mộ thêm người trong các vùng lân cận, tổ chức thành một đạo quân Thượng. Võ Ðình Tú, Nguyễn Văn Tuyết và Lê Văn Hưng được đưa lên phụ trách việc huấn luyện và việc tổ chức. Dinh trại đóng trên ngọn đồi. Những binh sĩ người Thượng đã được huấn luyện thuần phục đều đưa xuống giao cho Nguyễn Huệ và Trần Quang Diệu rèn luyện thêm và khép vào đội ngũ. Nguyễn Nhạc khi ở Mộ Ðiểu khi về trung nguyên, thái độ nghiêm nhưng hòa, xử sự có tình nhưng không bỏ lý. Cho nên mọi người vừa kính sợ vừa yêu mến. Các anh hùng chí sĩ đến cùng Nguyễn Nhạc đều coi nhau như tay chân và hết lòng giúp Tây Sơn Vương dựng nghiệp cả.
    Nhờ vậy mà chỉ trong một thời gian ngắn, từ ngày rời chiến khu lên Tây Sơn Thượng (1771), nhà Tây Sơn đã có cơ sở vững chắc.
    Lúc bấy giờ vùng Tây Sơn còn thuộc về khu vực hẻo lánh, nhân dân trong vùng lại một dạ trung thành với nhà Tây Sơn, nên quan quân của chúa Nguyễn không hề hay biết. Tên biện lại thâm lạm tiền công quỹ cũng không còn ai nhắc nhở đến. Tri huyện, tuần phủ chỉ lo vơ vét cho đầy túi, không lo gì đến biến chuyển của thế cuộc.
    Hai mươi tuổi trẻ măng,các cụ cũng gọi thầy mà nghe đỏ mặt
    Sáu chục xuân già cả,con trẻ tự xưng em nghĩ lại tươi đời
  3. dreamweaver

    dreamweaver Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/03/2002
    Bài viết:
    265
    Đã được thích:
    0
    Tôi thấy cái bài chê vua QT này rất là kì cục , giống như là muốn đầu độc vậy.
    Sử gia thời Nguyễn đâu có bao giờ đánh giá đúng công trạng của người xưa đâu , toàn chê . Thí dụ Lê Hoàn Lý Thường kiệt đánh Tống thì nói rằng do nhà Tống cử sang tướng dở v.v... Vua Quang Trung thì còn chê lắm . Ngay như Hồng Bảo anh Tự Đức lỡ đối 1 câu " Tây Sơn phục quốc " mà mất cả ngôi vua .
    Như vậy cái bài đánh giá về Tây Sơn này cực kỳ bậy bạ , nếu một người nước ngoài viết tôi không nói làm gì , nhưng là người V nên tôi mới phải nói . Kiểu này có khác gì chê bai chiến công đánh thắng quân xâm lược của dân ta khi bản thân người viết bài KHÔNG PHẢI LÀ SỬ GIA gì cả ???
    Trên là về tình , dưới là về lý . Quân Thanh sang xâm lược nước ta có số lượng KHÔNG THỂ ít hơn 29 vạn , đơn giản nếu thấp hơn sao trong chiếu Vua QT không nói mà lại nói tới 29 vạn . Thí dụ xét 2 câu nói " hôm nay cần xây 10 căn nhà " và " hôm nay cần xây 3 căn nhà " của chủ thầu với thợ thì câu nào làm người thợ CÓ CẢM GIÁC mệt mỏi hơn . Nếu tôi là vua QT thì không dại gì mà tăng số quân của quân Thanh lên kiểu trả giá như thế ( nếu thật sự quân Thanh có ít ) mà có sao thì nói vậy thôi ( thậm chí nếu cần còn phải hạ thấp chút đỉnh ) . Bộ bạn tưởng nói quân giặc nhiều thì quân sĩ hăng lên sao ? Tôi chưa từng nghe .
    Chỉ cần một biện luận đơn giản như vậy thôi , tôi nghĩ là đủ bác cái bài tranh luận vớ vẩn kia rồi , khỏi cần dẫn chứng gì ráo . Mệt mỏi ....
  4. candc

    candc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/08/2003
    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    0
    Trước tiên phải công nhận Hector mở ra mục này rất hay, tính dạo chơi TTVN một lát, thế mà dừng lại đây thật lâu.
    Không biết tại sao Hector lại không cho biết tên tác giả, nhưng tôi thử đoán Hector trích từ cuốn sách "Tổ Quốc Ăn Năn" của Phạm Gia Kiểng. Khi PGK đến Little Saigon để giới thiệu cuốn sác này, ông ta đã gặp sự phản đối trên các phương tiện truyền thông: báo chí và đài phát thanh. Một trong những lý do là PGK đã bôi nhọ lịch sử oai hùng của dân tộc bằng cái nhìn "kỳ lạ" về Vua Quang Trung. Nhiều bài viết của nhiều vị học giả đã phản pháo lại lập luận của PGK, chứng minh cho ông ta thấy Vua Quang Trung là anh hùng dân tộc. (Khi tôi tìm lại được những bài viết này, tôi sẽ post cho các bạn xem). Công tâm mà nói, cũng có một số người ủng hộ luận điểm của PGK, nhưng số này rất ít, và khi bị bắt bẻ, thì họ tịt luôn.
    VNCH cũng sùng bái Vua Quang Trung khi họ cho in hình của Vua Quang Trung lên tiền, lấy tên Vua đặt cho quân trường tại Hóc Môn, và hình như xem Vua là thánh tổ của binh chủng nào đó (Tôi không chắc, phải nhờ các bạn khác xem lại dùm)
  5. Margareta

    Margareta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/01/2002
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    0
    Là Nguyễn Gia Kiểng bạn ạ.
    Về câu đối của Hồng Bảo tôi thấy không đáng tin. Chắc chắn là các thế lực của Tự Đức sau này bịa ra giai thoại đó chứ Hồng Bảo chắc không thể nào ngu ngốc đến mức dám nói như thế trước mặt vua cha được.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Em chẳng biết nhiều về lão Phạm Gia Kiểng cả. Em chỉ xin đóng góp chút ít hiểu biểt về Nguyễn Huệ.
    Nguồn gốc-Quê hương-Gia đình
    Trong lịch sử nước ta, họ Hồ là một trong những cự tộc. Người đầu tiên của họ Hồ định cư tại trấn Nghệ An xưa là Hồ Hưng Dật. Ông đến Nghệ An vào năm 960 và chẳng bao lâu thì đã có sản nghiệp lớn. Vào thời Lý, hậu duệ của Hồ Hưng Dật đã có người cưới được Công Chúa của vua Lý, trở thành Phò Mã của nhà Lý.
    Hậu duệ đời thứ mười hai của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm đã di cư từ Nghệ An ra Thanh Hóa. Tại Thanh Hóa, hồ Liêm trở thành con nuôi của quan Tuyên Uý là Lê Huấn, vì thế, chi họ Hồ ở Thanh Hóa cũng có một thời mang họ Lê. Cháu bốn đời của Hồ Liêm là Hồ Quý Ly-người đã lật đổ nhà Trần và lập nên nhà Hồ (1400-1407).
    Tổ tiên đời thứ nhất và đời thứ hai của ba anh em Nguyễn Huệ tại xứ Đàng Trong tên là gì, thì hiện giờ vẫn chưa rõ, chỉ biết đời thứ ba, tức thân sinh của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ là ông Hồ Phi Phúc. Hồ Phi Phúc không ở ấp Tây Sơn Nhất (trước đây, Tây Sơn có hai ấp là Tây Sơn Nhất và Tây Sơn Nhì. Ấp Tây Sơn Nhất sau đổi gọ là ấp An Khê còn ấp Tây Sơn Nhì thì sau đổi gọi là ấp Cửu An. Cả hai ấp này, xưa thuộc huyện Quy Ninh, sau đổi gọi là huyện Hoài Nhơn, phủ Quy Nhơn) nữa mà di cư về ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Bấy giờ, ấp Kiên Thành có nhiều thôn, nơi Hồ Phi Phúc định cư đầu tiên là thôn Phú Lạc. Ở Phú Lạc một thời gian ngắn, Hồ phi Phúc lại đi đến quê vợ-bà Nguyễn Thị Đồng-là thôn Kiên Mỹ (cũng thuộc ấp Kiên Thành). Khu đất xưa kia là nhà của ông bà Hồ Phi Phúc ở thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, nay chính là khu đất tương ứng với Bảo tàng Tây Sơn (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định).
    Như vậy, dòng dõi của Nguyễn Huệ từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong, trải qua bốn đời, đã định cư ở bốn nơi khác nhau:
    -Hưng Nguyên (Nghệ An)
    -Tây Sơn Nhất (Hoài Nhơn, Quy Nhơn)
    -Phú Lạc (Kiên Thành, Hoài Nhơn, Quy Nhơn)
    -Kiên Mỹ (Kiên Thành, Hoài Nhơn, Quy Nhơn)
    Sở dĩ dòng dõi của Nguyễn Huệ chuyển và Đang Trong là do: từ năm 1627 đến năm 1672, hai bên Trịnh-Nguyễn đã đánh nhau 7 trận lớn. Trong số 7 trận lớn đó, chỉ có trận thứ năm (1655-1660) là duy nhất họ Nguyễn chủ động đem quân vượt sông Gianh, tấn công vào Đàng Ngoài. Nhưng sau 5 năm, thấy không thể nào giữ được, họ Nguyễn lại rút quân về. Và khi rút quân về, họ Nguyễn đã cưỡng bức rất nhiều người di cư vào Nam. Trong số những người bị cưỡng bức di cư ấy, có người họ Hồ ở Hưng Nguyên (Nghệ An).
    Thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành là vùng nằm giáp ranh giữa cao nguyên Gia Lai với đồng bằng Bình ĐỊnh ngày nay. Nơi đây có con sông Côn, tuy không lớn nhưng cũng rất thuận tiện cho giao thông buôn bán. Kinh tế Kiên Mỹ nhờ đó mà khá phát đạt. Trước hết, ruộng đồng Kiên Mỹ rất tươi tốt cho nên hầu như gia đình nào cũng tương đối no đủ. Ngoài trồng trọt, dân Kiên Mỹ còn có khá nhiều nghề thủ công khác nhau, mỗi nghề tập trung vào một số cụm gia đình nhất định, gọi là xóm như:
    -Xóm Ươm: chuyên nuôi tằm, ươm tơ
    -Xóm Rèn: chuyên về nghề rèn
    -Xóm Mía: chuyên ép mía lấy mật, làm đường ăn
    -Xóm Đậu: chuyên làm bánh đậu và nấu chè đậu
    -Xóm Bún: chuyên làm bún
    -Xóm Chợ: có chợ Kiên Mỹ
    -Xóm Trầu: chuyên buốn bán trầu
    -Xóm Giấy: chuyên sản xuất giấy bản
    Kiên Mỹ có chợ Kiên Mỹ buôn bán khá tấp nập, tạo cho Kiên Mỹ sự giao lưu kinh tế rộng rãi với nhiều địa phương khác nhau.
    Đất Hoài Nhơn xưa là nơi đinh cư của khá nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Lâu đời nhất là các dân tộc ít người, đặc biệt là người BaNa. Người Việt đến lập nghiệp muộn hơn và trong số những người Việt đến vùng này khoảng giữa thế kỉ thứ XVII có tổ tiên của Nguyễn Huệ. Tây Sơn Nhất và Tây Sơn Nhì là hai ấp người Việt lâu đời nhất của vùng này.
    Quê hương Nguyễn Huệ nổi tiếng với truyền thống thượng võ. Nơi đây có hai lò võ được nhiều người biết đến là: Thuận Truyền và An Thái. Dân gian có câu: ?oRoi Thuận Truyền, quyền An Thái? là để chỉ đặc trưng riêng của hai lò võ này.
    Trên miền đất trù phú và có truyền thống thượng võ ấy, gia đình Nguyễn Huệ là một gia đình khá giả. Cả ba anh em Nguyễn Huệ (Nguyễn Nhạc-Nguyễn Huệ-Nguyễn Lữ) đều được cha me tạo điều kiện cho ăn học và để lại cho một sản nghiệp cũng tương đối lớn. Như vậy, xuất thân của Nguyễn Huệ là nông dân nhưng không phải là nông dân nghèo.
    Thời nhỏ, ba anh em Nguyễn Huệ được gửi đến Bàng Châu (nay thuộc xã Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định) để học võ với võ sư Đinh Văn Nhưng. Võ sư Nhưng là một người giàu nghĩa khí, tính ngang tàng, dân địa phương đương thời thường gọi ông là Ông Chảng. Nghĩa khí của thầy dậy võ có ảnh hưởng rất lớn đối với phẩm cách của ba anh em Nguyễn Huệ sau này. Về văn chương, ba anh em Nguyễn Huệ có gia sư là thầy giáo Hiền (chưa rõ lai lịch, chỉ biết ông là một môn khách của Nội Hữu Trương Văn Hạnh(cũng chưa biết nốt). Khi Trương Văn Hạnh bị Trương Phúc Loan giết hại thì thầy giáo Hiến về dạy học tại An Thái-nay thuộc xã An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định). Sau này ông về hẳn Tây Sơn và trở thành gia sư của ba anh em Nguyễn Huệ. Thầy giáo Hiến cũng là người giàu lòng yêu nước thương dân và chính lòng yêu nước thương dân đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới cả ba anh em Nguyễn Huệ. Tuy nhiên điều quan trọng mà ba anh em Nguyễn Huệ tiếp nhận được ở thầy giáo Hiến không phải chỉ là văn chương chữ nghĩa và lòng yếu nước thương dân mà còn là những thông tin đầy đủ và chính xác về nội tình thối nát của họ Nguyễn đương thời. Đây chính là sơ sở thực tiễn để về sau ba anh em Nguyễn Huệ có thể căn cứ vào đó mà có đối sách thích hợp.
    Nguyễn Huệ (1753-1792) có tên là Ba Thơm hoặc Nguyễn Văn Bình. Nguyễn Nhạc thường hay gọi Nguyễn Huệ là chú Bình.
    Nguyễn Huệ có 3 anh em trai (có tài liệu nói là 4, ngoài ba anh em trai còn có 1 người chị (hay em) nhưng hiện nay chưa rõ tên và lai lịch). Người anh cả (anh hai theo cách gọi ở miền Nam) là Nguyễn Nhạc (?-1793). Còn có tên là Hai Trầu (có một thời đi buôn trầu) hay Biện Nhạc (có thời làm Biện lại-một chức quan hành chính thấp ở địa phương). Người em của Nguyễn Huệ là Nguyễn Lữ (?-1787). Có sách nói Nguyễn Lữ là anh Nguyễn Huệ nhưng Nguyễn Lữ cũng được gọi là thầy tư Lữ. Sở dĩ gọi là thầy vì Nguyễn Lữ từng có một thời đi tu, còn như thứ tư (thầy tư Lữ) cũng có nghĩa là: Nguyễn Lữ là em Nguyễn Huệ (thứ ba) và Nguyễn Nhạc (thứ hai). Hiện giờ, chúng ta mới biết năm mất của ba anh em Nguyễn Huệ còn năm sinh thì trừ Nguyễn Huệ, chưa biết năm sinhcủa Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ. Tuy nhiên, căn cứ vào nhiều cơ sở khác nhau, một số nhà nghiên cứu cho rằng: Nguyễn Nhạc hớn Nguyễn Huệ chừng 10 tuổi, tức là sinh vào khoảng năm 1743 còn Nguyễn Lữ có lẽ chỉ nhỏ hơn Nguyễn Huệ một vài tuổi, tức là sinh vào khoảng từ năm 1754-1756.
    Còn tiếp
    ---------------------------------------
    "Làm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành"
    Hồ Chí Minh
  7. misamos

    misamos Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/05/2003
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    tôi thực sự sốc khi đọc loạt bài này. liệu những điều tác giả viết có đáng tin không? lịch sử đã chỉ rõ rằng khi thua trận thì người ta sẽ làm mọi cách để giảm thiểu sự nhục nhã, nhất là khi viết sử. liệu có thể tin được sử sách nhà Thanh?
    misamos
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Em xin đưa phần tiếp theo:
    Sự nghiệp
    Bước đầu của một sự nghiệp lớn
    Nguyễn Huệ sinh năm 1753, như vậy khi khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ (1771) thì Nguyễn Huệ mới 18 tuổi. Trong lịch sử, không có nhiều những danh tướng kiệt xuất khởi đầu sự nghiệp sớm như thế.
    Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa, nếu như Nguyễn Nhạc là người chịu trách nhiệm bao quát chung, Nguyễn Lữ là người gần như chỉ chủ yếu lo sản xuất và tích trữ lương thực, thì Nguyễn Huệ, ngay từ đầu đã là người trực tiếp cầm quân. Ở Tây Sơn có Hòn ông Bình, tương truyền, đó chính là nơi thuở xưa Nguyễn Huệ huấn luyện binh mã trước khi xuất trận.
    Tài năng quân sự đầu tiên của Nguyễn Huệ thể hiện rõ nhất là ở việc vạch kế hoạch và trực tiếp chỉ huy xây dựng một chiến lũy rất dài, nối liền Hòn Ông Nhạc, Hòn Ông Bình với Hòn Lãnh Lương. Đó là chiến luỹ nằm án ngữ trục đường qua đèo An Khê, nhằm ngăn chặn những cuộc tấn công của quân đội chúa Nguyễn lên vùng Tây Sơn Thượng Đạo. Nay chiến luỹ này chỉ còn dấu tích một số đoạn ngắn nữa thôi.
    Tổng chỉ huy xuất sắc trận Phú Yên (năm 1775: 22 tuổi)
    Năm 1774, lợi dụng lúc chúa Nguyễn đang phải lúng túng đối phó với hàng loạt những cuộc tấn công của Tây Sơn, chúa Trịnh lúc đó là Trinh Sâm đã sai Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đem ba vạn quân tấn công vào Đàng Trong và chẳng bao lâu sau đó, Hoàng Ngũ Phúc đã chiếm được thủ phủ của chúa Nguyễn. Toàn bộ tập đoàn họ Nguyễn phải tháo chạy vào Gia Định. Tuy nhiên, cũng kể từ đó, Tây Sơn bị đẩy vào thế ?olưỡng đầu thọ địch?. Ở mặt Bắc, quân của Hoàng Ngũ Phúc bắt đầu vượt đèo Hải Vân. Ở mặt Nam, quân Nguyễn cũng phản công dữ dội. Trước sự xoay chuyển đột ngột và phức tạp của tình hình như vậy, Tây Sơn đã quyết định tạm thời hoà hoãn với quân Trịnh. Mặt Bắc tạm yên nhưng mặt Nam vẫn rất căng thẳng.
    Năm 1775, hơn hai vạn quân Nguyễn do Tống Phúc Hiệp chỉ huy đã ồ ạt đánh từ phía Nam đánh ra. Một dải đất rộng lớn và liên hoàn, tương ứng với các tỉnh ngày nay như Khánh Hoà, Ninh Thuận, Đắc Lắc? mới được Tây Sơn giải phóng đã bị Tống Phúc Hiệp chiếm lại. Tống Phúc Hiệp còn đánh ra tận Phú Yên, tình hình trở nên rất nguy cấp. Tây Sơn chỉ còn giữ được một vùng đất tương ứng với các tỉnh ngày nay như Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Kon Tum và Gia Lai thôi.
    Tốn Phúc Hiệp đặt đại bản doanh ngay tại Phú Yên và lập hai đồn, một ở Xuân Đài (cách Phú Yên khoảng 4 km) và một đồn nữa ở Vũng Lấm (cách Phú Yên chừng 10 km). Nếu Xuân Đài là đại đồn của lực lượng bộ binh hùng hậu thì Vũng Lấm chính là đại đồn của lực lượng thuỷ binh rất mạnh. Xuân Đài và Vũng Lấm là hai khu vực xuất phát, cũng là hai địa điểm tập kết rất lợi hại của Tống Phúc Hiệp. Thế đứng của Tống Phúc Hiệp được khẳng định khá vững vàng.
    Trong khi khí thế quân Nguyễn đang được dần dần phục hồi thì ngược lại, phía Tây Sơn gặp không ít khí khăn. Ngoài việc đất đai bị thu hẹp, bộ chỉ huy Tây Sơn cũng có sự tổn thất và xáo trộn. Bấy giờ, tướng Tập Đình đã bỏ trốn còn tướng Lý Tài thì liên tiếp bị thua đau mấy trận liền, vì thế, quân sĩ hoang mang và uy thế của Tây Sơn giảm sút rất nhanh. Muốn đánh bại Tống Phúc Hiệp ở Phú Yên, bộ chỉ huy Tây Sơn không thể trao trọng trách chỉ huy chiến dịch cho tướng Lý Tài được nữa. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Huệ đã dũng cảm đảm trách sứ mệnh tổng chỉ huy chiến dịch này. Bấy giờ, Nguyễn Huệ mới 22 tuổi nhưng vị tướng rất trẻ này từng là người chỉ huy luyện tập quân sữ trong thời kỳ Tây Sơn chuẩn bị khởi nghĩa, và quan trọng hơn, từng là tướng trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc 4 năm trời. Tài năng + những kinh nghiệm thực tiễn quý giá đã tạo cho Nguyễn Huệ một bản lĩnh cao cường.
    Để tạo yếu tố bất ngờ, trước lúc mở màn trận tấn công, Nguyễn Huệ đã cho người đến gặp Tống Phúc Hiệp để bàn hai việc lớn: một là tôn lập Nguyễn Phúc Dương (tức Hoàng Tôn Dương) lên làm chúa và hai là kế hoạch phối hợp giữa Tây Sơn và Tống Phúc Hiệp trong việc chống lại quân Trịnh. Cuộc thương lượng giữa đại diện của Tây Sơn với Tống Phúc Hiệp đang tiến hành thì quân của Nguyễn Huệ tràn tới. Chỉ trong một thời gian ngắn, thành Phú Yên bị hạ. Tống Phúc Hiệp phải bỏ thành Phú Yến chạy trốn. Tướng của Tống Phúc Hiệp là Nguyễn Văn Hiển ra sức chống trả đã bị tiêu diệt ngay tại trận. Một viên tướng của Tống Phúc Hiệp là Nguyễn Khoa Kiên bị Nguyễn Huệ bắt sống. Bộ binh của Tống Phúc Hiệp ở Xuân Đài vội vã tháo chạy khiến cho thuỷ binh ở Vũng Lấm cũng hốt hoảng rút chạy về phía Nam.
    Tin Nguyễn Huệ thắng lớn ở Phú Yến nhanh chóng truyền vào nam. Tướng của chúa Nguyễn giữ chức Trấn Thủ tại Bình Khang (là một khu vực hành chính địa phương thời các chúa Nguyễn. Khu vực này trong khoảng từ năm 1771-1790 có nhiều thay đổi. Khi Bùi Công Kế làm Trấn Thủ, Bình Khang chỉ tương ứng với Khánh Hoà và một phần Đắc Lắc ngày nay) là Bùi Công kế cùng với thuộc tướng là Tống Văn Khôi lập tức đem quân đi cứu, nhưng vừa đến nơi, chưa kịp dàn quân đã bị Nguyễn Huệ đánh cho tơi bời. Tống Văn Khôi bị tiệt diệt tại trận, Bùi Công Kế phải lập tức rút hẳn về Bình Khang.
    Trận Phú Yên là trận có ý nghĩa rất quan trọng. Từ đây, quân đội của chúa Nguyễn liên tiếp bị đại bại để rồi cuối cùng là bị đánh bật khỏi Gia Định. Từ đây, tên tuổi của Nguyễn Huệ nổi bật hẳn lên, tài năng quân sự của Nguyễn Huệ ngày một nở rộ,
    Sau trận Phú Yên, theo yêu cầu của Nguyễn Nhạc, Hoàng Ngũ Phúc đã phải xin chúa Trịnh là Trinh Sâm phong cho Nguyễn Huệ chức Tây Sơn Hiệu, Tiên Phong Tướng Quân. Cũng sau trận Phú Yên, Nguyễn Huệ được lệnh ra ổn định tình hình Quảng Nam. Bấy giờ, Hoàng Ngũ Phúc rút quân khỏi vùng Quảng Nam, ra hẳn phía bắc đèo Hải Vân, tuy nhiên, tay chân của chúa Nguyễn ở vùng này cũng nhân đó mà nổi dậy chống Tây Sơn. Hai nhân vật nổi bật của đám tay chân này là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân. Chỉ trong một trận đánh chớp nhoáng, Nguyễn Huệ đã quét sạch lực lượng của Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân ra khỏi Quảng Nam. Toàn bộ vùng đất từ QUảng Nam vào đến Phú Yên do Tây Sơn quản lí, nhìn chung là ổn định. Ở tuổi 22, Nguyễn Huệ không phải chỉ là một vị tướng có tài mà còn là một người có năng lực tổ chức quản lí hành chính. Tóm lại, Nguyễn Huệ bắt đầu trở thành linh hồn của Tây Sơn kể từ đây.
    Còn tiếp
    -------------------------------------
    ?oLàm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành?
    Hồ Chí Minh
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tổng chỉ huy cuộc tấn công của quân Tây Sơn và Gia Định lần thứ hai (năm 1777: 24 tuổi)
    Năm 1776, khi Nguyễn Huệ đang lo trấn áp bọn tay chân của chúa Nguyễn ở Quảng Nam và xây dựng chính quyền Tây Sơn ở vùng này thì Nguyễn lư được lệnh đem quân tấn công vào Gia Định. Với Tây Sơn, đó là lần tấn công vào Gia Định thứ nhất. Nguyễn Lữ đã chiếm được thành Gia ĐịỊnh, thậm chí còn cho quân đánh xuống tận Long Hồ (tương ứng với Vĩnh Long ngày nay), đuổi chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy về trốn ở Trấn Biên (là một khu vực hành chính lớn, bấy giờ, khu vực này ứng với các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương và Bình Phước ngày nay. Nguyễn Phúc Thuần trốn ở vùng Bà Rịa ngày nay), bắt sống đưỡc tướng của chúa Nguyễn là Bùi Hữu Lễ? nhưng, sau đó thì rút về Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Thuần lại mộ quân đánh chiếm Gia Định như cũ.
    Bấy giờ, Tây Sơn có thêm một trở ngại mới. Hai tướng gốc thương nhân người hoa là Tập Đình (chỉ huy đạo Trung Nghĩa Quân) và Lý Tài (chỉ huy đạo Hoà Nghĩa Quân) đều phản bội Tây Sơn. Trước đó, Tập Đình đã bỏ trốn còn Lý Tài thì do nhiều phen bại trận, tinh thần và năng lực sa sút nghiêm trọng, cho nên, trong trận Phú Yên, Lý Tài chỉ được giao làm phó tướng cho Nguyễn Huệ. Thay vì quyết chí lập công chuộc tội, Lý Tài đã tỏ ra bất mãn. Tướng của chúa Nguyễn ở Phú Yên là Tống Phúc Hiệp biết rất rõ điều này nên đã chiêu hàng được Lý Tài. Trong Bộ chỉ huy Tây Sơn, vị trí của Lý Tài tuy không phải là lớn lao gì nhưng Lý Tài là một trong những người nắm được khá rõ những sở trường cũng như sở đoản của quân Tây Sơn, vì thế, tác hại của sự phản bội này cũng không phải là nhỏ.
    Về phía chúa Nguyễn, nội bộ cũng có những xung đột rất phức tạp. Tháng 6 năm 1776, sau khi tháo chạy từ Phú Yên trở về, Tống Phúc Hiệp lâm bệnh rồi mất. Cuộc tranh giành quyền lực chi phối quân đội của chúa Nguyễn, giữa một bên là Lý Tài với một bên là Đỗ Thanh Nhơn bắt đầu. Lý Tài tuy chỉ mới về đầu hàng nhưng lực lượng quan lính mà Lý Tài nắm được cũng khá lớn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương cũng trốn về (trước đó, Nguyễn Phúc Dương bị Tây Sơn quản thúc tại Quy Nhơn) được ở Gia ĐỊnh và dùng Lý Tài làm vây cánh cho mình. Cộngthêm số quân linh tuỳ tùng của Nguyễn phúc Dương nữa, thanh thế của Lý Tài tăng lên rất nhanh. Đỗ Thanh Nhơn tự nhận là người không đội trời chung với Tây Sơn. Đội quân do Đỗ Thanh Nhơn lập ra mang tên là Đông Sơn, theo cách giải thích của chính Đỗ Thanh Nhơn chỉ là để tỏ ra đối nghịch sâu sắc với Tây Sơn.
    Khi Lý Tài đem quân về Gia Định, Đỗ Thanh Nhơn buộc phải bỏ Gia Định mà chạy về Ba Giồng (tức Tam Phục, đất này nay thuộc tỉnh Kiên Giang). Nguyễn phúc Thuần bị Lý Tài bắt được và sau đó lại bị Lý Tài ép phải nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương. Bởi vậy, xứ Đàng Trong từ đây có hai chúa, một là Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và hai là Tân Chính Vương Nguyễn phúc Dương. Lý Tài được phong làm Bảo Giá Đại Tướng Quân. Cuộc xung đột nội bộ này đã làm cho thế lực của tập đoàn họ Nguyễn bị suy giảm khá mạnh.
    Lúc này, tình hình Quảng Nam đã tạm ổn, bộ chỉ huy Tây Sơn quyết định cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định. Tháng 3 năm Định Dậu (1777), đại binh Tây Sơn do Nguyễn Huệ cầm đầu, chia làm hai đạo: bộ binh và thuỷ binh cùng tiến.
    Đạo thuỷ binh là đạo quân chủ lực, do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy, vượt miền duyên hải khu vực Nam Trung Bộ ngày nay, đánh thẳng vào cửa Cần Giờ, sau đó tấn công vào các đơn vị quân đội chúa Nguyễn đóng ở xung quanh thành Gia Định.
    Đạo bộ binh nhỏ hơn, gồm chủ yếu là các đơn vị Tây Sơn đang đóng tại Phú Yên, có nhiệm vụ đánh mạnh vào khu vực tương ứng với các tỉnh ngày nay như Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận, rồi tiến thẳng vào Gia Định.
    Để đối phó với cuộc tấn công của lực lượng thuỷ bộ Tây Sơn, quân Nguyễn quyết định phải chủ động vạch kế hoạch phòng ngự và khi thời cơ đến thì tổ chức phản công. Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương tự mình là tướng, đem một đại quân khá lớn đến Trấn Biên để sẵn sàng chặn đứng lực lượng bộ binh của Tây Sơn. Lý Tài cùng với Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần chỉ huy quân sĩ giữ vững thành Gia Định để khi thủy binh Tây Sơn đã mệt mỏi với trận đánh thành cam go thì sẽ tung quân ra đánh trận quyết định. Các tướng cầm quân đóng giữ ở các địa phương thì phải chuẩn bị trong tư thế co thể đi ứng cứu bất cứ lúc nào. Xét về phương diện lý thuyết, đây là một kế hoach đối phó rất chắc chắn, khả năng thành công cũng rất cao. Tuy nhiê, điều mà quân Nguyễn không lường trước được là tài chỉ huy vừa táo bạo, thần tốc lại vừa biến hóa lạ lùng của Nguyễn Huệ. Diễn biến trận đánh vì thế mà rất nhanh.
    Trước hết, thủy binh do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy đã đánh thẳng một mạch từ Cần Giờ lên Gia Định và chẳng mấy chốc thì thành Gia Định thất thủ, Lý Tài phải bỏ cả Nguyễn Phúc Thuần mà chạy về Hocc Môn.
    Đạo quân do Nguyễn Phúc Dương chỉ huy, mới giáp chiến với Tây Sơn mấy trận ở Trấn Biên đã tỏ ra khó bề chống đỡ. Nguyễn Phúc Dương rút về Gia Định, tưởng để tăng cường sức mạnh cho Lý Tài, nhưng đến nơi thì Lý Tài đã bại trận, Nguyễn Phúc Dương phải cùng Nguyễn Phúc Thuần chạy ra Hóc Môn với Lý Tài.
    Sau khi chiếm được thành Gia Định, Nguyễn Huệ cho một đạo quân ra Hóc Môn để truy kích Lý Tài đến cùng. Lý Tài đang điên cuồng chống trả và tình thế chiến trận đang ở lúc rất gay go thì một viên tướng của chúa Nguyễn là Trương Phúc Thận đem quân tới cứu. Tuy nhiên, Lý Tài lại lầm tưởng đó là quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn nên đã vội chạy. Trương Phúc Thận tự thấy không đủ sức đối đầu với Tây Sơn nên dẫn Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương về Tranh Giang (nay thuộc tỉnh Tiền Giang).
    Quân tan, lực kiệt? không còn con đường nào khác, Lý Tài phải chạy về Ba Giồng là khu vực đóng quân của Đỗ Thanh Nhơn. Cơ hội trả thù của Đỗ Thanh Nhơn đã đến. Hắn cho quân đánh úp, bắt sống được Lý Tài đem về giết. Cuộc xung đột giữa Đỗ Thanh Nhơn với Lý Tài đến đây là chấm dứt và mâu thuẫn của tập đoàn họ Nguyễn cũng nhờ đó mà giảm dần. Bấy giờ, trong tôn thất họ Nguyễn có một nhân vật rất trẻ nhưng cũng rất đáng gờm là Nguyễn Ánh. Lúc này, Nguyễn Ánh đang dựa vào Đỗ Thanh Nhơn, khioến cho thế lực của Đỗ Thanh Nhơn phát triển rất nhanh. Tại Tranh Giang, tập đoàn họ Nguyễn quyết định một kế hoạch mới, theo đó thì:
    -Nguyễn Phúc Dương và tướng Trương Phúc Thận chỉ huy lực lượng đóng tại Tranh Giang
    -Nguyễn Phúc Thuần chỉ huy lực lượng đóng tại Tài Phụ (cũng thuộc tỉnh Tiền Giang bây giờ)
    -Nguyễn Ánh và Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy lực lượng đóng tại Giá Khê (nay thuộc tỉnh Kiên Giang)
    Ba cánh quân, ba vị trí, thuỷ bộ cùng phối hợp, sẵn sàng giao tranh với Tây Sơn và ứng cứu cho nhau khi cần? Một lần nữa, xét về mặt lý thuyết, đây là một kế hoạch rất chặt chẽ. Nhưng, cũng một lần nữa, kế hoạch của tập đoàn họ Nguyễn bị Nguyễn Huệ đập tan.
    Thuỷ quân Tây Sơn do đích thân Nguyễn Huệ cầm đầu đã đồng thời tấn công cả vào Tranh Giang và Tài Phụ. Chỉ với một trận đánh, Nguyễn Phúc Dương và Trương Phúc Thận đã đại bại, phải bỏ cả Tranh Giang chạy về Ba Việt (nay thuộc huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre). Cũng chỉ với một trận đánh, Nguyễn Phúc Thuần đã phải bỏ Tài Phụ mà chạy về Long Hưng (nay thuộc tỉnh Tiền Giang) rồi sau đó chạy về Cần Thơ. Thấy tình hình quá nguy cấp, tướng Đỗ Thanh Nhơn được lệnh lên đường quay trở ra vùng Bình Thuận để tìm cánh quân của Châu Văn Tiếp đáng ẩn náu tại đây. Gặp Đỗ Thanh Nhơn, Châu Văn Tiếp lập tức cùng thuộc tướng là Trần Văn Thức đem quân đi gấp vào Gia Định để ứng cứu. Nhưng, Châu Văn Tiếp chưa kịp đên Trấn Biên thì đã bị đánh cho tơi bời, tướng Trần Văn Thức bị tiêu diệt tại trận còn Châu Văn Tiếp thì may mắn thoát chết.
    Taih Ba Việt, Nguyễn Huệ cho quân kết hợp bao vây với tấn công tiêu diệt. Các tướng thân tín của Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương như Tôn Thất Chí, Nguyễn Mân và Tống Phước Hựu đều bị giết. Trong thế quẫn bách, Nguyễn Phúc dương định phá vòng vay chạy trốn nhưng ý định đó đã tan thành mây khói. Nguyễn Phúc Dương và 18 tướng lĩnh tuỳ tùng bị bắt sống, sau đó bị đưa về xử tử tại Gia ĐỊnh vào tháng 8 năm 1777. Tại Cần Thơ, nghe tin Nguyễn Phúc Dương bị bắt, Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần hoảng sợ, định theo kế của Mạc Thiên Tứ tìm đường chạy sang tạm lánh nạn ở Trung Quốc. Nhưng, khi đang chờ tàu ở Long Xuyên, Nguyễn Phúc Thuần cùng với toàn bộ tướng lĩnh đi theo hộ giá như Trương Phúc Thuận, Nguyễn Danh Khoáng, Nguyễn Phúc Đồng (anh ruột của Nguyễn Ánh)? đều bị bắt sống và đến tháng 9 năm 1777 thì bị xử tử tại Gia Định. Bấy giờ, tôn thát họ Nguyễn chỉ còn có Nguyễn Ánh là trốn thoát được (Theo Đại Nam thực lục và Đại Nam liệt truyện).
    Với cuộc tấn công vào Gia Định lần này, Nguyễn Huệ đã làm sụp đổ hoàn toàn cơ đồ thống trị của họ Nguyễn được tạo lập trước đó hơn hai trăm năm. Cùng với cuộc tấn công dũng mãnh này, Nguyễn Huệ đã giải phóng được một vùng đ ất rộng lớn, nhanh chóng tăng cường sức người và sức của, khiến cho Tây Sơn có thể vững vàng bước vào những trận chiến đấu mới.
    Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn Vương, Nguyễn Huệ nhờ những công lao xuất sắc trong hơn bảy năm chiến đấu, đặc biệt là ở trận Phú Yên (1775) và Gia Định (1777) nên đã được phong làm Long Nhương Tướng Quân.
    Còn tiếp
    ------------------------------------
    ?oLàm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành?
    Hồ Chí Minh
  10. candc

    candc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/08/2003
    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    0
    Hào khí Tây Sơn toả núi sông
    Anh hùng áo vải phất cờ hồng
    Cứu dân giữ nước, yên bờ cõi
    Sự nghiệp muôn năm đáng chữ đồng.
    Trường Chinh
    Proud to be a CSG fan!

Chia sẻ trang này