1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu phong tục và kiến thức đó đây : SỰ TÍCH TÁO QUÂN ( Trang 2 )__

Chủ đề trong 'Hải Phòng' bởi thankiemvdk, 16/01/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Tục xông đất
    Tục lệ xông đất đã có lâu đời ở nước ta. Người dân Việt Nam quan niệm ngày mồng Một là ngày đầu của một năm. Họ cho rằng vào ngày mồng Một, nếu mọi việc xảy ra suôn sẻ, mau mắn thì cả năm cũng sẽ được tốt lành thuận lợi. Người khách đến thăm nhà đầu tiên trong một năm cũng vì thế mà quan trọng. Cho nên cứ cuối một năm, mọi người có ý tìm xem những người nào vui vẻ, linh hoạt, đạo đức, và thành công trong bà con hay láng giềng để nhờ sang thăm. Tục này gọi là tục xông đất.
    Người khách đến xông đất phải đến thăm sáng sớm ngày mùng Một (vì muốn là người khách đầu tiên), mang theo quà biếu như trái cây, bánh mứt, và tiền lì xì cho trẻ con trong nhà. Chủ nhà, do đã sắp đặt trước, sẽ tiếp đón niềm nở và nhận những lời chúc tốt lành. Người đến xông đất thường chỉ đến thăm, chúc Tết chừng năm mười phút chứ không ở lại lâu, hầu cho mọi việc trong năm của chủ nhà cũng được trôi chảy thông suốt.
    Người đi xông đất xong có niềm vui vì đã làm được việc phước. Người được xông đất cũng sung sướng vì tin tưởng gia đạo mình sẽ may mắn trong suốt năm tới.
    Chúc Tết và mừng tuổi
    Sáng sớm mồng một Tết hay ngày "Chính đán", mọi sinh hoạt ngừng lại, các con cháu tụ họp ở nhà tộc trưởng để lễ Tổ Tiên chúc tết ông bà, các bậc huynh trưởng và mừng tuổi lẫn nhau. Theo tục lệ, cứ năm mới tới, kể cả người lớn lẫn trẻ con, mỗi người tự nhiên tăng lên một tuổi. Bởi vậy ngày mồng một Tết là ngày con cháu "chúc thọ" ông bà và các bậc cao niên; và các người lớn thì "mừng tuổi" các trẻ em một cách cụ thể bằng những đồng tiền mới bỏ trong những "phong bao". Tục này ở miền Nam quen gọi là "lì xì". Tiền mừng tuổi mà mình nhận được trong ngày tết gọi là "Tiền mở hàng". Xưa còn có lệ cho tiền phong bao với số tiền lẻ (chứ không phải là tiền chẵn). Ngụ ý tiền này sẽ sinh sôi nảy nở thêm nhiều.
    Về chúc Tết, trong ba ngày Tết, những thân bằng quyến thuộc, hoặc những người phải chịu ơn người khác thường phải đi chúc Tết và Mừng Tuổi gia chủ; sau đó xin lễ ở bàn thờ Tổ Tiên của gia chủ. Tục này ngày nay ít còn, vì thì giờ eo hẹp, đường xá xa xôi cho nên đã được thay thế bằng những thiệp "Chúc Mừng Năm Mới" hay "Cung Chúc Tân Xuân"
    Thú chơi ngày Tết
    Tiến hành những nghi thức lễ tổ tiên và lễ đình chùa, chuẩn bị chu đáo những món ăn ngon ngày Tết của Việt Nam không thể thiếu những trò chơi trong hội xuân của cộng đồng. Tùy đặc điểm và điều kiện, hoàn cảnh sống, từng vùng có những trò chơi riêng, nhưng do quá trình giao lưu, cũng có nhiều trò mang tính phổ biến. Vì thế, bên cạnh những Bắt chạch trong chum, thả chim câu, đua ngựa, đua cà kheo... thường giới hạn ở một số nơi, lại có các trò đánh đáo, đánh phết, tung còn, kéo co, đấu vật, đá cầu, đánh đu, đánh cờ người, bắt vịt, leo cầu ùm... được tiến hành trên phạm vi rộng. Tuy nhiên, còn những cách chơi khác gần gũi đời sống tinh thần, bộc lộ tư tưởng và tình cảm rõ nét hơn, tạm gọi là thú chơi. Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc sơ lược vài loại hình này.
    Đó là những Câu đối viết bằng bút lông lên giấy đỏ, một thể loại văn học cô đọng, hàm súc, lời ý chắt lọc, đối nhau từng chữ, từng âm và tổng thể của hai vế. Chủ đề phải nhất quán thể hiện những khát vọng cao đẹp một cách cụ thể, xác thực. Dùng ít từ là tiểu đối, mỗi vế bảy từ là kiểu đối thơ, nhiều từ là dạng đối phú - có thể kéo dài như bài phú, Câu đối viết chữ Hàn hoặc chữ Nôm cách điệu, vận dụng điển tích hoặc lối nói dân dã, bao hàm cả nghĩa đen và nghĩa bóng để dễ hiểu và gợi liên tưởng. Lớp người bình dân, bởi vậy không xa lạ, ưa dán ở cửa ngõ, cột hiên, cột nhà và hai phía bàn thờ, coi là thú chơi tao nhã. Ngày nay, câu đối vẫn được ưa chuộng, có mặt trên nhiều trang báo Tết và người ta chọn in những câu hay đem phát hành.
    Tranh Tết dân gian xuất hiện từ lâu, các dòng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây) và Sình (Huế) nổi tiếng nhất. Màu sắc tranh lấy các chất liệu sẵn có trong tự nhiên, gồm năm thuốc cái chính chế biến thành chín mầu. Đề tài phân ra tranh tín ngưỡng, tranh lịch sử và cổ tích, tranh giáo huấn, tranh về nghề nghiệp và cảnh vật, tranh châm biếm, tranh hài hước, tranh chúc tụng, tranh trấn trạch, tranh mô tả sinh hoạt nông thôn... Tranh dân gian Việt Nam giản dị, hồn nhiên gợi cảm, có phong cách độc đáo.
    Chơi hoa ngày Tết biểu lộ tình cảm gắn bó thiên nhiên, là tập quán tốt của người Việt Nam. Miền Bắc có hoa đào đỏ thắm, miền nam có mai vàng rực rỡ, hải đường, mẫu đơn, cúc, hồng, lan, huệ được cắm trong lọ, tỏa hương thơm ngào ngạt bên các cành đào hoặc mai và bát thủy tiên trong suốt. Cây quất sum suê những chùm quả vàng mọng, trồng trong chậu sành men da lươn, men hoa lam đặt giữa nhà, tượng trưng sự đủ đầy, no ấm. Khách thưởng ngoạn hoa và cây cảnh thấy được tài khéo léo chọn lựa, xếp sắp hài hòa của gia chủ.
    Tết cũng là những buổi trình diễn nghệ thuật sân khấu của các phường chèo, phường tuồng, phường múa rối, phường ca trù và gánh hát cải lương... Họ là những nghệ nhân xuất thân từ tầng lớp lao động, tập hợp dưới tay một ông trùm, bà cả tài hoa, phân vai tập luyện và di lưu diễn khắp các làng, xã. Hát múa có dàn nhạc đệm đi đôi với diễn là yêu cầu cơ bản nhằm đáp ứng đòi hỏi xem và nghe của người thưởng thức. Những cảnh đời, những số phận được tái tạo từ hiện thực xã hội, phân định rạch ròi thật giả, hướng tới lý tưởng thẩm mỹ lành mạnh, tạo mối đồng cảm và có sức hấp dẫn mạnh mẹ.
    Mùa xuân tràn trề sinh khí, mùa của đôi lứa trao duyên, mùa hội tụ của âm thanh, nhịp điệu vang vọng trong Những bài ca tình yêu. Trống, cồng, chiêng, sênh, phách, khèn, sáo, kèn lá, các loại đàn tứ, nguyệt, tam thập lục, bầu, hồ, nhị, tính, krông-pút, tơrưng, v.v... là những nhạc cụ truyền thống giàu âm sắc chắp cánh cho những vũ điệu và lời ca, tiếng hát.
    Người Thái nâng múa biểu siễn xòe khăn, xòe quạt, xòe nón, xoè nhạc, xoè hoa duyên dáng, bay bổng. Người Tày đắm say trong hát lượn cọi, lượn slương. Người Nùng đằm thắm với hát sli. Người Mông linh hoạt, sôi động trong múa khèn, thổi đàn môi đi hội gàu tào. Người Mường có xéc bùa sử dụng giàn cồng đủ bộ diễn tấu kết hợp hát bài chúc Phác rác và hát thường rang.
    Cư dân Tây Nguyên có múa rông chiêng, hát mũn, a-nhông kiêu, kể khan, H?TĂmon. Người Khmer Nam Bộ hát A-dây, Người Việt hát Xoan, ghẹo, quan họ, đò đưa, trống quân, múa hát dô giậm, Xuân Phả, phường vải, hát giặm, bội, bài chòi.
    Thú chơi ngày Tết bộc lộ bản lĩnh, tính cách, thị hiếu và bản sắc dân tộc, không ngừng được cải tiến, bổ sung, nâng cao trong đời sống đương đại.
    Được pham_tu sửa chữa / chuyển vào 11:41 ngày 02/02/2007
  2. pham_tu

    pham_tu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    06/06/2006
    Bài viết:
    2.973
    Đã được thích:
    0
    Phiên chợ Tết
    Người Việt mình có lệ sửa soạn và sắm Tết trước cả tháng trời. Những buổi chợ mở gần ngày Tết Nguyên đán được gọi là phiên chợ Tết.
    Trước đây, ở chốn thôn quê Việt Nam, các chợ không mở thường ngày như ở các đô thị. Các chợ phủ, huyện hay làng lân cận nhau, thường luân phiên nhóm họp vào các ngày nhất định trong tháng để người đi buôn (bán hàng) và người đi chợ (mua hàng) có thể tới mua và bán ở các chợ này vào những ngày mà mình thấy thuận tiện. Bởi vậy, các phiên chợ Tết rất quan trọng. Đây là những ngày họp chợ lớn nhất trong năm vì người mua và kẻ bán đều đổ dồn về các chợ này để mua bán trao đổi cùng nhau.
    Tùy theo điạ phương, các phiên chợ Tết thường được mở chậm lắm là trước ngày 23 tháng Chạp âm Lịch (là ngày người ta làm lễ tiễn đưa ông táo về chầu trời) Các phiên chợ mở vào ngày gần Tết thì gọi là phiên chợ giáp Tết, và phiên chợ cuối cùng của năm cũ gọi là phiên chợ cuối năm.
    Tại các phiên chợ Tết, người ta thường mua bán những thứ không thể thiếu trong ngày Tết. Việc mua bán này gọi là sắm Tết. Thông thường nhà nào cũng mua sắm gạo nếp, đậu xanh, thịt mỡ, lá dong hay lá chuối để gói bánh chưng, dưa, hành, cá, thịt, miến, nấm, măng, mộc nhĩ để làm cơm cúng gia tiên, hoa quả, bánh mứt, hạt dưa để mời khách trong những ngày Tết....
    Để trang hoàng nhà cửa mừng năm mới, người Việt thích trưng bày những thứ hoa của mùa xuân như hoa cúc, hoa thược dược, cành hoa đào (ở miền Bắc); cành mai vàng (ở miền Nam). Cầu kỳ hơn thì người ta bày hoa thủy tiên là một thứ hoa lâu tàn, có sắc đẹp và hương thơm lạ lùng (nhưng cần phải biết nghệ thuật ươm, trổ thi mới có thứ hoa lạ, quý này nở đúng vào những ngày đầu xuân). Ngoài ra trong ngày Tết, người ta cũng còn thích chưng những chậu cây có trái như cam, quýt, quất...v.v..
    Những phiên chợ Tết độc đáo
    Ở Việt Nam có những phiên chợ, mỗi năm chỉ họp một lần vào dịp giáp Tết hay đúng vào ngày Tết. Xa xôi, cách trở, bận rộn mấy, người ta cũng đến để du xuân, cầu duyên, cầu tài lộc hay đơn giản chỉ là dịp để gặp gỡ thăm hỏi, chúc Tết nhau. Chợ một phiên dịp Tết đã trở thành một thú vui ngày xuân, một cách giao duyên đầu năm mới.
    Chợ Gà (Chợ Ó)
    Chợ gà của làng Xuân Ổ - tức làng Ó, thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh mở vào đêm mồng 4 Tết. Khi trời tờ mờ sáng, dân làng đã đến chợ. Tương truyền, theo quan niệm tín ngưỡng của nhân dân ngày xưa, họp tối để người trần thế và âm phủ có thể cùng đi dự chợ được. Chợ chỉ mua bán những con gà đen tuyền, vì cho rằng giống gà này có thể nhập được vào cõi âm dò xét tình hình nơi ấy về tâu bẩm với đấng Thành hoàng, để Ngài liệu bề phù hộ cho dân. Nhà nào có gà đen đem mang bán ở chợ để hiến tế Thành hoàng sẽ được hưởng phúc lớn. Chợ Gà vừa tan thì ngay trên khu vực chợ, nhiều quán trầu của các bà cụ mọc lên để cho các "liền anh", "liền chị" mời nhau xơi trầu và hát quan họ. Nếu quán chật chỗ thì họ lại trải thêm chiếu trên nền sân chợ, hoặc ngồi trên cánh đồng chung quanh mà hát suốt đêm.
    Chợ Cưới
    Đây là chợ phiên đặc biệt của đồng bào H''Mông xã Tam Lộng, Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Chợ họp vào ngày 25 tháng Chạp. Trai gái trong bản làng kéo tới đây rất đông, có cả ông bà già đi theo để chứng kiến lời giao ước tâm tình của họ. Họ có thể đã yêu nhau, hoặc đến đây tìm hiểu nhau. Mặc cho mưa phùn gió lạnh, từng đôi, từng đôi đứng túm tụm trên nền chợ, bờ ruộng, gốc cây bày tỏ nỗi niềm từ sáng sớm đến chiều tối khi lời giao ước một cuộc hôn nhân tương lai được quyết định, họ rủ nhau vào các quán chợ ăn uống, rồi mới chia tay. Chợ Cưới, thực chất là một kiểu chợ tình ở miền núi vậy.
    Chợ Lượn
    Ngoài giêng, một số chợ thuộc các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên đồng bào Tày thường tổ chức hát lượn giao duyên, nên gọi là chợ Lượn. Thanh niên nam nữ đến đây chơi chợ, mua bán và hát lượn, một điệu hát trữ tình dân tộc để bày tỏ tình cảm với nhau. Nhiều lứa đôi đã bén duyên, nên vợ nên chồng từ cái chợ một phiên này. Họ hát say sưa, bằng cả trái tim của tuổi trẻ, nam xướng, nữ đối (hoặc ngược lại) từ sáng tới chiều, cho đến lúc tàn phiên mới chịu rời nhau.
    Chợ Bến
    Chợ Bến ở Đồng Hới (Quảng Bình), chỉ họp ba ngày đầu năm. Chợ họp không có địa điểm nhất định, dọc theo bờ sông Nhật Lệ. Trên bộ xe cộ tấp nập, dưới sông thuyền ghe chen nhau san sát.
    Mấy hôm trước Tết, nhân dân địa phương dựng lều trại, mở bài chòi. Người về họp chợ mang theo các loại đặc sản ở quê hương mình như các đồ thủ công mỹ nghệ, tôm, cá, thịt heo rừng, mật ong, gà, vịt, bánh, kẹo, đồ chơi trẻ em... kẻ mua người bán dù không quen biết nhau vẫn chào hỏi, chúc tụng lẫn nhau và không cần cò kè bớt một thêm hai như những phiên chợ thường. Đi chợ chỉ mong cầu sự may mắn, phúc lộc cho năm mới. Đám thanh thiếu niên thì reo hò quanh các trò vui như chọi gà, leo cột mỡ, đi cầu nối trên sông hay túm tụm quanh các điểm bài chòi.
    Chợ Cồn - Chợ thịt heo
    "Chợ thịt heo" họp tại xã Mỹ Lợi, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thừa Thiên - Huế vào các ngày 29 và 30 tháng Chạp. Chợ không họp ở chợ thường ngày mà họp trên những chòi cao mới cất ở gần khu chợ thường ngày. Chợ Tết xã Vĩnh Mỹ cũng thuộc huyện Vĩnh Lộc, họp những ngày mồng một, mồng hai Tết tại một cồn cát cách khu chợ thường ngày khoảng 1.500 m. Do địa điểm lập chợ là cồn cát nên còn gọi là chợ Cồn. Về lý do tại sao không họp chợ Tết trên nền chợ thường ngày, các bô lão đương thời giải thích là trong những ngày Tết, "người cõi âm" cũng về họp chợ những nơi ấy nên người trần phải nhường họ mà họp chợ ở những chỗ khác.
    Chợ Gia Lạc
    Chợ họp mỗi năm một phiên, đông vui nhất là sáng mồng một Tết. Chợ Gia Lạc bày bán đủ thức ăn, đồ chơi trẻ em trong ba ngày Tết. Những đặc sản của các địa phương như: bún bò, bánh bèo, bánh phu thê, kẹo mứt, đặc biệt có chuối ngự Nam Giao, quýt ngọt Hương Cần, trầu cau Nam Phổ... Chợ Tết Gia Lạc hình thành cách đây gần 200 năm. Người khởi xướng là Định Viễn công Nguyễn Phước Bình, hoàng tử thứ tư, con vua Gia Long. Đầu tiên, chợ họp ở phủ đệ, sau mới dời đến ngã ba đường Dương Nỗ ?" Ngọc Anh, cách trung tâm thành phố Huế chừng 3km.
    Xuất hành và hái lộc
    Đầu năm mới, người Việt còn có tục xuất hành. Xuất hành là đi ra khỏi nhà trong ngày đầu năm để đi tìm cái may mắn cho mình và gia đình. Trước khi xuất hành, người ta phải chọn ngày, giờ và các phương hướng tốt để mong gặp được các quý thần, tài thần...
    Thường thường, người ta theo các hướng tốt, xuất hành đi lễ chùa, đền hoặc đi chúc Tết các bậc huynh trưởng, thân quyến hay bằng hữu. Đối với nhà nông ngày xưa, đầu năm mới xuất hành còn để chiêm nghiệm thời tiết. Vào những ngày đầu năm, khi mặt trời mọc người ta đi ra khỏi nhà xem chiều gió thổi, người ta có thể đoán được năm mới hên hay xui, chẳng hạn:
    - Gió Nam: chỉ đại hạn
    - Gió Tây: chỉ cướp bóc loạn lạc
    - Gió Tây Nam: chỉ bệnh dịch tả
    - Gió Bắc: chỉ được mùa vừa phải
    - Gió Tây Bắc: chỉ được mùa đỗ, đậu
    - Gió Đông: chỉ có lụt lớn....
    Nếu xuất hành ra chùa hay đền, sau khi lễ bái, người mình còn có tục bẻ lấy một "cành lộc" để mang về nhà lấy may, lấy phước. Đó là tục "hái lộc". Cành lộc là một cành đa nhỏ hay cành đề, cành si, cây xương rồng... là những loại cây quanh năm tươi tốt và nẩy lộc. Tục hái lộc ở các nơi đền, chùa ngụ ý xin hưởng chút lộc của Thần, Phật ban cho nhân năm mới. Cành lộc này thường đem về cắm ở bàn thờ Tổ Tiên
    Tục lễ đầu xuân
    Tục lễ Động thổ
    Lễ Động Thổ bắt đầu ở Trung Quốc sau truyền sang Việt Nam. Động thổ nghĩa là động đất, và trong khi động đất phải có lễ cúng Thổ Thần để trình xin bắt đầu động đến đất cho một năm mới. Hàng năm, sau ngày mồng ba Tết, các làng thường làm lễ Động Thổ để cho dân làng có thể đào cuốc xới được. Các bậc kỳ lão và quan viên được cử làm chủ tế và bồi tế. Lễ vật gồm hương đăng, trầu rượu, y phục và kim ngân đồ mã. Trong buổi lễ, ông chủ tế cuốc mấy nhát xuống đất để lấy một cục đất đặt lên bàn thờ, "tường trình" với Thổ Thần xin cho dân được động thổ. Sau lễ động thổ dân làng mới được động tới đất. Ai cuốc xới trước lễ động thổ bị dân làng bắt vạ.
    Lễ Khai hạ
    Theo tục lệ Việt Nam, ngày mồng bảy tháng Giêng là ngày hạ cây nêu. Cây nêu trồng trong năm, khi sửa soạn đón tết cùng với cung tên bằng vôi trắng vẽ trước cửa nhà để "trừ ma quỷ", nay được hạ xuống. Lễ hạ nêu còn được gọi là lễ Khai Hạ. Nhân dịp này, ngoài lễ giữa trời cúng Trời Đất, người ta còn sửa lễ cúng Gia Tiên, cúng Thổ Công và thần Tài. Thường sau ngày lễ này, mọi công việc thường xuyên mới được bắt đầu trở lại.
    Lễ Thần nông
    Thần nông tức là vị hoàng đế Trung Hoa đầu tiên đã dạy dân nghề làm ruộng. Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong sự được mùa và nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch hàng năm của người Trung Hoa thường có vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề Nông. Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tuỳ theo sự ước đoán của cơ sở dự báo khí tượng về mùa màng năm đó tốt hay xấu. Năm nào được mùa, Thần Nông giầy dép chỉnh tề, còn năm nào đói kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày có một chân. Con trâu đổi màu tuỳ theo hành của mỗi năm, vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với Kim, Mộc, Thuỷ, Hỏa, Thổ. Hàng năm, vào ngày Lập Xuân tại triều đình xưa cũng như tại các tỉnh có tục tế và rước Thần Nông. Người ta nặn trâu và tượngThần Nông có dáng vẻ và màu sắc đúng với sự ước lượng về mùa màng năm đó. Sau đó lập đài để rước trâu và tượng Thần Nông tới làm lễ tế. Sau mỗi cuộc tế, trâu và tượng Thần Nông được khiêng cất vào kho hoặc đem chôn.
    Lễ Tịch điền
    Lễ Tịch điền còn gọi là lễ Hạ điền do chính vua Thần Nông đặt ra. Cũng như các nghi lễ khác, lễ Tịch Điền của người Tàu đã du nhập sang ta. Hàng năm vào đầu xuân, nhà vua lại tự thân cày mấy luống đất để làm gương cho dân chúng và cử hành lễ Tịch Điền. Tiếp sau vua, các hoàng thân, các quan văn võ, các chức sắc, bộ lão sở tại cũng ra cày. Tại các tỉnh, các xã cũng có lễ Tịch Điền. Ở tỉnh, quan tỉnh mở đầu việc cày và ở xã là vị chức sắc cao nhất trong xã. Tùy từng triều đại việc cử hành lễ Tịch Điền có lúc long trọng, lúc đơn giản và ở mỗi địa phương cũng có những tục lệ riêng.
    Lễ Thượng Nguyên hay Cúng rằm tháng Giêng
    Lễ Thượng Nguyên vào ngày rằm tháng Giêng. Từ triều đình đến dân chúng đều có lễ Phật trong ngày này. Ta có câu: "Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng". Tục ta tin rằng ngày rằm tháng Giêng, đức Phật giáng lâm tại các chùa để chứng độ lòng thành của các tín đồ phật giáo. Trong dịp này chùa nào cũng đông người tới lễ bái.
    Lễ Khai ấn
    Các ấn được lau chùi trong năm, ngoài xuân bộ lễ theo tục cũ cũng được chọn ngày lành, giờ tốt để làm lễ khai ấn nghĩa là dùng ấn đóng lên một công văn, chỉ dụ. Thường văn bản đầu tiên được đóng ấn là bản văn tốt lành. Tục khai ấn này, tại các tỉnh, các phủ, huyện, châu, xã xưa kia mỗi viên chức có ấn đều được chọn ngày khai ấn và sửa lễ cúng vị thần giữ về ấn tín trong dịp lễ khai ấn.
  3. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Nam nữ thụ thụ bất thân nghĩa là gì ?
    Ðây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho.
    Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? (Hai chữ "thụ thụ" trái ngược nghĩa:một chữ "thụ" là trao cho, một chữ "thụ" là nhận).
    Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ têm trầu, xếp vào cơi trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình yêu trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ còn đôi mắt thầm lén nhìn nhau!
    Người châu Âu từ nhỏ đến già, theo phép lịch sự bắt tay nhau, nhảy với nhau là chuyện thường. Nhưng, người Việt Nam và người á Ðông nói chung, nam nữ vô ý chạm vào da của người khác giới thì coi như có cử chỉ không đứng đắn.
    Người đàn ông có thái độ suồng sã sẽ bị đàn bà xa lánh, nhưng không đáng lo bằng người con gái lẳng lơ, bị xã hội dèm pha thì khó mà lấy được tấm chồng cho đáng tấm chồng. Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giối tính. Thời phong kiến xưa, chỉ những người có tư tưởng tân tiến mới cho con gái đi học, và có đi học thì con trai ngồi riêng con gái ngồi riêng. Trai gái đi cùng nhau, vui chơi cùng nhau bị bạn bè cùng lứa chế nhạo. Có hội hè đình đám cũng phải phân biệt đàn ông đứng bên trái, đàn bà đứng bên phải.
    ở thành thị, vợ chồng nằm ngủ với nhau một giường là chuyện bình thường, nhưng xin các bạn lưu ý, ở nông thôn đàn bà nằm nhà trong, đàn ông nhà ngoài đã trở thành nếp rồi. Ngày xưa, phổ biến mọi nơi đều thế, ngày nay lệ đó vẫn còn ở nhiều vùng, nhiều nhà. Nếu các bạn có dịp về thăm bà con họ hàng ở quê thì tốt nhất hai vợ chồng nên tránh nằm chung giường kẻo các cụ còn cảm thấy chướng mà phật ý.
  4. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Mối lái là gì ?​
    Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân" nên hôn nhân cần phải người môi giới. nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách là "Phải lòng nhau" "Mắc phải bùa yêu". Nguyễn Du đã vạch đường cho Kim Trọng. Thuý Kiều cứ yêu nhau rồi sẽ "Liệu bài mối manh" nên các cụ nhà nho mới kịch liệt phản đối khuyên con cháu rằng:
    "Ðàn ông thì chớ Phan Trần
    Ðàn bà thì chớ Thuý Vân, Thuý Kiều"
    Chu Mạnh Trinh vịnh Kiều còn nói: "Chỉ vì một tội mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều; trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi"...Nếu không có "Nhà băng đưa mối" thì nhà trai làm sao biết được người thục nữ trong cửa các phòng khuê.
    trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì bà mối sẽ trở thành ân nhân suốt đời. lễ tơ hồng xong, tạ bà mối một nửa mâm xôi, nửa con gà kèm theo chiếc áo lụa. Chẵn tháng con đầu lòng thế nào cũng cố mời bà mối đến dự, để tỏ nghĩa tri ân. Nhưng cũng có nhiều tai hoạ do những bà mối có động cơ bất chính gây nên, để đôi trẻ suốt đời mang mối hận vì phận hẩm duyên hiu:
    ..."Hoặc là bởi "Mẹ thầy lộn quýt", quên những thói mơ tôm mảng cá, qua lại ít nhiều ngọt miệng, ép uổng duyên cô nông nỗi thế, nặng tiền tài mà nhẹ gánh tình chung. Hay vì chưng "Mối lái đèo bòng", chẳng nhằm khi vào lộng ra khơi, nói phô mật ngọt rót vào tai, dỗ dành phận gái ngẩn ngơ tình, già nhân sự để non quyền tạo hoá"...
    (Trích "Văn tế sống người con gái"-Một bài văn tế khuyết danh được truyền tụng ở Hà Tĩnh vào đầu TKXX).
    ở xã hội mới cũng cần có bà mối, bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. trong tương lai, có lẽ vai trò của bà mối là những phương tiện thông tin đại chúng (như quảng cáo trên Ðài truyền thanh truyền hình, báo chí, chụp ảnh) và những công ty du lịch, câu lạc bộ những người độc thân...
    ( Kho tàng Phong tục VN )
  5. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Vì sao có tục bán mở hàng ?
    Bán mở hàng thế nào cho đắt khách ?​
    Trong phong tục ngày Tết, chúng tôi đã trình bày: đầu năm ai cũng muốn vận hội hanh thông, làm ăn suôi sẻ, làm quan có ngày khai ấn, kẻ sĩ có ngày khai bút, nhà nông có ngày khai canh, làm thợ có ngày khai công, người làm nghề buôn bán có ngày mở hàng. Theo tâm lý chung mọi việc khởi đầu đều khó khăn, mà "Ðầu đi thì đuôi lọt !". Riêng trong nghề buôn bán lại càng bấp bênh, có ngày mua may bán đắt, có ngày ngồi suốt buổi chẳng ai ngó tới, có tháng lời lãi nhiều, lợi lộc lớn, có tháng thua lỗ mất cả chì lẫn chài, vì vậy không những chọn ngày mở hàng đầu năm, mà cả đầu tháng, đầu tuần, từng ngày còn phải để ý đến chuyện mở hàng: mở hàng vào lúc nào ? bán cho ai "Nhẹ vía" để cả ngày bán đắt hàng ?
    Thông thường muốn được đông khách đến mua thì thái độ người bán hàng phải niềm nở, vồn vã, ân cần, bán nới giá hơn bình thường để cầu được đông khách và giữ được chữ Tín đứng hàng đầu. Song có người lại tưởng nhầm bán mở hàng phải bán cho đắt, người mua mặc cả chê đắt không mua bỏ đi, rốt cuộc ngồi lì suốt buổi không ai hỏi đến, thậm chí còn có thái độ và ma thuật bỉ ổi cho là tại người mở hàng nặng vía, chửi rủa ngầm và "Ðốt vía" người mở hàng. Người bán hàng như vậy không biết rằng: chính mình là người nặng vía nhất.
    Ngày trước người ta muốn đi chợ sớm để được mau mở hàng có giá rẻ hơn chút ít, nhưng ngày nay nhiều người ngại mở hàng vì sợ vướng phải hạng người không biết mình bán hàng nặng vía lại đòi "Ðốt vía" người mua mở hàng.
    Ðến đây ta có thể kết luận được: Bán mở hàng nên bán đắt hơn hay rẻ hơn giá bình thường ?
    Chuyện vui:
    "Mở hàng nhẹ vía " hay "Nợ như Chúa Chổm"
    "Nợ như Chúa Chổm". Ðó là thành ngữ phổ biến để chỉ người lắm nợ. Nhưng tại sao Chúa Chổm lại lắm nợ như vậy ? Truyền thuyết kể rằng: "Chổm" là hàng cùng dân ở miền Thanh Hoá, chẳng có gia tài điền sản hay nghề ngổng gì, quanh năm chỉ có đánh dậm, mò cua, bắt ốc nuôi thân. "Chổm" tên thật là gì, quê quán ở đâu, bà con họ hàng thân thích có những ai ? Chẳng ai để ý đến. Một con người "Tứ như Chúa Chổm" được. Nguyên do: có mấy lần sáng sớm, Chổm vào một quán nhỏ ăn lót dạ, tự nhiên những hôm dó chủ quán bán rất đắt hàng. Vì vậy, một đồn mười, mười đồn trăm, các chủ quán ai gặp Chổm, cũng có nài Chổm vào ăn quà lấy may. Ai được Chổm hôm nào chiếu cố vào ăn thì hôm ấy đều bán được đắt hàng. Nhưng Chổm làm gì có nhiều tiền để trả, người ta vui lòng mời Chổm ăn, bao giờ có tiền trả cũng được, mà không có cũng thôi, do đó trong khắp vùng không ai mắc nợ nhiều bằng Chổm.
    Năm 1527, Mạc Ðăng Dung cướp ngôi của vua Lê Cung Hoàng, dựng nên nhà Mạc. Ðến nay 1532 Nguyễn Kim khởi nghĩa phò Lê chống Mạc, đi tìm hậu duệ tôn của vua Lê, tìm được Chổm, mặc dầu khố rách áo ôm, nhưng có khí tướng đế vương (người ta còn đồn đại rằng: Chổm đi đâu cũng có đám mây che trên đầu, trời đang nắng gắt cũng trở nên dâm mát...) Chổm được phò lên ngôi vua mở đầu thời Lê Trung Hưng đóng đô ở Thanh Hoá (tức Tây đô) để chống với nhà Mạc ở Hà Nội (tức Ðông đô).
    Sau khi lên làm vua, không có điều kiện gần gũi quần chúng như trước, và cũng không nhớ nợ ai bao nhiêu mà trang trải nợ nần nữa, Chúa Chổm (thực ra là Vua Chổm) đành phải hạ lệnh đúc thật nhiều tiền, rồi Chổm đi đến đâu rải tiểna đến đấy, cho công chúng ai nhanh tay, mạnh bước thì nhặt lấy. Vì thế nên mới có thành ngữ "Nợ như Chúa Chổm".

  6. thankiemvdk

    thankiemvdk Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    14/11/2002
    Bài viết:
    10.532
    Đã được thích:
    372
    Sự Tích Táo Quân ​
    Tác Giả: Truyện Cổ Tích
    Thủa xưa có một gia đình được ba người con trai. Họ rất mực thương yêu nhau và tuy ba người con đều đã xây dựng gia đình riêng nhưng vẫn cùng nhau phụng dưỡng cha già. Trước lúc lâm chung người cha gọi ba con đến trước mặt dặn rằng:
    - Trước khi nhắm mắt cha rất yên lòng thấy các con biết thương nhau. Các con đã hết lòng lo cho ta từng miếng ăn đến giấc ngủ, nay cha đã quá yếu, đó là lẽ trời. Nếu cha có nhắm mắt, các con hãy nhớ làm đúng như lời cha dặn, các con hãy khiêng cha đi, khi nào sợi dây quàng quan tài đứt, thì các con đặt cha tại đó, dù ở trên đá hay ở dưới khe suối. Các con hãy nhớ kỹ mà làm đúng như vậy.
    Ba người con trai cúi đầu vâng dạ. Người cha trăn trối vừa dứt lời thì cũng tắt thở.
    Ba người con làm đúng như lời cha dặn. Sau khi liệm kỹ, họ dùng dây quàng quan tài cẩn thận rồi nhằm hướng tây mà khiêng đi. Ba anh em khiêng quan tài đã mấy hôm nhưng sợi dây vẫn chưa đứt. Một hôm, khi đi trên một tảng đá lớn thì bỗng nhiên sợi dây đứt. Lúc bấy giờ trời đã xế chiều. Ba anh em bèn hạ quan tài người cha xuống ngay trên tảng đá nọ. Người anh nói với hai em rằng:
    - Chúng ta không thể nào đào huyệt trên tảng đá này được các em ạ. Bây giờ hai em hãy trở về nhà xem xét nhà cửa, vì ta đã đi lâu rồi. Ta sẽ lần lượt túc trực, khi nào thi thể cha tiêu tan mới thôi.
    Tối hôm ấy người anh cả chất củi, nổi lửa ngồi túc trực bên quan tài. Khoảng gà gáy canh đầu, chàng thấy mỏi, dựa lưng vào gốc cây thiu thiu ngủ. Bỗng chàng giật mình vì có tiếng rên to ngay dưới chỗ để quan tài, nơi chàng nằm cũng chuyển động mạnh. Chàng choàng dậy nhìn chiếc quan tài bị lún xuống đến nửa vào đường nứt ấy. Rồi chàng lại nghe tiếng rên than cầu cứu từ kẽ nứt dưới quan tài vọng lên.
    - Ôi, ngột ngạt khó thở quá, ai làm ơn lôi dùm chiếc quan tài này lên, ta sẽ biếu một hũ vàng. Chàng cả nghe vậy bèn hỏi lại rằng:
    - Chẳng hay quái vật tên là gì? Hũ vàng đó hiện ở đâu? Nếu điều người vừa nói là đúng là sự thật thì ta sẽ cứu cho.
    Tiếng kêu cứu ấy liền trả lời:
    - Ta chính là Khổng Long nằm tại chân núi này. Chiếc quan tài ai vừa đặt lên đây đã lọt vào miệng ta khi ta vặn mình ngáp mạnh. Vậy xin chàng hãy làm ơn kéo lên giúp, ta sẽ trả công hậu. Hũ vàng vừa rồi ta chôn dưới gốc cây bồ đề ngay chân núi này về phía mặt trời mọc.
    Nghe quái vật nói vậy chàng nửa tin nửa ngờ bèn lần đến chân núi, nơi con quái vật chỉ, để xem hư thật ra làm sao. Bỗng mắt chàng hoa lên, một hũ vàng khối đầy ắp lộ quá nứa. Chàng vần hũ vàng lên. Lúc ấy trời cũng vừa rạng sáng.
    Hôm sau đến lượt người em thứ hai. Anh cả dặn dò em kỹ rồi mang hũ vàng về. Tối hôm ấy người em thứ cũng làm đúng như lời người anh cả dặn. Chàng chất củi đốt lửa rồi ngồi canh quan tài cha. Và chàng cũng nghe có tiếng rên than cầu cứu của Khổng Long. Rồi chàng được một hũ bạc mà Khổng Long mách là chôn ở phía tây gốc cây bồ đề.
    Ðến phiên người em út, chàng cũng đốt lửa, rồi ngồi dựa vào gốc cây đại thọ cạnh quan tài. Khoảng đầu canh tư, chàng đang thiu thiu ngủ thì nghe tiếng kêu rên từ dưới quan tài vọng lên:
    - Xin chàng trai hãy làm ơn kéo chiếc quan tài này lên khỏi miệng ta, ta sẽ biếu một bầu linh dược cải tử hoàn sinh.
    Nghe vậy chàng út lấy làm thắc mắc, tại sao quái vật lại không cho ta hũ vàng, hũ bạc như hai anh , mà lại cho một bầu nước thuốc. Nghĩ vậy chàng lên tiếng hỏi quái vật:
    - Tại sao lại chỉ cho ta một bầu nước? Nước ấy dùng để làm gì? Cho ta biết ta sẽ cứu.
    Con quái vật nói:
    - Bầu linh dược ấy linh nghiệm, dùng để cải tử hoàn sinh, người hay vật, dù mới chết hay chết lâu chỉ cần đem nước thuốc vẩy qua thì sẽ sống lại.
    Nghe thần Khổng Long nói vậy, chàng út liền đến ngay cây bồ đề trèo lên xem thử. Chàng thấy nơi ngọn cây có một chiếc bầu nhỏ trong đựng đầy nước. Chàng vừa đem được bầu nước ấy xuống thì trời cũng vừa rạng sáng. Chàng định trở lại chỗ quan tài để vẩy nước thuốc cứu người cha, đồng thời cũng là xem thử sự linh nghiệm của thuốc. Nhưng khi trở lại thì không thấy chiếc quan tài nữa, và nơi kẽ đá núi cũng liền lại. Chàng út bèn xách bầu linh dược ra về.
    Trên đường về chàng chú ý nhìn xem có con vật nào nằm chết ngang đường để thử xem nước có linh nghiệm không. Bỗng trước mặt một con ******** trương đã lâu ngày. Chàng bèn cho thử ngay, vẩy linh dược lần thứ nhất thì thấy da thịt con chó liền lại. Vẩy lần thứ hai thì chó thở đều rồi mở mắt sống lại. Chàng út vô cùng mừng rỡ ôm bầu thuốc đi về nhà và kể chuyện xẩy ra với hai người anh.
    Từ khi có bầu linh được, mỗi khi nghe tin có ai chết ở đâu là chàng tìm tới. Vì chàng có tài cải tử hoàn sinh chẳng bao lâu đồn khắp xa gần.
    Một hôm, trong lúc chàng đi vắng, một bọn côn đồ xông vào nhà lục soát. Bọn cướp tra khảo người vợ chàng, bắt nộp vàng bạc, khi không có gì chúng bèn mổ bụng vợ chàng, moi hết ruột gan vứt đi rồi chuồn thẳng.
    Chàng út trở về thấy người vợ hiền đã nằm chết trên vũng máu. Trong lúc đang nghĩ cách cứu sống người vợ, thì con chó trước kia từ ngoài chạy vào. Chàng gọi con chó lại và nói với nó:
    - Này chó, trước kia mi đã chết, nhưng ta lại cứu sống cho mi. Nay vợ ta gặp nạn, bị bọn cướp lấy mất ruột gan, mi hãy vui lòng cho ta mượn tạm bộ lòng cho vợ ta rồi ta sẽ lại hoàn sinh cho mi, được không?
    Con chó ngoe nguẩy đuôi bằng lòng. Chàng út mổ lấy bộ lòng của con chó đặt vào thi hài người vợ rồi lấy linh dược vẩy lên khắp thân hình vợ. Bỗng chốc nàng cựa mình rồi mở mắt nhìn chàng vẻ ngơ ngác như vừa qua một giấc ngủ mê. Chàng ôm lấy vợ kể hết cho nàng nghe những việc đã qua. Sau đó chàng bảo vợ lấy miếng giẻ rách để bện làm ruột gan cho chó. Chàng đem đoạn giẻ nhúng bùn non rồi đặt vào bụng chó, dùng linh dược vẩy lên. Con chó sống lại.
    Thấy chồng có thứ thuốc lạ, người vợ vô cùng ngạc nhiên và đâm ra tò mò.
    Một hôm nhân lúc vắng chồng, nàng bèn lấy bầu linh dược ra, thò hai ngón tay vào bầu lấy nước bôi lên mặt. Nàng soi gương thấy mặt mình trở lên quái dị như mặt quỷ thì hoảng lên, bèn xách cả bầu linh dược trút hết khắp từ đầu đến chân.
    Thật kỳ lạ, khi soi lại mình, nàng như không nhận ra mình nữa. Tóc dài chấm gót, nước da trắng như ngọc, mịn màng hồng hào. Nàng xinh đẹp tựa như tiên nữ giáng trần. Sự hoá thân cực kỳ xinh đẹp của nàng làm cho người chồng khi trở về cũng hết sức ngạc nhiên, ngơ ngác.
    Thấy chồng nhìn mình không chớp mắt, nàng mỉm cười, rồi nhỏ nhẹ kể lại cho chàng nghe về sự lỡ lầm của mình, và mong chàng tha thứ.
    Chàng út hết sức vui mừng khi thấy người vợ trở nên xinh đẹp tuyệt vời như vậy. Nhưng nghĩ lại tiếc linh dược nên chàng đem trồng vào nơi có nước thuốc một khóm hành và một cây quế.
    Chưa đầy tuần trăng cây quế đã cao một thước rưỡi, bụi hành cao hơn hai thước.
    Tin người vợ chàng út có sắc đẹp tuyệt trần đến tai vua. Nhà vua liền cho quân đến bắt nàng về cung làm vợ. Hai vợ chồng rất mực thương nhau nhưng không giám cãi lệnh vua. Hai người ngậm ngùi chia ly, hẹn ngày đoàn tụ.
    Thế rồi, một hôm đang lúc thẫn thờ nhớ vợ, chàng út nghĩ lại được một kế hay. Chàng nhổ hết bụi hành và cây quế bỏ vào hai cái thúng, rồi gánh đi. Ðến ngoài cổng thành nhà vua, chàng rao to:
    - Ai mua hành hai thước, quế một thước rưỡi không?
    Cứ thế chàng rao đi rao lại ngày một to hơn.
    Riêng về người vợ chàng út từ khi bị bắt về kinh thì tự nhiên cấm khẩu, nhà vua đã cho mời các lương y giỏi đến chữa chạy nhưng đều không khỏi. Nhà vua cho bầy mọi trò tiêu khiển, nhưng cũng đều vô hiệu. Vua đã ra lệnh ban thưởng rất hậu cho ai có tài chữa khỏi bệnh cho nàng. Nhưng mọi người đều bó tay.
    Bỗng nghe có tiếng rao hàng lạ vào cung thất, nàng định tâm nghe kỹ. Rồi nàng vui sướng gọi một nàng hầu đứng gần đó đến, bảo nó xuống lầu, mời người giao hàng nọ đem hàng vào cho nàng mua. Nhưng vừa nghe tiếng nàng thốt ra, nhà vua đã cho dẫn chàng đến. Nhà vua cho đuổi hết những quân hầu ra ngoài rồi bắt chàng đổi quần rách rưới cho mình. Nhà vua muốn chính mình từ nay sẽ làm cho nàng được khuây khỏa để chịu làm vợ chồng với mình.
    Sau khi mặc xong bộ cẩm bào, đội xong hia mão của nhà vua vừa đổi, chưa kịp để cho tên vua ham dâm sắc làm trò mua vui cho nàng, thì chàng út đã ra lệnh cho quân lính bắt trói hắn lại, và truyền lệnh nổi lửa hoả thiêu ngay.
    Thấy có lửa hỏa thiêu dưới lầu, người vợ chàng út tưởng nhà vua đã truyền lệnh thiêu sống chồng mình nên từ trên lầu nhảy xuống để cùng được chết chung với chồng trên giàn hoả. Chàng út thấy vợ mình quyên sinh theo vua thì cho rằng nàng đã bội nghĩa, nên cũng đành hủy thân cho xong, bèn nhẩy luôn vào đống lửa tự thiêu.
    Khi lửa tàn, bá quan trong triều bàn nhau định lập đền thờ vua và hoàng hậu nhưng không làm cách nào để phân biệt được đâu là sọ vua, nên đành cho lập đền thờ chung và ban lệnh cho bàn dân từ nay muốn đốt lửa bắt kiềng phải dùng ba hòn đá chụm lại, tựa như ba cái đầu của ba người đã chết thiêu chung vậy. Ðó chính là sự tích táo quân.

Chia sẻ trang này