1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu Tư pháp Hoa Kỳ!

Chủ đề trong 'Khoa học Pháp lý' bởi Remediot, 13/10/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    Nhóm cán bộ của tòa án về tội phạm ma túy
    Nhóm này thường bao gồm một vị thẩm phán, công tố viên, luật sư bào chữa, nhà cung cấp dịch vụ trị liệu, nhân viên thực thi pháp luật, nhân viên quản chế, người quản lý vụ việc và điều phối viên của chương trình. Trong các buổi họp của nhóm, thường được gọi là ?ostaffings?, cả nhóm thảo luận tiến triển của người tham gia kể từ phiên ra tòa trước đó. Các thành viên của nhóm đưa ra khuyến nghị về việc trừng phạt hay khen thưởng, tùy theo việc người tham gia có tuân thủ các quy định của chương trình hay không.
    Thường thì các tòa án chuyên trách về tội phạm ma túy yêu cầu người tham gia không được phạm tội, uống rượu hay sử dụng ma túy. Những người tham gia cũng phải tìm kiếm các cơ hội nâng cao học vấn hoặc đào tạo nghề. Hầu hết các chương trình của tòa án về tội phạm ma túy đều đòi hỏi người tham gia phải chịu sự giám sát của tòa án trong ít nhất là một năm. Ngoài việc điều trị cai nghiện ma túy và xử lý tình huống có hiệu quả, những người được điều trị thành công còn được lợi từ ngành tòa án hình sự. Người tham gia có thể được giảm nhẹ hình phạt, xóa bỏ tội danh, hoặc được kết thúc sớm thời hạn quản chế.
    Việc tham gia vào chương trình tòa án về tội phạm ma túy mang tính tự nguyện. Người tham gia có quyền chọn lựa, ngay cả khi sự lựa chọn là phải vào tù. Nếu một bị cáo chọn tòa án về tội phạm ma túy, người đó phải tỏ ra có đủ tư cách tham gia chương trình. Nhóm cán bộ của tòa án về tội phạm ma túy thường xây dựng các tiêu chí về tư cách tham gia, có tham khảo tất cả các nguyên tắc chỉ đạo về mặt pháp lý của bang, cùng với việc xem xét nhu cầu của cộng đồng. Một số vấn đề thường được xem xét trong tiêu chuẩn là: Bị cáo có bị phụ thuộc vào rượu hay ma túy không? Bị cáo có nạn nhân nào hay không; có đặt vấn đề bồi thường hay không; nạn nhân có phản đối gì hay không? Bị cáo có phải là một tội phạm bạo lực hay không?
    Tư cách tham gia được quyết định dựa trên cơ sở kiểm tra pháp lý và biểu hiện lâm sàng. Do hệ thống của các bang khác nhau, và đối tượng mà các tòa án về tội phạm ma túy hướng tới khác nhau, nên phương pháp tham gia chương trình cũng khác nhau. Thường thì công tố viên sẽ xác định tư cách tham gia về mặt pháp lý. Nếu như bị cáo tham gia vào chương trình tòa án về tội phạm ma túy do vi phạm về vấn đề quản chế thì nhân viên quản chế có thể quyết định tư cách tham gia về mặt pháp lý. Một khi bị cáo được xác định là đủ tư cách về mặt pháp lý thì bộ phận cung cấp dịch vụ trị liệu sẽ tiến hành kiểm tra biểu hiện lâm sàng. Trong quá trình kiểm tra biểu hiện lâm sàng, một chuyên viên trị liệu phỏng vấn người muốn tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy và đặt ra một số các câu hỏi. Những câu hỏi này được thiết kế để xác định loại vấn đề về sử dụng ma túy của đối tượng nếu có. (Một cuộc kiểm tra biểu hiện lâm sàng khác với một cuộc đánh giá về mặt lâm sàng, đánh giá lâm sàng bắt đầu với một quá trình phỏng vấn lâu hơn nhiều, diễn ra sau khi đối tượng đã được chấp thuận cho tham gia chương trình, nó giúp xác định mức độ trị liệu cần thiết, và được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình bị cáo tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy).
    Trước khi tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy, bị cáo xem xét lại các yêu cầu của chương trình cùng với luật sư của mình, và thường thì cũng thảo luận về các yêu cầu này với điều phối viên chương trình và thẩm phán. Do các tòa án về tội phạm ma túy áp dụng cho cả các tội nhẹ và các tội nghiêm trọng, và do tình trạng của đối tượng tham gia là trước khi tự bào chữa và đôi khi là sau khi tự bào chữa, cho nên tư cách pháp lý của người tham gia cũng khác nhau. Một số người đã có bản cáo trạng chính thức; một số người thì chưa có. Nếu một bị cáo đủ tư cách tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy, và người đó đồng ý tham gia, thì người đó phải chấp nhận tuân thủ tất cả các quy định, quy tắc của chương trình. Nếu bị cáo tham gia chương trình này mà chưa tự bào chữa, thì việc tuân thủ nói trên có thể được đặt thành một điều kiện bảo lãnh tại ngoại. (Bảo lãnh tại ngoại thường là một số tiền bảo chứng đặt ra ngay sau khi một người bị bắt giữ, mục đích là để đảm bảo rằng người đó sẽ phải ra tòa. Tuy nhiên, bảo lãnh tại ngoại cũng có thể là cam kết cá nhân khi không có khoản tiền bảo lãnh. Một khi bị cáo nộp tiền tại ngoại, người đó sẽ được thả, song vẫn phải chịu sự giám sát của tòa án và bất kỳ điều kiện đặc biệt nào trong lệnh cho tại ngoại). Nếu bị cáo tham gia chương trình sau khi đã tự biện hộ, việc tuân thủ nói trên có thể là một điều kiện cho việc quản chế (chịu án treo).
    Các phương pháp truyền thống
    Các tòa án về tội phạm ma túy lúc đầu là một nỗ lực của người dân, khi các tòa án địa phương trong khi tìm kiếm giải pháp thay thế cho quy trình của ngành tòa án thông thường đã sử dụng tòa án về tội phạm ma túy để xử lý những tội phạm nghiện ma túy của họ.
    Trong cách tiếp cận truyền thống đối với những tội phạm đó, nhiều bị cáo phải chịu các bản án phạt tù hoặc án treo, thường là không được điều trị. Nếu có điều trị và tòa án ra lệnh điều trị là một phần trong bản án, thì cũng không có quan hệ hợp tác chính thức nào giữa các khâu tòa án, xử lý tình huống, điều trị, và giám sát. Nếu tội phạm không chịu tuân thủ các điều kiện trị liệu hoặc có phản ứng dương tính với ma túy thì không có một hệ thống thưởng phạt nào được thiết kế để duy trì việc điều trị cho tội nhân. Trước đây thường thì phản ứng đối với việc không tuân thủ là không cho tiếp tục điều trị. Lúc đó những tội phạm đang chịu án treo có thể lại phải ra trước toà, không được hưởng án treo nữa và phải ngồi tù. Còn những tội phạm bị loại khỏi các chương trình điều trị trong hệ thống nhà tù sẽ một lần nữa quay trở lại xà lim.
    Như vậy, hệ thống truyền thống trước đây tạo ra một ?ocánh cửa xoay? của công lý. Các thẩm phán, công tố viên và luật sư bào chữa lúc đó quen với cảnh cùng những bị cáo đó phải quay trở lại tòa hết tháng này qua tháng khác, nhiều người trong số đó phạm tội trộm cướp tài sản, xuất phát từ sự lệ thuộc của họ vào ma túy. Nếu không được điều trị, các tội phạm vẫn tiếp tục trong trạng thái lên cơn nghiện thường xuyên, và tiếp tục biến người khác thành nạn nhân của sự nghiện ngập của họ.
  2. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    Khuôn khổ cho các tòa án về tội phạm ma túy:
    Cho đến giữa những năm 1990, mặc dù nhiều chương trình tòa án về tội phạm ma túy có những điểm tương đồng, song không tồn tại một bộ tiêu chuẩn nào cả. Năm 1996, một nhóm những người hành nghề tư pháp đã tập hợp lại với nhau nhờ sự trợ giúp của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Hiệp hội Quốc gia Các Chuyên gia Tòa án về tội phạm ma túy. Nhóm này được tổ chức để xác định những tiêu chuẩn cơ bản của các tòa án về tội phạm ma túy. Họ đã làm việc trong hơn một năm, và đến năm 1997, Bộ Tư pháp đã xuất bản cuốn sách Định nghĩa Tòa án về tội phạm ma túy: Những nhân tố then chốt, trong đó nêu ra 10 nhân tố chủ chốt cấu thành khuôn khổ cho các tòa án về tội phạm ma túy.
    Nhân tố quan trọng đầu tiên của khuôn khổ này giải thích tại sao tòa án về tội phạm ma túy lại hợp nhất các dịch vụ điều trị cai nghiện rượu và cai nghiện ma túy với hệ thống tư pháp. Một phần trong sự hợp nhất này là chương trình bao gồm một nhóm chuyên gia liên ngành như đã bàn ở trên. Các nhân viên tham gia chương trình cũng có thể xây dựng một ủy ban chỉ đạo, thường được gọi là ủy ban nguồn lực hoặc ban cố vấn. Ủy ban này giúp chương trình thiết lập một sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng. Ủy ban có thể bao gồm từng thành viên của nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy cùng với đại diện của các nhà cung cấp dịch vụ điều trị bệnh tâm thần, đào tạo nghề, giáo dục, hệ thống trường học địa phương, các doanh nghiệp sở tại, chính quyền địa phương, cộng đồng tôn giáo, và các công dân khác có quan tâm. ủy ban này có thể đưa ra những khuyến nghị về chính sách và thủ tục, gây quỹ cho chương trình, và hỗ trợ chương trình bằng các hoạt động và dự án đặc biệt, chẳng hạn như việc tổ chức các lễ hoàn thành chương trình.
    Nhân tố quan trọng thứ hai của khuôn khổ coi các tòa án về tội phạm ma túy là phi tranh tụng. Nếu như trong hệ thống tư pháp truyền thống, công tố viên và luật sư bào chữa hành động như những bên đối lập, công tố viên thì đại diện cho lợi ích lớn nhất của đất nước, còn luật sư bào chữa thì đại diện cho lợi ích lớn nhất của thân chủ, thì trong tòa án về tội phạm ma túy những nhân vật này không còn mang tính đối lập truyền thống nữa. Công tố viên và luật sư bào chữa cùng làm việc trong nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy - cả hai bên đều tập trung vào việc phục hồi sức khỏe cho người tham gia. Cả hai đều khuyến nghị với thẩm phán, cùng với các thành viên khác trong nhóm, về việc thưởng/phạt để tác động tới sự thay đổi hành vi của đối tượng tham gia.
    Theo nhân tố then chốt thứ ba, các tòa án về tội phạm ma túy cố gắng xác định sớm những đối tượng tham gia ngành tòa án hình sự và đưa họ vào chương trình điều trị. Các nghiên cứu đã cho thấy những người tham gia điều trị cai nghiện ma túy sẽ thành công hơn nếu như việc điều trị được tiến hành sớm trước khi xảy ra vấn đề đáng tiếc - như bị bắt giữ hay vi phạm điều kiện hưởng án treo chẳng hạn. Ngay khi người phạm tội được xác định là đủ điều kiện, người đó sẽ được nhanh chóng tham gia quá trình điều trị dưới sự giám sát của tòa án.
    Nhân tố then chốt thứ tư bàn về sự cần thiết phải duy trì liên tục các dịch vụ điều trị và phục hồi sức khỏe tại tòa án về tội phạm ma túy. Ngoài việc điều trị cai nghiện, tòa án về tội phạm ma túy còn cung cấp các dịch vụ tư vấn tâm lý, đào tạo nghề, nâng cao học vấn, chăm sóc sức khỏe, và bất kỳ dịch vụ cần thiết nào khác trong cộng đồng. Đương nhiên là một số cộng đồng cung cấp nhiều dịch vụ hơn các cộng đồng khác, song ủy ban chỉ đạo có thể xác định các nguồn lực và giúp xóa đi bất kỳ khoảng cách nào trong các dịch vụ cần thiết.
    Nhân tố quan trọng thứ năm là các đối tượng tham gia được giám sát thường xuyên thông qua các cuộc kiểm tra về rượu và ma túy. Việc kiểm tra này thường xuyên diễn ra một cách ngẫu nhiên và có sự giám sát. Các chuyên viên trị liệu hoặc các nhân viên thực thi pháp luật thường là người tiến hành kiểm tra. Trong nhiều đánh giá của tòa án về tội phạm ma túy, những đối tượng tham gia coi kết quả kiểm tra là một biểu hiện quan trọng cho sự hồi phục của họ.
    Nhân tố quan trọng thứ sáu nhấn mạnh chiến lược phối hợp nhằm điều chỉnh sự phản ứng của tòa án về tội phạm ma túy trước hành vi của những người tham gia. Những cuộc gặp định kỳ tại tòa án giữa thẩm phán và người tham gia, diễn ra sau cuộc họp của nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy, tạo cho nhóm cơ hội để đáp lại việc tuân thủ hoặc không tuân thủ của người tham gia thông qua các biện pháp thưởng phạt trực tiếp. Những phản ứng này được xây dựng nhằm khuyến khích sự thay đổi hành vi của những người tham gia và thường không nhằm mục đích trừng phạt. Những phản ứng này cũng có thể bao gồm cả việc điều trị, một việc không thuộc loại thưởng phạt nào, song là kết quả của sự tiến bộ của người tham gia, ví dụ như tăng hay giảm mức độ chăm sóc.
    Sự tương tác thường xuyên, liên tục với thẩm phán được coi là cốt lõi của nhân tố thứ bảy. Cũng giống như việc kiểm tra mức độ nghiện ma túy, sự tương tác này cũng thường được những người tham gia coi là quan trọng đối với thành công của họ. Vì thẩm phán thường kỳ gặp đối tượng tham gia trong nhiều tháng liền, nên giữa thẩm phán và người tham gia thường có một quan hệ ?omang tính trị liệu? không có trong bối cảnh tòa án bình thường.
    Nhân tố thứ tám nhấn mạnh rằng tòa án về tội phạm ma túy cần phải giám sát và đánh giá để định lượng thành công của chương trình. Bất kể các chương trình của tòa án về tội phạm ma túy có thể thành công đến thế nào, nếu việc thu thập dữ liệu và đánh giá không tốt, thì thành công đó sẽ chỉ là bề ngoài với những văn bản làm bằng chứng. Các chương trình cần thu thập một cơ sở thông tin về những người tham gia, về việc điều trị cai nghiện rượu và ma túy của họ, về việc chăm sóc sức khỏe, về nhân khẩu học, tiền án tiền sự và những tội danh hiện thời. Các thành viên trong nhóm cần đặt ra những mục tiêu rõ ràng cho tòa án về tội phạm ma túy, và sau đó xây dựng phương án đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đó. Cả nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy và những người cung cấp tài chính và dịch vụ cho tòa án về tội phạm ma túy đều muốn thấy bằng chứng của tính hiệu quả của chương trình.
    Nhân tố thứ chín nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao giáo dục toàn diện. Vì tòa án về tội phạm ma túy là một sự thay đổi căn bản trong ngành tòa án hình sự và hệ thống điều trị nên tất cả các thành viên của nhóm cần phải hiểu những điều cơ bản về vai trò của từng thành viên khác. Mỗi thành viên phải tiếp tục được đào tạo về những thực tiễn mới nhất trên cơ sở khoa học. Các tòa án về tội phạm ma túy cần phải tạo khuyến khích những cơ hội học tập như vậy, khuyến khích các thành viên của nhóm tham gia khóa đào tạo từ xa, và nếu có thể thì đào tạo cho các thành viên mới cũng như lâu năm của nhóm.
    Nội dung của nhân tố quan trọng thứ 10 là, tòa án về tội phạm ma túy xây dựng các quan hệ đối tác trong cộng đồng, điều này nâng cao tính hiệu quả của chương trình và tạo ra sự ủng hộ ở địa phương. Một biểu hiện của những quan hệ đối tác này là việc lập ra ủy ban chỉ đạo tòa án về tội phạm ma túy. Những tổ chức tham gia ủy ban điều hành trở thành đối tác trong sự thành công của tòa án về tội phạm ma túy. Các tòa án về tội phạm ma túy cũng có thể xây dựng quan hệ đối tác với cộng đồng bằng cách để cho những đối tượng tham gia chương trình thực hiện các dịch vụ cộng đồng, điều này có thể đặt thành một yêu cầu chung của chương trình, hoặc được bảo lưu như một chế tài phạt. Ủy ban cũng hỗ trợ các nhân viên của chương trình tổ chức tốt hơn các nguồn lực hiện có của cộng đồng. Các thành viên trong ủy ban chỉ đạo thường đại diện cho các cơ quan hoặc pháp nhân cung cấp những dịch vụ trọn gói mà những người tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy cần đến.
  3. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    Tài trợ:
    Việc tuân theo 10 nhân tố then chốt trên đây là điều kiện cần thiết để được nhận tài trợ từ Chính quyền Liên bang. Nhiều nguồn tài trợ của bang và địa phương cũng dựa rất nhiều vào những nhân tố này, và sẽ đòi hỏi những người xin tài trợ chỉ rõ chương trình của họ tuân theo các nhân tố đó như thế nào.
    Mặc dù tòa án về tội phạm ma túy chưa bao giờ là một chương trình bắt buộc của Liên bang, song do sự lớn mạnh của chúng trong những năm 1990, Văn phòng Chương trình Tòa án về tội phạm ma túy đã được lập ra trực thuộc Văn phòng các Chương trình Tư pháp (OJP) thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ). (Văn phòng Chương trình Tòa án về tội phạm ma túy đến nay vẫn thuộc OJP). Các tòa án về tội phạm ma túy ở cấp địa phương giờ đây được trợ giúp thông qua Cục Hỗ trợ Tư pháp (BJA), cũng thuộc Bộ Tư pháp.
    Thông qua BJA, DOJ cung cấp nguồn vốn ban đầu cho việc lên kế hoạch thực hiện chương trình tòa án về tội phạm ma túy, cùng với việc tài trợ hạn chế cho công tác thực hiện và nâng cao. Vốn của liên bang cho các tòa án về tội phạm ma túy được cung cấp từ nhiều nguồn, bao gồm các khoản hỗ trợ tuỳ nghi thông qua sự hợp tác của BJA và Văn phòng Quốc gia về Chính sách Kiểm soát Ma túy, dưới sự bảo trợ của Văn phòng Phủ Tổng thống; chương trình Tài trợ Thực thi Pháp luật của địa phương; các khoản tài trợ theo chương trình Edward Byrne Memorial; Trung tâm Điều trị Lạm dụng Ma túy; và Trung tâm Ngăn ngừa Lạm dụng Ma túy, song hầu hết các tòa án về tội phạm ma túy đều hoạt động dựa trên sự kết hợp các khoản tài trợ của Chính quyền Liên bang, bang và địa phương. Một số tòa án về tội phạm ma túy thu của người tham gia chương trình một khoản lệ phí và một số nhận được hỗ trợ tài chính từ các tổ chức phi lợi nhuận được sáng lập để ủng hộ cho các chương trình (nhiều tổ chức trong số này do các ủy ban chỉ đạo khởi xướng). Tuy nhiên, để thành công, các tòa án về tội phạm ma túy cũng phải dựa vào các nguồn lực hiện có ở địa phương, và sắp xếp các nguồn lực này để tránh sự trùng lặp dịch vụ.
    Thành công to lớn:
    Các tòa án về tội phạm ma túy đã thu được những thành công to lớn đến nỗi giờ đây chúng xuất hiện ở hầu như tất cả các khu vực đô thị lớn của Hoa Kỳ. Trên thực tế, mỗi bang và vùng lãnh thổ của Hoa Kỳ đều có một tòa án về tội phạm ma túy. Mặc dù bài viết này bàn về các tòa án về tội phạm ma túy trong bối cảnh của ngành tòa án hình sự cho người lớn, song mô hình tòa án về tội phạm ma túy cũng đã được áp dụng cho các tội phạm vị thành niên, cho các bậc cha mẹ có nguy cơ mất quyền nuôi dưỡng con mình do lạm dụng ma túy, cho những kẻ phạm tội bị bắt khi đang lái xe trong tình trạng say rượu hoặc bị ảnh hưởng bởi các chất gây nghiện khác, cho những tội phạm có các vấn đề về tâm thần (điều chỉnh chế độ thuốc men và xử lý tình huống), và cho những người được tha theo lời hứa danh dự khi trở lại tòa (giám sát những người được tha này về việc nghiện ma túy sau khi được tha về cộng đồng). Ở một số thành phố như San Diego, Bang California và Minneapolis, Bang Minnesota, các ngành tòa án về tội phạm ma túy được áp dụng khi mà nguyên nhân sâu xa của tội phạm phải có thể dẫn đến việc người phạm tội được đưa vào một trong nhiều chương trình do tòa án quản lý - tất cả các chương trình này đều theo mô hình chương trình của tòa án về tội phạm ma túy.
    Hầu hết các chương trình của tòa án về tội phạm ma túy nhắm tới đối tượng là những kẻ phạm tội phi bạo lực. Các tội phạm này được tham gia các chương trình có hình thức rất đa dạng:
    Xóa bỏ tội trạng (tội trạng được bảo lưu cho đến khi hoàn thành chương trình, và khi hoàn thành tốt thì tội trạng sẽ được xóa bỏ);
    Án treo (một người tham gia nhận tội và được hưởng án treo với một điều kiện đặc biệt là phải hoàn thành tốt chương trình của tòa án về tội phạm ma túy); và
    Hủy bỏ án treo (một người tham gia đang bị án treo và vi phạm vì những lý do nghiện ma túy sẽ tiếp tục được thử thách và được đưa vào chương trình tòa án về tội phạm ma túy).
    Các tòa án về tội phạm ma túy xử lý các tội danh đa dạng, từ tàng trữ ma túy đến trộp cướp tài sản. Do nhiều kẻ nghiện ma túy trộm cắp để có tiền mua ma túy, các tòa án về tội phạm ma túy cũng nhắm tới các tội trộm cướp tài sản vì nguyên nhân ma túy này. Nếu một người tham gia chương trình của tòa án về tội phạm ma túy phạm phải một tội có liên quan đến một nạn nhân, chẳng hạn như trong trường hợp ăn cắp, thì chương trình thường đòi hỏi phải bồi thường cho nạn nhân đó.
  4. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    Điều trị bắt buộc :
    Các tòa án về tội phạm ma túy sử dụng quyền cưỡng chế để buộc những người tham gia duy trì việc điều trị. Tài liệu khoa học mới nhất về điều trị cai nghiện rượu và ma túy cho thấy trên thực tế những bệnh nhân điều trị bắt buộc đạt được kết quả tốt hơn là những người tham gia tự nguyện. Các tòa án về tội phạm ma túy, thông qua hệ thống thưởng phạt và các phiên tòa định kỳ của mình, đảm bảo một mức độ điều trị bắt buộc cố định để giúp cho những người tham gia duy trì việc điều trị. Tòa án về tội phạm ma túy giúp nâng cao tỷ lệ người duy trì việc điều trị, và do đó, nâng cao tỷ lệ thành công của những người cần được điều trị so với các phương pháp điều trị tự nguyện truyền thống.
    Qua nhiều lần đánh giá, các tòa án về tội phạm ma túy cho thấy mức độ người tham gia duy trì điều trị cao. Trong khi nhiều chương trình điều trị cai nghiện rượu và ma túy có tỷ lệ bỏ cuộc lên đến 80-90% thì nhiều tòa án về tội phạm ma túy đã đạt được tỷ lệ bỏ cuộc chỉ là 30%. Hơn nữa, những người được điều trị theo chương trình của tòa án về tội phạm ma túy có tỷ lệ tái nghiện giảm đi rất nhiều, đôi khi giảm đến 90%. Các đánh giá về tòa án chuyên trách ma túy cũng cho thấy những chương trình này ít tốn kém hơn nhiều so với ngành tòa án hình sự truyền thống. Hai nghiên cứu về hiệu quả chi phí - một tại Bang Oregon và một tại Bang Texas - cho thấy rằng tòa án về tội phạm ma túy tiết kiệm cho người đóng thuế khoảng từ 9 đến 10 cent cho mỗi đô-la bỏ ra.
    Nỗ lực quốc tế :
    Các tòa án về tội phạm ma túy lúc đầu là một nỗ lực của người dân và ngày nay vẫn như vậy. Từ Thành phố Miami tới Thành phố San Francisco và tới Thành phố Rio de Janeiro, các cộng đồng sử dụng tòa án về tội phạm ma túy để giải quyết các vấn đề địa phương của mình. Các tòa án khác nhau phải đối mặt với các loại ma túy khác nhau, các ngành tòa án hình sự khác nhau, và các nguồn lực sẵn có khác nhau.
    Trong nhiều năm, các chuyên viên của tòa án về tội phạm ma túy đã hỗ trợ và đào tạo lẫn nhau và cho những người quan tâm đến vấn đề tòa án về tội phạm ma túy. Sự hỗ trợ và đào tạo này diễn ra thông qua những nỗ lực và sự ủng hộ của nhiều tổ chức. Ví dụ, các chuyên viên tòa án tội phạm ma túy từ Hoa Kỳ đã sang Brazil, Anh, Úc, Bermuda và Barbados để chia sẻ kinh nghiệm về tòa án tội phạm ma túy ở Hoa Kỳ.
    Hiệp hội Quốc gia Các Chuyên viên Tòa án Tội phạm Ma túy (NADCP), đại diện cho hàng nghìn người hành nghề tại các tòa án về tội phạm ma túy tại Hoa Kỳ, được thành lập vào năm 1994, và có trụ sở tại Thành phố Alexandria, Bang Virginia. Bộ phận phụ trách nghiên cứu, học thuật và đào tạo của NADCP, là Học viện Quốc gia về Tòa án Tội phạm Ma túy (NDCI), được thành lập vào năm 1997. NDCI được hỗ trợ bởi Văn phòng Quốc gia về Chính sách Kiểm soát Ma túy, đặt dưới sự bảo trợ của Văn phòng Phủ Tổng thống và Cục Hỗ trợ Tư pháp thuộc Bộ Tư pháp Hoa Kỳ. Hàng năm, NDCI tổ chức trên 70 khóa đào tạo về tòa án tội phạm ma túy trên toàn Hoa Kỳ và trên khắp thế giới.
    NDCI phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trong năm 2002, tổ chức thăm quan các Tòa án về Điều trị cai nghiện ma túyở Brooklyn và Manhattan cho đại diện chính phủ các nước Anh, Phần Lan, Hy Lạp, Áo, Tây Ban Nha, và Italia, và tham gia một cuộc hội thảo truyền hình với nhiều đại diện của chính phủ Thái Lan. NADCP và NDCI cũng có quan hệ hợp tác với Hiệp hội Quốc tế các Chuyên viên Tòa án về Tội phạm Ma túy (IADCP).
  5. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    ÁP DỤNG TIẾN BỘ CÔNG NGHỆ TRONG PHÒNG XỬ ÁN
    Edward C. Prado và Leslie Sara Hyman​
    English
    Thẩm phán Edward C. Prado đã từng là Thẩm phán Khu vực của Hoa Kỳ tại khu miền Tây bang Texas trong 19 năm và gần đây được chỉ định làm việc tại Tòa Thượng thẩm Hoa Kỳ. Thẩm phán Prado đã từng hành nghề luật sư ở Hoa Kỳ, là trợ lý công tố viên liên bang, thẩm phán khu vực bang và trợ lý công tố viên khu vực bang.
    Leslie Sara Hyman là một luật sư của công ty Cox & Smith Incorporated ở San Antonio, Texas. Lĩnh vực chuyên môn của bà là các vụ kiện chống độc quyền, chứng khoán và thương mại nói chung.

    Thông qua sử dụng công nghệ, người dân Hoa Kỳ có một sự hiểu biết rõ hơn về hệ thống tòa án của họ và cách thức ra phán quyết. Bằng cách giúp người dân có thể tiếp cận dễ dàng hơn thông tin về những việc diễn ra tại tòa, tiến bộ công nghệ giúp xây dựng niềm tin của người dân vào hệ thống tư pháp Hoa Kỳ.
    Từ lâu, các tòa án liên bang của Hoa Kỳ đã sử dụng công nghệ trong nội bộ để điều hành việc xử lý các vụ án. Trong những năm gần đây, tiến bộ công nghệ đã được triển khai nhằm giúp cho các nguyên cáo và công chúng tiếp cận tốt hơn với những vụ xét xử hiệu quả hơn. Ví dụ, tòa án có thể đưa lên mạng Internet các phán quyết quan trọng nhất và một số tòa còn cho phép tiếp cận tất cả các quan điểm pháp lý và hồ sơ vụ án. Một số tòa đang thử nghiệm việc lập hồ sơ điện tử để tiết kiệm thời gian và công việc giấy tờ. Công chúng có thể trả một khoản phí mang tính hình thức để được quyền tiếp cận thông tin về vụ án và sổ ghi án của các tòa phúc thẩm, tòa khu vực và tòa xử phá sản được đưa lên Internet. Nhiều tòa còn thông báo bằng thư điện tử hoặc fax cho nguyên cáo biết việc tống đạt các lệnh mới và quan điểm pháp lý.
    Tại các phòng xét xử, việc sử dụng hệ thống trình bày bằng phương tiện nghe nhìn, truyền hình ảnh và lời khai của nhân chứng ở xa, và việc ghi lại tức thì quá trình xét xử làm giảm thời gian xử án và những chi phí kèm theo, nâng cao khả năng tìm ra sự thật của quan tòa và bồi thẩm đoàn.
    Bài viết này xem xét việc sử dụng công nghệ tân tiến tại phòng xét xử thuộc tòa án liên bang Hoa Kỳ của Thẩm phán Edward C. Prado ở San Antonio, Texas. Phòng xử án của ông được thay đổi cụ thể về mô hình để mở rộng khả năng áp dụng công nghệ hiện có và được xem là một phòng xử án mẫu về khía cạnh này.
    Bản ghi "tức thì"
    Việc mở rộng khả năng áp dụng công nghệ tại phòng xử án của Thẩm phán Prado bắt đầu từ năm 1996 khi ông thuê một phóng viên tòa án có sử dụng thiết bị ghi lại thông tin tức thì. Việc ghi lại tức thì được hiểu là nhân viên đưa tin tòa án sử dụng máy tốc ký truyền thống để ghi lại quá trình xét xử và một máy tính để ngay lập tức tạo ra một bản nháp có thể được xem trên màn hình máy tính. Nhằm cho phép tòa án và luật sư tận dụng bản ghi tức thì, các máy tính được đặt ở ghế ngồi của thẩm phán, trong phòng thẩm phán, tại ghế của nhân viên tòa án và bàn của luật sư.
    Bản ghi tức thì cho phép nguyên cáo tìm thông tin được ghi lại, xem lại biên bản ghi nội dung trả lời từ những ngày trước đó, nhanh chóng đọc lại các câu hỏi hoặc giải trình cho nhân chứng, chú thích các bản sao của riêng họ bằng chữ hoặc đánh dấu, và mua bản ghi chưa được chỉnh sửa của mỗi ngày để giúp chuẩn bị nội dung trình bày cho ngày tiếp theo. Bản ghi tức thì còn làm đơn giản hóa việc thỏa mãn yêu cầu của một hội thẩm viên muốn xem xét một nội dung trình bày cụ thể và có thể cho phép những người khiếm thính tham gia vào quá trình xét xử tại tòa.
  6. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    Sử dụng công nghệ để trình bày chứng cứ
    Gần đây hơn, với sự tài trợ của Văn phòng Điều hành Tòa án Hoa Kỳ và gợi ý của Thẩm phán Prado, phòng xử án của ông được thay đổi về mô hình và được trang bị công nghệ nghe nhìn hiện có. Mặc dù hiện đại nhưng công nghệ này lại rất dễ sử dụng. Phần lớn thiết bị được thiết kế để hỗ trợ cho việc trình bày chứng cứ.
    Phòng xử án được trang bị nhiều màn hình video: Các hội thẩm sử dụng chung tám màn hình LDC phẳng trong khu vực của bồi thẩm đoàn. Khu vực dành cho người tham dự, ghế của thẩm phán, ghế của trợ lý thẩm phán và thư ký pháp luật, chỗ đứng của nhân chứng và bàn của luật sư đều được trang bị các màn hình phẳng. Các màn hình TV lớn treo trên trần cho phép công chúng và những người xem bên ngoài phòng xử án có thể nhìn thấy chứng cứ. Chứng cứ cũng có thể được trình bày bằng cách sử dụng một máy chiếu có độ nét cao và màn hình lớn tự cuốn được hạ xuống từ trên trần.
    Phòng xử án có một máy thu/chiếu hình có độ nét cao. Những người tham gia phiên tòa có thể đặt bất kỳ văn bản hoặc vật chứng nào lên máy chiếu và truyền hình ảnh lên các màn hình. Máy thu hình có bộ phận điều chỉnh độ lớn nhỏ hình ảnh, có thể được sử dụng để phóng to một phần của văn bản hoặc chỉ đơn giản là giới hạn dung lượng văn bản hoặc vật chứng được trình bày. Điều này đảm bảo rằng các bồi thẩm viên thực sự có thể đọc được những văn bản được trình bày với họ. Ngoài những chứng cứ bằng văn bản theo truyền thống, trong quá khứ các luật sư đã sử dụng máy thu hình này để giới thiệu vân tay, tia X-quang, bản đồ và thậm chí cả đạn súng. Máy chiếu cũng được đặt đủ gần micro ở khu vực dành cho người tham gia phiên tòa để luật sư chất vấn sử dụng nhưng có đủ chỗ để một luật sư hoặc người trợ lý tư pháp khác sử dụng máy chiếu.
    Sử dụng các thiết bị nghe nhìn
    Các màn hình cũng được kết nối với một đầu máy video mà luật sư có thể sử dụng để xem từng phần của các băng video hoặc thậm chí để xem kỹ một hình ảnh nào đó, và với thiết bị truyền tín hiệu nghe nhìn từ xa được đặt trong phòng xử án có thể được sử dụng để tiếp nhận lời khai của nhân chứng ở một địa điểm khác. Ví dụ, một bác sĩ trực ca đêm trong phòng cấp cứu ở một nơi khác rất xa có thể trình bày lời khai thông qua thiết bị truyền tín hiệu nghe nhìn. Trong một trường hợp khác, một phóng viên ở Tampa, Florida, không phải di chuyển qua quãng đường dài 1.000 dặm để đến San Antonio. Truyền tín hiệu nghe nhìn từ xa giúp tiết kiệm cả tiền bạc và thời gian vì nó cho phép người ta linh hoạt hơn trong việc xây dựng thời gian biểu cho các hoạt động.
    Ngoài ra, còn có một hệ thống truyền tín hiệu âm thanh được kết nối với hệ thống loa của phòng xử án và có khả năng kết hợp cả chức năng điện thoại đường dài trong quá trình xét xử. Luật sư nào muốn trình bày chứng cứ bằng lời nói đều có thể sử dụng một máy chạy băng cassette tại khu vực dành cho người tham gia phiên tòa được nối với hệ thống loa chất lượng cao của phòng xử án gồm 29 loa gắn trên trần và xung quanh phòng.
    Ngoài việc hỗ trợ trình bày chứng cứ, thiết bị truyền tín hiệu nghe nhìn từ xa của phòng xử án còn có thể được nhóm luật sư ở xa sử dụng để tham gia vào việc xét xử mà không cần phải di chuyển đến San Antonio. Thiết bị này được lắp đặt để sử dụng ở trong phòng xử án và phòng của thẩm phán. Giống như việc sử dụng hệ thống truyền tín hiệu nghe nhìn từ xa để tiếp nhận lời khai của nhân chứng, việc sử dụng thiết bị này để xét xử có thể đem lại những khoản tiết kiệm chi phí quan trọng và có thể hỗ trợ việc xây dựng thời gian biểu.
    Trình bày bằng chứng nhanh chóng
    Phòng xử án được trang bị một số đầu nối máy tính có kết nối với các màn hình. Luật sư có thể sử dụng đầu nối máy tính tại khu vực dành cho người tham gia phiên tòa hoặc tại bàn của luật sư và máy tính xách tay của họ để trình bày các văn bản đã được chụp vào bộ nhớ máy tính, phần trình bày sử dụng chương trình Power Point hoặc các trình bày khác bằng hình ảnh. Vì nguyên cáo có thể sử dụng bất cứ phần nào của văn bản chứng cứ khi được chiếu lên màn hình nên không cần phải mang các hộp đựng chứng cứ đến tòa.Thay vào đó, có thể sử dụng một CD-ROM. CR-ROM và mã vạch cho phép luật sư nhanh chóng định vị các chứng cứ và trình bày cho thẩm phán hoặc bồi thẩm đoàn.
    Trước khả năng nhân chứng sống sẽ khai mâu thuẫn với nội dung khai trước đó, một luật sư có thể chuẩn bị trước một số cảnh quay video được đưa vào bộ nhớ máy tính của mình. Khi nhân chứng khai mâu thuẫn với lời khai trước đó, luật sư có thể cho chiếu lại đoạn video đó và qua đó cho phép bồi thẩm đoàn thấy ngay lời khai không nhất quán.
    Các màn hình máy tính ở khu vực dành cho người tham gia phiên tòa và nhân chứng được trang bị bút ghi chú. Luật sự và nhân chứng có thể sử dụng những bút này để ghi chú lên bất kỳ hình ảnh tĩnh nào trên màn hình - như một văn bản hoặc một hình ảnh video tĩnh - bằng cách khoanh tròn, dùng mũi tên và gạch chân bằng nhiều màu. Ví dụ, nguyên cáo có thể sử dụng chức năng này để nhân chứng đánh dấu vị trí xảy ra các sự kiện quan trọng trên hình ảnh chụp từ trên không hoặc bản đồ. Một khi việc ghi chú được hoàn thành, luật sư có thể yêu cầu in chứng cứ đã được ghi chú bằng máy in màu có độ nét cao trong phòng xử án và sau đó đánh dấu phần được ghi chú là chứng cứ.
    Các bên có thể sử dụng thiết bị này theo nhiều cách kết hợp. Ví dụ, bồi thẩm viên có thể được giới thiệu một băng hình ghi lại lời khai trên một màn hình lớn đồng thời theo dõi các văn bản mà nhân chứng đang trình bày trên các màn hình nhỏ máy tính.
  7. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    Kiểm soát việc trình bày chứng cứ
    Luật sư chất vấn có thể kiểm soát các thiết bị trình bày khác nhau bằng cách sử dụng bảng điều khiển tiếp xúc ở khu vực dành cho người tham gia phiên tòa hoặc bảng điều khiển tiếp xúc không dây khi đứng ở các vị trị khác trong phòng xử án. Giống như với máy chiếu hình và đầu nối máy tính, bảng điều khiển tiếp xúc không dây cũng có thể được sử dụng bởi những người không phải là luật sư chất vấn (như một luật sư hoặc trợ lý tư pháp khác) ngồi tại bàn luật sư. Bảng điều khiển tiếp xúc chỉ có thể chiếu băng hình video trên một số màn hình máy tính nhất định.
    Ví dụ, luật sư có thể sử dụng màn hình máy tính tại khu vực dành cho người tham gia phiên tòa để xem trước chứng cứ với thẩm phán và luật sư phản biện trước khi trình bày với nhân chứng hoặc bồi thẩm viên. Văn bản hoặc các chứng cứ khác chỉ có thể được trình bày với nhân chứng để giúp họ nhớ lại hoặc làm cơ sở cho việc thừa nhận chứng cứ trước khi trình bày với bồi thẩm đoàn.
    Thẩm phán và trợ lý của họ cũng có bảng điều khiển tiếp xúc và có thể điều chỉnh lệnh của bảng điều khiển tại khu vực dành cho người tham gia phiên tòa. Họ còn có quyền kiểm soát âm lượng của hệ thống loa và ánh sáng trong phòng xử án, khi cần có thể làm giảm ánh sáng để hình ảnh trên màn hình máy chiếu được tối ưu.
    Các công nghệ khác
    Phòng xử án của Thẩm phán Prado có thêm một số các chức năng hiện đại khác có thể được sử dụng trong một phiên tòa hoặc xét xử. Ví dụ, phòng họp được trang bị máy quay video có tiếng nói và luật sư có thể yêu cầu tất cả hoặc một phần phiên tòa được quay thành băng hình video. Dây dẫn nối các thiết bị công nghệ đươc đặt chủ yếu dưới sàn phòng xử án và có thể tiếp cận dễ dàng khi cần bố trí lại thiết bị .
    Ngoài bản ghi tức thì, các máy tính ở bàn luật sư đã được cung cấp Quy tắc Liên bang về Thủ tục Tố tụng Dân sự và Hình sự, Quy tắc Liên bang về Chứng cứ, Hướng dẫn Kết án của Liên bang, Hướng dẫn về Dạng thức Bồi thẩm đoàn và Quy tắc về Tòa án Địa phương. Mặc dù vì lý do an ninh những máy tính đó không truy cập được Internet, nhưng bàn luật sư có thể truy cập để kết nối bằng đường điện thoại. Luật sư nào chọn sử dụng máy tính xách tay cá nhân có cài phần mềm thích hợp có thể sử dụng đường điện thoại để truy cập Internet, công ty luật của họ và thư điện tử.
    Phòng xử án được trang bị micro không dây để cho phép luật sư được phát ngôn thoải mái khi đi lại trong phòng xử án. Phiên dịch có thể sử dụng các micro này. Ngoài việc cung cấp cho nhân chứng hoặc một bên thiết bị dịch không dây hai kênh, thẩm phán có thể cho phép các quan sát viên như thành viên trong gia đình của một bên, nghe nội dung trình bày đã được dịch lại. Thiết bị dịch không dây cũng hữu ích đối với những người khiếm thính.
    Một thiết bị tạo tiếng ồn màu trắng được lắp ở khu vực dành cho bồi thẩm đoàn để sử dụng khi các bên đối đáp với thẩm phán. Điều này ngăn cản bồi thẩm đoàn nghe được những nội dung được trình bày mà không cần yêu cầu các bên phải nói nhỏ. Các bồi thẩm viên có thể thông báo cho thẩm phán về yêu cầu nghỉ giải lao bằng cách nhấn các nút bấm được đặt trong khu vực bồi thẩm đoàn để truyền thông tin đến máy tính của thẩm phán. Và thẩm phán và phóng viên tòa án có thể gửi thông điệp "chậm lại" đến các màn hình máy tính ở khu vực dành cho người tham gia phiên tòa và khu dành cho nhân chứng mà không làm gián đoạn phiên tòa.
    Thuận lợi hơn cho nhân viên tòa án
    Trong khi phần lớn thiết bị bổ sung cho phòng xử án được sử dụng bởi nguyên cáo, thẩm phán và nhân viên tòa án cũng có khả năng sử dụng công nghệ để công việc của họ thuận lợi hơn. Ví dụ, các tín hiệu nghe nhìn về tất cả các sự kiện trong phòng xử án và mọi chứng cứ được trình bày bằng cách sử dụng hệ thống này đều được truyền đến các màn hình máy tính trong các phòng. Thẩm phán Prado cũng chọn cách gửi tín hiệu đến các vị trí khác. Ví dụ, trong một vụ trọng án giết thuê, tín hiệu được gửi đến một phòng xử án khác trong khu vực tòa án để những người ở bên ngoài phòng xử án có thể theo dõi được phiên tòa.
    Hệ thống máy tính của tòa án mà Thẩm phán Prado, trợ lý của ông và thư ký pháp luật có thể truy nhập từ máy tính trong phòng xử án của họ, có một lịch biểu ghi lại tất cả các vụ án mà những thẩm phán địa phương sẽ xử trong hai tháng tới. Chức năng này giúp các thẩm phán xây dựng thời gian biểu dễ dàng hơn.
    Lợi ích của công nghệ
    Sử dụng công nghệ trong phòng xử án đã mang lại nhiều lợi ích cho nguyên cáo và công chúng. Lợi ích quan trọng nhất có thể là cho chính hệ thống tòa án vì người ta tin rằng các thẩm phán và bồi thẩm viên có thêm nhiều thông tin khi được trình bày cả bằng lời nói và hình ảnh. Sử dụng công nghệ cho phép các bên không liên đới tiếp cận nhiều hơn với các vụ xét xử vì họ có thể sử dụng màn hình máy tính trong phòng xử án để xem bất kỳ thứ gì mà bồi thẩm viên đang theo dõi.Và việc trình bày thông tin đồng thời theo nhiều hình thức sẽ tiết kiệm thời gian khi phải trình bày lặp lại nhiều lần. Sự dễ dàng khi chuyển đổi thành các kiểu thông tin khác nhau có nghĩa là việc xét xử không bị chậm lại trong khi các khung giá và màn hình phải bố trí lại hoặc lắp đặt đầu video. Tương tự, thay vì phải tìm trong các hộp đựng chứng cứ để có được bản sao một văn bản, sau đó giới thiệu văn bản đó với luật sư của bên kia, nhân chứng, thẩm phán, và từng bồi thẩm viên, một luật sư có thể sử dụng bản sao bằng hình ảnh của văn bản đó và chiếu văn bản đó cho những người có liên quan xem chỉ trong vài giây đồng hồ.
    Bằng cách cho phép việc xử án diễn ra nhanh chóng, công nghệ mới cho phép tòa án xét xử nhiều vụ án hơn và giảm sự chậm trễ trong khoảng thời gian từ lúc tiếp nhận hồ sơ một vụ án đến lúc ra phán quyết. Những lợi ích này sẽ cao hơn khi các tòa án ở Hoa Kỳ tiếp tục áp dụng thêm công nghệ và khi các thẩm phán và nguyên cáo trở nên quen thuộc hơn với các công nghệ hiện có./.
  8. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0
    TOÀ ÁN VỀ TỘI PHẠM MA TUÝ TẠI HOA KỲ
    Carson Fox và West Huddleston​

    English
    Carson Fox là một nhà nghiên cứu tại Học viện Quốc gia về Tòa án Tội phạm Ma túy, và là cựu luật sư và người điều hành tòa án về tội phạm ma túy của Bang Nam Carolina.
    West Huddleston là Giám đốc Học viện Quốc gia về Tòa án Tội phạm Ma túy.

    Cuối những năm 1980, nhiều tòa án ở Hoa Kỳ đã bị quá tải. Một sự gia tăng lớn về số vụ bắt giữ về ma túy và các vụ việc liên quan đến ma túy, cùng với những bản án tối thiểu bắt buộc dành cho tội tàng trữ và phân phối ma túy, đặc biệt là cocaine tinh chế, đã làm quá tải các nhà tù và trại giam. Tại Miami, Florida và các khu vực trung tâm lớn khác, vấn đề này lại càng khiến người ta đau đầu. Năm 1989, trong một nỗ lực ngăn chặn làn sóng gia tăng các vụ án liên quan đến ma túy, ngành tòa án tại Miami đã bắt đầu đưa những người phạm tội tham gia vào một chương trình điều trị cai nghiện ma túy rất tích cực được xây dựng để thay thế cho việc tống giam họ. Chương trình này được gọi là tòa án về tội phạm ma túy. Cho đến năm 1994, đã có 12 tòa án về tội phạm ma túy tại Hoa Kỳ. Ngày nay, có trên 1.200 tòa án như vậy.
    Các tòa án chuyên trách về tội phạm ma túy kết hợp sự giám sát của ngành tòa án với khả năng trị liệu trong việc cai nghiện ma túy. Trong sự ?ophối kết chặt chẽ? các loại dịch vụ này, bị cáo hay người tham gia (còn được gọi là khách hàng) trải qua một chế độ ăn uống sinh hoạt chặt chẽ bao gồm việc cai nghiện ma túy, xử lý tình huống, kiểm tra ma túy và chịu sự giám sát, đồng thời báo cáo về tình trạng của mình với thẩm phán trong các phiên xét xử được lên lịch định kỳ. Một nhóm chuyên viên về tòa án hình sự và trị liệu giám sát việc thực hiện chương trình, và xem xét từng vụ việc của những người tham gia trước khi phiên xét xử định kỳ trước tòa diễn ra.
    Nhóm cán bộ của tòa án về tội phạm ma túy
    Nhóm này thường bao gồm một vị thẩm phán, công tố viên, luật sư bào chữa, nhà cung cấp dịch vụ trị liệu, nhân viên thực thi pháp luật, nhân viên quản chế, người quản lý vụ việc và điều phối viên của chương trình. Trong các buổi họp của nhóm, thường được gọi là ?ostaffings?, cả nhóm thảo luận tiến triển của người tham gia kể từ phiên ra tòa trước đó. Các thành viên của nhóm đưa ra khuyến nghị về việc trừng phạt hay khen thưởng, tùy theo việc người tham gia có tuân thủ các quy định của chương trình hay không.
    Thường thì các tòa án chuyên trách về tội phạm ma túy yêu cầu người tham gia không được phạm tội, uống rượu hay sử dụng ma túy. Những người tham gia cũng phải tìm kiếm các cơ hội nâng cao học vấn hoặc đào tạo nghề. Hầu hết các chương trình của tòa án về tội phạm ma túy đều đòi hỏi người tham gia phải chịu sự giám sát của tòa án trong ít nhất là một năm. Ngoài việc điều trị cai nghiện ma túy và xử lý tình huống có hiệu quả, những người được điều trị thành công còn được lợi từ ngành tòa án hình sự. Người tham gia có thể được giảm nhẹ hình phạt, xóa bỏ tội danh, hoặc được kết thúc sớm thời hạn quản chế.
    Việc tham gia vào chương trình tòa án về tội phạm ma túy mang tính tự nguyện. Người tham gia có quyền chọn lựa, ngay cả khi sự lựa chọn là phải vào tù. Nếu một bị cáo chọn tòa án về tội phạm ma túy, người đó phải tỏ ra có đủ tư cách tham gia chương trình. Nhóm cán bộ của tòa án về tội phạm ma túy thường xây dựng các tiêu chí về tư cách tham gia, có tham khảo tất cả các nguyên tắc chỉ đạo về mặt pháp lý của bang, cùng với việc xem xét nhu cầu của cộng đồng. Một số vấn đề thường được xem xét trong tiêu chuẩn là: Bị cáo có bị phụ thuộc vào rượu hay ma túy không? Bị cáo có nạn nhân nào hay không; có đặt vấn đề bồi thường hay không; nạn nhân có phản đối gì hay không? Bị cáo có phải là một tội phạm bạo lực hay không?
    Tư cách tham gia được quyết định dựa trên cơ sở kiểm tra pháp lý và biểu hiện lâm sàng. Do hệ thống của các bang khác nhau, và đối tượng mà các tòa án về tội phạm ma túy hướng tới khác nhau, nên phương pháp tham gia chương trình cũng khác nhau. Thường thì công tố viên sẽ xác định tư cách tham gia về mặt pháp lý. Nếu như bị cáo tham gia vào chương trình tòa án về tội phạm ma túy do vi phạm về vấn đề quản chế thì nhân viên quản chế có thể quyết định tư cách tham gia về mặt pháp lý. Một khi bị cáo được xác định là đủ tư cách về mặt pháp lý thì bộ phận cung cấp dịch vụ trị liệu sẽ tiến hành kiểm tra biểu hiện lâm sàng. Trong quá trình kiểm tra biểu hiện lâm sàng, một chuyên viên trị liệu phỏng vấn người muốn tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy và đặt ra một số các câu hỏi. Những câu hỏi này được thiết kế để xác định loại vấn đề về sử dụng ma túy của đối tượng nếu có. (Một cuộc kiểm tra biểu hiện lâm sàng khác với một cuộc đánh giá về mặt lâm sàng, đánh giá lâm sàng bắt đầu với một quá trình phỏng vấn lâu hơn nhiều, diễn ra sau khi đối tượng đã được chấp thuận cho tham gia chương trình, nó giúp xác định mức độ trị liệu cần thiết, và được tiến hành thường xuyên trong suốt quá trình bị cáo tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy).
    Trước khi tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy, bị cáo xem xét lại các yêu cầu của chương trình cùng với luật sư của mình, và thường thì cũng thảo luận về các yêu cầu này với điều phối viên chương trình và thẩm phán. Do các tòa án về tội phạm ma túy áp dụng cho cả các tội nhẹ và các tội nghiêm trọng, và do tình trạng của đối tượng tham gia là trước khi tự bào chữa và đôi khi là sau khi tự bào chữa, cho nên tư cách pháp lý của người tham gia cũng khác nhau. Một số người đã có bản cáo trạng chính thức; một số người thì chưa có. Nếu một bị cáo đủ tư cách tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy, và người đó đồng ý tham gia, thì người đó phải chấp nhận tuân thủ tất cả các quy định, quy tắc của chương trình. Nếu bị cáo tham gia chương trình này mà chưa tự bào chữa, thì việc tuân thủ nói trên có thể được đặt thành một điều kiện bảo lãnh tại ngoại. (Bảo lãnh tại ngoại thường là một số tiền bảo chứng đặt ra ngay sau khi một người bị bắt giữ, mục đích là để đảm bảo rằng người đó sẽ phải ra tòa. Tuy nhiên, bảo lãnh tại ngoại cũng có thể là cam kết cá nhân khi không có khoản tiền bảo lãnh. Một khi bị cáo nộp tiền tại ngoại, người đó sẽ được thả, song vẫn phải chịu sự giám sát của tòa án và bất kỳ điều kiện đặc biệt nào trong lệnh cho tại ngoại). Nếu bị cáo tham gia chương trình sau khi đã tự biện hộ, việc tuân thủ nói trên có thể là một điều kiện cho việc quản chế (chịu án treo).

  9. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0

    Các phương pháp truyền thống
    Các tòa án về tội phạm ma túy lúc đầu là một nỗ lực của người dân, khi các tòa án địa phương trong khi tìm kiếm giải pháp thay thế cho quy trình của ngành tòa án thông thường đã sử dụng tòa án về tội phạm ma túy để xử lý những tội phạm nghiện ma túy của họ.
    Trong cách tiếp cận truyền thống đối với những tội phạm đó, nhiều bị cáo phải chịu các bản án phạt tù hoặc án treo, thường là không được điều trị. Nếu có điều trị và tòa án ra lệnh điều trị là một phần trong bản án, thì cũng không có quan hệ hợp tác chính thức nào giữa các khâu tòa án, xử lý tình huống, điều trị, và giám sát. Nếu tội phạm không chịu tuân thủ các điều kiện trị liệu hoặc có phản ứng dương tính với ma túy thì không có một hệ thống thưởng phạt nào được thiết kế để duy trì việc điều trị cho tội nhân. Trước đây thường thì phản ứng đối với việc không tuân thủ là không cho tiếp tục điều trị. Lúc đó những tội phạm đang chịu án treo có thể lại phải ra trước toà, không được hưởng án treo nữa và phải ngồi tù. Còn những tội phạm bị loại khỏi các chương trình điều trị trong hệ thống nhà tù sẽ một lần nữa quay trở lại xà lim.
    Như vậy, hệ thống truyền thống trước đây tạo ra một ?ocánh cửa xoay? của công lý. Các thẩm phán, công tố viên và luật sư bào chữa lúc đó quen với cảnh cùng những bị cáo đó phải quay trở lại tòa hết tháng này qua tháng khác, nhiều người trong số đó phạm tội trộm cướp tài sản, xuất phát từ sự lệ thuộc của họ vào ma túy. Nếu không được điều trị, các tội phạm vẫn tiếp tục trong trạng thái lên cơn nghiện thường xuyên, và tiếp tục biến người khác thành nạn nhân của sự nghiện ngập của họ.
  10. Remediot

    Remediot Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2003
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    0

    Khuôn khổ cho các tòa án về tội phạm ma túy
    Cho đến giữa những năm 1990, mặc dù nhiều chương trình tòa án về tội phạm ma túy có những điểm tương đồng, song không tồn tại một bộ tiêu chuẩn nào cả. Năm 1996, một nhóm những người hành nghề tư pháp đã tập hợp lại với nhau nhờ sự trợ giúp của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ và Hiệp hội Quốc gia Các Chuyên gia Tòa án về tội phạm ma túy. Nhóm này được tổ chức để xác định những tiêu chuẩn cơ bản của các tòa án về tội phạm ma túy. Họ đã làm việc trong hơn một năm, và đến năm 1997, Bộ Tư pháp đã xuất bản cuốn sách Định nghĩa Tòa án về tội phạm ma túy: Những nhân tố then chốt, trong đó nêu ra 10 nhân tố chủ chốt cấu thành khuôn khổ cho các tòa án về tội phạm ma túy.
    Nhân tố quan trọng đầu tiên của khuôn khổ này giải thích tại sao tòa án về tội phạm ma túy lại hợp nhất các dịch vụ điều trị cai nghiện rượu và cai nghiện ma túy với hệ thống tư pháp. Một phần trong sự hợp nhất này là chương trình bao gồm một nhóm chuyên gia liên ngành như đã bàn ở trên. Các nhân viên tham gia chương trình cũng có thể xây dựng một ủy ban chỉ đạo, thường được gọi là ủy ban nguồn lực hoặc ban cố vấn. Ủy ban này giúp chương trình thiết lập một sự ủng hộ rộng rãi của cộng đồng. Ủy ban có thể bao gồm từng thành viên của nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy cùng với đại diện của các nhà cung cấp dịch vụ điều trị bệnh tâm thần, đào tạo nghề, giáo dục, hệ thống trường học địa phương, các doanh nghiệp sở tại, chính quyền địa phương, cộng đồng tôn giáo, và các công dân khác có quan tâm. ủy ban này có thể đưa ra những khuyến nghị về chính sách và thủ tục, gây quỹ cho chương trình, và hỗ trợ chương trình bằng các hoạt động và dự án đặc biệt, chẳng hạn như việc tổ chức các lễ hoàn thành chương trình.
    Nhân tố quan trọng thứ hai của khuôn khổ coi các tòa án về tội phạm ma túy là phi tranh tụng. Nếu như trong hệ thống tư pháp truyền thống, công tố viên và luật sư bào chữa hành động như những bên đối lập, công tố viên thì đại diện cho lợi ích lớn nhất của đất nước, còn luật sư bào chữa thì đại diện cho lợi ích lớn nhất của thân chủ, thì trong tòa án về tội phạm ma túy những nhân vật này không còn mang tính đối lập truyền thống nữa. Công tố viên và luật sư bào chữa cùng làm việc trong nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy - cả hai bên đều tập trung vào việc phục hồi sức khỏe cho người tham gia. Cả hai đều khuyến nghị với thẩm phán, cùng với các thành viên khác trong nhóm, về việc thưởng/phạt để tác động tới sự thay đổi hành vi của đối tượng tham gia.
    Theo nhân tố then chốt thứ ba, các tòa án về tội phạm ma túy cố gắng xác định sớm những đối tượng tham gia ngành tòa án hình sự và đưa họ vào chương trình điều trị. Các nghiên cứu đã cho thấy những người tham gia điều trị cai nghiện ma túy sẽ thành công hơn nếu như việc điều trị được tiến hành sớm trước khi xảy ra vấn đề đáng tiếc - như bị bắt giữ hay vi phạm điều kiện hưởng án treo chẳng hạn. Ngay khi người phạm tội được xác định là đủ điều kiện, người đó sẽ được nhanh chóng tham gia quá trình điều trị dưới sự giám sát của tòa án.
    Nhân tố then chốt thứ tư bàn về sự cần thiết phải duy trì liên tục các dịch vụ điều trị và phục hồi sức khỏe tại tòa án về tội phạm ma túy. Ngoài việc điều trị cai nghiện, tòa án về tội phạm ma túy còn cung cấp các dịch vụ tư vấn tâm lý, đào tạo nghề, nâng cao học vấn, chăm sóc sức khỏe, và bất kỳ dịch vụ cần thiết nào khác trong cộng đồng. Đương nhiên là một số cộng đồng cung cấp nhiều dịch vụ hơn các cộng đồng khác, song ủy ban chỉ đạo có thể xác định các nguồn lực và giúp xóa đi bất kỳ khoảng cách nào trong các dịch vụ cần thiết.
    Nhân tố quan trọng thứ năm là các đối tượng tham gia được giám sát thường xuyên thông qua các cuộc kiểm tra về rượu và ma túy. Việc kiểm tra này thường xuyên diễn ra một cách ngẫu nhiên và có sự giám sát. Các chuyên viên trị liệu hoặc các nhân viên thực thi pháp luật thường là người tiến hành kiểm tra. Trong nhiều đánh giá của tòa án về tội phạm ma túy, những đối tượng tham gia coi kết quả kiểm tra là một biểu hiện quan trọng cho sự hồi phục của họ.
    Nhân tố quan trọng thứ sáu nhấn mạnh chiến lược phối hợp nhằm điều chỉnh sự phản ứng của tòa án về tội phạm ma túy trước hành vi của những người tham gia. Những cuộc gặp định kỳ tại tòa án giữa thẩm phán và người tham gia, diễn ra sau cuộc họp của nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy, tạo cho nhóm cơ hội để đáp lại việc tuân thủ hoặc không tuân thủ của người tham gia thông qua các biện pháp thưởng phạt trực tiếp. Những phản ứng này được xây dựng nhằm khuyến khích sự thay đổi hành vi của những người tham gia và thường không nhằm mục đích trừng phạt. Những phản ứng này cũng có thể bao gồm cả việc điều trị, một việc không thuộc loại thưởng phạt nào, song là kết quả của sự tiến bộ của người tham gia, ví dụ như tăng hay giảm mức độ chăm sóc.
    Sự tương tác thường xuyên, liên tục với thẩm phán được coi là cốt lõi của nhân tố thứ bảy. Cũng giống như việc kiểm tra mức độ nghiện ma túy, sự tương tác này cũng thường được những người tham gia coi là quan trọng đối với thành công của họ. Vì thẩm phán thường kỳ gặp đối tượng tham gia trong nhiều tháng liền, nên giữa thẩm phán và người tham gia thường có một quan hệ ?omang tính trị liệu? không có trong bối cảnh tòa án bình thường.
    Nhân tố thứ tám nhấn mạnh rằng tòa án về tội phạm ma túy cần phải giám sát và đánh giá để định lượng thành công của chương trình. Bất kể các chương trình của tòa án về tội phạm ma túy có thể thành công đến thế nào, nếu việc thu thập dữ liệu và đánh giá không tốt, thì thành công đó sẽ chỉ là bề ngoài với những văn bản làm bằng chứng. Các chương trình cần thu thập một cơ sở thông tin về những người tham gia, về việc điều trị cai nghiện rượu và ma túy của họ, về việc chăm sóc sức khỏe, về nhân khẩu học, tiền án tiền sự và những tội danh hiện thời. Các thành viên trong nhóm cần đặt ra những mục tiêu rõ ràng cho tòa án về tội phạm ma túy, và sau đó xây dựng phương án đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đó. Cả nhóm chuyên gia của tòa án về tội phạm ma túy và những người cung cấp tài chính và dịch vụ cho tòa án về tội phạm ma túy đều muốn thấy bằng chứng của tính hiệu quả của chương trình.
    Nhân tố thứ chín nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng cao giáo dục toàn diện. Vì tòa án về tội phạm ma túy là một sự thay đổi căn bản trong ngành tòa án hình sự và hệ thống điều trị nên tất cả các thành viên của nhóm cần phải hiểu những điều cơ bản về vai trò của từng thành viên khác. Mỗi thành viên phải tiếp tục được đào tạo về những thực tiễn mới nhất trên cơ sở khoa học. Các tòa án về tội phạm ma túy cần phải tạo khuyến khích những cơ hội học tập như vậy, khuyến khích các thành viên của nhóm tham gia khóa đào tạo từ xa, và nếu có thể thì đào tạo cho các thành viên mới cũng như lâu năm của nhóm.
    Nội dung của nhân tố quan trọng thứ 10 là, tòa án về tội phạm ma túy xây dựng các quan hệ đối tác trong cộng đồng, điều này nâng cao tính hiệu quả của chương trình và tạo ra sự ủng hộ ở địa phương. Một biểu hiện của những quan hệ đối tác này là việc lập ra ủy ban chỉ đạo tòa án về tội phạm ma túy. Những tổ chức tham gia ủy ban điều hành trở thành đối tác trong sự thành công của tòa án về tội phạm ma túy. Các tòa án về tội phạm ma túy cũng có thể xây dựng quan hệ đối tác với cộng đồng bằng cách để cho những đối tượng tham gia chương trình thực hiện các dịch vụ cộng đồng, điều này có thể đặt thành một yêu cầu chung của chương trình, hoặc được bảo lưu như một chế tài phạt. Ủy ban cũng hỗ trợ các nhân viên của chương trình tổ chức tốt hơn các nguồn lực hiện có của cộng đồng. Các thành viên trong ủy ban chỉ đạo thường đại diện cho các cơ quan hoặc pháp nhân cung cấp những dịch vụ trọn gói mà những người tham gia chương trình tòa án về tội phạm ma túy cần đến.

Chia sẻ trang này