1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu nhà Tây Sơn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 10/06/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. traiquay

    traiquay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2003
    Bài viết:
    116
    Đã được thích:
    0
    Lâu lâu đăng nhập diễn đàn, Sử lễ đài lại xuất hiện thêm một chủ đề với nhiều ý kiến gây tranh cãi. Lần này là về Quang Trung, cũng là một vị vua, một danh tướng bách thắng, có tiếng anh hùng trong lịch sử.
    Khi lần đầu tiên đọc các bản viết của Nguyễn Gia Kiểng cách đây hơn 1 năm, tôi đã nhiều lần tự hỏi, tại sao tác giả lại có những luồng tư duy như thế, và để làm gì?
    Những nhân vật lịch sử cận hiện đại của Việt nam khi được nhắc đến thì thường được hoặc tô hồng, hoặc bôi đen, tuỳ theo quan điểm chính trị của người đối thoại. Nhưng với những nhân vật trong quá khứ, ít khi có ai bị cố tình bôi nhọ, bởi họ thuộc về một thời đã qua. Hơn nữa, tên tuổi thành danh của họ không phải tự nhiên mà có, ít ra, đó là những tên tuổi đã gắn với lịch sử Việt Nam.
    Nhưng lần này, theo cách nhìn của Nguyễn Gia Kiểng, người ta lại thấy có một tác giả bỏ rất nhiều công sức, để lật lại toàn bộ mọi vấn đề về nhân cách và tài năng của một nhân vật lịch sử. Mặc dù vậy, nghiêm túc mà đánh giá rằng, mặc dù đã bỏ nhiều công phu nhưng những lập luận của Nguyễn Gia Kiểng đã mắc phải những sai lầm hết sức sơ đẳng. Thứ nhất, ngay trong cách tiếp cận và phân tích vấn đề của Nguyễn Gia Kiểng, đã vi phạm nguyên tắc của những nhà viết sử, đó là sự suy luận quá nhiều mà lại ít biên niên sự kiện. Trong khi, vấn đề chính yếu của lịch sử, tồn tại không phải là bằng lời khen tiếng chê, mà là bằng các dữ kiện được ghi chép lại. Khi viết về Quang Trung, cách nhìn xuyên xuốt toàn bộ bản viết (tôi không muốn gọi đó là "tác phẩm") của Nguyễn Gia Kiểng là suy luận theo cảm tính của mình mỗi khi tìm được một chi tiết nào đó có thể phục vụ cho một luồng tư duy đã được hình thành sẵn có. Lối "phân tích" sai lầm này của Nguyễn Gia Kiểng là một trong những điều tối kỵ đối với những nhà nghiên cứu lịch sử. Và vì vậy, đã dẫn đến nhiều sai lầm khác trong toàn bộ bản viết của ông.
    Nguyễn Gia Kiểng đã bỏ công trích dẫn nhiều nguồn tài liệu, sử liệu khác nhau, của cả Việt Nam và Trung Quốc để làm minh chứng cho các lập luận của mình. Luồng tư duy định hình sẵn có của Nguyễn Gia Kiểng trong toàn bộ quá trình ấy là muốn lật lại toàn bộ vấn đề về con người Quang Trung. Cho nên không ngạc nhiên khi ông ta luôn chú ý tìm đến những chi tiết không có lợi từ các nguồn sử liệu đối với cuộc đời của vị anh hùng này. Mà những chi tiết đó thì không thiếu bởi bối cảnh lịch sử đầy đố kỵ mà triều Nguyễn đã có đối với nhà Tây Sơn, khi họ tìm mọi cách bôi đen triều đại này. Điều đó đã được thực hiện một cách có hệ thống trong hơn 200 năm tồn tại của Vương triều này cho đến khi bán nước vào tay người Pháp và bị phế truất thực sự bởi một chính phủ dân cử đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
    Tác phẩm lịch sử về thời Lê mạt, Trịnh Nguyễn phân tranh và Tây Sơn có giá trị cao nhất trong lịch sử Việt Nam là "Hoàng Lê Nhất Thống Chí". Nó được đánh giá rất cao, vì trước nhất, tác phẩm lịch sử này được viết ngay trong thời các sự kiện xảy ra, điều rất quan trọng đối với độ chính xác của các sử liệu; Thứ hai, dòng họ Ngô Thì tuy vẫn mắc phải một vài hạn chế là thái độ bảo hoàng của giới sỹ phu Bắc Hà, nhưng gia đình họ Ngô Thì đã có một cách đánh giá và ghi chép lịch sử rất khách quan. Mọi sự kiện và dữ kiện lớn xảy ra trong thời kỳ này đều được ghi chép, và khi đọc tác phẩm ấy, không thể nói rằng những nhà nho thâm sâu của họ Ngô Thì có chút thiện cảm lớn nào đối với phong trào khởi nghĩ nông dân của nhà Tây Sơn, vốn luôn được coi là phiến loạn trong đầu óc của mọi nhà Nho học thời đó. Tuy nhiên, tác phẩm này đã ghi lại một cách khá khách quan về những sự kiện xảy ra dưới thời Tây Sơn, bao gồm cả chiến thắng oanh liệt trước nhà Thanh. Công lao của vua Quang Trung và tài năng của ông được người sau biết đến nhiều nhất và trung thực nhất chính là từ tác phẩm này, một tác phẩm lịch sử mà chắc chắn rằng những tác giả của dòng họ Ngô Thì dòng dõi sỹ phu Bắc Hà vốn luôn coi triều Lê là chính thống. Chính vì vậy, mà ít ai nghi ngờ tính chính xác của tác phẩm này.
    Nguyễn Gia Kiểng khi trích dẫn về Quang Trung cũng không thể bỏ qua tác phẩm lớn này. Ông ta đã tìm được một vài chi tiết để chứng minh cho lý luận của mình về số quân ít ỏi của quân Thanh (chỉ vài nghìn) khi tiến sang Việt Nam. Điển hình là chi tiết về việc Quang Trung cho sử dụng 20 tấm phản khiêng, với 30 quân sỹ đi sau trong trận công đồn Ngọc Hồi, rồi làm một phép nhân đơn giản vua Quang Trung hạ thành chỉ với 600 binh lính. Quả thật nếu đọc đến đây thì dù những người sùng bái vị vua anh hùng nhất cũng phải kinh ngạc thấy rằng quả thực chiến thắng đó chắc hẳn chỉ là một trận bé thôi, chứ nếu không thì sao chỉ với 600 quân lại có thể chiếm một đồn binh quan trọng, do vài vại quân chiếm đóng. Người ta có thể nghi ngờ một cách có lý về số quân thực sự của nhà Thanh mang sang Việt Nam. Lập luận này của Nguyễn Gia Kiểng được coi là một lập luận "đắt" nhất trong toàn bộ bản viết của ông ta, vì nó được trích từ một tác phẩm lịch sử ai cũng công nhận chân giá trị. Tuy nhiên, ngay cái lập luận này cũng chứng tỏ Nguyễn Gia Kiểng ít hiểu biết về lịch sử, và ít hiểu biết về binh pháp. Cái đội 600 người nhỏ bé chỉ là đội tiên phong mở đường cho cả đại đội binh mã công thành. Thời Tây Sơn, pháo binh đã trở thành một loại hoả khí cực kỳ lợi hại, và người Trung Quốc, vốn là dân tộc đầu tiên nghĩ ra thuốc nổ từ vài nghìn năm trước ắt hẳn có rất nhiều thứ vũ khí này đặc biệt là trong phòng thủ. Vì vậy, việc dàn quân chiếm đồn không thể tập kết quân ở trong tầm bắn của pháo binh, mà chắc với trình độ kỹ thuật của thời kỳ ấy, tối đa vào khoảng 800 - 1200 m( Có lẽ cứ lôi mấy khẩu thần công trong Huế ra bắn thử rồi đo, thì sẽ có kết quả cụ thể). Quang Trung giỏi dụng binh, ông đã chế ra một loại thang công thành vô hiệu được sức mạnh của pháo binh - Những tấm phản lớn, hai lớp dầy chắc chắn, bọc dơm tẩm ướt để làm thang công đồn. Một phương pháp cực kỳ hiệu quả và an toàn cho quân sỹ mà chưa từng được áp dụng trước đó ( Các bạn có thể tham khảo Tôn Tử hoặc Ngô Khởi binh pháp, hoặc binh pháp Gia Cát hay mọi thứ binh pháp trước đó, có nhắc đến việc chế tạo đủ thứ chiến cụ công thành, phá luỹ nhưng chưa bao giờ có loại chiến cụ nào an toàn và hiệu quả như Quang Trung đã nghĩ ra). Đạo 600 quân tinh binh đó có thể an toàn tiếp cận đồn địch (một việc rất khó từ xưa đến nay khi công phá trại địch) và xông lên ồ ạt bởi những tấm phản lớn không phải là những chiếc thang nhỏ chỉ từng người leo lên được). Chắc hẳn ai cũng biết rằng với cấu tạo của tường thành, hoặc mặt luỹ, lợi hại trong phòng thủ là nhờ độ cao và thế hiểm, nhờ đó, một số ít người có thể chống chọi với một đạo quân đông hơn nhiều lần. Vì vậy, một đoạn tường thành tối đa cũng chỉ đứng được vài chục đến một hai trăm người. Vì vậy, khi có một đội quân dù ít, nhưng có thể đồng loạt xông lên thì chắc chắn khu vực đó sẽ bị áp chế. Sáu trăm tinh binh trên mặt luỹ là đủ để khống chế lực lượng phòng thủ tại mặt tường và làm rối loạn lực lượng pháo binh trên mặt đồn Ngọc Hồi. Khi đó ắt hẳn, Quang Trung mới tung đại quân ồ ạt xung sát, an toàn và chắc thắng hơn rất nhiều khi hoả khí đối phương đã bị áp chế. Chi tiết về 20 tấm phản gỗ dùng làm mộc và thang công đồn được ghi lại trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí ắt hẳn trước hết vì tính độc đáo của nó trong binh pháp công phá đồn địch, chứ không phải có dụng ý về số lượng quân tham chiến trong trận đánh. Nguyễn Gia Kiểng lầm tưởng (hoặc cố tình lầm???) rằng vua Quang Trung chỉ dùng có 600 quân để đánh đồn Ngọc Hồi. Lập luận sai lầm này đã đánh đổ mọi giá trị trong bản viết của Nguyễn Gia Kiểng, khiến công sức của ông ta vấp phải nhiều lời phê phán không thể bào chữa. Những chi tiết khác mà Nguyễn Gia Kiểng suy luận về số lượng quân của Tôn Sỹ Nghị, các mặt cá nhân của vua Quang trung đều không đáng được bàn đến vì nó quá cảm tính và dựa vào những nguồn thông tin rất ít giá trị.
    Tổ Quốc Ăn Năn, một trước tác của Nguyễn Gia Kiểng được rất nhiều người bình luận và phân tích. Đặc biệt, là những bản viết theo quan điểm trái chiều của ông ta về vua Quang Trung đã phải nhận những sự chỉ trích rất gay gắt của nhiều nhà nghiên cứu. Người ta đặt ra một câu hỏi, tại sao Nguyễn Gia Kiểng lại làm vậy và mục đích thực sự của ông ta là gì?
    Khi viết về vua Quang Trung, Nguyễn Gia Kiểng đã chủ tâm chọn một vấn đề ít liên quan đến chính trị hiện đại. Vì dù rằng người ta vẫn cho rằng Quang Trung được đề cao ở Việt Nam là vì đó là một cuộc khởi nghĩ nông dân đối với miền Bắc, còn ở miền Nam, do ông Diệm muốn lật đổ Bảo Đại nên cũng đề cao Quang Trung bởi đó chính là triều vua anh hùng đã không ít lần khiến tổ tiên Bảo Đại vỡ mật, thì dù sao, cũng có thể nói một cách có lý rằng Quang Trung là một lịch sử đã qua gần 300 năm, chưa đủ xa để người ta thấy các dữ kiện lịch sử đã quá xưa, nhưng chắc chắn cũng không đủ gần để có thể dính dáng đến bất cứ thứ gì trong đời sống chính trị hiện đại. Vì lựa chọn cho mình một đối tượng như thế, mục đích đầu tiên của Nguyễn Gia Kiểng là muốn những người sẽ đọc các bản viết của ông, phải trước hết tin rằng ông ta khách quan, không bị chính trị chi phối, và thực hiện với tinh thần của một nhà học thuật.
    Và khi đã tự lựa chọn cho mình một vị thế có lợi như vậy thì vấn đề tiếp theo đặt ra cho Nguyễn Gia Kiểng là phải viết cái gì. Ở đây, ắt hẳn các nhà phân tâm học theo trường phái của Freud có thể hiểu được sâu sắc diễn biến tư duy của Nguyễn Gia Kiểng. Ông ta không muốn viết theo cách mà lịch sử vẫn viết về Quang Trung, bởi như thế chắc chắn sẽ không mới và sẽ ít có người tìm đọc bản viết của ông ta. Trong tư duy của một nhân vật hải ngoại đứng tuổi như ông ta, luôn tồn tại một lối tư duy muốn xét lại các giá trị. Điều đó được hình thành từ lịch sử hiện đại của Việt Nam. Chính phủ mà trước đây Nguyễn Gia Kiểng là công dân thì đã sụp đổ. Người VN nào ở hải ngoại cũng đều biết rõ nguyên nhân, đó là vì chính phủ ấy bất tài, thối nát và không có chính nghĩa. Nhưng dẫu sao, đã từng là công dân của chính phủ ấy, thì nhiều Việt Kiều thế hệ thứ nhất, vẫn luôn giữ tư tưởng bênh vực quá khứ. Vì vậy đã diễn ra một sự mâu thuẫn trái chiều trong tư duy của lớp người này: Một mặt, họ vẫn tìm cách biện minh và ca ngợi cho chế độ cũ ở miền nam, mặt khác họ cũng luôn tự sỉ vả đủ thứ của cái chế độ âý, từ tổng thống cho đến binh lính là bất tài, thối nát và hèn nhát. Đó chính là một phần căn nguyên hình thành lên lối tư duy xét lại các giá trị niềm tin của Nguyễn Gia Kiểng. Thứ nữa, cũng tương tự như vậy, Nguyễn Gia Kiểng luôn muốn phản bác nhiều niềm tin của cộng đồng người Việt ở quê hương vẫn đang tin??? hoặc ít ra là đang luôn được cho tiếp cận qua mọi phương tiện đại chúng hàng ngày. Điều này nhạy cảm, cũng không nên bàn đến nhưng rõ ràng chính đó cũng là một lý do khiến ông ta luôn tìm cách đặt lại mọi giá trị bởi thực tế, ông ta sống với ít niềm tin đích thực.
    Với một tư duy hoài nghi và xét lại như thế, cộng thêm với đầu óc thực dụng, muốn trước tác của mình được nhiều người để mắt đến, Nguyễn Gia Kiểng bắt tay vào phân tích về thân thế và công nghiệp của Vua Quang Trung, theo một cái khuôn đặt sẵn ban đầu là phải lật lại hoàn toàn mọi khía cạnh về vị anh hùng này. Bản viết của ông ta không phải là muốn cung cấp thêm thông tin lịch sử cho người đọc, để làm sáng tỏ lịch sử (Điều quan trọng hàng đầu đối với những nhà học thuật và viết sử), mà muốn tìm chỗ này một chi tiết, tìm chỗ kia một thông số, vá víu lại với nhau bằng lối lập luận nửa mùa để ra một tấm áo chẳng giống ai và tìm cách khoác cho vua Quang Trung. Mọi thông tin và suy luận của Nguyễn Gia Kiểng, vì vậy ít có tính học thuật hơn hết và cũng ít khách quan hơn hết. Ở đây, ông ta ít thể hiện tinh thần nghiên cứu hơn bất cứ thứ gì khác.
    Dẫu sao thì cũng đã có quá nhiều bài phân tích của nhiều tác giả danh tiếng trong và ngoài nước đối với các lập luận của Nguyễn Gia Kiểng về vua Quang Trung. Các bạn có thể tìm đọc từ nhiều nguồn, ngay trên mạng (search To Quoc An Nan trong Google). Và Nguyễn Gia Kiểng đã đạt được một mục đích, đó là được nhiều người biết đến và không phải sách của ông ta không bán chạy . Nhưng đó chỉ là ở giai đoạn đầu tiên, và đáng buồn hơn, với thái độ rất ít khách quan và học thuật của mình khi nghiên cứu lịch sử, ông ta đã nổi tiếng nhưng là một sự nổi tiếng đáng buồn. Cũng như lịch sử đã từng có người đốt đền Nữ Thần Athena, một trong bảy kỳ quan, để tìm sự nổi tiếng. Được như ý nhưng ngàn đời phỉ nhổ.
    Dẫu sao thì tôi cũng không cho rằng mình có một thái độ thù ghét nào với Nguyễn Gia Kiểng, mong các bạn đừng lầm tưởng đến điều đó khi đọc những dòng viết của tôi trên đây, bởi tôi thậm chí chưa từng gặp mặt ông ta. Nhưng dẫu sao, muốn hiểu được tại sao ông ta lại viết về vua Quang Trung như vậy và giá trị các lập luận của ông ta được bao nhiêu, thì chắc cũng có thể làm sáng tỏ được đôi điều.
    Tôi mong các bạn sẽ có cái nhìn khách quan đối với những lập luận về vua Quang Trung của Nguyễn Gia Kiểng được trích dẫn trong chủ đề này.
    Khi người ta luôn chú ý tìm kiếm những chi tiết, thì không khó khăn gì không tìm ra được một đôi chỗ hợp với ý mình trong một tác phẩm lớn
    Được traiquay sửa chữa / chuyển vào 05:19 ngày 24/10/2003
  2. Margareta

    Margareta Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    25/01/2002
    Bài viết:
    155
    Đã được thích:
    0
    Thực ra việc mà Nguyễn Gia Kiểng làm cũng hơi giống điều mà Trần Mạnh Hảo đang làm ở trong nước, nghĩa là làm những kẻ đi đốt đền giống như người đốt đền nữ thần Artemis (không phải thần Athena- vị thần bảo hộ Athen).
    Tại sao họ lại muốn làm kẻ đốt đền và tại sao những kẻ đi đốt đền ấy lại được chú ý và thậm chí hỗ trợ, cổ vũ bởi không ít những người trí thức. Họ muốn nổi tiếng, điều đó đúng. Nhưng quan trọng hơn có lẽ là việc họ (và cả nhiều người khác) tin rằng sự sùng bài một cách vô điều kiện với các thánh thần cư ngụ trong những khu đền đó chính là căn nguyên của những sự suy đồi, sự trì trệ và tự mãn của quần chúng. Những bài viết của họ có tính học thuật rất thấp, lý lẽ nhiều chỗ chợ búa, chắp vá, tiểu tiết và không được giới học thuật quan tâm nhưng lại có những tác dụng xã hội lớn và đó chính là điều mà các tác giả này quan tâm.
    Xét cho cùng, tôi nghĩ điều này chưa hẳn đã là không tốt một khi nó có thể gợi cho chúng ta ít nhất một sự hoài nghi, để rồi phải tìm hiểu suy xét và đặt lại vấn đề đối với những niềm tin lười biếng của mình.
    Sometimes when we touchThe honesty's too muchAnd I have to close my eyes and hide
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ tư (năm 1782: 29 tuổi) cùng với Nguyễn Nhạc
    Sau khi hoàn thành xuất sắc cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ hai, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơ, giao vùng đất mới được giải phóng cho một số tướng lĩnh quả lí. Nhân cơ hội đó, Nguyễn Ánh lập tức nổi lên. Đất Gia Định chẳng mấy chốc đã bị Nguyễn Ánh chiếm lại. Lực lượng Tây Sơn ở Gia Định không chống đỡ nổi, đành phải cấp báo vè Quy Nhơn. Do chỗ nhận định rằng Nguyễn Ánh chỉ là một kẻ tuổi đời còn trẻ, năng lực chỉ huy và uy tín cũng chă cao, cho nên, Tây Sơn chỉ cử hai viên tướng là Tổng Đốc Chu (chưa rõ họ là gì) và Hộ Giá Phạm Ngạn, đem hai đạo quan thủy bộ nhỏ đi cứu nguy cho Gia Đinhk. Sau sáu tháng hành quân vất vả, Tổng Đốc Chu và Hộ Giá Phạm Ngạn mới tiến đựoc đến vùng Biên Hoà ngày nay. Các tướng của Tây Sơn chẳng nhưng khôgn cản nổi những cuộc phản công của Nguyễn Ánh mà còn bị đánh bật khỏi Gia Định, sau đó lại còn bị đánh bật khỏi Bình Thuận. Tình hình phía Nam trở nên rất nguy cấp.
    Tại Gia Định, lực lượng của Nguyễn Anh được tăng cường rất nhanh. Đầu năm 1781, Nguyễn Ánh đã có khoảng ba vạn quân thuỷ bộ (Đại Nam thực lục). Bấy giờ, sát cánh bên Nguyễn Ánh còn có năm tàu chiến (bọc đồng thì phải) với thuỷ thủ và vũ khí của phương Tây do viên sĩ quan người Pháp là Manuel chỉ huy. Từ Gia Định, Nguyễn Ánh liên tiếp chủ động tổ chức những cuộc tấn cồn vào Tây Sơn. Dã có lúc, quân Nguyễn Ánh tiến tới tận khu vực gần thành phó Nha Trang ngày nay.
    Tháng ba năm 1782, bộ chỉ huy Tây Sơn quyết đinh đưa đại quân vào Nam, đánh gục toàn bọ lượng lượng của quân Nguyễn. Bởi tính chất đặc biệt quan trọng của trận đánh này, đích thân hai lãnh tụ của Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Tương tự như ba lần tước, lần này, Tây Sơn cũng huy động cả bộ binh lẫn thuỷ binh, trong đó, thủy binh là lực lượng nòng cốt. Về phần minh, Nguyễn Ánh do đã biết được quyết tâm của Tây Sơn nên đã chủ động bố trí trận địa để đón đánh.
    Tại Cần Giờ, thủy binh của Nguyễ Ánh do tướng Tống Phước Thiêm chỉ huy, có khoảng 400 chiến thuyền (chưa kể 5 tàu chiến của phường Tây do Manuek câm fđầu), chuẩn bị thế trận sẵn ở khu vực sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang) với hy vọng chặn đứng thuỷ quân Tây Sơn để rồi sau đó là tùy cơ mà tổ chức phản công. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn sắp sẵn một đội chiến thuyền khác, do đích thân Nguyễn Ánh chỉ huy, có thể đến ứng cứu cho Tống Phước Thiêm bất cứ lúc nào. Bộ binh của Nguyễn Ánh thì tập trung chủ yéu ở khu vực thành Gia Định. Nơi đây, hệ thống đồn luỹ được tu bổ cẩn thận, khả năng phòng thủ rất cao.
    Về phía Tây Sơn, trận đánh quyết liệt đầu tiên là trận sông Ngã Bảy ở Cần Giờ. Trận này do đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy. Nhân lúc thuận chiều gió, Nguyễn Huệ đã cho dùng hoả công (Theo De La Bissachère và ghi chép của một số giáo sĩ phương Tây khác, phép hoả công trong thuỷ chiến của Tây Sơn khá đặc biệt. Đại để thì Tây Sơn dùng ống đựng chất dễ cháy, gặp chiến thuyền của đối phương thì châm lửa phóng vào. Chất này khi rơi xuống nước, nếu đã bén lửa thì vẫn có thể cháy(?) cho nên dùng nước để chống là không hiệu quả), khiến cho thuỷ quân Tống Phước Thiêm hoàn toàn bị bất ngờ về cách đánh đội ngũ rối loạn, chẳng mấy chốc đã bị đại bại. Nguyễn Ánh tới cứu cũng không sao xoay chuyển được tình thế, đành chuồn. Tàu chiến của Manuel bị vây chặt và sau đó bị thiêu trụi, Manuel chịu chết cháy.
    Tàn binh của Nguyễn Ánh và Tống Pưhớc Thiêm chạy về Gia Định, kết hợp với lực lượng bộ binh đang đóng tại đây để tính kế chống trả. Ở Gia Định, Nguyễn Ánh có ba căn cứ rất vững chắc. Một là thành Gia Định, hai là đòn bến Nghé và ba là đồn Thị Nghè giữ vai trò yểm trợ rất đắc lực cho thành Gia Định. Cả thành lẫn đồn đều được xây dựng rất kiên cố. Bấy giờ, thân cây dừa được dùng làm kè đỡ, súng lớn cũng không dễ gì phá huỷ được. Nhưng chỉ trong một trận giáp chiến, quân tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy cũng đã đánh bật được Nguyễn Ánh ra khỏi ba căn cứ kiên cố nói trên, Nguyễn Ánh phảu chạy về Ba Giồng. tại đây, chưa kịp củng cố đội ngũ để dối phó thì tin bại trận liên tiếp bay về và quân tây Sơn cũng đang ồ ạt tiến tới, cho nên Nguyễn Ánh lại phải chạy tiếp. Lần này, Nguyễn Ánh chỉ còn lại đúng 150 người bỏ Ba Giồng băng qua Hậu Giang, sang cả Chân Lạp, chạy lòng vòng khắp nơi.
    Trong khi một bộ phận quan trọng của Tây Sơn đang lo truy kích Nguyên Ánh thì một bộ phận khác của Tây Sơn lo đối phó với những đám tàn quân khác của Nguyễn Ánh. Bấy giờ, các tướng của Nguyễn Ánh như Tốn Thất Dụ, Trần Xuân Trạch, Trần Công Chương.. từ BìnhThuận cũng vội đem quân vào Gia Định. Sau các tướng nói trên, đến lượt Châu Văn Tiếp hùng hổ mang quân tới. Một trận ác chiến dã xảy ra tại khu vực cầu Tham Lương, Hộ Giá Phạm Ngạn của Tây Sơn bi tử trận nhưng phía đối phương, Tướng Hồ Công Siêu cũng bị giết. Thấy không thể chống đỡ nổi, lực lượng của Nguyễn Ánh do các tướng nói trên đã rút lui, tìm chõ náu mình ở đất Bình Thuận như trước đó.
    Mùa hè năm 1782, thấy tình hình Gia Định đã tương đối ổn định, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn, chỉ để lại tướng Đỗ Nhàn Trập cùng với va ngàn quân ở lại trông coi Gia Định thôi.
    Trận tấn công vào Gia Định năm 1782 là trận đầu tiên Nguyễn Huệ chỉ huy quân đội đánh và thế trận đã bố trí sẵn của đối phương, cả ở dưới nước lẫn trên bộ. Xét từ mọi phương diện khác nhau, thế trận của Nguyễn Ánh là thế trận rất vững chắc. bên cạnh lực lượng khá hùng hậu của mình, Nguyễn Ánh còn được sự hỗ tợ đắc lực của các chiến thuyền phương Tây. Tuy số lượng các chiến thuyền phương Tây không nhiều nhưng vị trí và ảnh hưởng đối với tận tânlại rất lớn. Nếu Tây Sơn phả hành quân xa hàng trăm cây số tới thì ngược lại, Nguyễn Ánh gần như chỉ sắp đặt mọi việc tại chỗ. Tóm lại là vè lý thuyết, khả năng giành chiến thắng của Nguyễn Ánh cao hơn. Nhưng thực tiễn sinh động của cuộc tấn công năm 1782 cho thấy Nguyễn Huệ đã làm được những việc ngỡ như không thể làm được. Nghệ thuật đánh đánh, thắng nhanh được Nguyễn Huệ thực hiện với một trình độ rất cao. Các tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc vủa Nguyễn Ánh rồi cả đến bản thân Nguyễn Ánh phải kinh ngạc và hoang sợ đã đành, ngay cả sĩ quan chỉ huy chiến thuyền người phương Tây như manuel cũng phải bó tay chịu chết. Chỗ dựa chủ yếu của Nguyễn Huệ không phải là vũ klhí hay điều kiện thuận lợi của thời tiết và địa hình mà trước hết và cao nhất vẫn là con người. Nếu năm được thế mạnh riêng của từng tướng lĩnh, của từng đạo quân và sử dụng được phát huy cao độ được những thế mạnh riêng đó, thfi nhất định sẽ nắm phần thắng trong tay.
    Trong cuộc tấn công vào Gia Định năm 1782, bên cạnh Nguyễn Huệ, bộ chỉ huy Tây Sơn còn có một nhân vật rất quan trọng khác, đó là Nguyễn Nhạc. Với cương vị là Hoàng Đế, hẳn nhiên, tiến nói của Nguyễn Nhạc có ý nghĩa quyết định. Nhưng, xét diễn biến cụ thể của toàn bộ cuộc tấn công, vài trò của Nguyễn Huệ luôn luôn nổi lên hàng đầu. Những trận giáp chiến quan tọng nhất diễn ra tại sông Ngã Bảy, tại thành Gia ĐỊnh, đồn Bến Nghé, đồn Thị Nghè và tại khu vực Tiền Giang ngày nay đều do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Sử cũ thực sự có lí khi hầu như chỉ nhắc riêng tên Nguyễn Huệ trong đoạn chép về năm này.
    Còn tiếp
    -------------------------------------------------------
    "Làm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành"[/size=2]
    Hồ Chí Minh
  4. NewGod

    NewGod Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    0
    Các bác hải ngoại không phải là người Việt Nam nữa nhưng không chối được máu đỏ da vàng Việt Nam nên có xu hướng đồng hóa "Việt Nam" thành "CS Việt Nam" , "người Việt" thành "*********" . Do đó mà cứ cái gì tốt đẹp của Việt Nam và cái gì do người Việt Nam nói ra thì tìm mọi cách phủ nhận .
    Giả sử như ta không ca ngợi sự thật về một vị anh hùng dân tộc thiên tài quân sự Nguyễn Huệ đi nữa mà rộ lên phong trào ca ngợi Đức Thánh Trần Hưng Đạo thì tớ bảo đảm sẽ có bác hải ngoại cất công ra "chứng minh" rằng quân Mông Cổ đánh Việt Nam chỉ cho vui , đưa vài nghìn thằng dân thiểu số Đại Lý qua cướp bóc nên mới bị oánh tan chứ thật mà nó lôi ra vài chục vạn (300,000 và 500,000) thì nhà Trần lấy đâu ra cho đủ lính mà đánh (cùng lập luận với việc Nguyễn Huệ ở đây)
    Ngay cả những gì hết sức vô tư không chủ nghĩa , không chính trị nhưng vì là do "VC nói" và là của "CS VN" nên các bác hải ngoại cũng sẽ không tha . Bác nào không tin cứ vào mấy forums hải ngoại post ảnh thiên nhiên Quê Huơng Việt nam tươi đẹp xem các bác ấy có nhảy đong đỏng lên như gà mắc tóc mà lại chẳng vào hằn học phá thối bêu xấu ra đấy chứ !
    (vào forums www.datviet.com , mục Thảo Luận Chính Trị , box Diển Đàn "Dân chủ", topic "Đất Việt mến yêu" để xem sự thật này )
  5. nameno

    nameno Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/09/2003
    Bài viết:
    467
    Đã được thích:
    0
    Cách bình của Newgod hơi cực đoan và dễ gây chia rẽ. Mỗi người có thiên kiến khác nhau, nhưng điều quan trọng đối với Sử Lễ đài của TTVN là mọi thành viên tham gia đều được hoan nghênh, với điều kiện phải có hiểu biết và lý luận sắc bén, trung thực. Bất cứ lập luận nào, đến từ đâu và phía nào nếu sai trái thì đều sẽ bị đả phá một cách thuyết phục bởi các bậc "dị nhân" của diễn đàn. Đã có không ít ví dụ về điều này ở Sử lễ đài.
    Có lẽ Newgod không cần phải bình luận về phái "hải ngoại" một cách quá nặng về cảm tính thế chăng. Bạn hãy cứ dùng các lập luận logic, dẫn chứng chặt chẽ, chi tiết là hơn, không nên quá cảm tính phát biểu về người Việt ở nước ngoài như vậy, bởi trong họ cũng không ít người nặng lòng với dân tộc và có cái nhìn rất tiến bộ (Đọc chủ đề - Cái nhìn về một người Việt Nam tiêu biểu định cư ở nước ngoài)
  6. NewGod

    NewGod Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    0
    Lần này tớ nói chưa đầy đủ . Chính xác là các bác lưu vong ********* bất mãn ở hải ngoại chứ không phải bà con hải ngoại (bởi vì tớ chẳng là dân hải ngoại sống ở Nhật gần chục năm rồi còn gì nữa ) . Các bác này thành lập 1 đảng không chính thức được tớ gọi là gọi là đảng Loa To lũng đoạn thông tin ở hải ngoại . Nhiều khi nói tắt nên gọi là "các bác hải ngoại" ấy mà Đa phần bà con hải ngoại không quan tâm chính trị nhiều lắm mà chỉ lo làm ăn . Riêng các bác đảng Loa thì nhan nhản trên internet cho nên tớ gọi vậy cho gọn
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Phần tiếp theo:
    Tổng chỉ huy lực lượng Tây Sơn tấn công vào Gia Định lần thứ năm (năm 1783: 30 tuổi)
    Nguyễn Nhạc và Nguyễn vừa rút về Quy Nhơn thì lập tức, tình hình Gia Định biến đổi nhanh chóng, theo chiều hướng ngày càng bất lợi cho Tây Sơn. Trước hết, tại Long Hồ, một viên tướng của Nguyễn Ánh là Hồ văn Lân (người huyện Kiến Đăng, nay thuộc tỉnh Tiền Giang) đã tập hợp được mộy số quân lính, bất ngờ tấn công và chiếm lại được Long Hồ. Ngay sau chiến thắng này của Hồ Văn Lân, các tướng khác của Nguyễn Ánh như Dương Công Trừng và Nguyễn Văn Quý cũng đem quân về Long Hồ để hỗ trợ Hồ Văn Lân, khiến cho thanh thế của lực lượng ủng hộ Nguyễn Ánh ở đây tăng lên rất nhanh. Từ Long Hồ, một loạt những trận phản công lớn nhỏ được tổ chức. Quân Tây Sơn mặc dù rất cố gắng nhưng vẫn không chống đỡ nổi, đành bỏ thành mà chạy. Vùng đất tương ứng với Long An ngày nay trở về phía Nam, dần dần nằm trong tay của nhóm tướng Lĩnh Hồ Văn Lân. Tin này chằng mấy chốc vang đi khắp nơi.
    Tại Bình Thuận, Châu Văn Tiếp cũng nhận thấy quân đội Tây Sơn ở Gia Định lúng túng bèn tới tấp đánh vào Nam. Lần này, Châu Văn Tiếp có vẻ rất tự tin, giương cao ngọn cờ Lương sơn tá quốc (quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước) mà tiến. Bấy giờ, quân Tây Sơn tại Gia Định do Đỗ Nhàn Trập chỉ huy chỉ có ba ngàn người mà phải phân tán đi đóng giữ tại nhiều đồn luỹ khác nhau. Vì thế, khả năng chống đã ở từng đồn luỹ rất thấp. Châu Văn Tiếp cùng các tướng dưới quyền như Tôn Thất Mân, Phạm Văn Sĩ, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Long, Phan Viện? chia quân dồn dập đánh vào Gia Định. Đỗ Nhàn Trập không sao cầm cự nổi, đành phải chạy về Quy Nhơn.
    Cũng có thể nói, Đỗ Nhàn Trập đã sai lầm khi dàn mỏng lực lượng vốn dĩ rất ít của mình trên nhiều địa bàn khác nhau. Tuy nhiên, ở một góc độ khác, chúng ta cũng có thể nói rằng, Đỗ Nhàn Trập thật khó mà chọn lựa cho mình một phương án nào khác. Sai lầm của tướng Đỗ Nhàn Trập chừng như lại bắt đầu từ bộ chỉ huy Tây Sơn khi đánh giá về vị trí của đất Gia Định. Tây Sơn đã tập trung quân quá đông ở những nơi không phải là có vị trí chiến lược lượng quan trọng. Nguyễn Ánh và tướng lĩnh dưới quyền đã triệt để lợi dụng sơ hở này và do đó đã dễ dàng chiếm lại Gia Định sau những phen đại bại thảm hại đến độ ngỡ như khó mà ngóc đầu lên được nữa.
    Tai Gia Định, một lần nữa, Nguyễn Ánh lại gấp rút xây dựng hệ thống đồn luỹ trên cả một tuyến dài từ vùng tương ứng với Long An cho đến thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Đồn luỹ cũ được tu bổ và nâng cấp, thành luỹ mới được xây đắp. Bộ binh và thuỷ binh liên lạc chặt chẽ và sẵn sàng ứng cứu cho nhau. Khí thế của tập đoàn Nguyễn Ánh lại một lần nữa trở nên rất hưng thịnh.
    Đứng trước tình hình đó, Bộ chỉ huy Tây Sơn lại quyết định tổ chức cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ năm. Lần này, quân Tây Sơn đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Lực lượng tham chiến của Tây Sơn gồm chủ yếu là thủy binh. Tháng hai năm 1783, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ bắt đâu cho quân rời Quy Nhơn tiến vào Nam, mở đầu cuộc tấn công lớn vào Nguyễn Ánh.
    Cuộc giáp chiến đầu tiên diễn ra tại Cần Giờ. Cũng như tất cả các trận trước, Nguyễn Huệ đã triệt để lợi dụng thuỷ triều và gió, khiến cho sức mạnh của thuỷ binh Tây Sơn được nhân lên gấp bội. Chỉ trong một trân chớp nhoáng, phòng tuyến kiên cố của Nguyễn Ánh tại Cần Giờ bị phá tan hoang. Ngay sau đó, Nguyễn Huệ chia quân làm hai đạo, đánh từ hai hướng khác nhau.
    Đạo thứ nhất tiến xuống Thảo Câu (Vàm Cỏ), giao cho Đô Đốc Lê Văn Kế chỉ huy. Đạo thứ hai đánh thẳng vào Gia Định, giao cho Tư Khấu Nguyễn Văn Kim chỉ huy. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chịu trách nhiệm điều khiển chung.
    Tại Thảo Câu, thủy quân Nguyên Ánh đã chuẩn bị sẵn một trận hoả công rất lợi hại. Nhưng theo đúng lời dặn của Nguyên Huệ, Đô Đốc Lê Văn Kế chờ cho đến lúc thuỷ triều lên nhanh và gió bắt đầu thuận chiều mới đánh. Lửa hoả công của quân Nguyễn Ánh thay vì thiêu cháy chiến thuyền của Tây Sơn thì đã thiêu cháy ngay chính chiến thuyền của mình. Đô Đốc Lê Văn Kế nhân đó đã thúc quân đánh tới tấp. lực lượng thủy quân của Nguyễn Ánh ở Thảo Câu nhanh chóng bị tan rã. Tướng chỉ huy quân Nguyễn ở Thảo Câu là Dương Công Trừng bị bắt, toàn bộ quân sĩ của Nguyễn Ánh đóng tại đây đều xin hàng. Theo Đại nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyền 13) cho biết, Dương Công Trừng bị bắt hai lần và đến lần thứ hai thì bị giết.
    Tai Gia Định, số phận của lực lượng quân Nguyễn cũng bi đát không kém, Tướng chỉ huy quân Nguyễn ở đây là Tôn Thất Mân cùng hàng loạt thuộc tướng và quân sĩ phải chịu chết,
    Sau hai trận đại bại nói trên, Nguyễn Ánh buộc phải bỏ Gia Định, dắt díu thân nhân chạy trốn. Bấy giờ, Nguyễn Ánh chỉ còn độ dăm sáu tướng cùng với một trăm quân sĩ tùy tùng mà thôi. Nhưng, chỉ mấy ngày sau, đám tàn quân của Nguyễn Ánh đã tập trung ở Ba Giồng và lại tính kế để đánh trả Tây Sơn.
    Quyết không cho Nguyễn Ánh kịp ra tay, Nguyễn Huệ đã trực tiếp cầm quân tới đánh. Lần này, Nguyễn Huệ cho cả tượng binh tham chiến. Một lần nữa, Nguyễn Ánh đại bại, các tướng như Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Kim Phẩm đều bị bắt, Nguyễn Đình Thuyên, Nguyễn văn Quý, Trần Đại Huề? thì bị giết tại trận.
    Từ đây, một cuộc truy đổi ráo riết của quân Tây Sơn đối với Nguyễn Ánh bắt đầu. Nguyễn Ánh phải chạy khắp nơi và chịu thêm nhiều thiệt hại năng nề nữa. Có thể tóm tắt lại như sau:
    -Sau nhiều ngày chạy lòng vòng trong khu vực thuộc Tiền Giang ngày nay, Nguyễn Ánh thấy không thể bám lại được, bèn chạy ra cửa biển Ba Thắc để tìm gặp Bá Đá Lộc. Nhưng trước đó, Bá Đá Lộc đã đến Mạc Băc, cùng với giáo sĩ Liot, giáo sĩ Castuera và giáo sĩ Ginestar chạy trốn. Tám ngày sau, Nguyễn Ánh cũng đuỏi kịp nhưng các giáo sĩ nói trên không dám ở chung với Nguyễn Ánh vì sợ liên luỵ nên lại trốn đi nơi khác.
    -Nguyễn Ánh hoảng hốt chạy ra Hà Tiên rồi sau đó là nương thân tại Đảo Phú Quốc. Tướng Phan Tiến Thận được Nguyễn Huệ sai cầm quân đi truy kích. Trong trận giáp chiến tại Phú Quốc, một loạt các tướng của Nguyễn Ánh như Tôn Thất Cốc, Tôn Thất Điến (tức là Tôn Thất Chương), Chưởng Cơ Hoảng (chưa rõ họ)? bị bắt. Nguyễn Ánh may được Lê Phúc Điển đổi áo để đánh lừa quân Tây Sơn nên mới thoát chết mà chạy trốn đựoc.
    -Sau khi được Lê Phúc Điển đổi áo, Nguyễn Ánh chạy ra đảo Cổ Long nhưng chưa hoàn hồn đẫ bị tướng của Tây Sơn là Trương Văn Đa đem quân tới truy kích. Khi ấy, bỗng dưng gió bão nổi lên, Trương Văn Đa khôg thể tiếp tục cuộc truy kích, còn tàn quân của Nguyễn Ánh thì liều chết vượt gío bão để về đảo Cổ Cốt và sau đó lại về đảo Phú Quốc.
    -Tại Phú Quốc, do bị cạn lượng, tàn quân Nguyễn Ánh lại quyết chí đi tìm nơi nương thân khác. Chẳng dè, vừa xuất đầu lộ diện đã bị quân Tấy Sơn vây đánh tới tấp. Không còn con đường nào khác, Nguyễn Ánh phải chạy thẳng ra ngoài khơi, lênh đênh trên biển bảy ngày bảy đêm mới lui về đựoc Phú Quốc.
    -Thấy Phú Quốc không phải là đất dung than, Nguyễn Ánh lại bí mật quay về Long Xuyên, nhưng chưa đến được Long Xuyên thì đã bị tướng của Nguyễn Huệ là Nguyễn Hóa chặn đánh quyết liệt. Nguyễn Ánh chạy ra Hòn Chông và sau đó lại chạy đến đảo Thổ Châu, cách đất liền hơn 200 km. Cuối cùng, Nguyễn Ánh đã chạy sang cầu cứu Xiêm La.
    Đến đây, những nhiệm vụ chủ yếu đặt ra cho cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ năm đã hoàn thành. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ rút quân vè Quy Nhơn, việc coi giữ đất Gia Định đựoc giao cho tướng Trương Văn Đa đảm trách. Đánh giá về Nguyễn Huệ trong và sau cuộc tấn công này, một học giả phương Tây là Legrand de la Liraye viết:
    ?oBằng việc giải phóng đất Gia Định, Long Nhương Tướng quân đã hoàn toàn làm chủ được cả xứ Đàng Trong. Ông không phải chỉ là tướng giỏi cầm quân mà còn là một nhà chính trị xuất sắc, tức là khác hẳn với những vị tướng mà trước đó Nguyễn Nhạc đã cử vào. Ông nắm được cả vùng Gia ĐỊnh trong tay bằng những đồn luỹ nằm án ngữ khắp các nẻo thuỷ bộ với một kỉ luật nghiêm minh và một lòng nhân từ với nhân dân?.
    Thực tiễn sinh động của cuộc tấn công vào Gia Đinh lần thứ năm đã chứng tỏ rằng, Nguyễn Huệ là người vừa rất có tài quyết đoan lại vừa biết triệt để tận dụng những yếu tố thuận lợi của thời tiết và chế độ thuỷ văn, khiến cho cả thế và lực của quân đội Tây Sơn trong từng trận đánh cụ thể được tăng lên găp bội. Do liên tiếp bị đại bại thảm hại, trong bước đường cùng, Nguyễn Ánh đã phải chạy sang cầu cứu Xiêm, tức là đã phản quốc rùi.
    Còn tiếp
    ---------------------------
    ?oLàm cho dân có ăn
    Làm cho dân có m ặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành?
    Hồ Chí Minh
  8. Quake3games

    Quake3games Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    26/03/2003
    Bài viết:
    344
    Đã được thích:
    0
    SU_35.

    Trận đánh thắng lớn trong lịch sử Việt Nam ta đối bọn xâm lăng và bán nước.
    Hôm nay tôi cũng gõ một bài viết về một trận thắng lớn trong lịch sử mà nhân dân và quân đội ta ( quân Tây Sơn ) đã chiến thắng bọn xâm lăng, can thiệp Xiêm và bọn phản tặc Nguyễn Ánh. Điều đáng buồn là hành vi mất dạy ?zRước voi về giày mồ?o của Nguyễn Ánh sau 2 thế kỉ lại có bọn học trò giỏi hơn là Nguyễn Văn Thiệu và bậu sậu nguỵ Sài Gòn .
    Trận Rạch Gầm - Xoài Mút.
    Trong lịch sử chiến tranh giữa Việt Nam và Thái Lan, quân đội VN và Thái đã có nhiều lần giao tranh, gần đây nhất là cuộc chiến chống Mĩ và ở biên giới Campuchia. Tuy nhiên theo tôi trận thắng lớn, nhanh , qui mô nhất của quân ta với quân Thái Lan có lẽ là trận Rạch gầm - Xoài Mút diễn ra vào thời Tây Sơn.
    Sau khi bị Nguyễn Huệ đánh cho thua toé khói, 2/1784: Nguyễn Ánh chạy theo bọn Chu Văn Tiếp sang Xiêm để cầu cứu vua Xiêm, thực hiện hành vi hèn mạt, thô bỉ, vô liêm sỉ vì lợi ích riêng?z Cõng rắn cắn gà nhà?o. Muốn nhân dịp này gây ân huệ với Ánh để giành quyền khống chế Chân Lạp và xâm lấn một phần đất đai Gia Định , vua Xiêm nhận lời cho quân giúp bọn Ánh về đánh nhau với quân Tây Sơn.
    Năm 1784: Vua Xiêm cử 2 tướng là Chiêu Tăng và Chiêu Sương đem 2 vạn quân với 300 thuyền cùng với bọn phản tặc Nguyễn Ánh , Chu Văn Tiếp đổ bộ lên đất Gia Định. Trước đó xua Xiêm phái Chiêu Thuỳ Biên đem 3 vạn quân sang đóng ở Chân Lạp rồi từ đó tiến xuống cùng phối hợp tấn công quân Tây Sơn ở Gia Định.
    Trang bị của quân Xiêm thời bấy giờ căn bản không khác gì quân đội PK VN, Tàu và các nước phương Đông khác. Giữa thế kỉ 18 để đẩy mạnh âm mưu xâm lược Chân Lạp, phong kiến Xiêm mua nhiều vũ khí của phương Tây để trang bị cho quân đội, thuyền chiến đi biển của Xiêm được trang bị cũng khá đầy đủ. Nước Xiêm cũng có khá nhiều sông ngòi nên thuỷ quân có điều kiện phát triển khá mạnh. Trong lục quân thì có bộ binh và tượng binh là chủ yếu, qua những cuộc chiến tranh với Miến Điện, bộ binh và tượng binh Xiêm tỏ ra khá thông thạo trong tác chiến rừng núi.
    Trước đó quân Xiêm đã nhiều lần tác chiến với nhà Nguyễn trên các địa hình sông ngòi miền Nam nước ta và ở Chân Lạp , nhưng lần này là lần đầu tiên chúng chạm trán với quân đội Tây Sơn hùng mạnh của VN.
    Tháng 7 năm Giáp Thìn (1784) quân Xiêm - Nguyễn đổ bộ lên Rạch Giá, chiếm giữ khu vực này làm đầu cầu chiến lược, vừa thuận tiện cho việc cung cấp , vừa thuận tiện cho việc phát triển hoặc rút chạy. Tuy nhiên quân Xiêm - Nguyễn tiến triển cũng rất chậm. Trong vòng hơn 3 tháng quân Xiêm - Nguyễn mới tiến được lên Cần Thơ , chiếm giữ luôn mấy đồn Ba Xác, Trà Ôn , Sa Đéc.
    Sau vài thắng lợi ban đầu, quân Xiêm sinh kiêu căng, khinh mạn, không nghĩ gì đến chiến đấu, chỉ chuyên đàn áp nhân dân, giết người ( khoản này giống lính Mẽo trong chiến tranh VN quá )cướp của vô cùng tàn bạo, bọn tướng Xiêm liên tiếp cho thuyền chở của cải, vàng bạc và con gái bắt được về nước, nhân dân Nam bộ vô cùng căm ghét quân Xiêm và càng thấy rõ bộ mặt phản bội , phản tặc , hèn hạ, đê tiện, mất dạy của Nguyễn Ánh.
    Trong lúc đó tướng TS là Trương Văn Đa đem thuỷ quân từ Gia Định tiến xuống Long Hồ để chống nhau với quân Xiêm - Nguyễn. Với lực lựợng hết sức chênh lệch, khoảng vài nghìn quân TS chống hàng vạn quân Xiêm - Nguyễn, cuộc chiến đấu của quân TS hết sức khó khăn. 30/11/1784. Bọn Ánh , Tiếp đem thuỷ quân tiến theo sông Mang Thít để đánh quân TS. Quân TS đã chiến đấu rất quyết liệt, dũng cảm, Chu Văn Tiếp nhảy sang thuyền TS đánh phá liền bị quân TS đâm chết, Ánh vội đem quân tới cứu viện, tướng TS Trương Văn Đa thu quân về Long Hồ.
    Sau trận Mang Thít, tướng Nguyễn là Lê Văn Quân đánh úp đồn Ba Lai và đồn Trà Tân rồi lại rút về. Trong trận này tướng hà Nguyễn là chưởng cơ Đặng Văn Lượng chết trận. Quân TS vừa cầm cự vừa rút lui nhưng vẫn giữ vững thành Gia Định và Mĩ Tho.
    Được tin quân Xiêm đang hoành hành ở Gia Định, các thủ lĩnh của Tây Sơn quyết định tổ chức phản công. Nguyễn Huệ đuợc cử làm chỉ huy cuộc phản công này.
    Khoảng đầu tháng 1 năm 1785, thuỷ quân TS tiến vào đóng ở Mĩ Tho, lúc đó quân Xiêm - Nguyễn đóng ở Sa Đéc đang chuẩn bị đánh thành Mĩ Tho và Gia Định. Sau khi nắm vững tình hình, Nguyễn Huệ quyết định chọn khúc sông Mĩ Tho từ Rạch Gầm đến Xoài Mút làm trận địa quyết chiến với giặc. Ông không chủ trương đánh thẳng vào đại bản doanh của địch ở Sa Đéc vì quân địch không phân tán mà vẫn tập trung toàn bộ tại Sa Đéc, hàng vạn quân Xiêm - Nguyễn cũng là một lực lượng khá lớn, không thể đánh thắng dễ dàng. Hơn nữa địa điểm Sa Đéc có uu thế về dòng sông (đầu đoạn sông Tiền Giang đổ ra biển), giúp cho tốc độ cơ động, triển khai của quân Xiêm được tăng cường, đó là điều bất lợi với quân Tây Sơn. Cho nên Nguyễn Huệ quyết định kéo địch ra khỏi căn cứ đưa chúng đến khu vực sông và địa hình có lợi nhất cho mình, bất ngờ cho địch để tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch.
    Với đoạn sông Mĩ Tho từ Rạch gầm đến Xoài Mút, dài chừng 6,7 km . Trong đoạn sông này lòng sông mở rộng thuận tiện cho việc dồn mấy trăm chiến thuyền địch tập trung vào đó để công kích.tại đây thuỷ quân TS được giấu kín trong các sông nhỏ: rạch Gầm và rạch Xoài Mút và giấu sau cù lao Thới Sơn. Pháo binh TS phục ở 2 bên bờ sông và trên cù lao Thới Sơn.
    Sau khi đã bố trí mai phục xong, Nguyễn Huệ cho quân tới khiêu chiến tại căn cứ Sa Đéc, thực hiện ý định kéo địch ra khỏi căn cứ, đưa toàn bộ thuỷ quân Xiêm Nguyễn đến đoạn đến đoạn sông quyết chiến để tiêu diệt.
    Các tướng Xiêm chủ quan, lại cậy có ưu thế về quân số, đuổi theo quân TS khiêu chiến và toàn bộ thuyền chiến Xiêm - Nguyễn đã lọt vàođoạn sông Rạch Gầm - Xoài Mút.
    Khi quân địch lọt vào trận địa phục kích, Nguyễn Huệ ra lệnh tấn công. Quân thuỷ , bộ TS giáp công với khí thế vô cùng mãnh liệt, thuyền chiến TS vun vút lao ra đánh chặn đầu , khoá đuôi đoàn thuyền địch, pháo binh TS gầm lên ,bắn phá xối xả, mãnh liệt, dữ dội vào đoàn thuyền bọn xâm lăng và bán nước, đánh đắm, đánh chìm, phá huỷ hết chiếc tàu này đến tàu khác. Hàng vạn quân Xiêm - Nguyễn bỏ xác taị trận, bọn quân Xiêm sống sót chỉ còn vài nghìn, trốn lên bộ chạy thoát, lách rừng vượt núi qua Chân Lạp về Xiêm. Quân của bọn Nguyễn Ánh có vài nghìn cũng hoàn toàn tan rã hoàn toàn. Bọn tướng Nguyễn bỏ chạy thoát thân mỗi đứa một ngả, Ánh phải bỏ thuyền cùng với 12 tên quân lủi thủi chạy đến Đồng Vân, rồi chạy đến Cần Thơ.
    Như vậy là trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút hàng vạn quân Xiêm đã bị giết chết. Sau trận này ?z Người Xiêm sau trận thua năm Giáp Thìn ngoài miệng tuy nói khoác, nhưng trong bụng thì sợ quân Tây Sơn như cọp?o
    Bọn Ánh từ khi bỏ chạy vẫn không được yên thân vì bị quân Tây Sơn truy bắt, từ Đồng Vân trở đi Ánh không còn sức chạy bộ nữa, một tuỳ tướng là Nguyễn Văn Trị cõng y chạy ra Thi Giang, sau đó Ánh cùng tàn quân, tướng chạy ra HÀ Tiên và tạm trú ở Cồn Khơi, sau đó chạy ra đảo Thổ Châu. Sống tại đây, bọn chủ tớ Ánh đói quá phải xoay ra làm cướp biển, có lần Nguyễn Văn Thành đi ăn cướp bị thuyền buôn đánh cho trọng thương. Dưới sự truy kích gay gắt của quân TS, bọn Ánh phải chạy đến đảo Cổ Cốt, sau đó chạy sang Xiêm, ở đó bọn chúng quay ra làm ruộng, khẩn hoang, đốn củi để nuôi nhau.
    Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút có ý nghĩa hết sức to lớn. Quân Tây Sơn không những tỏ ra mạnh hơn hẳn quân Ánh mà còn hơn hẳn quân đội Xiêm, không những đủ sức tiêu diệt từng đoàn bộ binh lớn mà còn đủ sức tiêu diệt từng đoàn thuỷ quân mạnh. Chiến thắng này là một trong những chiến thắng oanh liệt chống ngoại xâm của dân tộc ta. Với thắng lợi này cuộc khởi nghĩa Tây Sơn mang thêm tính chất dân tộc, nêu cao ý chí chống ngoại xâm bất khuất của dân tộc ta.
    Chỉ có súc vật mới ghen tị,tức tối và luôn tìm cách chế giễu, bôi nhọ trước sự phát triển của Quê hương.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Em có tài liệu nói hơi khác bác Quake3games một tí ạ!
    Tổng chỉ huy trận quyết chiến chiến lược ở Rạch Gầm-Xoài Mút (năm 1785: 32 tuổi)
    Đảo qua tí về quân Xiêm
    Khi Tây Sơn liên tiếp tổ chức những cuộc tấn công vào Gia Định thì ở Xiêm , tình hình chung cũng rất bi đát. Bấy giờ, quân Miến Điện liên tiếp tấn công Xiêm và giai cấp thống trị của Xiêm đã tỏ ra nhạc nhược, không đủ tinh thần và ý chí, lại càng không đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo sự nghiệp chống xâm lược. Quân Miến Điện đã chiém được kinh đô của Xiêm, lúc đó là Ayuthaya và tàn phá đất Xiêm một cách khủng khiếp.
    Trước hiểm họa đó, người Xiêm và những kiều dân làm ăn sinh sống trên đất Xiêm đã đồng tâm hợp lực để tổ chức cuộc kháng chiến chống Miến Điện. Trong cuộc chiến đáu đó, một nhân vật đặc biệt đã nổi lên, đó là Tak Sin. Tak Sin cũng tức là Phìa Tak, là Trịnh Tân, Phi Nhã Tân hay Trịnh Quốc Anh. Xuất thân là một thương nhân gốc China. Ông đã lãnh đạo nhân dân Xiêm đánh tan quân Miến ĐIện và nhờ có công lao đặc biệt này, sau chiến thắng, Trịnh Quốc Anh được tôn lên ngôi vua (1767-1782) của Xiêm.
    Trong những năm trị vì của Trịnh QUốc Anh, Xiêm đã phục hưng khá nhanh. Từ vị trí của một nước luôn bị các thế lực cát cứ hoàng hành, Xiêm đã trở thành một vương quốc có chính quyền tập trung chuyên chế vững mạnh. Từ tư thế của một nước bị xâm lược triền miên, Xiêm trở thành kẻ đi tấn công xâmlược nước khác. Nhưng, về cuối đời, Trịnh Quốc Anh đã mắc phải hai tật ác. Một là bị bệnh phong vì thế sử cũ gọi là phong vương và hai là bị bệnh điên nên sử cũ cùng gọi là cuồng vương.
    Sau khi đã củng cố được địa vị của mình trên vũ đài chỉntị Xiêm, Trịnh Quốc Anh đã xua quân sang tấn công xâm lược Chân Lạp. Viên tướng được Trịnh Quốc Anh giao phó tọng trách càm quân sang Chân Lạp là Chakkri (sử ta phiên âm là Chất Tri). Bấy giờ, đát đai của Chân Lạp là đa xbị thu hẹp, nội bộ của Chân Lạp lại mất đoàn két nghiêm tọng, vì thế, Chakkri đã thành công khá dễ dàng. Nhưng, khi Chakkri đang lập công ở Chân Lạp thì ở Xiêm, Trịnh Quốc Anh không còn có thể làm vua tiếp được nưa. Chakkri đã đem quân về lật đổ Trịnh Quốc Anh và lên làm vua Xiêm từ năm 1782 (hiện nay quốc vương Thái là hậu duệ của Chakkri).
    Với Chakkri, cuộc khủng hoảng nhất thời của Xiêm nhanh chóng chấm dứt và Xiêm lại phát đạt hơn thời trị vì của Trịnh Quốc Anh. Chính sách bành trướng của Xiêm la chẳng những được tiếp tục duy trì mà còn được đẩy mạnh. Quân đội của Chakkri đã hoàn hành khắp các nước trên bán đảo Đông Dương.
    Tập đoàn Nguyễn Ánh chạy sang cầu cứu Xiêm vào năm 1783, tức là năm trị vì của Chakkri-nhà vua cũng đồng thời là viên tướng khét tiếng nhất của Xiêm lúc bấy giờ. Nói cách khác, đối thủ mới của Nguyễn Huệ là rất đáng gờm.
    Ngay sau khi nhận được lời cầu cứu của Nguyễn Ánh, đầu năm Giáp Thìn (1784), Chakkri đã quyết định mượn cớ giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn để xua quân xâm lược nước ta.. Hai người cháu, cũng là hai viên tướng cao cấp của Chakkri là Chiêu Tăng và Chiêu Sương được lệnh làm tổng chỉ huy cuộc xâm lược này. Lực lượng quân thuỷ bộ của Xiêm được hy động đến 5 vạn quân (chính sử triều Nguyễn nói là chỉ có 3 vạn nhưng chính sử Chân Lạp lại nói là 5 vạn). Đi cùng với quân Xiêm và sát cánh chiến đấu với quân Xiêm còn có hàng ngàn quân bản bộ của Nguyễn Ánh. Chiêu Tăng và Chiêu Sương chia quân làm hai đạo cùng tiến sang nước ta.
    -Đạo thứ nhất là đạo thuỷ binh gồm khoảng hai vạn quân (chính sử nhà Nguyễn chỉ nói đến đạo quân này) do chính Chiêu Tăng và Chiêu sương trực tiếp cầm đầu, vượt vịnh Xiêm và tràn vào nước ta qua ngả Kiên Giang
    -Đạ thứ hai là đạo bộ binh gồm khoảng 3 vạn quân (sử Chân Lạp nói) do các tướng Lục Côn, Sa Uyển và Chiêu Thuỳ Biện (vốn là đại thần của Chân Lạp đầu hàng Xiêm) chỉ hy, băng qua đất Chân Lạp rồi tràn vào nước ta qua ngả An Giang ngày nay.
    Xét vè tương quan, năm vạn quân là một lực lượng rất lớn so với thực lực của Tây Sơn. Sức mạnh của năm vạn quân đó càng đáng sợ hơn, khi chúng năm được cơ sở xã hội nguy hiểm từ bên trong là Nguyễn Ánh. Nhưng, vượt lên trên tất cả, kho khăn hàng đầu của Tây Sơn lúc này không phải là lực lượng của đối phương mà là ở chỗ, liệu Tây Sơn có đủ sức đẻtự bỏ giới hạn chật hẹp của một phong trào nông dân để đảm đương sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc hay không. Và vào đúng thời điểm nguy cấp này của đất nước, Tây Sơn đã kịp thời chuyển hóa một cách tuyệt vời, từ đội quân nông dân trở thành đội quân của dân tộc (theo như nhận xét của Tướng Võ Nguyễn Giáp).
    Còn tiếp
    ------------------------------------------
    "Làm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành"
    Hồ Chí Minh
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nguyễn Huệ với công cuộc chuẩn bị tiêu diệt quân xâm lược Xiêm
    Năm 1783, sau khi đã đập tan những cố gắng của Nguyễn Ánh và ráo riết truy đuổi, buộc Nguyễn Ánh phải chạy sang Xiêm, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trở về Quy Nhơn. Đất Gia Định được giao cho Phò Mã Trương Văn Đa cai quản. Khi Nguyễn Ánh đưa quân Xiêm về xâm lược nước nhà, Trương Văn Đa đã có hai quyết định đúng đắn: Một là cử người về Quy Nhơn báo cho bộ chỉ huy Tây Sơn và hai là chủ động tổ chức đánh chặn để cản bước tiến của quân Xiêm.
    Trương Văn Đa vừa tổ chức đánh chặn, vừa tỉnh táo bảo toàn lực lượng nhằm chuẩn bị cho trận đánh quyết định với quân Xiêm. Với thực lực và cũng với tinh thàn bao quát đó, quân Tây Sơn do Trương Văn Đa chỉ huy không thể có những trận giáp chiến lớn. Nhưng, hoạt động của Trương Văn Đã đã tạo nên được nhiều ảnh hướng tốt. Trước hết kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của giặc bị sụp đổ. Sau sáu tháng trời, quân Xiêm và quân của Nguyễn Ánh mới chỉ chiếm được một vùng đất từ sông Tiền trở về Nam thôi.
    Vào nước ta, quân Xiêm ngày càng lộ rõ bột mặt xâm lược của chúng. Điều này đã được chính Nguyễn Ánh thú nhận đầy đủ và rõ ràng trong bức thư viết bằng chữ Nôm gửi giáo sĩ J.Liot:
    ?oNay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược (tự do cướp dật), dâm nhân phụ nữ (cưỡng hiếp phụ nữ), lược nhân tài vật (cướp bóc tài sản), túng sát bất dung lão thiếu (giết người không tha già trẻ), vậy nên, Tây tặc binh thế nhật thịnh (thế của giặc Tây Sơn ngày một mạnh) Xiêm binh thế nhật suy *thế của quân Xiêm ngày mộ suy)?. Đây là thư của Nguyễn Ánh gửi J.Liot viết bằng chữ Nôm, đề ngày 25-1-1785 (năm ngày sau khi đại bại ở Rạch Gầm-Xoài Mút), do Lê Văn Duyệt sao chép.
    Và, một khi bộ mặt cướp nước của quân xâm lược đa xbị phơi bày thì bản chất phản dân hại nước của Nguyễn Ánh cũng lộ rõ. Nhận thức chính trị của nhân dân Gia Định ngày càng chuyển hóa theo chiều hướng có lợi cho Tây Sơn. Ngay trong hàng ngũ của Nguyễn Ánh cũng có người quay giáo chống lai Nguyễn Ánh. Ví dụ như trường hợp của Lên Xuấn Giác. Sử nhà Nguyễn đã xuyên tạc khi kết luận rằng, nhờ có phản thần Lê Xuân Giác bày mưu nên Nguyễn Huệ mới có thể thắng trận.
    Bấy giờ ở Quy Nhơen, ngay sau khi nhận được tin cấp báo của Trương Văn Đa, bộ chỉ huy Tây Sơn liền quyết định cử Ngưyễn Huệ vào Gia ĐỊnh, trực tiếp lãnh đạo cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Xiêm và Nguyễn Ánh. Tháng chạp năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ đã có mặt tại Mỹ Tho với lực lượng từ Quy Nhơn vào gồm chủ yếu là thuỷ binh. Ngay lập tức, vùng đất này trở thành nơi đối đầu của hai lực lượngquân sự đối nghịch. Một là quân đội Tây Sơn do Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đặt đại bản doanh tại Mỹ Tho và hai là quân xâm lược Xiêm đặt đại bản doanh tại Trà Tân (là tên rạch cũng là tên cù lao. Rạch Trà Tân nằm ở bờ bắc, chảy qua Hưng Lễ, Hưng Nhân rồi đổ ra sông Tiền. Cù Lao Trà Tân nằm đối diện với cửa rạch Trà Tân. Cù lao Trà Tân cũng tức là cù lao Năm Thôn).
    Như vậy, quân Xiêm có khoảng năm vạn quân + khoảng mấy ngàn quân của Nguyễn Ánh nữa. Đó là một đội quân vừa đông, vừa mạnh, được trang bị vào loại hiện đại nhất vùng Đông Nam Á (?-cái này thì em không rõ, chỉ thấy nói như vậy thôi, chẳng có bằng chứng gì cả). Còn quân của Nguyễn Huệ thì có ít hơn, chừng vài vạn (đây là con số của các nhà sử học hiện đại, không phải là ghi chép của sử cũ). Tuy quân số có ít hơn nhưng trang bị cũng không phải la quá thua kém. Theo ghi chép của giáo sĩ Diego de Jumilla trong Le révolte et la guerre des Tay Son thì Tây Sơn có khá nhiều đại bác do Hà Lan sản xuất (lấy ở đâu nhỉ?).
    Đến Mỹ Tho, nhậnthấy Tràn Tân là cứ điểm tập trung rất đông quân Xiêm, được canh phòng cẩn mật. Vì thế Nguyễn Huệ chủ trương: nhử địch ra khỏi Trà Tân để đán mnộ trận sống còn với chúng. Và Nguyễn Hụê đã đồng thời kết hợp một cách khôn khéo hai hoạt động hoàn toàn khác nhau.
    Một là giả vờ xin giảng hoà với quân Xiêm để phân hóa nội bộ kẻ thù. Một tù binh người Chân Lạp đã được Nguyễn Huệ cử làm sứ giả, đem của cải đến đại bản doanh của quân Xiêm và nói rằng: ?oTân triều (ý chỉ Tây Sơn) và cựu triều (ý chỉ Nguyễn Ánh) của nước chúng tôi giành đất và giành dân với nhua, chẳng thể nào dung tha cho nhau được. Nước chúng tôi cùng với Xiêm La xa xôi cách trở, trâu ngựa không đánh hơi nhau được, chẳng hay là Vương Tử (chỉ Chiêu Tăng và Chiêu Sương) đến chốn này làm gì? Chi bằng hai nước chúng ta hãy hoà hiếu với nhay, xong việc, chúng tôi sẽ theo lệ tiến công, như thế có phải là được lợi lâu dài không? Vậy, việc cựu chúa (chỉ Nguyễn Ánh) của nươdc chúng tôi xin để mặc chúng tôi tự lo liệu, xin Vương Tử chớ bận tâm lo lắng việc giũp đỡ?. (theo Mạc thị gia phả).
    Chiêu Tăng và Chiêu Sương cũng là hai viên tướng lòng dạ rất nham hiểm, chúng muốn ?otương kế tựu kế?, lợi dụng việc Nguyễn Hụê xin giảng hoà để do thám tình hình bố phòng của Tây Sơn. Về phần mình, Nguyễn Huệ cũng vờ như không hề hay biết, cứ ?ongày ngày sai người sang mời quân Xiêm đến xem chiến thuyền và khoe bày mọi chiến cụ của mình. Khi quân Xiêm về thì tăng cho vóc lụa?. (theo Mạc thị gia phả). Kết quả là Chiêu Tăng và Chiêu Sương ngày một hí hửng vì cho là Nguyễn Huệ hao tiền tốn của mà vẫn mắc mưu còn Nguyễn Ánh thì ngày một nghi kị Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Mối bất hoà trong nội bọ kẻ thù bộc lộ cũng ngày một sâu sắc, Để xoa an sự ngờ vực ucả Nguyễn Ánh, chính Chiêu Tăng đã có lần thế thốt rằng: ?oTôi phụng mệnh quốc vương mình đem quân vượt biển đến giúp, nay chưa phân thắng bạn mà tôi lại tham của cải thì có khác gì phản chủ? Nếu vì hám lợ àm đê thua trận, làm nhục đến quốc thể, thì làm sao tôi cso thể trốn khỏi tội trời tru đất diệt? Xin chớ nghi ngờ? (theo Mạc thị gia phả).
    Hai là, tranh thủ thời gian hoà hoãn rất ngắn ngủi nói trên, Nguyễn Huệ nhanh chóng bố trí trận địa để chuẩn bị quyết chiến với quân xâm lược. Đoạn sông Tiền, từ Rạch Gầm về đến cù lao Thới Sơn được chọn làm chiến trường chính. Lực ưlợng Tây Sơn được huy động đến ở đây gồm đủ cả thuỷ binh lẫn bộ binh, trong đó, thủy binh giữ vai trò quan trọng nhất. Dự tính của Nguyễn Huệ là sẽ tiêu diệt quân Xiêm và quân bản bộ của Nguyễn Ánh bằng một trận mai phục. Chiến thuyền Tây Sơn được Nguyễn Huệ mai phục sẵn ở Rạch Gầm và rạch Xoài Mút, tức là nơi hoàn toàn dbất ngờ đối với quân Xiêm. Bời vì trước đó, chúng từng được phép tới nơi đóng quân của Nguyễn Huệ, từng có dịp qua lại nhiều lần trên chính đoạn sông này.
    Điều không ngờ, cũng là rất không may cho quân Xiêm là khi Nguyễn Huệ bố trí trận địa chắc chắn xong xuôi đâu đó rồi, chúng mới bắt đầu tấn công.
    Trận quyết chiến Rạch Gầm-Xoài Mút (đêm ngày 19 rạng ngày 20 tháng 1 năm 1785)
    Từ Trà Tân, Chiêu Tăng và Chiêu Sương vẫn thường xuyên nhận được tin báo rằng Nguyễn Huệ đóng quân ở Mỹ Tho, không hề chuẩn bị đối phó gì cả. Vì thế, chúng hí hứng cho là kế lớn đã thành, chỉ cần bất ngờ cho quân đến tấn công thì nhất định sẽ giành đại thắng. Chính Chiêu Tăng đã nói với Nguyễn Ánh rằng:
    ?oGiặc (chỉ Tây Sơn) rất tin tôi, cho nên tất nhiên là sẽ không phòng bị. Ta nên nhân đó mà đánh ngay. Vậy, xin hẹn đến đêm mồng chín tháng này (tháng chạp năm Giáp Thìn, 1784), Quốc Vương (chỉ Nguyễn Ánh) hãy đem ngự binh đi trước xông vào binh thuyền của chúng, tôi và các tướng bản bộ sẽ đem tất cả chiến thuyền lớn nhỏ tiến theo, đánh phá chiến thuyền chắn ngang sông của giặc thì nhất định sẽ toàn thắng? (theo Mạc thị gia phả) .
    Thực ra, kẻ mắc mưu lại chính là Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Nguyễn Huệ đã bí mật bố trí một thế trận mai phục để chờ đợi chúng. Như đã nói ở trên, chiến thuyền của Nguyễn Huệ đã được giấu kín ở Rạch Gầm và ở Xoài Mút. Lực lượng khá của Nguyễn Huệ cũng đã được sắp đặt sẵn ở hai bên bờ sông Tiền và cù lao Thới Sơn. Những gì mà quân Xiêm thấy được chỉ là bộ phận làm nhiệm vụ nghi binh thôi.
    Rạch Gầm tức Sầm Giang, ngày nay tuy chỉ là một con rạch không lớn lắm nhưng hơn hai trăm năm trước lại là một con sông. Chiến thuyền cỡ lớn có thể dễ dàng qua lại. Rạch Gầm bắt nguồn từ Giồng Trôm (Bến Tre) rồi đổ ra sông Tiền.
    Xoài Mút tức Hoài Hột, lại còn có tên khác là sông An Đức. Ngày nay, Xoài Mút là một con rạch nhỏ nhưng cách đây hơn hai trăm năm thì nó lkhá lớn, chiến thuyền có thể qua lại dễ dàng. Xoài Mút cũng là một trong những hợp lưu của sông Tiền.
    Cù Lao Thới Sơn nằm giữa sông Tiền, án ngữ cửa rạch Xoài Mút và cách Mỹ Tho không xa. Đây là một cù lao thuộc loại lớn, đủ để Nguyễn Huệ có thể bố trí bộ binh và đại bác, chặn đứng cuộc tấn công của Chiêu Tăng và Chiêu Sương lên Mỹ Tho. Như vậy, Rạch Gầm, Xoài Mút và cù lao Thới Sơn được Nguyễn Huệ sử dụng như ba vị trí then chốt, vừa chặn đầu, vừa khóa đuôi, dồn đối phương vào thế bị bao vây và bị tấn công tiêu diệt, không cách gì chỗng đỡ nổi.
    Ngoài ra, ở Rạch Rau Răm (một vịi trí nằm giữa Rạch Gầm với cù lao Trà Tân hay cù lao Năm Thôn), Nguyễn Huệ còn bố trí một đơn vị thuỷ binh nhỏ, kiểu như chốt tiền tiêu của quân Tây Sơn. Trước khi đến Mỹ Tho, quân Xiêm buộc phải đi qua vị trí này.
    Đêm 19 rạng ngày 20 tháng 1 năm 1785 (Mạc thị gia phả chép là đêm canh năm, đêm mồng chín tháng chạp năm Giáp Thìn tức là đêm 19, rạng ngày 20 tháng 1-1785. Bức thư của Nguyễn Ánh gửi giáo sĩ J.Liot thì nói là đêm mồng tám tháng chạp năm Giáp Thìn tức là đêm 18, rạng ngày 19 tháng 1-1785. Phần lớn các nhà sử học Việt Nam hiện đại đều lấy theo ngày ghi trong Mạc thi gia phả), Chiêu Tăng và Chiêu Sương hạ lệnh tấn công vào đại bản doanh của Nguyễn Huệ ở Mỹ Tho. Quân của Nguyễn Ánh gồm khoảng ba bốn ngàn tên, bị Chiêu Tăng và Chiêu Sương đẩy đi tước. Nhưng, Nguyễn Ánh không tin ở thắng lợi vì thế đã cố tìm cách đi sau. Một số bề tôi thân tín như Trần Phúc Gia (người Vĩnh Bình, nay thuộc Trà Vinh), Nguyễn Văn Bình và Lê Văn Duyệt (1763-1832, người gốc Quảng Ngãi, sinh trưởng tại Rạch Gầm)? được bố trí đu cùng để hộ vệ Nguyễn Ánh. Như thế vẫn chưa đủ, Nguyễn Ánh còn sai Mạc Tử Sinh (người Hà Tiên, dòng dõi của Mạc Cửu) bí mật bố trí một lối thoát dành riêng cho Nguyễn Ánh để đè phòng khi có chuyện chẳng lành xảy ra.
    Khi xuất quân ở Trà Tân, Chiêu Tăng và Chiêu Sương gặp thuận lợi vì thuỷ triều đang rút, chiến thuyền của chún cứ xuôi theo dòng nước mà tiến. Chúng qua chốt tiền tiêu của Tây Sơn ở Rạch Rau Răm một cách dễ dàng bởi đó chỉ còn một bộ phận nhỏ của Tây Sơn làm nhiệm vụ nghi binh thôi (dân gian địa phương có truyền thuyết kể rằng: Nguyễn Huệ đã huy động nhân dân Tiền Giang và Bến Tre đóng góp vỏ trái dừa khô rồi vẽ thành mặt người và chất đầy thuyền. Giặc bắn vào, vỏ dừa khô nổi bập bềnh trên nước, khiến chúng tưởng là ?ochém giết không biết bao nhiêu mà kể?). Giặc hùng hổ tiến về Mỹ Tho nhưng khi khoảng ba trăm chiến thuyền của chúng lọt vào khoảng giữa Rạch Gầm và Xoài Mút thì thuỷ triều bắt đầu lên, lựoi thế xuôi dòng của chúng không còn nữa. Và, đúng lúc đó, từ Rạch Gầm, từ Xoài Mút, từ cù lao Thới Sơn và từ hai bên bờ sông Tiên, lực lượng thuỷ bọ của Tây Sơn đồng loạt tấn công. Ngay từ đầu cuộc giao tranh, hoả lực của Tây Sơn đã giành được thế áp đảo. Nguyễn Huệ trực tiếp ra đốc chiến và hệ lệnh đánh đến cùng. Vì thế mà quân sĩ Tây Sơn chiến đấu rất hăng. Mọi cố gắng chống cự của Chiêu Tăng và Chiêu Sương đều bị đập tan. Chiến thuyền của giặc, cái thì bị thiêu, cái thì bị chìm. Quân giặc số bị trúng tên đạn, số bị chém, số lại bị chết đuối giữa sông? Hàng ngàn tên cố liều chết vượt lên bờ thì bị bắt sống. Chỉ trong vòng chưa đầy một ngày, toàn bộ quân Xiêm và quân của Nguyễn Ánh đã bị đại bại. Chiêu Tăng phải liều chết mở đường máu, bỏ cả thuyền mà chạy bộ sang Chân Lạp mới thoát chết.
    Mờ sáng hôm sau, khi nghe tiếng đại bác liên tục nổ từ xa, Mạc Tử Sinh đang tràn đầy hi vọng là sẽ có tin chiến thắng thì bỗng thấy Nguyễn Ánh cùng các tướng thân tín hốt hoảng chạy đến, Mạc Tử Sinh vội vã lấy thuyền chở Nguyễn Ánh trốn luôn.
    Chiêu Tăng và Chiêu Sương cùng đám tàn quân chạy sang đất Chân Lạp, tạm hoàn hồn mới điểm lại thì thấy 5 vạn quân thủy bộ chỉ còn lại hơn 1 vạn thôi. Vua Xiêm là Chakkri tức giận nói rằng: ?ohai tên súc sinh là Chiêu Tăng và Chiêu Sương làm việc kiêu căng và hung hãn, vào sâu trong đất giặc (chỉ Tây Sơn) mà không vâng mệnh quốc vương, tàn hại dân của họ? (theo Mạc thị gia phả). Ngay sau khi nghe tin Chiêu Tăng và Chiêu Sương bại trận Chakkri vội sai tướng Phi Nhã Xuân đem thêm 10 chiến thuyền đi cứu nguy. Nhưng, Phi Nhã Xuân vừa xuất quân thì đã thấy tàn quân của Chiêu Tăng và Chiêu Sương đang hốt hoảng chạy về. Chúng nói với Phĩ Nhã Xuân rằng: ?oChủ tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đại bại, dã theo đường bộ, băng qua Chân Lạp mà chạy. Chúng tôi bị thua ở sau, chẳng biết họ sống chết thế nào, may cướp được thuyền của dan mà thoát được về đây? (theo Mạc thị gia phả).
    Quân của Nguyễn Ánh cũng cùng chung số phận. Nguyễn Ánh được Mạc Tử Sinh đón chạy trước, về đến đất Hà Tiên, quân sĩ tuỳ tùng của Nguyễn Ánh chỉ còn 200 tên. Và chưa kịp nghỉ chân đã bị quân Tây Sơn truy đuổi. Nguyễn Ánh đã phải bỏ chạy sang Xiêm. Đó là một cuộc tháo chạy nhục nhã nhất trong cuộc đời của Nguyễn Ánh. Đã có lúc vì cạn lương ăn, tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn Văn Thành phải đi ăn cướp, chẳng dè bị đánh trọng thương, xuýt chết.
    Rạch Gầm-Xoài mút là một trong những trận quyết chiến chiến lược tuyệt vời của lịch sử dân tộc. Với Rạch Gầm-Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã có công viết nên khúc tráng ca đầu tiên về sự nghiệp chống xâm lăng của nhân dân Gia Định. Với Rạch Gầm-Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã có công làm phong phú thêm kho tàng khoa học quân sự của tổ tiên ta. Cũng với Rạch Gầm-Xoài Mút và từ Rạch Gầm-Xoài Mút, phong trào Tây Sơn chuyển sang một giai đoạn hoàn toàn mới, giai đoạn đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau: vừa không ngừng mở rộng quy mô và phạm vi của cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến thống trị tàn bạo trong cả nước, vừa dũng cảm vươn lên đảm nhận sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc. Từ đây, giai đoạn hào quang rực rõ nhất của Tây Sơn bắt đầu.
    Còn tiếp
    ---------------------------------
    ?oLàm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành?
    Hồ Chí Minh

Chia sẻ trang này