1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu về đế chế La Mã

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 01/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ma_vuong_baby

    ma_vuong_baby Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/02/2005
    Bài viết:
    342
    Đã được thích:
    0
    Theo sử sách, thời kì này giới đồng tính phát triển rất mạnh, đến hiện nay, người ta vẫn gọi dân Thổ là " bọn đồng tính" đấy thôi.
  2. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Thật ra thì những đụng độ giữa Byzantine và người Arab đã có từ lâu vào khoảng thế kỷ 6 -7 . Nói chung thì người Arab không phải là những người đi biển giỏi ở Địa Trung Hải vào thời kì đầu bành trướng . Giáo chủ Omar I (581-644) là người tổ chức lực lượng Hồi giáo sang Ba Tư và Ai Cập. Nhưng ông ta rất e ngại đường biển. Quan toàn quyền của ông ở Syria xin ông cho phép tấn công đảo Síp. Nhưng Omar không cho phép, vì ông thấy đường biển đầy bất trắc và nguy hiểm.
    Ngoại trừ một ít đảo như Síp, Crêta và Sicily, người Ả Rập không cần phải vượt biển để đi từ nơi này đến nơi khác trong đế quốc của họ. Nếu những người Ả Rập ở miền bắc quen đi biển giống như những người Rôma, chắc hẳn lịch sử sau này của châu Âu đã phải khác đi rất nhiều.
    Tuy nhiên, sống ở Địa Trung Hải, người Ả Rập bó buộc phải đi biển. Sau khi một hạm đội của Byzantin tái chiếm Alexandria (645 C.N.), Đế Quốc Hồi Giáo nhận thấy rõ ràng họ phải có một lực lượng hải quân. Alexandira trở thành trung tâm hải quân của họ, một căn cứ đào tạo hải quân và đóng tàu bằng gỗ đưa từ Syria về. Vào năm 655, hải quân Ả Rập ở Dhat al-Sawanri đánh bại một lực lượng năm trăm chiến thuyền của Byzantin.
    Đế Quốc Hồi Giáo Ả Rập bành trướng trên đất liền xung quanh Địa Trung Hải. Bán đảo Iberia, điểm giao nhau giữa đất của châu Âu và đất của châu Phi, đã là một phần phía tây châu Âu thuộc quyền thống trị của Hồi giáo. Các sử gia vẫn còn tranh luận xem có thể gọi Địa Trung Hải là một cái hồ lớn của Hồi giáo hay không. Chính sức mạnh của người Ả Rập dựa trên các căn cứ địa trên đất liền của họ trên khắp Địa Trung Hải là cái đã hình thành tương lai của ngành hàng hải trên đất châu Âu và từ châu Âu đến các nơi khác.
    Ngoại trừ một ít đảo như Síp, Crêta và Sicily, người Ả Rập không cần phải vượt biển để đi từ nơi này đến nơi khác trong đế quốc của họ. Nếu những người Ả Rập ở miền bắc quen đi biển giống như những người Rôma, chắc hẳn lịch sử sau này của châu Âu đã phải khác đi rất nhiều. Alexandria có thể đã trở thành một Venice của Hồi giáo. Nhưng ngược lại, cái thành phố to lớn đã có thời hoàng kim của mình với con số dân cư trên 600.000 người, đến cuối thế kỷ 9 chỉ còn 100.000 ngàn người. Các giáo chủ của thế kỷ 9 và 10 đã để cho thành phố suy tàn. Ngọn hải đăng Pharos nổi tiếng ở Alexandria, từng là một trong Bảy Kỳ Quan Thế giới của thời cổ, nay đã trở thành một phế tích. Và ngay cả những phế tích của nó cũng đã bị hủy diệt bởi một trận động đất ở thế kỷ 14. Tư tưởng và văn học Ả Rập hướng về đất liền.
  3. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trong lúc đang bị quân Thổ bao vây thì hoàng đế Constantine XI đã làm cho tất cả mọi người ngạc nhiên .Hoàng đế Constantine XI lên ngôi năm 1449 và ko có tài gì và đã tuyệt hậu nhưng trong khi số phận của đế chế trở nên hiểm nghèo thì ông đã cố gắng làm việc hết sức để đoàn kết toàn thành Constantinople để chống quân Thổ . Ông cố gắng đoàn kết quân lính , dân nghèo , các nhà quý tộc và giải quyết các bất đồng . Hoàng đế còn phái các sứ thần đến các nước lân cận để xin viện trợ vũ khí , lương thực . Đồng thời để giải quyết các bất hoà giữa Chính thống giáo và Công giáo La Mã mà ông đã chủ động kêu gọi đức Gíao hoàng giúp đỡ . Đức giáo hoàng cũng bỏ qua hiềm khích tôn giáo để kêu gọi châu âu lập 1 đội quân thánh chiến giải vây Constantinople , đồng thời thành Venice của Ý cũng gây chiến công khai với quân Thổ và hứa phái 1 đội tàu chiến đến tiếp cứu.Ông còn thuyết phục các nhà thờ , tu viện( vì trong khối Kitô giáo châu Âu, các kho báu được thu gom và cất giữ tại những nhà thờ và tu viện không cần thiết bảo vệ, vì đối với họ, cướp của nhà thờ là một trọng tội đáng ghê tởm) và thương nhân châu âu trong vùng đóng góp tiền của , kho báu vào việc bảo vệ thành .
  4. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    vửa rồi VTC1 có chiếu bộ film Spartacus rất hay. Trong film còn đề cập đến Cearsar , Pompey . Mà chú Spartacus cũng hơi bị .... khi cứ cố đánh trực diện vô quân La Mã
  5. simbat1080

    simbat1080 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/09/2003
    Bài viết:
    478
    Đã được thích:
    0
    "Bọn Tây" thường vẫn ngu thế, không cần biết quân mình đông hay ít hơn, tinh nhuệ hay ô hợp hơn... cứ hẹn nhau ra chỗ bằng phẳng, rộng rãi... 2 bên dàn quân ra, chiến!
    Thế nên bọn Mẽo thường chửi VC là hèn. Mịe, cứ anh hùng như dân da đỏ nhà nó thì chắc "cha anh" tụi mình chết ráo!
    Nói thế thui, lúc đầu ông nô lệ đấy cũng quái phết, trong báo Quân đội nhân dân nè:
    http://www.quandoinhandan.org.vn/right.php?id_new=57458
    Điển tích quân sự: Sự kì diệu của đánh nhỏ
    Thời La Mã cổ đại có một đấu sĩ tên là Spác-ta-cút người Hi Lạp. Năm 73 trước Công nguyên (TCN), sau khi trù tính kĩ lưỡng, ông đã cùng các đấu sĩ làm cuộc chính biến, phá tan cửa đấu trường thoát ra ngoài, tập hợp lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa. Đế chế La Mã bấy giờ còn đang hưng thịnh, nên đã truy lùng gắt gao, hòng tiêu diệt tận gốc lực lượng khởi nghĩa khi nó còn đang trong trứng nước. Thế nhưng chẳng bao lâu, Spác-ta-cút đã tập hợp được một lực lượng lớn các nô lệ, quyết đứng lên giành tự do. Trận đầu tiên giáp chiến với quân La Mã, Spác-ta-cút nhận thức rất rõ rằng, nếu dàn quân nghênh chiến thì cầm chắc phần thua, bởi quân của La Mã là đội quân chuyên nghiệp, lại được trang bị, huấn luyện rất kĩ càng, vì vậy ông quyết định phải đánh nhỏ, đánh theo lối bí mật tập kích. Với suy nghĩ này Spác-ta-cút đã bố trí quân mai phục trên các hẻm núi suốt dọc con đường tiến vào đại bản doanh. Một mặt ông cho một toán quân nhỏ ra phía trước để chặn địch, sau đó vờ giả thua và bỏ chạy. Quân La Mã thừa thế đuổi theo. Chờ cho toàn bộ đội hình của quân La Mã vào hết hẻm núi, Spác-ta-cút mới ra lệnh cho lăn gỗ, đá xuống đội hình địch. Chỉ trong thời gian ngắn, đạo quân La Mã đã bị tiêu diệt hết.
    Trận thứ hai cũng vào năm 73 TCN, đại quân La Mã kéo đến vây dưới núi. Thế địch đang mạnh, Spác-ta-cút đã bàn mưu, tính kế với quân sĩ và chọn phương án tập kích chớp nhoáng. Chờ đêm xuống, ông cùng binh sĩ, trang bị khí giới nhẹ, chuẩn bị dây leo, lợi dụng đêm tối, tụt từ trên núi xuống phía sau đội hình địch. Khi quân của La Mã còn đang ngủ ngon thì quân của Spác-ta-cút đã xông vào giữa đội hình địch. Không kịp trở tay, quân của La Mã lại tiếp tục đại bại.
    Cách đánh của Spác-ta-cút là rất phù hợp với các đội quân nhỏ, chưa được trang bị chính quy chống lại những đội quân được trang bị chính quy. Sau này, cách đánh tập kích, phục kích được sử dụng ngày càng phổ biến, kể cả trong chiến tranh hiện đại.
    Nhưng mà "hình như" về sau các bố thắng được vài trận đâm ra tự mãn + sĩ gái ==> tranh nhau làm anh hùng ==> bị dập cho tơi tả. Mịe, đúng là đi đánh nhau lại còn rước gái gú theo thì chỉ có thua
  6. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Trận Chalons : Thành tích cuối cùng của đế chế La Mã
    Vào thế kỷ 5 trong khi La Mã đang lâm vào khủng hoảng quân sự và kinh tế có thể đe doạ sự thống nhất của La Mã thì đại đế Attila chỉ huy quân Hung Nô - những kị binh ngang tàn - bắt đầu tiến vào đế chế và tàn phá những gì trên đường đi . Attila là 1 vị chỉ huy khôn ngoan và ko quá dã man như các tài liệu mô tả . Ông đã biết dùng những truyền thuyết được nhiều người tin để tạo ra 1 vầng hào quang cho mình . Ông này đã tuyên truyền cho mình như sau : Attila , hậu duệ anh hùng Nimrod , lớn lên trong vùng Angaddi , nhân danh Thiên chúa làm vua dân Hung Nô , dân Danes , dân Goth , dân Medes , sự kinh hoàng của thế giới .
    Attila có kế hoạch chinh phục châu âu và đặt thủ đô đế chế Hung Nô ở thành Budapest . Ông có thể tiến quân vào La Mã thuận lợi là nhờ 1 đề nghị kì lạ của 1 công chúa La Mã , công chúa Honoria - con gái hoàng đế Valentinia III . Bà này đề nghị làm vợ Attila và khi sự việc vỡ lỡ thì bà bị La Mã tống giam vào ngục . Attila bèn dùng việc này như 1 lý do tiến quân : cứu vợ trức 5 chỉ La Mã . Attila bắt đầu chỉ huy quân Hung Nô vượt sông Rhine thuận lợi nhờ 1 vị tù trưởng Gaul đã qui phục ông . La Mã liền cử tướng Aetus chỉ huy quân đến chặn đánh nhưng Attila đã tiêu diệt quân Burgundy và bắt đầu tiến vào đồng bằng Catalaunici và tiến gần đến Chalons . Aetus bèn liên kết với vua Theodoric của bộ lạc Goth theo Thiên chúa giáo . Ông còn cố gắng liên kết với các bộ lạc khác . Hai bên đối chiến tại Chalons vốn là nơi điều động kị binh dễ dàng - thế mạnh của Hung Nô . Aetus đã cho 1 cánh quân La Mã chiếm 1 ngọn đồi để tạo áp lực lên 1 cánh trong quân Hung Nô . Attila đích thân chỉ huy trung quân Hung Nô cố gắng tiến chiếm nhưng bất thành . Vua Theodoric cũng chết tại trận nhưng hoàng tử Thorsmod lên thay cha tiếp tục cuộc chiến và tăng áp lực lên Attila . Nhận thấy tình hình bất lợi nên Attila đành rút lui nhờ vào quân cung nỏ Hung Nô . Attila tin chắc quân La Mã sẽ tấn công quân Hung Nô vào buổi tối nên đã điều động quân lính phòng thủ gắt gao nhưng quân La Mã ko hề tiến đánh ông . Attila bèn rút lui vào hôm sau . Sau khi chỉnh đốn lực lượng thì ông vẫn thường tấn công tây âu nhưng ko bao giờ tiến xa được
  7. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    em thấy bên wikipedia có bài về đế chế Ottoman mà theo em thì sau khi Byzantine sụp đổ thì em nghĩ cũng nên tìm hiểu một chút về Ottoman
    Ottoman là tên gọi một đế quốc trải dài qua ba lục địa vào thời cực thịnh: toàn bộ đông-nam Châu Âu bờ bắc Địa Trung Hải, cả bờ biển bắc Châu Phi cho đến Morocco (Maroc) phía Nam Địa Trung Hải. Trong thế kỷ 17, Đế quốc Ottoman có khoảng 25 triệu dân ?" một con số khổng lồ vào thời đó, gần bằng gấp đôi bất cứ nước nào ở Châu Âu ngoại trừ Pháp. Gần 30 quốc gia hiện giờ đã được thành lập từ lãnh thổ cũ của Đế quốc Ottoman: Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, Bulgaria, Romania, Nam Tư (sau này phân làm 5 nước độc lập), Hungary, Albania, Syria, Lebanon, Jordan, Do Thái, Aden, Kuwait, Ai Cập, Sudan, Libya, Iraq, Yemen, Tunisia, Algeria, Cyprus, Armenia, Georgia, và một phần nước Nga.
    Dân cư sinh sống trên lãnh thổ Ottoman chủ yếu theo đạo Hồi, và sắc tộc chính là người Thổ Ottoman, kế tiếp là Ả Rập, Kurd, Tatar Crimean, Bosnian, Abanian... Hoàng đế cũng trị vì hàng triệu dân theo Cơ đốc giáo: Hy Lạp, Serb, Hungari, Bulgar?
    Vì thế mà sợi dây chính trị nối kết các sắc tộc và tôn giáo khác nhau cần thiết phải linh động và lỏng lẻo. Hoàng đế trị vì từ thủ đô Constantinople (nay là Thành phố Ankara của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng bộ máy hành chính địa phương nằm trong tay các tiểu vương, hoàng thân, hãn vương?, có địa phương được tự trị mọi việc ngoại trừ cái tên. Các hoàng thân Cơ đốc giáo vùng Balkan được hoàng đế chọn, nhưng một khi đã lên nắm quyền, lòng trung thành của họ chỉ thể hiện qua việc nộp triều cống. Mỗi năm, từng đoàn xe goòng tải đến Constantinople vàng và những loại tiền thuế. Hãn vương người Tatar của Crimea cai trị từ thủ phủ Bakhchisarai như là vị lãnh chúa độc tôn, chỉ có nhiệm vụ cung ứng 20.000-30.000 kỵ binh mỗi khi hoàng đế có chiến tranh. Về phía tây cách gần 2.000 kí-lô-mét, các vùng Tripoli, Tunis và Algeria chỉ thực hành nghĩa vụ chiến tranh bằng cách điều tàu chiến (bình thường làm giàu nhờ nghề hải tặc cướp bóc tất cả các nước) đi đánh các cường quốc hải quân theo Cơ đốc giáo như Venice và Genoa.
    Đế quốc Ottoman cực thịnh trong thế kỷ 16 dưới triều đại của Hoàng đế Suleiman (1520-1566). Quân đội Ottoman đã tiến đến Belgrade của Nam Tư cũ và Vienna (Áo bây giờ), để lại những nhà nguyện Hồi giáo rải rác khắp các sườn đồi và thung lũng vùng Balkan. Nổi giận vì những biểu hiện cho việc chiếm đóng của người đạo Hồi này, các vương quốc theo đạo Cơ đốc ở Tây Âu xem người Thổ là kẻ xâm lược Hy Lạp và các sắc dân đạo Cơ đốc khác. Nhưng Đế quốc Ottoman rộng lượng hơn, chấp nhận tôn giáo khác với đạo Hồi. Hoàng đế chính thức công nhận Giáo hội Hy Lạp và giáo khu của giáo chủ và các *************, và cho phép các giáo đường Chính thống được duy trì tài sản của họ. Người Thổ thích cai trị qua định chế chính trị địa phương, và để đổi lại cho tiền triều cống, các tỉnh Cơ đốc giáo được phép duy trì các hệ thống hành chính, thứ bậc và giai cấp.
    Xuyên suốt lịch sử của họ, Đế quốc Ottoman luôn ở trong tình trạng chiến tranh. Khi hoàng đế có tính khí mạnh mẽ và thông minh, đế chế cường thịnh lên. Khi ông yếu đuối, đế chế bị suy thoái. Điều dễ nhận thấy là cuộc đời trong cấm thành, chung quanh là phụ nữ đầy sinh lực nồng nàn và thái giám đầy mưu đồ, dễ làm cho hoàng đế bị suy nhược. Một tình huống thứ hai trong lịch sử của đế chế cũng khiến cho hoàng đế trở thành con người kém cỏi. Điều oái oăm là việc này bắt đầu bằng hành động nhân từ. Cho đến thế kỷ 16, truyền thống ở Ottoman là Hoàng Thái tử khi lên ngôi kế vị sẽ ra lệnh thắt cổ tất cả anh em trai còn lại, để triệt hạ mọi âm mưu soán ngôi. Hoàng đế Mehmet III thắt cổ tất cả 19 em trai và, để tận diệt mọi mầm mống phản loạn, hạ sát luôn bảy bà vương phi của vua cha lúc đó đang mang thai. Tuy nhiên, đến năm 1603, hoàng đế mới Ahmed I chấm dứt truyền thống khủng khiếp này khi không muốn giết người em nào. Thay vào đó, ông cách ly họ trong một khu riêng biệt, nơi họ không liên lạc được gì với thế giới bên ngoài.
    Từ lúc này trở đi, mọi hoàng tử Ottoman đều sống mỏi mòn trong khu biệt lập, bên cạnh chỉ có thái giám và cung phi đã quá tuổi sinh nở để ngăn ngừa họ có hậu duệ hòng làm phản. Nếu có một bé trai ra đời do sơ suất, đứa bé này không được phép làm rối loạn thứ tự truyền ngôi, nên phải bị xử tử. Vì thế, khi một hoàng đế qua đời hoặc bị truất phế mà không có con trai kế vị, một hoàng tử sống trong khu biệt lập có thể được triệu đến để được tấn phong. Trong số các hoàng tử ngu dốt và thụ động này, hiếm khi triều đình tìm được người có đủ sự phát triển trí tuệ hoặc kiến thức về chính trị để trị vì đế chế.
    Trong mọi lúc, và đặc biệt khi hoàng đế thiếu năng lực, tể tướng là người thực sự điều hành đế chế, quản lý mọi sự vụ hành chính và quân sự ?" tất cả sự vụ ngoại trừ cấm thành. Trên lý thuyết, tể tướng là bầy tôi của hoàng đế, nhận chức vụ qua biểu tượng là một chiếc nhẫn khắc đế hiệu được chính tay hoàng đế ban tặng, và bị cách chức khi hoàng đế thu hồi nhẫn này. Tuy nhiên, trên thực tế tể tướng cai trị cả đế quốc. Trong thời bình, ông nắm quyền cao nhất về hành pháp và tư pháp. Trong thời chiến, ông còn là tổng tư lệnh quân đội, kế dưới ông là tư lệnh vệ binh và tư lệnh hải quân.
    Dinh tể tướng có quyền lực rộng lớn ?" có khi đủ mạnh để mưu đồ lật đổ hoàng đế ?" nhưng cũng có nhiều rủi ro và ít khi hứa hẹn một cái chết êm thấm. Khi thất trận, tể tướng bị quy trách nhiễm và tiếp theo đó là bị cách chức, đi đày hoặc không hiếm khi bị thắt cổ. Giữa các năm 1682-1702, có mười hai tể tướng đến và đi.
    Tuy thế, đầu thế kỷ 17, chính các tể tướng góp công cứu nguy cho để chế trong khi hoàng đế vui hưởng trong hậu cung. Bên ngoài, quyền lực Ottoman bị suy giảm trầm trọng đến nỗi tàu thuyền của Venice và Cossack quấy phá thường xuyên. Đế quốc được cứu nguy do tài năng của một đại gia đình tể tướng gồm cha, con trai và em rể.
    Năm 1656, khi đế chế gần bị sụp đổ, hậu cung đành phải cử một người Albany 71 tuổi, Memmed Korpulu, làm tể tướng. Ông này ra lệnh xử tử 50.000-60.000 người để bài trừ tham nhũng. Năm năm sau, lúc ông qua đời, tình hình có phần ổn định. Dưới quyền tể tướng con trai của ông, Ahmed Korpulu, và sau đó em rể ông, Kara Mustapha, uy quyền của Ottoman được hồi phục. Các hạm đội và quân của Áo, Venice và Ba Lan bị đẩy lui. Năm 1683, đáp lời kêu gọi của Hungary chống Hoàng đế Leopold, Tể tướng Kara Mustapha phái 200.000 quân ngược dòng Sông Danube, và lần thứ hai trong lịch sử, quân Ottoman tiến đến chân tường thành của Vienna, nhưng cuối cùng bị liên minh các nước Tây Âu đánh bại. Hoàng đế ra lệnh thắt cổ tể tướng Kara Mustapha.
    Trong những năm tiếp theo, quân Ottoman bị đại bại do sức tiến công từ Vienna. Quân Venice công hãm Athens, nhưng không may là trong đợt pháo kích của họ, một quả đạn rơi trúng ngôi đền Parthenon được xây vào thế kỷ 5 trước Công nguyên, lúc ấy được quân Ottoman dùng làm kho chứa thuốc súng. Ngày 26/9/1687, ngôi đền lúc ấy còn khá nguyên vẹn bị nổ tung, để lại tình trạng cho đến bây giờ.
    Ngày 1/11/1922, Đế quốc Ottoman chính thức cáo chung. Nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ được thành lập năm sau, dựa trên một phần lãnh thổ của Đế quốc Ottoman.
  8. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    trời ơi mấy bác giúp em thêm mấy bài nữa với . Nguội ngắt bài rồi
  9. simbat1080

    simbat1080 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/09/2003
    Bài viết:
    478
    Đã được thích:
    0
    Bác Chi núc ơi! Hình như Constantinople chính là Istanbul bây giờ chứ nhỉ (còn Ankara giờ là thủ đô mới)???
    Bác nói thêm về Attila được không? Ông này em nghe danh đã lâu mà chẳng biết tự dưng ông ý ở đâu chui ra vậy?
    Thôi bác cứ cố nốt đi! Nhưng mà theo các bác thì đế chế La Mã phía Tây đến đâu là dừng? Đến thời ông Constantine thế kỉ 6? Hay là đến tận lúc bị ông Friedric gì gì đó bên Đức đập cho tơi tả thế kỷ 17 nhỉ?
  10. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Attila là thủ lĩnh của người Hung Nô . Ông này cùng anh là Bleda đã chỉ huy kị binh Hung Nô từ vùng Nội Mông tiến đánh đến châu Âu .Nghe đâu là khi ông này ngủ thì có thần nào đó khuyên ông này đánh La Mã và châu âu . Ông này đãgiết em là Bleda để đọat quyền ( còn La Mã thì có chuyện Romulus giết em là Remus để đoạt quyền )
    em chỉ biết vậy thôi mà theo em thì La Mã sụp đổ có lẽ là thời Justinian

Chia sẻ trang này