1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu Tư pháp Hoa Kỳ!

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Remediot, 13/10/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    3- Một pháp luật có tổ chức
    Cần đi đâu để tìm được luật pháp của nước Mỹ? Có thể người ta cho rằng với cả những luật được ban hành và những phán quyết của tòa án góp phần tạo nên pháp luật thì cuộc tìm kiếm sẽ rất khó khăn. Song trên thực tế, việc tìm kiếm này là tương đối dễ dàng. Mặc dù rất nhiều luật pháp của nước Mỹ không được pháp điển hoá, song chúng vẫn được hệ thống hóa và sắp xếp theo chủ đề. Các giáo trình và những bộ bách khoa pháp lý do những giáo sư uyên bác và các chuyên gia biên soạn trình bày luật pháp theo một chuỗi lôgic, thường cung cấp cả những quan điểm lịch sử nữa. Những cuốn sách của các chuyên gia này có tham chiếu đến các nguyên tắc và quy định pháp lý cụ thể trong một ngành luật xác định, cũng như có trích dẫn những phán quyết của tòa án và những đạo luật thích hợp. Tra cứu các điều luật trong những cẩm nang và các vụ việc trong những tập hồ sơ của tòa án, và ngày nay tra cứu cả bằng máy tính nữa, là một cách tương đối dễ làm.
    Song cũng cần lưu ý rằng trong hệ thống luật tập tục, tác giả của các bộ giáo trình không có tầm quan trọng như trong hệ thống luật thành văn.
    Tại những nước sử dụng hệ thống luật thành văn, những quan chức đó thường được coi là nguồn của pháp luật, được người ta hướng tới để mong chờ sự phát triển của học thuyết liên quan đến một chủ đề nhất định. Những tuyên bố của họ tương đối có trọng lượng đối với các thẩm phán trong hệ thống luật thành văn. Còn ở Hoa Kỳ thì ngược lại, những học thuyết do những tác giả giáo trình xây dựng thiếu giá trị bắt buộc, mặc dù chúng có thể được trích dẫn do tác động đầy sức thuyết phục của mình.
    4- Luật án lệ so với luật thành văn
    Ngoài những đặc điểm trên, còn có một số những cơ quan gắn với hệ thống luật tập tục song không thường thấy trong hệ thống luật thành văn. Đứng đầu trong số đó là ban bồi thẩm, một cơ quan mà theo lựa chọn của các bên theo kiện có thể hoạt động trong cả các vụ án dân sự và hình sự. Ban bồi thẩm là một nhóm công dân, thường gồm 12 người, được triệu tập ngẫu nhiên để quyết định về sự thật trong một vụ án. Khi một phiên tòa xét xử bởi ban bồi thẩm được tổ chức, thẩm phán sẽ hướng dẫn ban bồi thẩm về pháp luật, song việc quyết định sự thật về vụ án thì do ban bồi thẩm đảm nhiệm. Điều này có nghĩa là những công dân bình thường sẽ quyết định xem bên nào thắng thế trong một vụ án dân sự, và trong một vụ án hình sự thì liệu bị cáo có tội hay vô tội đối với những tội danh mà người đó bị cáo buộc.
    Ban bồi thẩm có một tác động định hình quan trọng đối với luật án lệ. Vì các bồi thẩm viên được đưa vào một cách tạm thời để giải quyết những vấn đề thực tế, nên các phiên tòa trong hệ thống luật tập tục thường là những sự kiện tập trung, đôi khi chỉ kéo dài ít ngày (mặc dầu có lúc có thể kéo dài nhiều tuần hoặc nhiều tháng). Tầm quan trọng của lời chứng của nhân chứng được nhấn mạnh, mặc dù các chứng cứ bằng tài liệu giấy tờ cũng được trình bày. Luật sư có trách nhiệm chuẩn bị cho vụ án; thẩm phán xét xử không điều tra nghiên cứu về vụ án trước khi xét xử. Các luật sư đóng vai trò những bên đối lập, đi đầu trong việc thẩm vấn các nhân chứng trước toà, trong khi đó thẩm phán hành động chủ yếu với vai trò trọng tài. Lời chứng được ghi lại nguyên văn bởi thư ký tòa án hoặc ghi âm điện tử.
    Tòa sơ thẩm (tức là tòa án nơi vụ án được đưa ra xét xử lần đầu tiên) trong hệ thống của Mỹ là nơi hồ sơ thực tế về vụ án được thu thập. Nhìn chung, khi xem xét lại hồ sơ của tòa án cấp dưới, các tòa phúc thẩm chỉ tập trung vào việc tìm ra lỗi về pháp luật, chứ không phải những sự kiện thực tế. Khi xử phúc thẩm không có thêm bằng chứng mới nào.
    Tất cả những điều trên hoàn toàn đối lập với những gì thường thấy trong hệ thống luật thành văn, trong đó hầu như không có xét xử bởi ban bồi thẩm. Trong một vụ án cụ thể, thay vì một phiên xét xử diễn ra liên tục, một loạt các phiên tòa có thể được tiến hành trong một thời gian dài. Tài liệu giấy tờ đóng vai trò quan trọng hơn lời khai của nhân chứng. Thẩm phán chủ động tìm hiểu điều tra về vụ án và cũng tiến hành thẩm vấn nhân chứng. Thay vì ghi lại nguyên văn tiến trình xét xử, hồ sơ vụ án bao gồm những ghi chú và phát hiện của thẩm phán. Xét xử phúc thẩm có thể được tiến hành đối với cả tình tiết vụ án và về mặt pháp luật, và tòa phúc thẩm có thể và trên thực tế đôi khi mở hồ sơ tiếp nhận thêm bằng chứng mới.
    Bất chấp những khác biệt đó, cả hệ thống luật tập tục và luật thành văn đều có mục tiêu là giải quyết các vụ tranh chấp một cách công bằng, nhanh chóng và ít tốn kém.
    Trong những năm gần đây, các tòa án Hoa Kỳ trở nên đặc biệt nhạy cảm về nhu cầu liên tục đánh giá lại quy trình của họ nhằm nâng cao chất lượng xét xử của tòa án. Do những nỗ lực đó mà xuất hiện rất nhiều những khía cạnh khác trong hoạt động của tòa án ở Hoa Kỳ. Những khía cạnh đó đi từ các cơ chế thay thế để giải quyết tranh chấp (bao gồm trọng tài hay hòa giải) đến những biện pháp về thủ tục như phán quyết chiếu lệ và phán quyết vắng mặt, được các thẩm phán sử dụng để quyết định các vụ án ngay từ giai đoạn ban đầu mà không phải tiến hành một phiên tòa chính thức.
    5- Rà soát pháp lý
    Một điểm độc đáo được thực hiện bởi hệ thống tòa án Hoa Kỳ, ?orà soát pháp lý?, không được đề cập tới trong Hiến pháp. Tuy nhiên, tòa án được coi là có quyền hợp pháp ?otuyên bố vô hiệu và theo đó huỷ bỏ một hành động hành pháp hoặc lập pháp tỏ ra mâu thuẫn? với nội dung hay sự giải thích của Hiến pháp.
    Khái niệm rà soát pháp lý được đưa ra lần đầu tiên trong vụ Marbury và Madison (1803), một trong những vụ án sớm nhất và nổi tiếng nhất của Tòa án Tối cao, khi William Marbury được vị Tổng thống sắp mãn nhiệm John Adams bổ nhiệm là thẩm phán hòa giải. Tuy nhiên, Marbury chẳng bao giờ được nhận vị trí đó do mâu thuẫn nội bộ giữa Tổng thống Adams và vị Tổng thống mới Thomas Jefferson. Marbury đã thành công khi đệ đơn yêu cầu Tòa án Tối cao ban hành lệnh bắt buộc thi hành, buộc các quan chức Chính phủ thực hiện trách nhiệm của mình, ngay cả khi họ có thể không bằng lòng với kết quả.
    Trong quyết định nhất trí của Tòa án Tối cao, Chánh án John Marshall đã đặt nền móng cho quyền lực tương lai của Tòa án bằng việc tuyên bố rằng ngành tư pháp của chính phủ chịu trách nhiệm ?ogiải thích luật...Đây chính là trách nhiệm cốt lõi của tòa án?. Mặc dù Đạo luật Tư pháp năm 1789 cho phép Tòa án ban hành lệnh bắt buộc thi hành, song các thẩm phán đã coi chúng là mâu thuẫn với nội dung của Hiến pháp.
    Như vậy, vụ Marbury và Madison đã tạo lập một chức năng quan trọng của Tòa án Tối cao, cũng như tất cả các tòa án liên bang khác ở Hoa Kỳ. Mặc dù vụ Marbury và Madison không cho rằng thẩm phán có thể sửa đổi luật hoặc Hiến pháp - họ chỉ có thể giải thích nó - song khả năng rà soát pháp lý đã đem lại thêm rất nhiều quyền lực cho Tòa án và toàn bộ hệ thống tư pháp Hoa Kỳ. ( Deborah M.S. Brown)
  2. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CỘT MỐC CỦA TOÀ ÁN TỐI CAO HOA KỲ​

    "Toà nghiêng mình trước những bài học của kinh nghiệm và sức mạnh của lập luận chặt chẽ, thừa nhận rằng tiến trình xét xử và sai lầm, có ích biết bao trong các môn khoa học tự nhiên, cũng thích hợp cả trong chức năng tư pháp" ​
    -- Louis D.Brandeis, Phó chánh án Toà án Tối cao Hoa Kỳ
    vụ Burnet kiện Công ty Coronado Oil and Gas, 1932

    Kể từ ngày Toà án Tối cao Hợp chúng quốc họp lần đầu năm 1790 đến nay, Toà đã bày tỏ hàng nghìn ý kiến về mọi vấn đề, từ quyền lực của chính quyền đến các quyền công dân và tự do báo chí. Tuy rằng nhiều trong số những quyết định ít được biết đến và ít được quảng đại công chúng quan tâm, song có một số quyết định nổi bật lên do tác động mà chúng đã có đối với lịch sử nước Mỹ. Dưới đây tóm tắt một số vụ quan trọng nhất.
    1- Vụ Marbury kiện Madison (1803)
    Thường được coi là quyết định quan trọng nhất trong lịch sử của Toà án Tối cao, vụ Marbury kiện Madison lập nên một nguyên tắc giám sát tư pháp và quyền lực của Toà trong việc xác định tính hợp hiến của các hành vi lập pháp và hành pháp.
    Vụ này sinh ra từ một cuộc tranh cãi chính trị diễn ra sau cuộc bầu cử tổng thống năm 1800, trong đó Thomas Jefferson, một người Dân chủ - Cộng hoà, đã đánh bại tổng thống đương nhiệm John Adams, một người chủ trương chế độ liên bang. Trong những ngày cuối cùng của chính quyền Adams, Quốc hội dưới sự khống chế của phái Liên bang đã lập ra một số chức vụ tư pháp, trong đó có 42 thẩm phán hoà giải cho quận Columbia. Thượng viện đã phê chuẩn việc bổ nhiệm này, tổng thống đã ký và trách nhiệm của quốc vụ khanh là đóng dấu và trao những quyết định. Trong lúc vội vã vào những phút cuối cùng, quốc vụ khanh sắp mãn nhiệm quên trao quyết định cho 4 thẩm phán, trong đó có William Marbury.
    Quốc vụ khanh mới dưới quyền của Tổng thống Jefferson là James Madison không chịu trao những quyết định đó vì chính quyền mới tức giận phái Liên bang đã tìm cách gài người của đảng họ vào trong ngành tư pháp. Marbury đã khởi kiện tại Toà án Tối cao đòi Madison phải trao quyết định cho mình.
    Nếu như Toà đứng về phía Marbury, Madison có thể vẫn không chịu trao quyết định và Toà không có cách nào làm cho lệnh của mình được thi hành. Nếu Toà xử trái với yêu cầu của Marbury thì Toà có nguy cơ nhượng quyền tư pháp cho người của phái Jefferson bằng cách để cho họ được phép khước từ Marbury chức vụ mà ông được quyền nhận theo pháp lý. Chánh án Toà án Tối cao John Marshall đã giải quyết thế khó xử này bằng quyết định cho rằng Toà án Tối cao không có thẩm quyền hành động trong vụ này. Marshall phát biểu rằng Chương 13 của Luật Tư pháp, đạo luật đã trao quyền cho Toà án Tối cao, là không hợp hiến vì nó đã mở rộng phạm vi tài phán nguyên thuỷ của Toà từ phạm vi tài phán đã được chính Hiến pháp xác định. Bằng quyết định không đưa ra quyết định trong vụ này, Toà án Tối cao đã bảo đảm an toàn cho vị trí của mình là trọng tài cuối cùng của luật pháp.
    2- Vụ Gibbons kiện Ogden (1824)
    Chính quyền đầu tiên của Hợp chúng quốc theo Ðiều lệ Liên bang non yếu một phần bởi nó không có quyền điều hành nền kinh tế của đất nước mới này, trong đó có luồng thương mại giữa các bang. Hiến pháp trao cho Quốc hội Hợp chúng quốc quyền "điều hành thương mại... giữa nhiều bang..." nhưng quyền này thường hay bị các bang thách thức khi họ cảnh báo rằng họ muốn giữ lại quyền kiểm soát đối với các vấn đề kinh tế.
    Những năm đầu thế kỷ XIX, bang New York thông qua một đạo luật yêu cầu những người lái tàu thuỷ đi lại giữa New York và New Jersey phải có giấy phép của New York. Aaron Ogden đã có một giấy phép như vậy, còn Thomas Gibbons thì không. Khi Ogden biết được rằng Gibbons cạnh tranh với mình mà không có giấy phép của New York thì Ogden khởi kiện để chặn tay Gibbons.
    Gibbons có giấy phép liên bang để đi lại trên vùng ven biển theo Ðiều luật Ven biển năm 1793, nhưng toà án bang New York lại đồng ý với Ogden là Gibbons đã vi phạm luật pháp vì không có giấy phép của bang New York. Khi Gibbons đưa vấn đề này ra Toà án Tối cao thì các thẩm phán phê phán luật của New York là không hợp hiến vì nó xâm phạm đến quyền của Quốc hội Hợp chúng quốc được điều hành thương mại. Toà phán quyết: ?o Từ ngữ "điều hành" bản chất nó hàm nghĩa có toàn quyền đối với vấn đề được điều hành. Nó nhất thiết loại trừ hành động của tất cả những ai khác thực hiện cũng hoạt động ấy đối với cũng vấn đề ấy".
  3. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    3- Vụ Dred Scott kiện Sandford (1857)
    Dred Scott là một nô lệ mà ông chủ, John Emerson, đã đưa anh từ Missouri, một bang cho phép tồn tại chế độ nô lệ, đến bang Illinois, nơi chế độ nô lệ bị ngăn cấm. Nhiều năm sau, Scott trở lại Missouri cùng với Emerson. Scott tin rằng do anh ta đã sống tại một bang tự do, anh ta không còn bị coi là nô lệ nữa.
    Emerson chết năm 1843, và 3 năm sau, Scott kiện bà quả phụ Emerson để đòi tự do cho mình. Scott đã thắng kiện tại một toà án ở Missouri năm 1850, nhưng năm 1852, Toà án Tối cao bang đảo ngược quyết định của toà cấp dưới. Trong thời gian đó, bà quả phụ Emerson tái giá và Scott trở thành tài sản hợp pháp của anh trai bà là John Sanford (trong biên bản của toà, viết nhầm là Sandford). Scott khởi kiện Sanford đòi tự do cho mình tại toà liên bang và toà này đã phán quyết trái với yêu cầu của Scott vào năm 1854.
    Khi vụ này được đưa lên Toà án Tối cao, các thẩm phán quyết định rằng Scott đã không trở thành một người tự do với lý do đã sống tại một bang tự do được, và do vậy, với tư cách là một người da đen, Scott không phải là một công dân, và do đó không đủ tư cách khởi kiện tại một toà án. Quyết định này đã bị chỉ trích rộng rãi, và nó đã góp phần vào việc bầu Abraham Lincoln, một người chống lại chế độ nô lệ, làm tổng thống năm 1860 và đẩy nhanh việc nổ ra Nội chiến trong năm 1861. Vụ án Dred Scott kiện Sandford đã bị đảo ngược bởi Ðiều sửa đổi Hiến pháp thứ 13 vào năm 1865 bãi bỏ chế độ nô lệ, và bởi Ðiều sửa đổi Hiến pháp thứ 14 vào năm 1868 trao quyền công dân cho những người trước đây là nô lệ.
  4. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    4- Vụ Ban quan hệ lao động quốc gia (NLRB) kiện công ty thép Jones & Laughlin (1937)
    Trong khi vụ Gibbons kiện Ogden xác lập ưu thế của Quốc hội trong việc điều hành thương mại giữa các bang thì vụ NLRB kiện Công ty Jones & Laughlin mở rộng quyền của Quốc hội từ điều hành thương mại sang điều hành các hoạt động kinh doanh của các ngành công nghiệp tham gia thương mại giữa các bang.
    Công ty Jones & Laughlin, một trong những nhà sản xuất thép lớn nhất đất nước, đã vi phạm Ðạo luật quốc gia về quan hệ lao động năm 1935 khi công ty này sa thải 10 nhân viên vì đã tham gia các hoạt động công đoàn. Ðạo luật này ngăn cấm nhiều cách ứng xử không công bằng đối với lao động và bênh vực quyền của công nhân được lập ra nghiệp đoàn và thương lượng một cách tập thể. Công ty này không chịu nghe theo một lệnh của NLRB đòi đưa công nân trở lại làm việc. Toà Phúc thẩm khu vực từ chối việc cưỡng chế thi hành lệnh của NLRB, và Toà án Tối cao phải xem xét vụ này.
    Vấn đề đặt ra trong vụ này là liệu Quốc hội có quyền điều hành những hoạt động "địa phương" của những công ty tham gia việc buôn bán giữa các bang hay không - nghĩa là những hoạt động diễn ra trong phạm vi một bang. Công ty Jones & Laughlin cho rằng điều kiện trong xưởng máy của họ không ảnh hưởng đến thương mại giữa các bang và do đó không thuộc quyền điều hành của Quốc hội. Toà án Tối cao không đồng ý với ý kiến đó, cho rằng "việc đình chỉ hoạt động sản xuất này bởi sự tranh chấp trong công nghiệp sẽ có ảnh hưởng hết sức nghiêm trọng đối với thương mại giữa các bang... Kinh nghiệm đã nhiều lần chứng minh rằng việc thừa nhận các nhân viên có quyền tự tổ chức và có đại diện của mình chọn lựa mục tiêu thương lượng tập thể, nhiều khi là một điều kiện thiết yếu để có sự yên bình trong công nghiệp ". Với việc ủng hộ tính hợp hiến của Ðạo luật quốc gia về Quan hệ lao động, Toà án Tối cao đã đưa thắng lợi lại cho một tổ chức nghiệp đoàn và mở đường cho việc chính quyền liên bang đề ra những quy tắc có ảnh hưởng rộng lớn hơn trong công nghiệp.
  5. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    5- Vụ Brown kiện Ban giáo dục (1954)
    Trước khi diễn ra vụ án lịch sử này, nhiều bang và quận Columbia đã thi hành chế độ nhà trường có sự phân biệt chủng tộc theo lệnh của quyết định năm 1896 của Toà án Tối cao trong vụ Plessy kiện Ferguson, cho phép có sự phân biệt nếu các phương tiện thực thi ngang bằng như nhau. Năm 1951, Oliver Brown ở Topeka, bang Kansas, đã không thừa nhận thuyết "tách rời nhưng ngang bằng" này khi ông khởi kiện ban giám hiệu trường học của thành phố nhân danh đứa con gái lên 8 của mình. Brown muốn con gái mình được theo học tại trường học người da trắng cách nhà ông 5 khối nhà, chứ không phải theo học ở trường người da đen cách xa 21 khối nhà. Nhận thấy hai trường về cơ bản đồng đều nhau, một toà án liên bang đã quyết định trái với yêu cầu của Brown.
    Trong khi đó, cha mẹ của những trẻ em da đen khác tại các bang South Carolina, Virginia và Delaware cũng khởi kiện tương tự. Toà án Delaware thấy các trường người da đen chất lượng thấp hơn các trường người da trắng nên đã lệnh cho trẻ em da đen được chuyển đến các trường người da trắng, nhưng các quan chức nhà trường đã nhờ đến quyết định Toà án Tối cao.
    Toà đã đồng thời nghe lý lẽ của tất cả các bên. Lý lẽ của nguyên đơn da đen gồm có những số liệu và bằng chứng của các nhà tâm lý học và các nhà khoa học xã hội giải thích tại sao họ nghĩ rằng sự phân biệt đối xử ở đây có hại cho trẻ em da đen. Năm 1954, Toà án tối cao đã nhất trí cho rằng: "... trong lĩnh vực giáo dục, thuyết "tách rời nhưng ngang bằng" không có chỗ đứng", và quyết định rằng sự phân biệt đối xử trong các trường công đã tước của trẻ em da đen "sự bảo vệ ngang bằng của luật pháp được bảo đảm trong Ðiều sửa đổi Hiến pháp thứ 14".
  6. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    6- Các vụ Gideon kiện Wainwright (1963) và Miranda kiện Bang Arizona (1966)
    Hai quyết định của Toà án Tối cao trong thập niên 1960 đã ủng hộ quyền của những người bị tố cáo là phạm tội.
    Clarence Earl Gideon bị bắt giữ vì đã đột nhập vào một phòng bỏ phiếu tại Florida năm 1961. Khi ông yêu cầu toà cử một luật sư bào chữa cho mình thì thẩm phán khước từ yêu cầu của ông, nói rằng luật pháp bang chỉ yêu cầu cử luật sư trong những vụ trọng án - những vụ án liên quan đến cái chết của một người hoặc đòi hỏi một án tử hình. Gideon tự bào chữa cho mình và bị kết án là có tội. Ơ± trong tù, ông dành nhiều thời gian đến thư viện, nghiên cứu các sách luật và viết một kiến nghị gửi Toà án Tối cao yêu cầu Toà xem xét trường hợp của mình. Toà cho rằng Gideon đã bị tước quyền có một cuộc xét xử công bằng và quyết định rằng các bang đều phải cung cấp luật sư cho những người bị tố cáo phạm tội mà không có khả năng tự mình thuê luật sư. Khi Gideon được xử lại với sự bào chữa của một luật sư thì ông được trắng án.
    Ðúng 3 năm sau Toà án Tối cao quyết định rằng kẻ bị tố cáo phải có quyền có một luật sư từ sớm trước ngày ra toà. Ernesto Miranda bị kết tội ăn cắp và hiếp dâm tại một toà án bang ở Arizona. Lời kết tội anh ta căn cứ vào một lời thú tội mà Miranda khai với cảnh sát sau 2 giờ bị thẩm vấn mà không được báo cho biết rằng anh ta có quyền yêu cầu sự có mặt của một luật sư. Trong quyết định của mình, Toà án Tối cao yêu cầu các sĩ quan cảnh sát khi bắt giữ người phải báo cho người bị bắt giữ biết những điều mà nay được gọi là những lời cảnh báo Miranda, đó là kẻ bị tình nghi có quyền im lặng, rằng những điều anh ta nói ra có thể được dùng để chống lại anh ta, rằng anh ta có thể yêu cầu sự có mặt của một luật sư trong khi bị thẩm vấn, và một luật sư sẽ được cung cấp nếu anh ta không tự thuê được.
    Vụ Miranda kiện bang Arizona là một trong những quyết định nổi tiếng nhất của Toà án Tối cao, do những lời cảnh báo Miranda đã được thường xuyên đưa lên nổi bật trong phim ảnh và chương trình truyền hình ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, năm 1999 một toà phúc thẩm liên bang đã không thừa nhận quyết định này trong vụ Dickerson kiện Hợp chúng quốc, trong đó một tên phạm tội cướp nhà băng nói rằng hắn đã không biết đầy đủ các quyền của hắn. Tháng 6-2000, Toà án Tối cao đã đảo ngược bản án Dickerson bằng một quyết định 7 phiếu trên 2 khẳng định lại mạnh mẽ giá trị của vụ Miranda.
  7. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    7- Vụ Thời báo New York kiện Sullivan (1964)
    Ðiều sửa đổi thứ nhất trong Hiến pháp Hợp chúng quốc bảo đảm quyền tự do báo chí, nhưng trong nhiều năm Toà án Tối cao không chịu sử dụng Ðiều sửa đổi thứ nhất này để bênh vực các phương tiện thông tin báo chí chống lại những vụ kiện về tội phỉ báng - những vụ kiện căn cứ trên việc đăng những thông tin sai làm hại đến uy tín của cá nhân. Quyết định của Toà án Tối cao trong vụ Thời báo New York kiện Sullivan đã làm đảo lộn luật về tội phỉ báng tại Hợp chúng quốc bằng cách quyết định rằng các quan chức nhà nước không thể khiếu kiện thành công về tội phỉ báng đơn giản bằng cách chứng minh rằng thông tin được đăng đó là sai. Toà quyết định rằng ngươứi khiếu kiện còn phải chứng minh rằng các phóng viên hoặc biên tập viên đã hành động "cố tình ác ý" và đã đăng những thông tin "một cách bừa bãi, không đếm xỉa là nó sai hay không".
    Vụ này phát sinh do có một trang quảng cáo trên tờ Thời báo New York do Hội nghị Ban lãnh đạo Thiên Chúa giáo miền Nam (Southern Christian Leadership Conference) gửi đăng để quyên tiền ủng hộ việc bào chữa cho lãnh tụ nhân quyền Martin Luther King, Jr., sau khi ông này bị bắt giữ tại Alabama năm 1960. L.B. Sullivan, cảnh sát trưởng thành phố Montgomery, bang Alabama, phụ trách sở cảnh sát, cho rằng lời quảng cáo này đã phỉ báng ông ta bằng cách miêu tả sai những hành động của lực lượng cảnh sát thành phố. Sullivan khởi kiện 4 giáo sĩ đã cho đăng lời quảng cáo này và tờ Thời báo New York vì đã không kiểm tra tính chính xác của lời quảng cáo.
    Trang quảng cáo quả có chứa đựng một số điều không chính xác, và một đoàn bồi thẩm đã cho Sullivan được hưởng 500.000 đôla bồi thường. Tờ Thời báo New York và các lãnh tụ nhân quyền kháng cáo lên Toà án Tối cao và Toà này đã nhất trí phán quyết ủng hộ họ. Toà án Tối cao quyết định rằng luật về tội phỉ báng không thể áp dụng "để áp đặt sự trừng phạt đối với việc thể hiện lời chỉ trích hành vi chính thức của các quan chức nhà nước", và việc đòi phải bảo đảm tính chính xác của những điều phát biểu của họ sẽ dẫn đến việc tự kiểm duyệt. Toà án Tối cao không thấy có bằng chứng nào cho thấy tờ Thời báo New York hoặc các giáo sĩ kia đã ?o cố tình ác ý? khi cho đăng lời quảng cáo này.
    --------------------------------------------------
    Bản tiếng Anh : click here
  8. MinhTrinh

    MinhTrinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/10/2003
    Bài viết:
    3.428
    Đã được thích:
    0
    Xin phép được đóng góp ý kiến :
    1/ Có 1 số từ được phiên dịch chưa được chuẩn hoặc chưa quen tai nên người đọc khó phân biệt; thí dụ như : Nghị sĩ, đại biểu, Hạ viện ...Xin đề nghị bạn ghi thêm chú tích bằng tiếng Anh thì rõ nghĩa hơn ; thí du như Hạ viện ở Canada gọi là : House of Commons và các members nên gọi là dân biểu hoặc đại biểu thì thích hợp hơn là Nghị sĩ ( dành cho the Senate và Senators )
    2/ Tổ chức Lập pháp Canada ( Parliament = Quốc hội ???) hơi khác với tổ chức của Hoa Kỳ .
    Senate gồm 105 nghị sĩ ( Senators ) ; Coi như đại diện của địa phương ( các tỉnh và territories ) không bầu cử mà được đề nghị bổ sung khi khiếm khuyết bởi Thủ tướng và bổ nhiệm bởi vị Đại diện Toàn quyên ( đại diện Nữ Hoàng )
    Những vị này phải trên 30 tuổi và có thể ngồi luôn tới 75 tuổi, họ bắt buộc phải cư ngụ tại địa phương mà họ đại diện . ( Các Thượng nghị sĩ của Hoa kỳ thì do bầu cử ) . Mấy vị này thì ít ai để ý tới tên tuổi vì KHÔNG THAM DỰ sinh hoạt trong chính phủ .
    House of commons gồm các members ( Dân biểu ??? ) do dân bầu ra, đại diện dân và tùy theo mật độ dân cư mà có nhiều hay ít member; hiện nay là 301 vị . Họ có thể sinh hoạt độc lập hoặc nằm trong đảng ; Đảng nào nắm đa số ghế gọi là đảng cầm quyền và Leader của đảng đó sẽ thành lập Nội các cũng gồm các dân biểu trong đảng . Tất cả các dân biểu không thuộc đảng cầm quyền sẽ gọi là dân biểu đối lập (
    opposition members )
    Các bạn có thể tham khảo thêm tại đây : http://www.parl.gc.ca/Information/library/faq/faq.asp?cat=people&lang=E&Sect=people_03#3
    3/ Các chuyện ngoài lề :
    Tùy theo kết quả của cuộc bầu cử, Có những trường hợp như :
    a- Đảng lãnh đạo nắm đa số tuyệt đối trong quôchội ( 50% +1 ); Chính phủ chắc chắn sẽ do đảng này điều hành trong suốt nhiệm kỳ . Họ sẽ thông qua các dự luật do đảng của họ đưa ra dễ dàng ...và ít quan tâm đến ý kiến của Đối lập, dễ đưa đến tình trạng thao túng và khi hết nhiệm kỳ phải bầu lại, họ vẫn mất quyền lãnh đạo nếu không còn nắm đa số . Nặng nề nhất là cuộc bầu cử năm 1993, Đảng lãnh đạo với trên 250 ghế đã không đếm xỉa đến các bất mãn của dân chúng ; đến khi bầu lại, họ chỉ còn 2 ghế và với vỏn vẹn 2 ghế; không những đã mất quyền lãnh đạo mà còn không được cả quyền lãnh đạo đối lập ! Thành ra câu : " Chính phủ sẽ bị thay thế khi TOÀN THỂ cử tri không chấp thuận đảng cầm quyền và vị Thủ tướng. " xin đề nghị sửa lại là : ĐA SỐ .; Thật ra mỗi lần bầu thì coi như là đã thay đổi chính phủ vì ngay cả vị cựu thủ tướng vẫn tái đắc cử và đảng của ông vẫn nắm đa số thì thành phần nội các vẫn thay đổi khi có 1 số bộ trưởng bị thất cử vào house of commons .
    b- Đảng lãnh đạo chỉ nắm đa số tương đối ( Nhiều ghế nhất so với các đảng tại house of commons ) Chính phủ điều hành rất khó khăn vì khi biểu quyết, chưa chắc đã có được đa số nếu tất cả các đảng khác trong house of commons cùng phản đối . Nặng hơn nữa, Nếu các đảng thiểu số này liên kết lại để thành đa số, họ có thể cùng chỉ định 1 leader khác để thay quyền lãnh đạo của Thủ tướng và vị này sẽ thành lập 1 chính phủ liên hiệp ; tình trạng này tuy khó xảy ra nhưng cũng đã xảy ra .
    Lại thêm 1 giả sử khác nữa : Đảng lãnh đạo chiếm tới 90% số ghế !!! Trong trường hợp này, chính đảng lãnh đạo lại đề cử 1 số members qua ngồi ghế Đối lập để tạo ra các cuộc tranh luận nhằm tìm ra 1 sách lược toàn hảo trong các đường hướng Kinh tế, xã hội ....Cứ mỗi ông Bộ trưởng ( cũng là dân biểu ) thì lại có 1 ông dân biểu đối lập kè kè 1 bên đưa các ý kiến trái ngược để cho người lãnh đạo và dân chúng thấy ưu và khuyết điểm ; phe đối lập cũng như Báo chí được quyền xem các việc chi thu ...Vì thế mà cũng đã có những bộ trưởng mất chức hoặc phải từ chức vì lợi dụng chức vụ, hưởng đặc ân từ các nhà Thầu hoặc chi tiêu quá lố ....
    Sau giờ làm việc, Thủ tướng cũng là dân, đi ăn, chở vợ con đi chơi như dân ( trừ các dịp tiếp khách quốc tế ) ; gần đây, sau các cuộc khủng bố, người ta mới bàn đến vấn đề an ninh của các VIP . Cách nay vài năm, đã có chuyện nực cười là có kẻ đột nhập nhà thủ tướng Jean Chretien để ngắm ông ta ....ngủ ; 1 lần khác, Thủ tướng Jean Chretien đang dạo phố thì có kẻ lạ mặt cứ đi theo, ông Chretien này căng thẳng quá nên nắm ngực người đi theo, 1 người khác nhảy ra quật chàng này gãy mấy cái răng !!! Và Ông Thủ tướng bị kiện đòi bồi thường ; Năm ngoái , Ông này cũng làm nhiều khách du lịch ngạc nhiên tưởng là Thủ tướng ... giả khi chuyến xe bus du lịch đi ngang phủ thủ tướng, Ông lên xe, tự giới thiệu là thủ tướng , khi xe đi ngang nhà, ông xuống và đi vào nhà thì mọi người mới biết là Thủ tướng thứ thiệt .
    c- Cũng có những chuyện tréo cẳng ngỗng như :
    Đảng nắm đa số ghế nhưng leader của họ lại thất cử trong cuộc bầu cử ...Vị Leader này vẫn làm thủ tướng nhưng không có chỗ ngồi trong quốc hội mà bị ngồi ở 1 chỗ riêng biệt; khi có tranh luận, Chỉ được nghe mà không được nói, tức thì tức nhưng không được quyền phát biểu ; muốn gì phải qua 1 đại diện của vị này ( đã đắc cử ) đứng ra tranh luận thay ...tình trạng này cũng đã xảy ra và thường thì sau đó, Vì quyền lợi của đảng, 1 dân biểu trong đảng ở địa phương nào mà đảng này có uy tín nhất sẽ từ chức để bầu lại, Leader này sẽ ra ứng cử tại địa phương đó; để chứng tỏ 1 tinh thần Quân tử, đảng đối lập cũng sẽ không cử người ra tranh cử để tạo thuận lợi cho leader này . Sau đó thủ tướng mới có ghế ngồi !
    Ngoài ra, tại House of commons, còn có chức vụ :
    Speaker of the House of Commons; vị này coi như chủ tọa , điều hành các cuộc họp và tranh luận . vị này không có quyền biểu quyết , chỉ đưa ý kiến nhằm duy trì trật tự và 1 khi vị này đã quyết định thì không ai được cãi
    ; làm nghề này cũng sướng , ngồi tuốt trên cao, hai bên có các trẻ em đứng ngồi giống như các quan vào triều vua ngày xưa . Thủ tướng muốn đứng lên nói cũng phải xin phép, một điều Mr. Speaker, hai điều Mr. Speaker !!! Mr. Speaker ra lệnh ngồi thì thủ tướng cũng phải ngồi; không được tiếp tục tranh cãi gì cả !
    Chả là Canada vẫn còn truyền thống " Quân chủ ", tôn thờ Nữ Hoàng mà .
    Chuyện ở cái xứ có lá cờ Đu đủ ( Maple leaf ) này còn khá nhiều cái lạ, Mà cũng có nhiều cái trùng với VN ta như ngày 19/5 và 2/9 hàng năm .
    MT
    Được minhtrinh sửa chữa / chuyển vào 05:29 ngày 23/10/2003
  9. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    NHỮNG SỰ TÁCH BIỆT TRONG HỆ THỐNG TOÀ ÁN HOA KỲ​
    E. Osborne Ayscue
    [ Bản tiếng Anh : click here ]
    Theo quy định của Hiến pháp, Hoa Kỳ có hai hệ thống tòa án riêng biệt - hệ thống tòa án liên bang và tòa án bang. Mỗi hệ thống tòa án có hai hình thức tố tụng hoàn toàn tách biệt - hình sự và dân sự. E. Osborne Ayscue, Jr., một luật sư biện hộ trong các vụ án dân sự hành nghề ở Charlotte, Bắc Carolina, và hiện là Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Luật sư Biện hộ Hoa Kỳ, lý giải những sự tách biệt này vốn là chìa khóa để hiểu được hệ thống tư pháp Hoa Kỳ.
    Một vụ án đã thu hút sự chú ý nhiều tháng liền không chỉ ở Hoa Kỳ mà còn trên khắp thế giới là vụ án ở bang California xét xử vận động viên điền kinh nổi tiếng O. J. Simpson, bị buộc tội giết người mức độ một. Hàng triệu người Mỹ bị lôi cuốn theo dõi tin tức hàng ngày trên vô tuyến về vụ án. Còn những khán giả ở nước ngoài thường cảm thấy khó hiểu. Tại sao Simpson lại bị truy tố tại tòa án bang mà không phải tòa án liên bang? Tại sao bị cáo lại không được yêu cầu điều trần? Và tại sao, sau khi được xác định là không có tội, anh ta lại bị xét xử một lần nữa trong một phiên tòa dân sự mà lần này anh ta lại được yêu cầu điều trần? Chẳng phải như vậy là bị xét xử hai lần hay sao?
    Câu trả lời cho những câu hỏi trên đây nằm trong bản chất phức tạp của hệ thống pháp luật Hoa Kỳ và hệ thống các tòa án liên bang và bang song song tồn tại ở nước này. Hiến pháp Hoa Kỳ trao những quyền lực cụ thể, bao gồm một số quyền lập pháp, cho chính phủ liên bang, còn tất cả các quyền lực khác thì trao cho các bang. Theo đó, có những tòa án liên bang để truy tố những hành vi vi phạm luật pháp liên bang, và những tòa án bang dành cho những hành vi vi phạm luật pháp của bang. Hầu hết các tội phạm đều là vi phạm luật pháp của bang.
    Ngay cả tội nghiêm trọng là giết người trong hầu hết các trường hợp cũng là sự vi phạm luật pháp bang của Hoa Kỳ. Đó là lý do tại sao O. J. Simpson lại bị truy tố bởi tòa án bang California, nơi hành động phạm tội xảy ra, chứ không phải ở các tòa án liên bang. Simpson không được yêu cầu điều trần tại phiên tòa xét xử tội giết người bởi vì theo hiến pháp, anh ta có quyền không điều trần, trừ khi anh ta chọn cách đó. Trên thực tế, các bị đơn tại Hoa Kỳ có rất nhiều quyền bắt nguồn từ bản thân Hiến pháp, cho dù họ bị truy tố ở tòa án bang hay tòa án liên bang. Ví dụ, Simpson cũng sẽ có quyền không làm chứng chống lại bản thân mình trong một phiên tòa hình sự liên bang.
    Nhưng làm sao mà Simpson lại bị xét xử đến hai lần - một lần tại phiên tòa hình sự nơi anh ta được xác định là không phạm tội giết vợ mình là Nicole Simpson và bạn cô ta là Ron Goldman - và được xét xử lại tại một phiên tòa dân sự trong đó anh ta bị buộc phải chịu trách nhiệm về cái chết của họ và được yêu cầu phải bồi thường cho nguyên đơn? Nguyên nhân là do các hệ thống xét xử hình sự và dân sự ở Hoa Kỳ hoàn toàn tách biệt nhau với những hình phạt khác nhau và những quy định về thủ tục tố tụng khác nhau.
    Trong phiên tòa dân sự xét xử Simpson, bị đơn được yêu cầu làm chứng và tiêu chuẩn của bằng chứng thấp hơn. Trong vụ án dân sự, thay vì phải tìm bằng chứng chắc chắn về sự phạm tội, ban bồi thẩm chỉ phải tìm những bằng chứng vượt trội về tội của Simpson. Bị đơn có ít quyền tố tụng hơn trong một phiên tòa dân sự, vì kết quả ở đây thường chỉ giới hạn vào việc phạt tiền.
    Được constancy sửa chữa / chuyển vào 02:51 ngày 29/03/2005
  10. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    1- Phiên tòa dân sự so với phiên tòa hình sự
    Những quy định về xét xử dân sự và hình sự có đôi chút khác biệt trong các hệ thống tòa án bang và liên bang, song hầu như là tương tự như nhau vì theo Hiến pháp, tất cả các phiên tòa phải trao những quyền nhất định cho các bị đơn, và vì những quy định về chứng cứ nhìn chung là giống nhau trong cả hai hệ thống. Song có những khác biệt lớn về thủ tục tố tụng giữa các phiên tòa dân sự và hình sự:

    Luận tội. Trong một vụ án hình sự, những lời buộc tội cần phải chính xác hơn và chi tiết hơn.

    Điều tra. Trong một vụ án hình sự, khả năng của mỗi phía - bên nguyên và bên bị - trong việc thu thập thông tin ủng hộ quan điểm của mình bị giới hạn hơn.

    Gánh nặng nhiều hơn. Trong một phiên tòa hình sự, bị đơn phải bị chứng minh có tội với những bằng chứng chắc chắn. Còn trong một phiên tòa dân sự, nguyên đơn hay bên khởi kiện chỉ phải chứng tỏ lời buộc tội bằng những chứng cứ có trọng lượng hơn chứng cứ của bên bị, như bằng một cuộc kiểm tra chẳng hạn, ban bồi thẩm xét xử Simpson trong phiên tòa dân sự được coi là đã đáp ứng được điều này.

    Bảo hộ nhiều hơn. Do có thể phải chịu những hình phạt nghiêm khắc hơn, bị đơn trong một phiên tòa hình sự được trao cho nhiều quyền tố tụng và biện pháp bảo vệ hơn bị đơn trong một phiên tòa dân sự.

    Quyền kháng cáo. Nếu một bị cáo hình sự được tha bổng, bên nguyên hầu như không có quyền kháng cáo do bị đơn không thể bị xét xử hai lần cho cùng một tội trạng. Trong một vụ án dân sự, bên thua kiện có quyền kháng cáo.

    Xét xử mau lẹ. Tại những khu vực pháp lý có luật xét xử nhanh chóng, các vụ án hình sự có thể được xét xử mau lẹ hơn các vụ án dân sự.

Chia sẻ trang này