1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu về đế chế La Mã

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 01/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    nghe đâu là có người nói là đã nhìn thấy đức mẹ bay lên ngắm nhìn Constantinople lần cuối trước khi thành phố thất thủ
  2. simbat1080

    simbat1080 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    16/09/2003
    Bài viết:
    478
    Đã được thích:
    0
    Bác Chỉ nốc chịu khó dịch giúp anh em sang tiếng Việt đi!
    Tiếng Anh thì em cũng đọc được nhưng mà cứ thấy nó xì trét thế nào ý, với lại văn bác cũng hay hơn!
  3. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    bác eskimot09 đâu rồi nhỉ . Lâu quá bác ko vào góp cho em và mọi người vài bài với . Bài của bác đang hay mà
  4. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    về việc cứu viện cho Constantinople thì thành phố Genoa có phái một đoàn tàu 4 chiến thuyền sang . Nhưng khi mới tiến vào vịnh Kim giác thì đàon tàu bị hải quân Thổ chặn đánh với 1 lực lượng áp đảo ( 150 chiến thuyền ) do 1người Bulgaria phản đạo chỉ huy là Batoulog . Nhưng nhờ gió thuận nên đoàn tàu này đã tiêu diệt được kha khá tàu của quân Thổ . Phía Thổ thua chủ yếu do lực lượng hài quân đông nhưng lộn xộn với tàu lớn tàu nhỏ đủ loại .Phía quân tiếp viện cũng có vài khó khăn khi tiến vào 1 quãng thì gió thuận ngưng thổi nên họ phải kết các tàu lại với nhau rồi từ từ trôi vào cảng . Quân Thổ cũng ra sức chặn lại nhưng bị các khảu thần công bắn đạn ria của quân Công giáo làm tổn thất . Sau trận này thì Batoulog bị vua Thổ tước hết tước vị , tài sản và đuổi về làm dân thường
  5. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0

    Tôi cố up nốt vài bài chi tiết về cái thời được gọi là Silver Age của La Mã này nhé. Sau đó thì sẽ up kiểu tóm lược từng thời kỳ cho đến lúc tàn cuộc thôi.
  6. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Năm vị Hoàng Đế tốt
    Marcus Cocceius Nerva (30-98)
    Sinh ngày 8/11/30 tại Narnia, 50 dặm về phía Bắc của Rome, trong 1 gia đình luật gia giàu có, có nhiều người nắm giữ các chức vụ cao trong chính phủ. Ông cố của Nerva từng là quan chấp chính năm 36 trước cn, ông nội là thành viên thân tín trong đoàn cận thần của Hoàng Đế Tiberius. Chàng trai trẻ Nerva kế thừa sự nghiệp của cha ông 1 cách tự nhiên bằng cách thu thập kinh nghiệm qua việc nắm giữ nhiều chức vụ khác nhau. Nerva cho thấy thiên tài chính trị của mình với việc liên tục đảm trách những chức vụ quan trọng qua các thời hoàng đế khác nhau. Năm 65, Nero ban cho Nerva 1 vị trí danh dự vì vai trò của ông trong việc ngăn chặn âm mưu của Piso. Mặc dù vậy Vespasian vẫn chọn Nerva làm người đồng nhiệm ở vị trí chấp chính quan sau này vào năm 71. Và đến lượt Domitian cũng trao cho Nerva chức vụ này năm 90. Những thành công liên tiếp ở các vị trí chủ chốt đã chứng tỏ Nerva là người có được sự kính trọng từ mọi phía trong xã hội La Mã. Dù rằng có tin đồn Nerva đã bị Domitian lạm dụng ******** khi trẻ (theo sử gia Suetonius).
    Giống như Claudius, Nerva là 1 vị hoàng đế bất đắc dĩ. Sử gia Cassius Dio thuật lại việc Nerva trong tình cảnh nguy hiểm khi bị Domitian khép vào tội phản quốc, đã được những nghị sĩ âm mưu ám sát Domitian tiếp cận và lựa chọn làm người kế vị. Dường như Nerva chấp nhận vai trò này chủ yếu để bảo vệ mạng sống của mình hơn là vì hoài bão chính trị. Dù nhận định trên sai hay đúng thì sự kế vị của Nerva đã được tất cả những nhân vật lãnh đạo hàng đầu La Mã, những người đã quá mệt mỏi với sự chuyên chế của Domitian, chào đón. Lúc này Nerva đã hơn sáu mươi, sức khỏe yếu, kém ăn và uống nhiều rượu. Ông là vị hoàng đến hòa nhã và tốt bụng và là 1 trong số rất hiếm các hoàng đế (có lẽ là duy nhất) có thể tuyên bố rằng: ?ođã chẳng làm điều gì trên cương vị Hoàng Đế mà có thể ngăn chặn việc rút lui khỏi quyền lực và trở lại đời sống bình thường trong an toàn?
    Viện nguyên lão tuyên bố Nerva là Hoàng Đế ngày 18/9/96 cùng ngày với cái chết của Domitian. Mạng lưới gián điệp rộng lớn của Domitian tan rã, vài người thậm chí còn bị xử tử. Không những thế, lệnh ân xá được ban bố cho những ai bị Domitian trục xuất khỏi Rome, tài sản của những người này cũng được phục hồi. Vị bạo chúa đã ra đi và đã có 1 bầu không khí thư thái xuất hiện ở Rome. Với việc được hầu hết các nghị sĩ yêu mến, Nerva được trao tặng danh hiệu Pater Patriae (vị cha già của đất nước) ngay từ lúc mới lên nắm quyền. Những hoàng đế khác chỉ nhận được vinh dự này sau nhiều năm ngồi trên ngai vàng. Nhưng cảm giác tự do có lại sau 1 thời gian dài bị mất của những người La Mã mang đến những vấn đề mới và Nerva đã rất khó khăn để vãn hồi trật tự. Nếu như dưới thời Domitian, không ai được phép làm gì thì bây giờ người La Mã làm bất cứ gì họ thích. Chính phủ của Nerva được nhìn nhận là 1 chính phủ tốt. Các kho chứa ngũ cốc được xây dựng, hệ thống mương tưới tiêu nhận được sự sửa chữa và bảo dưỡng cần thiết. Lời tuyên thệ nổi tiếng của Nerva trước dân chúng rằng sẽ không hành quyết bất kỳ nghị sĩ nào được giữ đúng, thậm chí cả khi có đủ bằng chứng kết tội nghị sĩ Calpurnius Crassus âm mưu chống lại ông. Thuế thu nhập có được từ thừa kế được miễn trừ và đất đai được chia cho người nghèo. Nerva đã sử dụng nhiều tài sản riêng của mình để trang trải những chi phí cần thiết cho những biện pháp này.
    Dù có được sự yêu mến từ đông đảo quần chúng và viện nguyên lão nhưng Nerva vẫn không giành được điều đó từ giới quân đội. Binh lính vẫn giành tình cảm cho Domitian, người đầu tiên tăng lương cho họ kể từ thời Augustus. Quan hệ của Nerva với quân đội bước vào khủng hoảng năm 97. Nerva đã phạm sai lầm khi cho thay thế các trưởng pháp quan Secundus và Norbanus, những người lẽ ra phải được tại vị vì vai trò của họ trong việc ám sát Domitian. Thay vào đó, Casperius Aelianus, một người ủng hộ Domitian được đặt vào vị trí này và quân cận vệ dưới sự chỉ huy của vị chỉ huy mới nổi loạn chống lại Nerva. Ông bị giam trong cung điện Hoàng Đế, binh lính đòi phải giao Petronius và Parthenius cùng với cựu pháp quan Secundus cho họ để xử tử vì vai trò của những người này trong cái chết của Domitian. Nerva dũng cảm từ chối yêu sách này thậm chí sẵn sàng giao bản thân mình cho quân lính để họ giết ông thay vì giết những quan chức nói trên. Nhưng thiện chí của Nerva không có ý nghĩa vì quân cận vệ đã bắt được những người họ muốn. Petronius được hưởn cái chết nhân từ với 1 lưỡi kiếm. Parthenius không may mắn như vậy. Ông ta bị cắt bộ phận sinh dục nhét vào mồm trước khi bị cắt cổ chết. Sự tàn bạo chưa dừng lại ở đó. Nerva bị ép phải cám ơn quân cận vệ trước công chúng vì những cuộc hành hình này.
    Dù Nerva không bị nguy hiểm nhưng quyền lực của ông đã không còn sau sự kiện này. Không có sự ủng hộ của quân đội, 1 vị hoàng đế không thể duy trì vương quyền lâu dài dù ông ta là 1 chính trị gia dày dạn và đã có những động thái sáng tạo trước nay chưa từng có. Nerva không có con nên nếu ông chết, ngai vàng sẽ bị bỏ trống. Nerva biết mình cần nhận con nuôi để trao quyền thừa kế, đó cũng là hành động bảo vệ vương vị của bản thân Nerva. Và Marcus Ulpius Trajanus, thống đốc vùng Thượng Đức được Nerva nhận làm người thừa kế. Trajan có được sự kính trọng và ủng hộ rộng lớn trong giới quân đội cũng như từ viện nguyên lão và dường như hội đủ tất cả những điều mà người La Mã tìm kiếm ở 1 vị Hoàng Đế. Với Trajan ở ngôi vị thừa kế, không còn ai dám thách thức vị trí của Nerva 1 lần nữa. Trajan chính thức tiếp nhận vinh dự này cuối tháng 10 năm 97 với 1 nghi lễ được tổ chức trước công chúng tại Capitol.
    Nerva chết ngày 28/1/98 sau chỉ 16 tháng trị vì. Trong 1 cơn giận dữ, Nerva đột nhiên xuất mồ hôi liên tục rồi nhanh chóng chìm vào 1 cơn sốt và chết sau đó. Viện nguyên lão trao cho ông thêm 1 dấu hiệu của lòng kính trọng. Sau khi hỏa táng Nerva được đưa vào trong lăng mộ Augustus nằm bên cạnh những hoàng đế của vương triều Julio-Claudian. Thượng Đế dường như cũng buồn bã vì cái chết của Nerva vì ngày hạ huyệt Nerva, nhật thực đã xảy ra.
     
    (Tiếp theo: Trajan)
     
     
  7. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    em thấy có bài về lịch sử La Mã bên ACMVN nên xin trích lại để anh em xem
    Sau cái chết của Ceasar, một thập kỷ bất ổn liên miên cuối cùng cũng đã kết thúc nhờ người cháu của Ceasar ?" Octavian Ceasar. Năm 31 trước Công nguyên, ông trở thành vị hoàng đế La Mã đầu tiên, lấy tên hiệu là Augustus (?oTôn kính?). Ông cho xây dựng thư viện, đền đài, nhà hát và đường sá, và ban hành bộ luật chung cho toàn đế quốc. Augustus sống đến năm 13 sau Công nguyên.
    Sự cai trị của ông bắt đầu một thời kỳ hòa bình và thịnh vượng, được biết đến dưới tên gọi Pax Romana (?oNền thái bình La Mã?), mặc dù sau Augustus ít lâu, người dân Roma đã có nhiều năm kinh hoàng dưới sự cai trị của bạo chúa Nero, người đã đốt cháy cả thành Roma hoa lệ để tìm thi hứng và tạo cớ tàn sát những người theo Thiên chúa giáo. (Chính Nero đã ra lệnh hành quyết thánh Peter và thánh Paul.) Galba, viên toàn quyền xứ Tây Ban Nha đã kéo quân về cùng dân chúng chống lại Nero khiến hoàng đế cuối cùng của dòng họ Caesar phải tự sát.
    Đế quốc La Mã đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ thứ nhất, khi La Mã vĩ đại và tiếng Latinh thống trị toàn bộ những vùng đất từ biển Caspian đến Đại Tây Dương. Thời thịnh trị này kéo dài từ năm 98 (Hoàng đế Nerva lên ngôi) đến khoảng giữa thế kỷ thứ hai sau Công nguyên (Hoàng đế Marcus).
    Thời kỳ trị vì của Marcus không yên ổn. Ngay khi hoàng đế trước là Antonius chết, những người Parthians đã tấn công phần lãnh thổ phía đông của đế chế với hy vọng là Roma có thể sụp đổ sau khi Antonius chết. Marcus đã phải phái quân đội từ phần phía tây của đế quốc đi đánh dẹp, quân Roma thắng trận. Nhưng sau cuộc chiến này, người Roma đã bị nhiễm một bệnh dịch khủng khiếp từ những người Parthians, ngày nay không thể biết chắc là bệnh gì, có thể là đậu mùa. Binh lính từ phía đông trở về đã mang theo bệnh dịch lan tràn khắp đế quốc, rất nhiều người chết vì dịch bệnh. Ở phía bắc, những người German sống trong vùng ngày nay là Đức, Áo và Thụy Sĩ thấy rằng phần lớn lính Roma đã rời đi và đang có bệnh dịch lan tràn. Họ cho rằng đã đến lúc thích hợp để tấn công vào đế quốc. Trong suốt thời gian trị vì còn lại, Marcus phải lo đối phó với các bộ tộc German này. Khi sắp đi đến chiến thắng cuối cùng thì Marcus chết năm 180. Lúc này đế quốc rất suy sụp vì bệnh dịch và dồn sức cho chiến tranh.
    Sau đó La Mã trải qua một thời kỳ khó khăn đặc biệt là trong thế kỷ thứ 3 với các cuộc tấn công của người Sassanids từ phía đông và của người Germans từ phía bắc.
    Người Sassanids họ là 1 nhóm người Persians, từ khoảng năm 210 đã đánh bại được người Parthians và chiếm quyền kiểm soát vương quốc của người Parthians, họ muốn khôi phục đất đai của đế quốc Persia trước kia bao gồm đến tận Ixrael, Syria, Li băng và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời cả Ai Cập. Sassanids thường được xếp vào lịch sử của Iran ngày nay. Còn người Germans là những người Ấn Âu, trước kia ở vùng biển Đen và Caspian, từ khoảng năm 2000 trước Công nguyên bắt đầu di cư nhiều đợt vào miền bắc châu Âu như vùng bán đảo Scandinavia (nước Nauy, Thụy Điển và Denmark) và vùng Đức, dần dần là Áo, Thụy Sĩ ngày nay.
    Vấn đề của Đế quốc La Mã là các hoàng đế không thể chỉ huy cả 2 bộ phận quân đội cùng 1 lúc, cần thêm 1 viên tướng nữa chỉ huy mặt trận thứ 2, khi đó quân đội ở đâu cũng luôn muốn lập viên tướng của mình làm hoàng đế sẽ dẫn đến xung đột nội bộ và kết quả là 2 nửa quân đội của Rome chủ yếu đánh lẫn nhau hơn là đánh người Sassanids và người Germans. Ngoài ra để phục vụ cho chiến tranh, dân chúng trong đế quốc cũng sẽ phải è cổ ra đóng thuế, các cuộc nổi loạn nhỏ xảy ra khá thường xuyên cũng khiến quân đội phải can thiệp.
    Trong giai đoạn này có rất nhiều Hoàng đế vì lần lượt bị giết trong chiến trận hoặc vì binh lính nổi loạn, gần như không có ai cầm quyền được quá 5 năm.
    Đến năm 284, Hoàng đế Diocletian, một viên tướng trẻ tuổi và có tài, lên ngôi và đã đánh lui cả người Sassanids và người Germans, dẹp tan tất cả các cuộc nổi loạn. Diocletian cũng giải quyết cuộc xung đột giữa 2 bộ phận quân đội đông và tây bằng cách lập nên 1 hệ thống gồm 2 Hoàng đế cùng lúc, và 2 phụ tá, khi 1 Hoàng đế chết, 1 phụ tá của ông ta sẽ lên thay và chỉ định 1 phụ tá mới, hệ thống này gọi là Bộ tứ (Tetrarchy - quyền lực 4 người).
    Hệ thống Bộ tứ hoạt động tốt trong khoảng 20 năm thì bị phá vỡ. Constantine, con trai của Hoàng đế Constantius vừa chết đã được quân đội ủng hộ lên làm Hoàng đế thay vì phụ tá Severus của cựu hoàng đế. Một cuộc nối chiến lớn đã xảy ra vì Severus được sự ủng hộ của vị Hoàng đế còn lại, Maximian. Năm 312, 1 trận chiến lớn giữa Constantine và Maxentius con trai của Maximian đã xảy ra ngay tại Roma, Constantine ở bên ngoài tường thành và Maxentius ở bên trong.
    Trận chiến kinh hoàng ở cầu Milvian dưới nét vẽ của danh họa Rafael
    Có một truyền thuyết rằng Constantine đã mơ thấy hình ảnh cây thập tự của Cơ đốc giáo xuất hiện trên bầu trời kèm theo lời sấm truyền "dưới biểu tượng này nhà ngươi sẽ chiến thắng", và ông ta đã ra lệnh cho binh lý vẽ lên trên áo giáp hình thập tự trước khi bước vào trận chiến và đã giành chiến thắng dù có quân số ít hơn. Vì vậy Constantine đã bị quyền lực của chúa Jesu chinh phục và quyết định trở thành một người Cơ đốc giáo.
    Năm 324 Constantine chính thức lên làm Hoàng đế duy nhất. Cùng năm đó ông ta thành lập 1 thành phố mới ở phía đông, thành phố Constantinople (có nghĩa là thành phố của Constantine, nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ) để phản ánh sự lớn mạnh của phần phía đông của đế quốc đồng thời là điểm giữa 2 chiến trường phía bắc và phía đông, thuận tiện cho sự cai quản của 1 Hoàng đế duy nhất.
    Constantine chết năm 337 và đế quốc lại rơi vào những cuộc nội chiến và chiến tranh chống lại người Sassanids, lúc này đã giải quyết xong nội chiến và quay lại tấn công vào La Mã.
  8. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Sự sụp đổ của Roma ( http://www.acmilanvn.com/hotculture.asp?tinid=250 )
    Sau khi Constantine chết năm 337, ba người con của ông đánh lẫn nhau cùng với cuộc nổi loạn ở xứ Gaul khiến tình hình đế quốc rất rối ren. Đến năm 350, Constantius mới giết được hai người em kia và lên làm hoàng đế xưng là Constantius II. Sau đó đế quốc liên tục phải trải qua các cuộc chiến tranh với người Sassanids ở phía đông và người German ở phía bắc, xen lẫn đó là các cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa hai lực lượng quân đội đông và tây. Bên cạnh đó là cuộc chiến giành quyền thống trị của các nhánh của Thiên chúa giáo.
    Sau khi hoàng đế Theodosius chết năm 395, hai con trai của ông là Honorius và Arcadius đã chia nhau cai quản hai phần đông, tây tách thành Đông đế quốc và Tây đế quốc. Nhưng 2 người này lớn lên tại triều đình, không giỏi và không quan tâm đến việc cai trị, hầu như mọi công việc do các cố vấn giải quyết. Giúp đỡ cho Honorius là 1 người Vandal tên là Stilicho, người đã gia nhập quân đội Roman và từ lính leo lên đến cương vị tướng.
    Không bao lâu sau những người Germans và người Goths nhận thấy sự yếu kém của các Hoàng đế mới và tấn công mạnh. Các tướng lĩnh La Mã cũng nhận ra sự yếu kém đó và nổi loạn. Đầu tiên Constantine III, 1 viên tướng ở Anh, tự tuyên bố lập mình làm Hoàng đế ở York năm 405. Constantine III đem quân vượt eo biển Anh đổ bộ vào Pháp, thu phục binh lính ở đây rồi tiến về Roma. Khi đó biên giới của đế quốc gần như bỏ ngỏ.
    Tháng giêng năm 409, các nhóm người German gồm người Alans, Vandals và Sueves vượt sông Rhine lúc này đang đóng băng và tiến vào Pháp 1 cách dễ dàng. Không còn binh lính Roma ở đây, và đội quân này tha hồ cướp phá, không những vậy họ còn mang theo cả gia đình và ở lại chiếm đóng tại đây. Còn Constantine III trên đường tiến về Roma đã cắt 1 bộ phận đánh chiếm Tây Ban Nha do Gerontius chỉ huy, nhưng chính Gerontius lại tự lập mình làm Hoàng đế. Để có được 1 đội quân đủ mạnh Gerontius thỏa hiệp với người Alans, Vandals và Sueves, cho phép họ vào Tây Ban Nha khi họ hứa giúp ông ta, thế là những người German này ở lại đây. Chính quyền trung ương Roma điều quân chặn đánh và giết chết được cả Constantine III rồi cả Gerontius. Sau đó khi quân đội Roma từ Anh, Pháp, Tây Ban Nha được tập trung về Italia để đối phó với người Visigoths, những nơi này trở thành gần như hoàn toàn thuộc quyền cai quản của những người German mới đến.
    Về những người Visigoths, sau chiến thắng năm 378 tại Adrianople, Theodosius đã thỏa hiệp cho phép họ ở lại bên trong đế quốc, nhưng họ không được đối xử tốt, không được phép xây nhà ở tử tế và rất khó kiếm sống. Khi 1 vua mới của người Visigoths là Alaric lên, Alaric muốn gây chiến, ông ta đòi vua La Mã ở phía tây là Honorius phải trả cho họ 1 lượng vàng, khi Honorius không chấp thuận, quân Visigoths tiến về Roma. Dù chính quyền trung ương Roma đã tập trung khá đông quân về Roma nhưng những người Visigoths năm 410 vẫn chiếm được thủ đô, cướp phá và tàn sát. Người La Mã bị tác động rất mạnh, họ cho rằng đó chính là đức chúa trời đã giận dữ. Quân Visigoths sau khi cướp phá Roma thì tiến xuống miền nam Italia, định vượt biển sang châu Phi nhưng Alaric chết và bão to làm họ hoảng sợ, người Visigoth quay lên và chuyển hướng sang miền nam Pháp rồi định cư ở đây.
    Trong khi người Burgundians đã chiếm miền đông Pháp, còn người Vandals và Sueves đã ở Tây Ban Nha (người Alans thì gần như bị xóa sổ). Năm 429 người Vandals vượt eo biển Gibraltar tiến sang chiếm châu Phi mà hầu như không gặp sự kháng cự nào đáng kể. Chỉ còn người Sueves ở lại Tây Ban Nha nhưng rồi người Visigoths bắt đầu tràn xuống chiếm dần từng phần của Tây Ban Nha. Những người Picts và 1 số nhóm German khác đến sau bắt đầu xâm chiếm Anh, dân Anh kêu gọi sự giúp đỡ của Roma nhưng lúc này các Hoàng đế La Mã đã hoàn toàn suy yếu. Năm 476 Hoàng đế Roma cuối cùng ở phía tây, Romulus Augustulus bị hạ bệ bởi Odoacer, một người Huns (một tộc người có nguồn gốc châu Á). Tây đế quốc hoàn toàn sụp đổ.
    Odoacer lên nắm quyền trên chủ yếu là Italia. Hoàng đế Roma ở phía đông là Zeno nhận được thông báo của Odoacer, dù rất tức giận và muốn chiếm lại Italy nhưng lúc này phần lớn quân đội phía đông và bản thân ông ta đang phải phòng thủ Constantinople trước sự tấn công của người Sassanids. Vì vậy Zeno cho những người Ostrogoths theo Arians (một nhánh của Thiên chúa giáo), dưới sự chỉ huy của vua của họ là Theodoric đi chiếm lại Italia từ tay Odoacer. Đội quân Ostrogoths này nhanh chóng giết được Odoacer và trên thực tế Theodoric trở thành vua Italia dù trên danh nghĩa, ông ta vẫn thuần phục Zeno, là đại diện của Zeno ở Italia.
    Theodoric nắm quyền khá lâu và cai trị khá tốt. Ông ta có lúc đã nắm được cả Tây Ban Nha với tư cách nhiếp chính cho vua ở đó còn nhỏ tuổi. Nhưng sau khi Theodoric chết, những người kế thừa lại bất tài và Justinian, Hoàng đế mới ở Đông đế quốc quyết đinh lấy lại Italia. Đầu tiền ông ta cho tướng Belisarius chiếm lại châu Phi từ tay người Vandals, sau đó Belisarius được lệnh mang quân đánh Italia nhưng người Ostrogoths chống trả rất dữ dội. Sau khoảng 20 năm chiến tranh, quân đội Đông đế quốc chiến thắng nhưng Italia bị tàn phá nặng nề.
    Năm 568, những người Lombard bắt đầu tấn công Italia, muốn chiếm Italia từ tay quân đội Đông đế quốc, tuy nhiên họ chỉ chiếm được miền bắc rồi bị chặn lại. Những người Lombard làm chủ bắc Italia khoảng 200 năm đến khi bị vua Charlemagne chinh phục và sát nhập vào Đế quốc La Mã Thần thánh (Holy Roman Empire) của Charlemagne vào năm 774. Phần phía nam thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Đông đế quốc nhưng dần dần Giáo hoàng mới, dưới sự bảo trợ của vua Pháp mới thực sự là người nắm quyền. Đến năm 830 thì quân Ả rập chiếm Sicilia và phần nam Italia, Giáo hoàng chỉ giữ được phần miền trung, và Italia bị chia 3. Đông đế quốc mất hẳn kiềm quyển soát Italia và lịch sử nước này bước sang thời Trung cổ.
  9. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Các cuộc nội chiến giành quyền lực ( http://www.acmilanvn.com/hotculture.asp?tinid=246 )
    Đến 146 trước Công nguyên, sau các cuộc chiến tranh Punic và chinh phục Hy Lạp, những người Roma đã là quyền lực duy nhất còn lại trong vùng Địa Trung Hải và họ nắm giữ hầu như tất cả các vùng ven biển.
    Nhưng La Mã cũng có những trục trặc. Đầu tiên, ngay tại Roma, 2 anh em Cornelius Gracchus và Gaius Gracchus tìm cách lấy lại 1 số đất đai cho dân nghèo. Nhưng các nhà quý tộc giàu có trong Viện nguyên lão không đồng ý. Vào năm 133 và 123 trước Công nguyên, chính những thành viên Viện nguyên lão cùng với những kẻ ủng hộ đã truy đuổi và lần lượt giết chết 2 người này.
    Thứ hai, những người châu Phi đã tấn công Carthage nay lại tiếp tục sinh sự. Rất nhiều thương nhân người Roma đang sinh sống tại châu Phi bị tàn sát hàng loạt. Vì vậy khoảng năm 100 trước Công nguyên quân đội Roma lại phải quay lại chiến đấu tại châu Phi. Nhưng lúc này rất khó khăn để có đủ binh lính cho mặt trận châu Phi, tướng Marius đã phải lấy những người nghèo khó thất nghiệp từ Roma và khuyến khích họ bằng chiến lợi phẩm. Nhờ đó Roma đã thắng.
    Thứ ba, các thành phố Italia khác cảm thấy rằng Roma đã không đối xử đủ tốt với họ. Họ muốn tăng quyền hạn bầu cử. Vì vậy trong những năm 80 trước Công nguyên, đã có một cuộc chiến tranh với các thành phố Italia, viên tướng của mặt trận này là Sulla. Cuộc chiến tranh này gọi là Cuộc chiến tranh liên minh. Cuộc chiến kéo dài song cuối cùng Roma cũng thắng.
    Nhưng rồi Marius và Sulla lại đánh lẫn nhau khi muốn trở thành tướng chỉ huy ở Tây Á. Marius thắng nhưng Sulla đem quân đội hành quân về Roma và đe dọa tấn công Roma nếu Viện nguyên lão không bổ nhiệm ông ta. Sulla thành công và đi Tây Á. Sau đó ông ta trở về với quyền lực lớn và trở thành nhà độc tài, lấn quyền của cả Viện nguyên lão.
    Vì vậy sau khi Marius và Sulla chết, Viện nguyên lão Roma đã không còn đủ quyền lực để điều khiển đế chế La Mã nữa. Dân Roma muốn tìm kiếm 1 viên tướng tiếp theo có đủ khả năng nắm quyền. Có 3 kẻ tranh nhau, đó là Pompey - bạn của Sulla, Crassus - 1 kẻ giàu có và ****** Caesar - bạn của Marius. 3 người này thay nhau nắm quyền trong khoảng 10 năm. Trong thời gian này Caesar chiếm xong xứ Gaul (nước Pháp ngày nay). Khi Crassus bị giết trong cuộc chiến với những người Parthians (những người đến Tây Á từ Seberia, vào khoảng 100 trước Công nguyên lập nên nhà nước Parthia ở khoảng Iran ngày nay) ở Tây Á thì Pompey và Caesar đánh nhau, bắt đầu một cuộc nội chiến đẫm máu.
    Năm 49 trước Công nguyên, Caesar vượt sông Rubicon (xem bản đồ) và tiến vào Roma còn đối thủ của ông rút về phía đông. Một năm sau, Caesar đại thắng Pompey trong trận Pharsalus. Pompey phải chạy sang Ai Cập và bị những người Ai Cập giết. Khi Caesar tiến vào Ai Cập, ông ta vui mừng vì Pompey đã bị giết nên đã đối xử rất hòa nhã với người Ai Cập, Caesar cũng gặp Cleopatra ở đây và mang Cleopatra về Roma.
    Caesar là một thiên tài quân sự, một nhà hùng biện lỗi lạc, nhà thơ và là nhà sử học. Mặc dù là một quý tộc, ông lại ủng hộ chính nghĩa của giới bình dân. Năm 45 trước Công nguyên, Caesar tự tuyên bố là nhà độc tài của Cộng hòa La Mã và là người cai trị của đế quốc rộng lớn này. Caesar tin vào sự bình đẳng (ông cho phép tất cả các cư dân Italia trở thành công dân Roma), nhưng đồng thời cũng tin tưởng rằng nhà độc tài phải có quyền lực tuyệt đối và được phép lựa chọn người kế vị. Tuy nhiên nhiều thành viên Viện Nguyên lão không đồng tình với ông. Ngày 15 tháng 3 (Con cá tháng Ba) năm 44 trước Công nguyên, ****** Caesar bị một nhóm thành viên đâm chết, trong đó có một người tên là Brutus, người mà người ta cho rằng chính là con riêng của Caesar.
    Một nhóm quyền lực khác được thành lập gồm Marc Anthony - bạn của Caesar, Lepidus - 1 kẻ rất giàu có và Octavian - cháu họ và là con nuôi của Caesar. Mọi chuyện lại lặp lại. Lepidus bị gạt bỏ. Rồi Anthony cùng người tình Cleopatra gây chiến với Octavian. Nhưng năm 31 trước Công nguyên, Octavian đánh bại Anthony và Cleopatra ở trận Actium, khiến 2 người này phải tự sát. Sau đó Octavian lên ngôi hoàng đế và lấy niên hiệu là Augustus, khởi đầu thời kỳ thịnh trị của Đế chế La Mã.
  10. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Ostia Antica: Thành phố cảng của La Mã cổ đại

    - Ostia vốn là một thành phố cảng ở cửa sông Tiber (chữ Ostia được lấy từ "ostimum", có nghĩa là "miệng") được xây dựng vào thế kỷ thứ I trước Công nguyên, nhưng cũng có ý kiến khác cho rằng Ostia có từ thế kỷ thứ IV trước Công nguyên. Thật ra, từ năm 267 trước Công nguyên, Ostia đã là thuộc địa của Rome, là một trong những cửa khẩu quan trọng, cung cấp tài chính, tổ chức hoạt động cho thuyền bè và cũng là một tiền đồn quân sự. Đến khi Rome bành trướng quyền lực ra khắp vùng Địa Trung Hải, vai trò mới của Ostia là trung tâm giao dịch thương mại và hàng hải giữa Rome và thế giới.
    Sau đó, tường được xây bao quanh để bảo vệ và nhiều công trình kiến trúc khác như đền đài, đường sá, tòa án, chợ... được nâng cấp, xây mới. Dân số của thành phố này vào khoảng thế kỷ thứ II đã khoảng 100.000 người.
    Bước qua cổng vào khu di tích, là con đường chính Decumanus Maximus của thành phố, dài hơn một dặm, dọc suốt hai bên là những cây thông cổ thụ rợp mát. Theo hai bên đường, có thể phát hiện ra nhiều di tích cổ.
    Giờ chỉ còn phế tích
    Đầu tiên là khu nghĩa địa với các mộ của các vị tướng. Qua khỏi nghĩa địa là các nhà tắm hơi công cộng - những khu nhà liên hoàn bao gồm nơi thay quần áo, phòng xông hơi, phòng mát-xa, phòng thể dục. Nền nhà tắm là những bức tranh được tạo bởi những viên đá đen và trắng, được cắt vuông vắn nhỏ xíu, ghép lại thành hình một vị thần đang ngồi trên cỗ xe ngựa, xung quanh là cá heo, mỹ nhân ngư, thủy thần.
    Mới hay tắm hơi đem lại nhiều lợi ích đã được chú ý đầu tư từ thời xa xưa. Rời khỏi nhà tắm hơi, tôi bị cuốn hút ngay bởi một sân khấu ngoài trời hình bán nguyệt, giống như các sân khấu trên đồi Acropolis ở Athens. Du khách ngồi thành từng nhóm trên các bậc, ai cũng hướng về phía sân khấu, hệt như đang theo dõi một vở kịch.
    Các bệ ngồi được xây bằng đá, còn tương đối nguyên vẹn. Phía sau sân khấu là một quảng trường lớn, cỏ xanh rì, với các hàng cột đá hoa cương bao xung quanh. Leo lên nơi cao nhất của sân khấu sẽ thấy một hành lang rộng, có bờ tường cao bao quanh, nhìn được toàn cảnh quảng trường.
    Đứng ở vị trí này cũng có thể nhìn được gần như toàn cảnh của thành phố. Hầu như toàn bộ nhà cửa trong thành phố này đều không còn mái, nhưng tường và cầu thang hầu như còn nguyên vẹn, nên từ trên cao có thể thấy được sự quy hoạch ngăn nắp của thành phố này.
    Đối diện với khu vực sân khấu ngoài trời là khu trường đại học, tòa án và tòa nhà đô chính. Trường đại học là một khu đất rộng, bao gồm một quảng trường và các khu nhà, nhưng rất tiếc, phần lớn nhà cửa ở đây bị phá hủy và do ít người ghé vào nơi này nên dây lèo mọc rậm kín bao bọc những mảng tường còn sót lại. Rụng đầy sân trường là những quả thông rất to. Rải rác là các pho tượng bằng đá, được xây lọt thỏm trong các góc tường.
    Tiếp theo là khu chợ được chia thành từng gian hàng nhỏ, có bể cá, có bệ chặt thịt, lại còn có những cửa hàng chuyên bán đồ thủ công mỹ nghệ, đồ trang sức, hay vải vóc, quần áo. Sau lưng chợ là "khu công nghiệp" với xưởng dệt, nhuộm vải.
    Xuôi xuống các khu phố, nhìn vào những căn nhà còn nguyên vẹn cầu thang, song chẳng dám bước vào, vì có cảm giác như chủ nhà chỉ vừa chạy loanh quanh đâu đó mà quên đóng cửa. Những án thờ còn nguyên vẹn, trong góc nhà còn có cả bồn tắm hay một vài bình, lọ.
    Nơi là bến cảng xưa kia, nay chỉ là một khúc sông hẹp với một vài du thuyền nhỏ đang neo đậu. Con sông đã thay đổi rất nhiều so với hơn 2.000 năm trước. Nhìn khúc sông này, khó ai hình dung được cảnh buôn bán, tàu bè qua lại nhộn nhịp của một bến cảng lớn.
    từ bến cảng này, đi ngược về phía cổng ra vào, ta sẽ gặp một viện bảo tàng. Chủ yếu ở đây trưng bày tượng, đồ gốm và những vật dụng gia đình mà người ta tìm thấy khi khai quật thành phố này.
    Buổi sáng hôm ấy, ở Ostia trời dịu nắng và có lúc rơi vài hạt mưa. Không ồn ào, không đông đúc, không nhà cửa hiện đại, không trạm điện thoại công cộng, không đường dây điện giăng ngang, con đường Decumanus Maximus tĩnh lặng, có chăng chỉ là tiếng thông reo rì rào. Từ xa vẳng lại một tiếng phụ nữ, lát sau rộ lên tiếng trẻ em nô đùa trên đường phố


Chia sẻ trang này