1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu nhà Tây Sơn

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi VNHL, 10/06/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tổng chỉ huy trận tấn công tiêu diệt lực lượng quân Trịnh ở Phú Xuân (năm 1786: 33 tuổi)
    Sau chiến thắng Rạch Gầm-Xoài Mút, Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn và tại đây, chính Nguyễn Huệ vừa là người đề xuất ý kiến, lại cũng là người trực tiếp vạch kế hoạch và chỉ huy quân Tây Sơn tấn công vào lực lượng quân Trịnh đang đóng quân ở vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra, trong đó, vị trí quan trọng nhất là Phú Xuân.
    Năm 1774, lợi dụng chúa Nguyễn và Tây Sơn đánh nhau, chúa Trịnh cho Hoàng Ngũ Phúc đem 3 vạn quân, vượt sông Gianh, đánh thẳng vào Đàng Trong. Nhờ chủ trương khôn khéo của bộ chỉ huy Tây Sơn, quân Hoàng Ngũ Phúc tạm dừng các cuộc tấn công vào Tây Sơn và sau cùng, chỉ chiếm đóng miền đất từ đèo Hải Vân trở ra mà thôi.
    Tháng chạp năm Ất Mùi (1775), chúa Trịnh là Trịnh Sâm triệu Hoàng Ngũ Phúc về. Hai viên tướng cao cấp là Bùi Thế Đạt (người làng Tiên Lý, huyện Đông Thành, nay thuộc Nghệ An) và Nguyễn Định Đống (người làng Hương Duệ, huyện Kỳ Anh, nay thuộc Nghệ An) được cử tới thay. Các văn thần như Phan Lê Phiên (1735-1809, người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1757), Uông Sĩ Điển (người làng Vũ Nghị, huyện Thanh Lan, nay là xã Thái Hưng, huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình, đỗ tiến sĩ năm 1776) và Nguyễn Lệnh Tân (người làng Phù Lê, huyện Thuỵ Nguyên, nay là xã Thiệu Thịnh, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa, đỗ tiến sĩ năm 1763) cũng được cử tới để giúp sức. Sau đó, chúa Trịnh là Trịnh Sâm còn phái tiếp hai văn thần nữa là Lê Quý Đôn (1726-1784, người làng Diên Hà, huyện Diên Hà, nay là xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đỗ bảng nhãn năm 1752) và Nguyễn Mậu Dĩnh, hi vọng sẽ sớm ổn định được tình hình ở vùng đất mới chiếm.
    Tháng 8 năm 1776, tướng Phạm Ngô Cầu được Trịnh Sâm chỉ định làm Trấn Thủ, thay cho Bùi Thế Đạt. Tướng Hoàng Đình Thể (người làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc, nay thuộc Thanh Hóa, đỗ tạo sĩ (tiến sĩ võ)) cũng được lệnh đem quân đến đóng ở chấu Bố Chính để sẵn sàng ứng cứu cho Phạm Ngô Cầu. Chỉ trong vòng vài ba năm, tình hình Thuận Hóa đã tạm ổn, các văn thần lần lượt được rút về Thăng Long. Các đồn luỹ của quân Trịnh từ đèo Hải Vân trở ra được xây đắp rất chắc chắn. Tóm lại, việc tấn công ra Thuận Hóa không phải là dễ dàng đối với quân đội Tây Sơn.
    Tuy nhiên, nếu quân Trịnh có thuận lợi là đồn luỹ vững chắc, lại được đèo Hải Vân che chở ở phía Nâm thì quân Trịnh cũng có khó khăn, đó là nội bộ tướng lĩnh mất đoàn kết. Ngoài ra, chủ tướng của quân Trịnh ở Thuận Hóa lúc ấy là Phạm Ngô Cầu còn rất mê tín và tham lam. Chính những chỗ yếu kém này đã gây nên những tác hại không nhỏ.
    Là người chịu trách nhiệm cao nhất trong cuộc tấn công vào Thuận Hóa, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị một cách rất khẩn trương nhưng cũng rất chu đáo. Việc đầu tiên mà Nguyễn Huệ quyết thực hiện bằng được là lập mưu để chia rẽ kẻ thù. Chừng nào Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể còn chung lưng đấu cật với nhau thì chừng đó, cuộc tấn công của Tây Sơn còn gặp nhiều khó khăn. Xuất phát từ nhận thức đó, Nguyễn Huệ đã nghĩ kế li gián Phạm Ngô Cầu với Hoàng Đình Thể. Nhân vật được Nguyễn Huệ chọn để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này là Nguyễn Hữu Chỉnh (người làng Động Hải, huyện Chân Phúc, nay là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Năm 1774, khi Hoàng Ngũ Phúc được Trịnh Sâm sai đem ba vạn quân đánh vào Đàng Trong, Nguyễn Hữu Chỉnh là đệ tử của Hoàng Ngũ Phúc. Chính Hoàng Ngũ Phúc đã sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc phong, ấn kiếm và cờ hiệu Tây Sơn Hiệu Trưởng Tiên Phong Tướng Quân ban cho Nguyễn Nhạc. Tháng 12 năm 1775, khi Hoàng Ngũ Phúc được triệu về Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đi theo. Đầu năm 1776, Hoàng Ngũ Phúc mất, Nguyễn Hữu Chỉnh theo hầu Hoàng Đình Bảo (người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng, nay thuộc tỉnh Bắc Giang). Hoàng Đình Bảo được phong tới chức Quận Công cho nên sử cũ thường gọi là Quân Huy. Quận Huy là con rể của chúa Trịnh Doanh (1704-1767). Vì thế Quân Huy rất được Trịnh Sâm (1767-1782) và đặc biệt là vợ của Trịnh Sâm (bà Đạng Thị Huệ) sủng ái. Năm 1782, Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh nổi loạn giết. Nguyễn Hữu Chỉnh bơ vơ vì không còn biết dựa vào ai, bèn chạy vào Nghệ An. Cùng chạy với Nguyễn Hữu Chỉnh còn có tướng Hoàng Viết Tuyển (người làng Vạn Phân, huyện Đông Thành, nay thuộc Nghệ An). Đến Nghệ An, Nguyễn Hữu Chỉnh bàn với Võ Tá Dao (người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh) là tướng Trấn Thủ ở đấy một kế hoạch làm phản nhưng thấy Võ Tá Dao chần chừ nên Nguyễn Hữu Chỉnh và Hoàng Viết Tuyển vội chạy vào Quy Nhơn, xin đầu hàng Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc rất mừng vì chẳng đánh mà vẫn bắt được tướng của họ Trịnh, chẳng mất công sai người đi do thám mà vẫn nắm được khá tỉ mỉ tình hình Đàng Ngoài. Nguyễn Nhạc giao Nguyễn Hữu Chỉnh cho Nguyễn Huệ và được dùng vào việc li gián Phạm Ngô Cầu với Hoàng Đình Thể. Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh được lệnh viết thư bí mật hẹn với Hoàng Đình Thể về việc Hoàng Đình Thể sẽ xin quy hàng Tây Sơn nhưng bức thư ấy lại vờ để cho Phạm Ngô Cầu bắt được. Từ đó, Phạm Ngô Cầu luôn nghi ngờ Hoàng Đình Thể.
    Điều không may cho Phạm Ngô Cầu là cũng vào lúc ấy, Phạm Ngô Cầu có cử Nguyễn Phu Như đến Quy Nhơn, mượn có trao đổi về biên giới để dò la tin tức, nhưng chính Nguyễn Phu Như lạ khuyên các lãnh tụ Tây Sơn nên sớm đem quân ra đánh lấy Thuận Hóa. Cũng qua Nguyễn Phu Như, Nguyễn Huệ biết rõ Phạm Ngô Cầu là kẻ mê tín, vì thế, một nhân vật khác được đóng giả vai thầy tướng số từ xa tới để coi tướng số cho Phạm Ngô Cầu. Và, theo lời khuyên của thầy tướng số này, Phạm Ngô Cầu đã lập đàn tràng cúng tế rất trọng thể tại chùa Thiên Mụ.
    Đúng lúc nội bộ của các tướng lĩnh quân Trịnh đang mâu thuẫn với nhau và cũng đúng lúc Phạm Ngô Cầu đang lo cúng tế, thì quân Tây Sơn chia làm ba đạo tấn công vào Thuận Hóa.
    Đạo thứ nhất là thuỷ binh do Nguyễn Lữ chỉ huy, từ Quy Nhơn, vượt biển tiến thẳng ra cửa sông Gianh rồi từ đó đánh vào Phú Xuân.
    Đạ thứ hai cũng là thuỷ quân do Vũ Văn Nhậm cầm đầu. Từ Quy Nhơn, vượt biển đánh vào Phú Xuân, cầm chân quân Trịnh ở Phú Xuân để sau đó là phối hợp với đoạ quân của Nguyễn Huệ, san bằng căn cứ này.
    Đạo thứ ba là bộ binh do đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy. Đạo này băng đèo Hải Vân, đánh vào căn cứ của quân Trịnh ở đèo Hải Vân, ở Phú Xuân và sau đó là ở Dinh Cát (ở phía bắc thị xã Quảng Trị, cách thị xã tỉnh Quảng Trị khoảng 20 km).
    Tháng 4 năm Bính Ngọ (1786), ba đạo quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ làm Tổng chỉ huy đồng loạt xuất phát. Diễn biến chung của trận đánh được sử cũ chép như sau:
    ?oTướng giữ đồn (ở Hải Vân) là Hoàng Nghĩa Hồ (người làng Hoàng Nghĩa, huyện Hưng Nguyên, nay thuộc Nghệ An, đỗ tạo sĩ (tiến sĩ võ)) đem quân ra đánh, bị thiệt mạng. Nguyễn Huệ nhân đà thắng lợi cho quân tiến thẳng ra Thuận Hoá. Bấy giờ, Phạm Ngô Cầu đang đặt đàn chay lớn, bỗng nhận được tin thì lúng túng, không biết đối phó cách nào cho phải. Trước đây, vì có bức thư li gián của Nguyễn Hữu Chỉnh, cho nên, Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể vẫn ngờ vực lẫn nhau, quân sĩ cũng vì lẽ đó mà thành ra biếng nhác, nghi hoặc nhau và chẳng còn ý chí trận mạc gì nữa. Khi ấy thuỷ triều lên mạnh, giặc (chỉ quân Tây Sơn) nhất loạt tiến sát chân thành. Hoàng Đình Thể dốc quân bản bộ ra đánh, đạn dược và thuốc súng đều bị cạn nhưng Phạm Ngô Cầu vẫn đóng kín cửa thành, không chịu ra cứu viện. Hoàng Đình Thể cùng hai con, một người tên là Hoàng Đình Vị, một người không rõ tên và một viên tì tướng là Võ Tá Kiên (người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay là xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ tạo sĩ) bám lấy thành luỹ để dàn trận. Họ đã đem hết sức ra đánh trả. Hai người con của Hoàng Đình Thể cưỡi ngựa xông ra, nhưng ngựa bị què, phải chạy bộ mà đánh, đều bị thương và chết tại trận. Cả Hoàng Đình Thể và Võ Tá Kiên cũng đều tử trận. Nguyễn Huệ lại cho quân ồ ạt tiến lên. Phạm Ngô Cầu mở cửa thành, cho xe chở quan tài ra để xin hàng. Tướng giữ chức Đốc Thị của quân Trịnh là Nguyễn Trọng Đang (người làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, nay là thôn Trung Cần, xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) chết trong đám loạn binh. Giặc (chỉ quân Tây Sơn) xông vào thành, chém giết không biết bao nhiều mà kể. Cả thành có những hơn hai vạn tướng sĩ, rốt cuộc chỉ con độ vài trăm người sống sót chạy về Bắc Hà được mà thôi. Các đồn như Dinh Cát và Động Hải (nay thuộc Lê Thuỷ, Quảng Bình) nghe tin (Phú Xuân thất thủ) cũng lập tức tháo chạy? (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Sợ thật, sử chép thế này thì quân Tấy Sơn quả là ác???
    Tấn công vào Phú Xuân, giải phóng toàn bộ vùng đất từ đèo Hải Vân ra đến sông Gianh là một trong những trận lớn của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy. Thắng lợi của cuộc tấn công này đã tạo ra điều kiện hết sức thuận lợi để Tây Sơn tiếp tục mở rộng quy mô của cuộc đấu tranh trên phạm vi cả nước.
    Còn tiếp
    -----------------------------
    ?oLàm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành?
    Hồ Chí Minh
  2. Cavalry

    Cavalry Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/10/2001
    Bài viết:
    3.062
    Đã được thích:
    0
    vài trăm lính chạy thoát ra Bắc thì không có nghĩa số còn lại chết cả mà có thể bị tóm. Trận này Trịnh chưa mất nhiều đất nhưng mất gần 1/2 quân thường trực tinh nhuệ. Số quân thường trực còn lại ở miền Bắc thì đã trở thành kiêu binh, chẳng ai điều khiển được!
    Sau trận này, Quang Trung tiến nhanh ra Bẵc làm họ Trịnh không kịp gọi lính tăng quân!
  3. NewGod

    NewGod Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    0
    Hồi ở nhà tớ có đọc 2 tập đầu cuốn "Trịnh Nguyễn diễn chí" hay ra phết . Còn mấy tập nữa mà tớ lại không có để xem . Các bác xem chỗ nào có bán hú anh em một tiếng .
    Bộ truyện này viết hơi bị giống truyện Tàu ("diễn chí" mà lại ) . Đoạn cuối chắc hẳn sẽ nói về nhà Tây Sơn chi tiết từng trận đánh .
  4. NewGod

    NewGod Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    899
    Đã được thích:
    0
    Cho tớ hỏi chen ngang một cái , ông Lê Quý Đôn này có phải là ông Lê Quý Đôn nổi tiếng không hay trùng tên ? Nếu đúng là ông Lê Quý Đôn thì hóa ra lại trong thời tàn cuộc này hay sao ? Em nhớ ông Lê Quý Đôn là thời vua Lê Thánh Tôn phục hồi danh phẩm cho ông Nguyễn Trãi triều trước cơ mà !
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tổng chỉ huy cuộc tấn công ra Đàng Ngoài (năm 1786:33 tuổi)
    Thắng lợi của Nguyễn Huệ trong cuộc tấn công vào đất Thuận Hóa đã gây được tiếng vang rất lớn. Bấy giờ, thấy quân sĩ thất trận hoảng hốt chạy về, tướng chỉ huy quân Trịnh ở vùng bờ bắc sông Gianh là Ninh Tốn (1744-1790, người làng Côi Trì, huyện Yên Mô, nay thuộc xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, đỗ Tiến sĩ năm 1778. Sau theo Tây Sơn) cũng vội vã lui quân. Thế của quân Tấy Sơn nhanh chóng tăng lên. Nhân đó, hàng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh liền bàn với Nguyễn Huệ nên đánh thẳng ra Đàng Ngoài. Và sử cũ đã chép lại cuộc đối thoại đặc biệt giữa hai con người này:
    ?oNguyễn Huệ đánh bại Phạm Ngô Cầu, nhân đà thắng lợi, đánh ra cả vùng Đông Hải (nay thuộc huyện Nghi Lộc, Nghệ An). Viên tướng giữ chức Trấn Thủ ở đấy là Ninh Tốn liền bỏ thành mà chạy. Nguyễn Huệ liền sửa sang đồn luỹ ở sông La (ở Hà Tĩnh), ý muốn chia ranh giới để chống giữ. Khi ấy, Nguyễn Hữu Chỉnh đến nói với Nguyễn Huệ rằng:
    -Tướng quân chỉ một lần xuất chinh đã bình định được xứ Thuận Hóa, uy danh lừng lẫy vang động đến tận Bắc Hà. Về phép dụng binh, thì quan trọng nhất là thời, thứ hai là thế và thứ ba là cơ hội. Ba điều ấy mà lợi dụng được thì đến đâu cũng thắng cả. Nay ở Bắc Hà, tướng thì lười, quân thì kiêu, ta nhân thế đang đại thắng mà đánh tới, tức là chiếm lấy nước đã suy, kiêm tinh nước đang loạn, thu về nước sắp mất. Thời ấy, cơ hội ấy, thiết nghĩ là không nên bỏ qua.
    Nguyễn Huệ nói:
    -Bắc Hà là nơi lắm nhân tài, há đâu dám coi thường?
    Nguyễn Hữu Chỉnh đáp:
    -Nhân tài Bắc Hà duy chỉ có một mình Chỉnh này mà thôi. Nay Chỉnh đi rồi, đâu còn ai nữa? Xin tướng công chớ ngờ. (ăn nói rất là khệnh)
    Nguyễn Huệ cười, nói rằng:
    -Người khác không đáng ngờ, có chăng chỉ là ông thôi.
    (Nguyễn Huệ quả là biết dùng người, cảnh cáo ngay tên tướng khệnh đời này)
    Nguyễn Hữu Chỉnh tái mặt, từ tạ mà nói rằng:
    -Chỉnh này cũng tự thấy mình là kẻ ngu hèn, nói quá như thế cũng chỉ cốt tỏ rằng đất Bắc Hà không có người tài đó thôi. (Câu này lại càng láo nhưng đã biết sợ rùi)
    Nguyễn Huệ nói sang chuyện khác, cốt để an nủi Nguyễn Hữu Chỉnh:
    -Nước có cơ nghiệp lâu dài nhưng mấy trăm năm, nay nếu một sớm một chiều mà ta mang quân ra đánh lấy thì thiên hạ sẽ gọi đạo quân của ta là đạo quân gì?
    Nguyễn Hữu Chỉnh nói:
    -Nay ở Bắc Hà đã có Đế lại còn có Vương, đó là tai họa từ lâu để lại. Họ Trịnh tiếng là tôn phò Hoàng Đế họ Lê nhưng thực là hiếp chế quá lắm. Người trong nước không tuân phục đã lâu rồi, nhưng sở dĩ chưa dám hành động là do chưa có thời và thế đó thôi. Tướng quân nên mượn tiếng phù Lê diệt Trịnh để đem quân ra thi khắp thiên hạ không ai là không theo. Đó là cơ hôi ngàn năm mới có một thuở.
    Nguyễn Huệ nói:
    -Ngươi nói rất phải. Nhưng còn như việc trái mệnh thì ta phải làm sao?
    Nguyễn Hữu Chỉnh thưa:
    -Kinh Xuân Thu dạy rằng, trái mệnh lênh nhỏ là lập được công lớn thi đó là công. Thế thì, vì việc lập công mà trái mệnh, phỏng có sợ gì? Vả chăng, tướng cầm quân ra trận thì dẫu có mệnh lênh của vua cùng có quyền không theo, tướng công còn chờ gì nữa??.
    Là người quả quyết lại có chí lớn, sẵn gặp lời bàn của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ liền nhân đà thắng lợi, cho quân ồ ạt tiến ra Đàng Ngoài. Trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ cử Nguyễn Lữ ở lại trông coi xứ Thuận Hóa, đồng thời sai người về Quy Nhơn báo cho Nguyễn Nhạc biết. Kế hoạch của Nguyễn Huệ là chia quân làm làm hai đạo, cùng dùng chiến thuyền để tiến ra Bắc.
    -Đạo thứ nhất giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh cầm đầu. Sở dĩ trọng trách này được giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh vì Chỉnh vốn là người Đàng Ngoài, rất quen thuộc đường đi lối lại cũng như sở trường và sở đoản của quân Trịnh. Nhiệm vụ của Nguyễn Hữu Chỉnh là iến nhanh đến chiếm lĩnh vùng cửa sông Vị Hoàng và sau khi chiếm được thì đốt lửa làm hiệu.
    -Đạo thứ hai do đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy, cũng dùng chiến thuyền làm phương tiện hành quân nhưng đi sau đạo thứ nhất.
    Khẩu hiệu hành quân của Nguyễn Huệ là Phù Lê diệt Trịnh. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn bắt đầu xuất phát. Trước đó, tin bại trận ở Thuận Hóa cứ liên tiếp truyền về, vì thế, tinh thần chung của quân Trịnh rất rệu rã. Quân Tây Sơn tiến thẳng một mạch qua các vùng như Ngệ An, Thanh Hóa và Ninh Bình ngày nay mà hầu như không gặp chút kháng cự nào đáng kể. Các tướng của quân Trịnh như Bùi Thế Toại (con Bùi Thế Đạt, người làng Tiên Lý, huyện Đông Thành, nay thuộc Nghệ An, đỗ tiến sĩ vao), Tạ Danh Thuỳ (là hoạn quan, người làng Khương Thượng, huyện Yên Mô, nay thuộc Ninh Bình)? vừa nghe tin Tây Sơn đến đã vội vàng bỏ chạy.
    Đạo quân do Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ huy đã nhanh chóng chiếm Vị Hoàng (sông Vị Hoàng thuộc trấn Sơn Nam, nay thuộc Nam Định) đúng như kế hoạch đã định. Theo sử cũ ghi chép (Hoàng Lê nhất thống chí) thì quân Tây Sơn đã thu được rất nhiều lương thực và thực phẩm, đủ ung dung tổ chức cuộc tấn công có thể sẽ phải kéo dài vào khu vực đầu não của họ Trịnh.
    Trong lúc đại quân của Nguyễn Huệ đáng tiến như vũ bão thì tại Thăng Long, phủ chúa Trịnh vẫn bối rối, không sao tìm ra được cách đối phó. Có người bàn rằng:
    ?oThuận Hóa vốn chẳng phải là đất đai của triều đình, trước kia phải tốn bao nhiêu công sức và của cải mới lấy được, mà rốt cuộc lại cũng chẳng có lợi ích gì. Bây giờ nên bàn cách đem quân đóng giữ Nghệ An mà thôi? (Cả Khâm định Việt sử thông giám cương mục và Hoàng Lê nhất thống chí đều chép như vậy).
    Triều đình cho lời bàn ấy là phải, vì thế chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Khải (Trịnh Tông-1763, nối ngôi chúa năm 1782 và ở ngôi chúa đến lúc bị giết năm 1786) quyết định cử tướng Trịnh Tự Quyền (người làng Phù Lỗ, huyện Kim Anh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội) làm Thống Tướng đem quân vào giữ Nghệ An và sẵn sàng chiến đấu với quân Tây Sơn. Nhưng Trịnh Tự Quyền là kẻ nhát gan, mới nghe tiếng Tây Sơn đã khiếp vía, vì thế, cứ trù trừ mãi không chịu tập hợp gấp binh mã để lên đường. Khi Nguyễn Huệ chiếm được Vị Hoàng thì Trịnh Tự Quyền mới ra khỏi thành Thăng long được ba mươi dặm.
    Trước tình thế đó, Trịnh Khải buộc phải thay đổi kế hoạch. Trịnh tự Quyền được lệnh đem quân đến Kim Động (nay thuộc Hưng Yên) để sẵn sàng đón đánh quân Tây Sơn. Tướng Đỗ Thế Dận (người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay thuộc Hà Nội, là võ quan cao cấp của Đàng Ngoài nhưng không thấy sử cũ chép ông có đỗ đạt gì) nguyên là Trấn Thủ trấn Sơn Nam đem tất cả quân bản bộ đến đóng tại bãi Phù Sa (ở xã Phù Sa, huyện Đông Yên cũ, nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Tướng Đinh Tích Nhưỡng (người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc Hải Dương, dòng dõi Đinh Văn Tả) thì chỉ huy thuỷ quân, đến giữ cửa sông Luộc (giáp Hưng Yên và Thái Bình). Trịnh Tự Quyền, Đỗ Thế Dận và Đinh Tích Nhưỡng phải sắp đặt đường dây liên lạc và luôn luôn sẵn sàng phối hợp ứng cữu lẫn nhau. Tóm lại, quyết chí của Trịnh Khải không phải là nhỏ, mưu lược của Trịnh Khải cũng không phải là thấp. Nhưng, quyết chí ấy, mưu lược ấy chưa đủ để đối đồi với một thiên tài quân sự như Nguyễn Huệ. Diễn biến của trận đánh được sử cũ mô tả như sau:
    ?oĐương đêm, chợt thấy chiến thuyền của giặc (chỉ Tây Sơn), từ phía hạ lưu, nhân chiều gió mà tiến thẳng vào. Đinh Tích Nhưỡng liền sai quân sĩ bày chiến thuyền theo thế trận chữ nhất (-) để chắn ngang sông. Thế rồi tên nỏ và súng đạn cùng nhất loạt bắn tới tấp. Xa trông thấy có một chiến thuyền của Tây Sơn vỡ tung và đắm xuống, ai cũng lấy làm vui. Nhưng, các chiến thuyền khác của Tây Sơn vẫn bất chấp, nối nhau mà tiến lên, tất cả im lặng, không một tiếng người. Trong lúc (quân của Đinh Tích Nhưỡng) lấy làm lo sợ thì trời sáng rõ dần. Bấy giờ họ mới biết chiến thuyền Tây Sơn chỉ chở toàn bù nhìn, theo chiều gió và thuận dòng nước mà tiến chứ chẳng thấy lính tráng nào cả. Tên nỏ và đạn dược đã cạn, quân Đinh Tích Nhưỡng không sao chống được được nữa. Chiến thuyền thật của giặc khi ấy mới xuất hiện. Giặc reo hò xông lên, thanh thế kinh thiên động địa.
    ---------------------------------
    ?oLàm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành?
    Hồ Chí Minh
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Một đạo quân khác của giặc nhanh chóng đánh mạnh vào thế trận của Đỗ Thế Dận. Ống phun lửa phun loạn. Quân của Đỗ Thế Dận kinh sợ bỏ chạy. Quân của Đinh Tích Nhưỡng la hét om sòm, giành nhau thuyền mà trốn. Quân của Trịnh Tự Quyền chợt nghe tin cũng hoảng hốt mà tan vỡ.
    Giặc đánh chiếm được Sơn Nam và gửi hịch đi khắp các địa phương, nói rõ ý định Phò Lê diệt Trịnh? (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
    Sau khi đè bẹp lực lượng của Trịnh Tự Quyền, Đỗ Thế Dận và Đinh Tích Nhưỡng, Nguyện Huệ hạ lệnh cho quân tiến thẳng ra Thăng Long. Bấy giờ ở Thăng Long, tướng tá cũng như các đại thần phần nhiều chỉ lo việc chạy trốn, ít ai bàn chuyện đánh trả cả. Trịnh Khải bối rối chưa biết toan liệu ra sao thì Nguyễn Lệ (tức Nguyễn Khản, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Tiến sĩ năm 1760. Ông là con Nguyễn Nghiêm, anh của Nguyễn Du) thua trận từ Nghệ An chạy ra. Nguyễn Lệ bàn rằng:
    ?oNên sai tướng giữ kinh thành còn Chúa thì rước Vua chạy lên Sơn Tây để lo tính việc về sau. Nếu đánh nhau với giặc thì kiêu binh không thể dùng được, việc nước do vậy sẽ hỏng hết?? (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
    Trịnh Khải hoàn toàn nghe theo lời bàn của Nguyễn Lệ thì tin này chẳng hiểu sao đã lan ra với kiêu binh. Kiêu binh bèn họp nhau lại, quát nạt ầm ĩ, cho là Nguyễn Lệ đã rước giặc vào kinh thành, rủ nhau tìm giết Nguyễn Lệ. Hoảng quá, Nguyễn Lệ phải bỏ trốn lên Sơn Tây.
    Nguyễn Lệ bỏ trốn rồi, tình hình trong phủ chúa càng thêm rối ren. Trịnh Khải tức giận, đổ lỗi cho quan Tham Tụng Bùi Huy Bích (1744-1802, người làng Định Công, huyện ThanhTrì, nay thuộc Hà nội, đỗ Hoàng Giáp năm 1769) và sau đó là vội vã nghe theo lời bàn của Trần Công Xán (người làng An Vĩ, huyện Đông Yên, nay là xã An Vĩ, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên, đỗ tiến sĩ năm 1772). Sử cũ chép như sau:
    ?oTrịnh Khải cho là quan Tham Tụng Bùi Huy Bích giữ chức việc trong phủ chúa mà không có công trạng gì, đến đây cũng chẳng có mưu chước gì cũ vãn tình thế, cho nên, lòng đã chán ghét, bèn cho Bùi Huy Bích ra làm Đốc Chiến rồi triệu Trần Công Xán vào phủ chúa để bí mạt bàn định mưu kế, hoặc đánh hoặc lánh. Trần Công Xán nói:
    -Giặc đem đội quân trơ trọi vào sâu trong đất ta, đó là điều binh pháp tối kị. Nay nên nhử chúng đến gần rồi đánh một trận, giết nhẵn nhụi mới thôi. Còn như kinh sư là đất căn bản, không thể lìa bỏ mà đi được. Nếu tình thế quá ngặt nghèo, không sao xoay xở được thì cũng quyết một trận cuối cùng.
    Trịnh Khải cho lời ấy là phải? (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
    Trịnh Khải lập kế hoạch đối phó như sau:
    -Triệu tướng Hoàng Phùng Cơ (người làng Văn Cốc, huyện Bạch Hạc, nay thuộc Hà Tây) từ Sơn Tây về, trao cho chức Tiên Phong Tướng Quân, đem quân đóng giữ tại hồ Vạn Xuân (tên khác là hồ Vạn Phúc, ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội) và sông Thuý Ái (ở huyện Thanh Trì).
    -Đích thân Trịnh Khải đem quân bày sẵn thế trận tại bến Tây Long (xưa thuộc huyện Thọ Xương, nay thuộc nội thành Hà Nội, bến cũ nay không còn nữa), chặn đứng cuộc tấn công của Tây Sơn vào thành Thăng Long.
    -Các tướng như Nguyễn Trọng An (người làng Linh Đường, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội), Ngô Cảnh Hoàn (người làng Trảo Nha, huyện Thạch Hà, nay thuộc Hà Tĩnh) cũng được lệnh dàn chiến thuyền để đợi quân Tây Sơn đến là đánh theo chỉ huy chung của Trịnh Khải.
    Nhưng, quân Tây Sơn vừa xông vào thì trận đồ của Trịnh Khải đã tan vỡ. Hoàng Phùng Cơ cùng tám người con trai, cũng là tám viên tướng, chống đỡ được một lúc thì đại bại. Sáu người con của Hoàng Phùng Cơ bị giết tại trận. Hoàng Phùng Cơ đem hai người con còn lai chạy trốn.
    Các tướng chỉ huy thuỷ quân như Nguyễn Trọng An và Ngô Cảnh Hoàn bị chém tại trận. Một viên tướng khác là Mai Thế Pháp (người làng Thạch Giản, huyện Nga Sơn, nay thuộc Thanh Hóa, trong trận này, hai con trai của Mai Thế Pháp, cũng là hai viên tướng cũng bị giết) cũng bị Tây Sơn giết chết.
    Tại bến Tây Long, Trịnh Khải mặc nhung phục, ngồi trên bành voi, tự mình làm tướng để chỉ huy quân sĩ. Nhưng, hiệu lệnh của Trịnh Khải chẳng ai nghe, thấy Tây Sơn đến là mạnh ai nấy chạy. Trịnh Khải lo sợ, định quay về phủ, nhưng khi đến cửa Tuyên Võ (tên một cửa dẫn vào phủ chúa xưa) thì đã thấy cờ xin đầu hàng cắm la liệt rồi. Không còn cách nào khác, Trịnh Khải bèn dẫn theo chừng hơn một trăm voi chiến, chạy lên Sơn Tây. Dọc dường, bề tôi của Trịnh Khải đều bỏ trốn, chẳng còn ai nghĩ tới chúa nữa.
    Kết cục cuộc đời của Trịnh Khải rất bi đất. Chuyện này được sử chép lại như sau:
    ?oTrịnh Khả chạy đến Hạ Lôi, huyện Yên Lăng (nay thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội) thì quân sĩ tan tác hết. Bấy giờ, có quan Thiêm Sai giữa chức việc ở Lại Phiên là Lý Trần Quán (người làng Văn Canh, huyện Từ Liêm, nay thuộc Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1766) cũng tình cờ đi chiêu mộ binh lính và có mặt tại đấy, vì thế, Trịnh Khải và Lý Trần Quán mới gặp nhau. Lý Trần Quán liền nói dối với người học trò của mình là Nguyễn Trang (người làng Hạ Lôi, huyện Yên Lăng) rằng:
    - Đây là quan Tham Tụng họ Bùi, chạy nạn mà lạc đến đây. Anh hãy giúp ta hộ vệ ngài qua khỏi địa giới của huyện này.
    Nguyễn Trang đã biết đấy là chúa Trịnh, bèn cùng với đồ đảng là Nguyễn ba (bạn của Nguyễn Trang, người làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, nay thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh, Bắc Ninh) bắt Trịnh Khải đem đến nạp cho giặc. Lý Trần Quán nghe tin này liền vội vàng chạy đến, vừa khóc vừa nói:
    -Làm cho chúa phải lầm lỗi đến thế này là tội ở tôi.
    Rồi nhân đó, Lý Trần Quán đem đại nghĩa mà dụ bảo bọn Nguyễn Trang. Nguyễn Trang nói:
    -Sợ thầy không bằng sợ giặc, quý chúa không bằng quý thân.
    Nói xong liền giải Trịnh Khải đi. Trịnh Khải lấy dao cắt cổ tự tử. Nguyễn Trang đem thi thể của Trịnh Khải nạp cho giặc?. (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Sách này còn cho biết thêm rằng: sau khi Trịnh Khải bị giải đi rồi, Lý Trần Quán sai người đào huyệt, mua quan tài và mặc lễ phục, nằm vào áo quan, nhờ người chôn sống. Khí khái của Lý Trần Quán được Nho gia xưa rất ca ngợi).
    Chỉ trong vòng mười ngày, toàn bộ lực lượng quân đội của họ Trịnh đã hoàn toàn tan rã. Cơ nghiệp của họ Trịnh được gây dựng nên trên hai trăm năm đến đó là cáo chung. Bấy giờ, vua Lê là Lê Hiển Tông (tên thật là Lê Duy Diêu, sinh năm 1717, lên ngôi năm 1740, ở ngôi 46 năm (đến năm 1786). Ông là vua thứ 26 trong tổng số 27 đời vua của triều hậu Lê (1428-1788). Vua cuối cùng của triều Lê là Lê Chiêu Thống (1786-1788)) đang lâm bệnh nặng. Sức sống của triều Lê cũng chẳng khác gì sức khỏe của vua Lê. Nguyễn Huệ vào Thăng Long, yết kiến vua Lê và khẳng định lại mục đích Phù Lê diệt Trịnh.
    Sau lần tiếp kiến nói trên, Lê Hiển Tông đã đem Công chúa Ngọc Hân gả cho Nguyễn Huệ. Mối lương duyên giữa Nguyễn Huệ với Ngọc Hân Công Chúa bắt đầu từ đó.
    Trận tấn công năm 1786 của Nguyễn Huệ có ý nghĩa rất to lớn. Từ đây, biên giới sông Gianh bị xoá bỏ, lãnh thổ Đàng Ngoài với Đàng Trong bị chia cách trên hai thế kỉ đã được nối liền, cơ sở quan trọng đầu tiên cho sự thiết lập nền thống nhất quốc gia đã xuất hiện. Từ đây, những tập đoàn phong kiến cát cứ lớn nhất đã hoàn toàn bị tiêu diệt, tức là trở lực lớn nhất của sự nghiệp thống nhất quốc gia không còn nữa. Cũng từ đây, phong trào nông dân Tay Sơn đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ tên khắp cả nứoc, trở thành trung tâm hội tụ sức mạnh của hàng vạn nông dân bị áp bức trên khắp mọi miền trong cuộc chiến đấu ngoan cường chống cả thù trong lẫn giặc ngoài.
    Tháng 8 năm 1786, sau khi dựng lại triều Lê vốn đã rất tàn tạ, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn. Chuyến này, Nguyễn Huệ trở về cùng với Nguyễn Nhạc (sau khi nhận được tin báo của Nguyễn Huệ là sẽ tiến quân ra Thăng Long, Nguyễn Nhạc rất lo lắng, bèn vội vã đuổi theo. Đến đây, cả hai anh em cùng về Quy Nhơn).
    Còn tiếp
    -----------------------------------
    ?oLàm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành?
    Hồ Chí Minh
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Tổng chỉ huy trận quyết chiến Ngọc Hồi-Đống Đa (năm 1789: 36 tuổi)
    Tình hình phía Bắc sau khi Nguyễn Huệ rút quân về Nam
    Một trong những viên tướng có công rất nổi bật đối với Tây Sơn năm 1786 là Nguyễn Hữu Chỉnh. Chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã bàn mưu đánh vào quân Trịnh ở Thuận Hóa. Sau chiến dịch Thuận Hóa, chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã tiếp tục bàn mưu đưa quân đội Tây Sơn đánh ra Đàng Ngoài, đồng thời là tướng tiên phong của Nguyễn Huệ trong cuộc tấn công táo bạo này. Người đầu tiên đánh vào Vị Hoàng là Nguyễn Hữu Chỉnh. Người đầu tiên đánh vào Thăng Long cũng là Nguyễn Hữu Chỉnh. Và cũng chính Nguyễn Hữu Chỉnh đa bàn với vua Lê Hiển Tông đem Ngọc Hân Công chúa gả cho Nguyên Huệ. Tóm lai, Nguyễn Hữu Chỉnh đã cố làm tất cả cả mọi điều, cốt để tạo niềm tin đối với Nguyễn Huệ. Nhưng, Nguyễn Huệ lại không tin ở con người này, bởi lẽ, Nguyễn Hữu Chỉnh đến với Tây Sơn không thực lòng, chẳng qua do thất thế và cô thân sau những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái của Đàng Ngoài
    Xuất phát từ nhận định về bản chất con người của Nguyễn Hữu Chỉnh như vậy, canh ba (tướng ứng khoảng từ 23 đến 01 giờ) đêm ngày 17 tháng 8 năm 1786, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ sai người vào từ biệt vua Lê (ở đây vua Lê là Lê Chiêu Thống, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông) rồi bí mật hạ lệnh cho quân sĩ lặng lẽ trở về Nam, bỏ mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại. Sáng ngày hôm sau, khi Nguyễn Hữu Chỉnh hay tin thì Nguyễn Nhạc và nguyễn Huệ đã đi xa rồi. Sử cũ viết:
    ?oSáng ra, Nguyễn Hữu Chỉnh biết tin, vội vàng không biết tính sao, bèn cùng vài chục thủ hạ cướp lấy một chiếic thuyền để đuổi theo. Người trong kinh đô tranh nhau lấy gạch ngói để ném. Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự tay đâm chết vai chục người mới thoát được thân? (theo Khâm định Việt sử thông giám).
    Tới Nghệ An thì Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi kịp quân Tây Sơn nhưng Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vẫn không cho Nguyên Hữu Chỉnh theo về Quy Nhơn mà sai ở lại, cùng với Nguyễn Duệ trông coi trấn Nghệ An. Quân Tây Sơn đi rồi, tình hình Thăng Long nói riêng và phía Bắc nói chung trở nên rất bi đát. Có thể tóm tắt như sau:
    -Sau khi Trịnh Khải bỏ chạy, bị bắt rồi tự tử mà chết, hai nhân vật khác của họ Trịnh là Trịnh Bồng và Trịnh Lệ bắt đầu tranh giành quyền được tự lập làm chúa.
    +Phe Trịnh Lệ có Trương Tuân, Dương Trọng Khiêm (người làng Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, nay là xã Lạc Đạo, huyện Mỹ Văn, tỉnh hưng Yên, đỗ tiến sĩ năm 1754) làm vây cánh, nhưng Dương Trọng Khiêm chỉ theo Trịnh Lệ được một thời gian ngắn, sau thì làm phản, chống lại Trịnh Lệ.
    +Phe Trịnh Bồg có Đinh Tích Nhưỡng làm chỗ dựa.
    Trong cuộc tranh giành này, cuối cùng, Trịnh Bồng đã chiến thắng. Trịnh Bồng tự lập làm Nguyên Soái, tước Yến Đô vương. từ đây, cục diện vua Lê-chúa Trịnh lại tái lập như cũ.
    -Tháng 11-1786, Trịnh Bồng đem quân vây chặt cung vua, định phế bỏ Lê Chiêu Thống. Nhờ có Hoàng Phùng Cơ bảo vệ, Lê Chiêu Thống mới chặn đứng được âm mưu của Trịnh Bồng. Nhân đó, Lê Chiêu Thống ra lệnh triệu Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An về Thăng Long.
    -Cuối tháng 11-1786, Nguyễn Hữu Chỉnh nhân danh việc phò tá vua Lê, đã đem quân đánh đuổi Trịnh Bồng ra khỏi Thăng Long. Nhờ công lao đó, Nguyễn Hữu Chỉnh được vua Lê Chiêu Thống phong làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ, tước Bằng Trung Công. từ đó, ?oquyền của Chỉnh ngang với quyền Nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước? (theo Hoàng Lê nhất thống chí).
    -Tháng 2-1787, do thấy Nguyễn Hữu Chỉnh ngày một lộng quyền, Lê Chiêu Thống định ngầm bỏ thuốc độc để giết đi. Việc này vì có Vũ Trinh (người làng Xuân Quan, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) can ngăn nên mới thôi. Tuy vậy, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đoán được sự chẳng lành đang rình rập mình, vì thế, bỏ cả việc chầu hầu, thả cửa cho bọn tay chân đi cướp phá. Kinh Thành Thăng Long bất an, nhiều người bắt đầu lên tiếng đòi giết Nguyễn Hữu Chỉnh.
    -Tháng 4 năm 1787, sau khi đã nắm khá đầy đủ những tin tức về hành vi sai trái của Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long, Nguyễn Huệ ra lệnh triệu Nguyễn Hữu Chỉnh về Nam nhưng Chỉnh lấy cớ là Bắc Hà chưa yên, không chịu tuân lệnh. Nguyễn Huệ tức giận, sai Vũ Văn Nhậm (vốn là tướng của chúa Nguyễn, sau đó đầu hàng Tấy Sơn, được Nguyễn Nhạc gả con gái cho, vì thế sử cũ vẫn chép là Phò mã Vũ Văn Nhậm).
    -Trong lúc Vũ Văn Nhậm đang trên đường ra Bắc thì tình hình Bắc Hà ngày một rối ren. Các phe cánh không ngừng tìm cách thanh toán lẫn nhau:
    +Dương Trọng Khiêm chạy đến Lạc Đạo, phát hịch kêu gọi khôi phục cơ nghiệp của chúa Trịnh. Nhưng, Dương Trọng Khiêm vừa mới khởi sự đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh sai tướng là Hoàng Viết Tuyển (người làng Vạn Phân, huyện Đông Thành nay thuộc Nghệ An) đem quân tới đánh. Dương Trong Khiêm bại trận, bị bắt và bị giết.
    +Hoàng Phùng Cơ ở Tây Sơn quyết đem quân về Thăng Long để giết Chỉnh nhưng quân Hoàng Phùng Cơ mới tiến đến Đại Phùng (một làng, nay thuộc Đan Phương, Hà Tây) đã bị tướng của Chỉnh là Nguyễn Duật (người làng Nộn Liễu, huyện Nam Đường, nay thuộc Nghệ An) đánh bại. Hoàng Phùng Cơ bị bắt và sau đó bị bức tử.
    +Trịnh Bồng được sự hỗ trợ của số một tướng như Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Trọng Mại (người làng Quế Ổ, huyện Quế Dương, nay thuộc Bắc Ninh), Phạm Đình Thiện (người làng Bác Trạch, huyện Chân Định, nay thuộc Thái Bình) và một số hào mục mà nổi bật nhất là Trần Mạnh Khuông (người làng Đông Quan huyện Đông Quan, nay thuộc Thái Bình) đã nổi binh chống la Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhưng, cũng chỉ sau một trận giao tranh, lực lượng của Trịnh Bồng đã hoàn toàn tan rã, Trịnh Bồng chạy trốn, về sau không rõ sống chết thế nào.
    +Tại Cao Bằng, Nguyễn Hàn (người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1779) là người của vua Lê Chiêu Thống và Lưu Tiệp (người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1772) là người của Trịnh Bồng, đem quân đánh giết lẫn nhau. Kết quả là cả nhà Nguyễn Hàn đều bị Lưu Tiệp giết hại, lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống đến đây hoàn toàn tan rã.
    -Tháng 11-1787, quân Vũ Văn Nhậm đã tiến khá sâu vào đất Bắc Hà. Trận giao tranh đầu tiên diễn ra tại khu vực sông Thanh Quyết (ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình). Quân của Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng bị đẩy lùi. Sau đó, nhờ có thêm sự trợ giúp của Ngô Văn Sở, Vũ Văn Nhậm liên tiếp đánh bại những cố gắng của Nguyễn Hữu Chỉnh. Cuối cùng, Chỉnh bị thua và bị bắt giết. Vũ Văn Nhậm vào Thăng Long còn vua Lê Chiêu Thống thì hoảng sợ bỏ đi trốn khắp nơi.
    -Vũ Văn Nhậm vào Thăng Long, tự cho mình là có công to không ai sánh kịp, liền làm nhiều điều sai trái khó có thể dung tha. Vì lẽ đó, tháng 4-1788, đích thân Nguyễn Huệ đã cầm quân ra Bắc bắt giết Vũ Văn Nhậm, sau đó, trao quyền Ngô Văn Sở. Trước khi rút về Nam, Nguyễn Huệ còn có hai quyết định quan trọng khác. Một là đưa Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc. Giám Quốc là chức trông coi việc cúng tế ở nhà Thái Miếu của triều Lê. Lúc này, Lê Chiêu Thống đã rời Thăng Long, mà chạy trốn khắp nơi. Cho nên, Lê Duy Cận mới được trao chức này. Hai là thành lập một bộ máy chính quyền của Tây Sơn đóng tại Thăng Long để cai quản đất Bắc. Đứng đầu bộ máy chính quyền này là Ngô Văn Sở. Sát cánh với Ngô Văn Sở trong bộ máy chính quyền này, bên cạnh một số tướng lĩnh của Tây Sơn, còn có một số cựu thần của nhà Lê. Họ là những trí thức nhạy bén với thời cuộc, cũng là những người thực sự giàu nhiệt huyết và tài năng. Chính họ đã có đóng góp rất đáng kể vào những thắng lợi của Tây Sơn sau đó. Chúng ta có thể kể tên 6 nhân vật tiêu biểu:
    -Ngô Thì Nhậm (1746-1803): người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà nôi. Ngô Thì Nhậm (sau vì vua Tự Đức tên là Nguyễn Phúc Thì (huý chữ Thì) hiệu là Hồng Nhậm (huý chữ Nhậm) nên tên ông đọc thành Ngô Thời Nhiệm) đỗ tiến sĩ năm 1775. Ông là con của Hoàng Giáp Ngỗ Thì Sĩ (1725-1780)
    -Phan Huy Ích (1751-1822) người lành Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con của Tiễn sĩ Phan Huy Áng (cũng tức là Phan Huy Cận:1733-1800), anh của tiến sĩ Phan Huy Ôn (1755-1786). Phan Huy Ích đỗ tiến sĩ năm 1775. Ông là em rể của Ngô Thì Nhậm. Và cũng là bố của nhà sử học Phan Huy Chú.
    -Nguyễn Thế Lịch (1750-1829), người làng Yên Lũng, huyện Từ Liêm, này là thôn Yên Lũng, xã An Khánh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Ông đỗ tiến sĩ năm 1775.
    -Ninh Tốn (1744-1790) người làng Côi Trì, huyện Yên Mô, này là xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, đõ tiến sĩ năm 1778. Ông là dòng dõi của tiến sĩ Ninh Đạt, cháu của Hoàng Giáp Ninh Địch.
    -Nguyễn Du (1754-?), người làng Viên Ngoại, huyện Chương Đức, này là xã Viên Ngoại, huyện Ứng Hoà, Hà Tây, đỗ Tiến sĩ năm 1785. Đây không phải là tác giả của Truyện Kiều. Có hai người tên là Nguyễn Du.
    -Nguyễn Bá Lan (1757-?) người làng Cổ Linh, huyện Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội, đỗ tiến sĩ năm 1785.
    Trong sáu nhân vật nói trên, Ngô thì Nhậm và Phan Huy Ích có vị trí và ảnh hưởng to lớn nhất. Chính Ngô Thì Nhậm là người đã có công rất lớn trong việc tham gia vạch kế hoạch đối phó với quân xâm lược Mãn Thanh.
    Còn tiếp
    -------------------------------------
    "Làm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành"
    Hồ Chí Minh
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Bước đường cùng của Lê Chiêu Thống
    Lê Chiêu Thống tên thật là Lê Duy Kỳ, sinh năm 1765. Sử cũ cho biết, Lê Chiêu Thống là con trưởng của Thái Tử Lê Duy Vĩ, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông. Trước đó, Thái Tử Lê Duy Vĩ bị chúa Trịnh là Trịnh Sâm giết hại vào tháng 12-1771. Năm 1786, vua Lê Hiển Tông chết. Trước đó, 4 năm (1782), chúa Trịnh Sâm cũng đã qua đời, triều thần nhân đó đã đưa Lê Duy Kỳ lên nối ngôi. Bấy giờ, Nguyễn Huệ đáng có mặt tại kinh thành Thăng Long và thể theo đánh giá của Ngọc Hân về nhân cách của Lê Duy Kỳ, Nguyễn Huệ không thật sự bằng lòng với việc đưa Lê Duy Kỳ lên ngôi. Tuy nhiên, mọi việc sau đó cũng được thu xếp ổn thoả, chỉ tiếc là quan hệ giữa Nguyễn Huệ với Lê Duy Kỳ vì thế mà gặp nhiều trở ngại. Lê Duy Kỳ vừa tức và sợ Nguyễn Huệ.
    Từ khi được đưa lên ngôi, Lê Chiêu Thống hầu như không nấy khi được ở yên trong hoàng cung. Nỗi lo lắng về sự trỗi dậy của thế lực họ Trịnh cộng với sự sợ hãi đối với Tây Sơn đã khiến cho Lê Chiêu Thống phải nhiều phen lao đao.
    Theo thời gian, dần dần, văn thần và võ tướng đều từ bỏ Lê Chiêu Thống, thậm chí, còn công khai chống lại vua Lê. Chuyện điển hình là: tháng 12-1787, quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy đã tiến ra Thăng Long để hỏi tội Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi nghe tin Chỉnh thua trận, Lê Chiêu Thống rất bối rối. Bấy giờ có quan giữ chức Tham Tri Chính Sự là Nguyễn Khuê (người làng Đặng Xá, huyện Chân Phúc, nay thuộc Nghi Lộc, Nghệ An, đỗ tiến sĩ năm 1787) đến bàn với Lê Chiêu Thống rằng:
    ?oTrấn Thủ Kinh Bắc là Nguyễn Cảnh Thước (võ quan, người làng Đông Lương, huyện Nam Đàn, Nghệ An) khí chất hùng mạnh và mưu lược hơn người, rất đáng được tin cậy, vậy ta hãy giữ lấy Kinh Bắc làm nơi thủ thế. Nơi đó có thành luỹ vững chắc, có sông Cái ngăn cách. Từ Kinh Bắc, ta phát lời kêu gọi cần vương thì có thể dễ dàng thông tin đi khắp các xứ, trên thì Thái Nguyên và Sơn Tây, dưới thì Hải Dương và Sơn Nam? chẳng mấy chốc mà có thể tập hợp được đại binh. Sau, ta sẽ tuỳ thời mà hành động, ắt có ngày phục hưng? (theo Khâm định Việt sư thông giám cương mục).
    Lê Chiêu Thống nghe theo lời bàn, bèn đi sang Kinh Bắc (nay tướng ứng với Bắc Ninh và Bắc Giang). Đến nơi, kẻ theo hầu chỉ còn dăm bảy người nữa mà thôi. Nhưng Nguyễn Cảnh Thước cáo bệnh, đóng cửa thành lại, không chịu tiếp đón Nhà vua! Vừa buồn vừa tức, Lê Chiêu Thống đành phải tìm chốn dung thân ở nơi khác. Chẳng dè, vừa đi đựoc một quãng thì ?oNguyễn Cảnh Thước tung thủ hạ ra cướp hết mọi của cải do bọn hầu ngự giá mang theo. Chúng còn đuổi theo Nhà vua và lột cả tấm hoàng bào của Nhà vua nữa. Nhà vua đau xót đến rơi cả nước mắt nhưng cũng đành phải cởi ra để trao cho chúng? (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
    Từ đây, Lê Chiêu Thống hết lên ngược lại về xuôi, gian nan trở ngại rất nhiều. Sau đây là những ghi chép của thư tịch cổ:
    -Tháng 12-1787, sau khi bị thủ hạ của Nguyễn Cảnh Thước cướp bóc hết của cải, Lê Chiêu Thống chạy đến vùng Yên Thế (nay thuộc Bắc Giang), nương nhờ ở một viên tướng cướp cũ là Dương Đình Tuấn (người làng Dương Lâm, huyện Yên Thế, nay thuộc Bắc Giang).
    -Tháng 2-1788, sau một thời gian được Dương Đình Tuấn hết lòng phò tá, Lê Chiêu Thống bỗng lo sợ là Dương Đình Tuấn sẽ ăn ở hai lòng. Do vậy, bỏ Yên Thế chạy đến Gia Định (nay thuộc Bắc Ninh). Kẻ theo hầu chỉ còn chừng dăm ba người nữa mà thôi.
    -Ở Gia Định chỉ được mấy ngày, Lê Chiêu Thống lại chạy về Chí Linh (nay thuộc Hải Dương). Nhờ sự ủng hộ của một số thổ hào địa phương, Lê Chiêu Thống tạm yên được một thời gian ngắn.
    -Tướng cũ của chúa Trịnh là Đinh Tích Nhưỡng, lúc bấy giờ đang ở Đông Triều (nay thuộc Quảng Ninh), nghe tin Lê Chiêu Thống ở Chí Linh, liền đem quân tới đánh. Dân binh Chí Linh đánh giết được hai em của Đinh Tích Nhưỡng là Đinh Vũ Sầm và Đinh Vũ Kính, khiến Đinh Tích Nhưỡng hoảng sợ mà bỏ chạy.
    -Sau cuộc đụng độ với Đinh Tích Nhưỡng ở Chí Linh, Lê Chiêu Thống chạy ra Thuỷ Đường (xưa thuộc Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng). Ở Thuỷ Đường chưa ấm chỗ, Lê Chiêu Thống lại chạy vào Vị Hoàng. Nói theo cách nói của sử cũ là Lê Chiêu Thống phải ?olong đong xuôi ngược, hết sang đông lại lên bắc?.
    -Mới đến Vị Hoàng, chưa kịp ổn định nơi ăn chốn ở thì Lê Chiêu Thống đã bị Ngô Văn Sở đem quân Tây Sơn tới đánh. Lê Chiêu Thống hốt hoảng chạy đến vùng Quần Anh (là tên xã thuộc huyện Nam Chân, nay thuộc huyện Nam Trực, Nam Định) và tại đây, một trận bão đã nổi lên, chiến thuyền của Lê Chiêu Thống trôi dạt đến Thiết Giáp (là tên xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Từ Thiết Giáp, Lê Chiêu Thống đi bộ đến Kim Bảng (tên trấn lị của huyện Kim Bảng xưa, nay thuộc Hà Nam) và sau đó lại đi ra Kinh Bắc.
    -Tháng 7-1788, mẹ của Lê Chiêu Thống từ Cao Bằng được sự giúp đỡ của Hoàng Ích Hiểu (người Cao Bằng, xuất thân là võ quan, lúc này đang là Địch Quận Công), Lê Quýnh (người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại, nay thuộc thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Lê Quýnh là con của tiến sĩ Lê Doanh Giản, và là cháu gọi tiến sĩ Lê Doãn Thân bằng chú ruột. Tuy nhiên bản thân Lê Quýnh thì không đỗ đạt gì) và Nguyễn Quốc Đống (người làng Tì Bà, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Là anh ruột của Hoàng Phi Nguyễn Thị Kim (vợ Lê Chiêu Thống), mẹ đẻ của đứa con trai của Lê Chiêu Thống được đưa sang Trung Quốc), đã đem con trai của Lê Chiêu Thống chạy sang China.
    -Tại Trung Quốc, mẹ của Lê Chiêu Thống và đám tuỳ tùng nói trên đã gặp Tôn Sĩ Nghị (là võ quan cao cấp của nhà Thanh, lúc này đang chức Tổng Đốc Lưỡng Quảng) và Tôn Vĩnh Thanh (là văn thần cao cấp của nhà Thanh, lúc này đang giữ chức Tuần Phủ tỉnh Quảng Tây). Sử cũ chép:
    ?oBọn Tôn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh là Tự Hoàng nhà Lê đang phải bôn ba, xét nghĩa lớn thì ta nên cứu. Vả chăng, An Nam vỗn dĩ là đất xưa của Trung Quốc, cho nên, khi giúp khôi phục được nhà Lê rồi, ta cũng có thể nhân đó mà đặt đồn binh canh giữ. Vậy là ta vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lại được An Nam, thật đúng là một việc mà được hai điều lợi? (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục).
    -Nhận được lời tâu trên, vua Thanh lúc này là Càn Long lập tức đồng ý. Một kế hoạch xua quân sang mượn cớ Phù Lê diệt Tây Sơn để xâm lược nước ta nhanh chóng được vạch ra. Nhận được tin này, Lê Chiêu Thống vô cùng vui mừng, liền sai tay chân sang China để chuẩn bị đón rước quân Thanh.
    Như vậy, Lê Chiêu Thống từ chỗ chống đối Tấy Sơn đến chỗ phản quốc.
    Còn tiếp
    ------------------------------------
    "Làm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành"
    Hồ Chí Minh
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Quân Thanh sang xâm lược nước ta
    Theo lệnh của Càn Long, Tổng Đốc Lưỡng Quảng của nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị đã nhanh chóng tổ chức cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Công việc chuẩn bị này bao hàm mấy bước với những nội dung cụ thể như sau:
    -?oTrước hết, tung ra chừng vài trăm tờ hịch để tuyên bố cho gần xa biết? (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục) việc quân Thanh sắp sửa xuất quân sang nước ta. Chính Càn Long trong một chỉ dụ gửi cho Tôn Sĩ Nghị cũng đã nói rõ như thế: ?oCứ từ từ ma làm, không việc gì phải vội vã, trước hãy truyền hịch để gây thanh thế?? (theo Đại Nam chính biên liệt truyện)
    -Hạ lệnh cho quan Tri Phủ ở Điền Châu giúp đám tay chân của Lê Chiêu Thống chạy sang China, đứng ra tập hợp lực lượng chống Tây Sơn, đồng thời tuyển mộ thêm quân sĩ để sẵn sàng phối hợp với quân của Tôn Sĩ Nghị đã huy động được hai mươi chín vạn quân chiến đấu và hàng chục vạn dân phu.
    Cuối năm 1788, khi công cuộc chuẩn bị đã tương đối chu tất, Càn Long hạ chiếu phong cho Tôn Sĩ Nghị làm Chinh Man Đại Tướng Quân (đặt cái tên nghe rất ngứa cái lỗ tai), nắm quyền tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng quân Thanh sang xâm lược nước ta. Tổng Đốc Vân Quý (tức Vân Nam và Quý Châu) là Phúc Khang An chịu trách nhiệm huy động và vận tải lương thực cho đạo quân xâm lược khổng lồ này. Tôn Sĩ Nghị chia quân làm ba đạo, tiến vào nước ta qua ba ngả khác nhau:
    Đạo thứ nhất do tướng Ô Đại Kinh chỉ huy. Ô Đại Kinh nguyên là Đề Đốc ở Vân Nam và Quý Châu. Đạo này từ Vân Nam, qua Mã Bạch Quan (cửa ải biên giới Việt Nam-China) rồi xuống Hà Giang, Tuyên Quang, băng qua Thái Nguyên, về Hà Bắc và tiến xuống Thăng Long.
    Đạo thứ hai do Sầm Nghi Đống chỉ huy, tiến vào nước ta qua ngả Cao Bằng. Đạo này, ngoài quân China còn có cả lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống đang lưu vong ở China mới được Sầm Nghi Đống tuyển mộ.
    Đạo thứ ba là đạo chủ lực, do đích thân Tôn Sĩ Nghị cầm đầu. Dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị còn có các tướng khác như:
    +Đề Đốc Hứa Thế Hanh giữ chức Phó Tướng
    +Tổng Binh Thượng Duy Thăng và Tổng Binh Khánh Thành chỉ huy bộ binh huy động từ Quảng Tây
    +Tổng Binh Trương Triều Long và Tổng Binh Lý Hóa Long chỉ huy bộ binh huy động từ Quảng Đông
    Đạo thứ ba này tiến vào nước ta qua ngả Lạng Sơn. Ngày 28-10-1788 (tức 25-11-1788 theo lịch dương), cả ba đạo quân nói trên đều cùng xuất phát. Khẩu hiệu hành quân của Tôn Sĩ Nghị là phò Lê diệt Tây Sơn. Chỉ dụ của Càn Long gửi cho Tôn Sĩ Nghị trước lúc Tôn Sĩ Nghị xuất quân đã nói khá rõ mưu đồ của nhà Thanh đối với nước ta lúc bấy giờ:
    ?oTrước hãy truyền hịch để gây thanh thế, sau đó thì để bọn cựu thần nhà Lê về nước tìm Tự Quân của nhà Lê, khiến chúng ra đối địch với Nguyễn Huệ. Giá thử Nguyễn Huệ mà bỏ chạy thì cho Tự Quân của nhà Lê đuổi theo, ta chỉ nên đi tiếp ứng mà thôi. Đó là thượng sách vì không khó nhọc mà vẫn thành công.
    Người trong nước họ, nếu một nửa theo Nguyễn Huệ mà Nguyễn Huệ không chịu rút quân, thì phải nhờ thủy binh ở Mân Quảng (là vùng Phúc Kiến và Quảng Đông của China) vượt biển đánh vào Thuận Quảng rồi từ đó đánh ra, kế đến bộ binh mới tiến. Hai mặt trước sau đều bị đánh thì tất nhiên Nguyễn Huệ phải chịu quy phục. Ta sẽ nhân đó mà ràng buộc cả hai, từ Thuận Quảng vào Nam thì chia cấp cho Nguyễn Huệ, từ Hoan Ái (vùng từ Hà Tình đến Thanh Hóa ngày nay) trở ra thì chia cấp cho nhà Lê, còn ta thì đóng đại binh ở giữa để kiềm chế cả hai, sau sẽ có cách xử trí khác? (theo Đại Nam chính biên liệt truyện)
    Trước khi lên đường, Tôn Sĩ Nghị ban bố cho toàn quân tám điều quân luật, trong đó có những điều luật nói rất rõ về cách đề phòng voi chiến và hỏa hổ (ống phun lửa) của Tây Sơn. Tóm lại, đội quân xâm lược Mãn Thanh vừa rất đông đảo, vừa được chuẩn bị chu đáo và có quyết tâm cao. Một lần nữa, Tây Sơn đứng trước một thử thách hết sức cam go. Thành bại của Tây Sơn lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào thành bại của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Thanh.
    Tình hình Bắc Hà trước tết Kỉ Dậu (1789)
    Khi quân Thanh bắt đầu tràn vào nước ta, lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống dần dần ngóc đầu dậy, xã hội Bắc Hà bị phân hóa thành nhiều xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ nhất là săn sàng sát cánh với Tây Sơn để chống quân xâm lược, chống vi phản dân hại nước của Lê Chiêu Thống. Xu hướng thứ hai, tìm mọi cách để giũp đỡ Lê Chiêu Thống. Xu hướng thứ ba là bi quan và chán nản, họ không đứng về Tây Sơn nhưng cũng không chịu hợp tác với Lê Chiêu Thống. Đó là ba xu hướng lớn, ngoài ra còn có những xu hướng khác. Bối cảnh ấy đã đặt quân Tây Sơn trước những khó khăn rất lớn. Bấy giờ, Ngô Văn Sở đã có bốn quyết định rất quan trọng:
    Một là cử người về Phú Xuân cấp báo cho Nguyễn Huệ rõ những diễn biến phức tạp của tình hình ở Bắc Hà, đồng thời xin mệnh lệnh của Nguyễn Huệ.
    Hai là cử một đoàn gồm chủ yếu là các cựu thần của nhà Lê như Nguyễn Quý Nha, Trần Bá Lãm (người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, Hà Nội, ông đỗ Chế Khoa Xuất Thân-ngang với tiến sĩ năm 1787), Vũ Huy Tấn (người làng Mộ Trạch, huyện Dường An, nay là xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đỗ đầu khoa thi Hương năm 1768. Thời Quang Trung, ông được phong tới chức Thượng Thư), Nguyễn Đình Khoa (người huyện Văn Giang, nay thuộc Hưng Yên, đỗ tiến sĩ võ), Lê Duy Chử, Nguyễn Đang Đàn? đem bức thư kí tên Giám Quốc Lê Duy Cận, cùng với một tờ bẩm kí tên các hào mục nước ta, lên tận biên giới để trao cho Tôn Sĩ Nghị, xin được ?onghị hoà?. Đó thực ra chỉ là một trong những biện pháp làm chậm bước tiến của quân Thanh.
    Ba là chấp thuận cho một số võ tướng đem quân lên biên giới, sẵn sàng làm nhiệm vụ đánh chặn khi quân Thanh tràn sang biên giói nước ta.
    Bốn là tổ chức cuộc hội nghị quân sự cao cấp tại kinh thành Thăng long nhằm thống nhất về phương hướng đối phó với quân Thanh.
    Tại cuộc hội nghị này, bộ chỉ huy Tây Sơn ở Thăng Long đã nhất trí với chủ trương: tạm thời lui quân về Tam Điệp và Biện Sơn (nằm tiếp giáp giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình) để bảo toàn lực lượng, chờ đại quân của Nguyễn Huệ ra rồi mới đánh trận quyết định với quân Thanh. Bởi chủ trương chung này, quân Thanh đã tràn vào Thăng Long tương đối dễ dàng.
    Nghe tin quân chủ lực Tây Sơn đa rút khỏi Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị rất tức tối. Hắn đổ tội cho Lê Chiêu Thống, cho Lê Chiêu Thống và đám tay chân là hèn nhát và kém cỏi, không làm nên được tích sự gì, và ?ocó Lê Chiêu Thống cũng kể như không?. Lê Chiêu Thống phải cúi đầu năn nỉ mãi, Tôn Sĩ Nghị mới tạm thôi không quở trách nữa (theo Hoàng Lê nhất thống chí). Vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị đặt đại bản doanh tại cung Tây Long. Đạo quân do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy thì đóng dọc theo bãi cát hai bên bờ sông Nhị, liên hệ với nhau bằng môt chiếc cầu phải bắc tạm qua sông. Đạo quân do Sầm Nghi Đống chỉ huy đóng tại Đống Đa. Đạo quân do Ô Đại Kinh cầm đầu đóng tại Sơn Tây. Và một đạo thuỷ quân nhỏ của tôn Sĩ Nghị đóng tại Hải Dương. Các đạo thường xuyên liên lạc để sẵn sàng ứng cứu cho nhau khi có lệnh.
    Bấy giờ là những ngày cuối năm, Tôn Sĩ Nghị thả lỏng cho quân sĩ mặc sức đi cướp bóc, ?otìm cách vu hãm người lương thiện, áp bức nhà giàu có, thậm chí là giữa đường giữa chỡ cũng hãm hiếp đàn bà, cướp bóc của cải, không còn biết kiêng sợ gì cả?. Người đương thời đã phải đau khổ mà than rằng: ?oNước Nam ta từ thuở có Đế Vương đến nay, chưa từng thấy ông vua nào luồn cúi đề hèn như thế cả? (theo Hoàng lê nhất thống chí).
    Nếu đối với Tôn Sĩ Nghị nói riêng và quân Thanh nói chung, Lê Chiêu Thống tỏ ra ?ođê hèn? và ?oluồn cúi? bao nhiêu, thì ngược lại, đối với người trong nước, Lê Chiêu Thống lại tỏ ra hống hách và tàn ác bấy nhiêu. Mượn thế quân xâm lược, Lê Chiêu Thống tìm đủ mọi cách để tác oai tác quái, oán dẫu chỉ như tơ tóc cũng quyết trả cho bằng được mới thôi. Hành vi đó đã khiến cho xã hội Bắc Hà vỗn dĩ đã bị phân hóa lại càng bị phân hóa sâu sắc hơn.
    Còn tiếp
    -----------------------------------------------
    "Làm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành"
    Hồ Chí Minh
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Dạ thưa với bác rằng: đúng là ông Lê Quý Đôn nổi tiếng. Chắc bác nhớ nhầm thôi. Lê Thánh Tông (tên thật là Lê Tư Thành) sinh tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), là con của Vua Lê Thái Tông với bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Dao, lên ngôi năm 1460, minh oan cho Nguyễn Trãi cũng vào tháng 7 năm 1464 cơ. Còn Lê Quý Đôn sinh năm 1726 cơ mà?
    ---------------------------------------------------
    "Làm cho dân có ăn
    Làm cho dân có mặc
    Làm cho dân có chỗ ở
    Làm cho dân được học hành"
    Hồ Chí Minh

Chia sẻ trang này