1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu về đế chế La Mã

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 01/11/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Khi thành Constantinople thất thủ thì 1 người cháu gái của hoàng đế Constantine XI đã trốn thoát và được Ivan III của Nga cưới . Việc này đưa Nga trở thành 1 hậu duệ của La Mã . Mà hình như khoảng vài tháng trước đài VTV1 có chiếu một bộ phim tài liệu về đế chế Byzantine có tựa là Byzantine - Đế chế đã mất. Em xem không kĩ lắm nên bác nào có thể cung cấp vài phần về phim đó giúp em với
  2. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Các cuộc Thập tự chinh sẽ là một trong những phong trào hỗn độn nhất, rối loạn nhất trong lịch sử. Pierre ẩn sĩ là một điềm báo trước những tai họa sẽ xảy đến. Ông được gọi là ẩn sĩ vì ông thường khoác một chiếc áo ẩn sĩ, thực tình ông không phải một ẩn sĩ gì cả, vì ông thích đám đông và biết cách khích động họ. Pierre đã lập tạo quân riêng của mình được chiêu mộ từ đoàn quân hành hương hỗn tạp ở quận Berry miền trung nước Pháp. Khi ông đến Cologne miền đông nước Đức vào ngày Thứ Bảy Tuần Thánh, 12 tháng 4, 1096, có khoảng 15 ngàn người hành hương thuộc mọi lứa tuổi, đàn ông cũng như đàn bà, lớn cũng như nhỏ, đã theo ông. Một công chúa Byzance tên là Anna Comnena đã sợ hãi thuật lại. "Cả một đạo binh của toàn thể phương Tây cùng tất cả các bộ lạc ở xa tận miền Pillars của Hercules bên kia biển Adriatic đang tràn qua châu Âu để tiến về châu Á, mang theo toàn bộ gia đình của họ".
    Khi đến Constantinople, đoàn lữ chiến binh của Pierre đã đem đến đây những rắc rối mới. Ở đây họ nhập chung với đoàn quân của Walter Không Xu, rồi tiến về Thành Thánh, đi đến đâu cướp phá ở đó. Hoàng đế Byzance là Alexeus I tìm cách thuyết phục những hiệp sĩ ngang tàng tuân thủ kỷ luật của ông, nhưng những tay hiệp sĩ có đầy tham vọng đã chinh phục và cướp phá để lập những vương quốc mới riêng cho mình. Những đạo quân Kitô giáo này đã đánh bại quân Thổ Nhĩ Kỳ trong nhiều trận chiến và khải hoàn tiến vào Giêrusalem năm 1099, kết thúc cuộc Thập Tự Chinh thứ nhất.
    Giêrusalem mau chóng được tổ chức thành một Đế quốc Latinh. Đây mới chỉ là bước đầu của phong trào sôi động kéo dài suốt hai thế kỷ để đem lại an toàn cho các cuộc hành hương. Nhưng về mặt nào đó, đây cũng là sự chấm dứt của các cuộc Thập tự chinh, vì là cuộc viễn chinh thành công cuối cùng để giải phóng Đất Thánh. Các cuộc "Tập tự chinh" sau này chỉ còn là những cuộc viễn chinh để giúp đỡ những tín hữu đã định cư ở phương Đông. Sau khi Giêrusalem rơi vào tay giáo chủ Thổ Nhĩ Kỳ Saladin năm 1187, càng ngày càng nhiều người hành hương muốn về những nơi thánh dễ đến hơn ở phương Tây.
    vậy mới biết là Constantinople và các vùng đất của nó là 1 khu vực quan trọng mà cả người Hồi và phương tây đều giành giật
  3. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Lâu quá mới quay lại đây... các bác trong Box vẫn mạnh khỏe cả chứ ạ? Box dạo này đường thông hè thoáng, không thấy bảo vệ "soát vé" lối vào nữa các bác nhể [​IMG] Bác Chinook lập cái topic này xong rồi bỏ lửng lơ không kết gì cả, đáng phạt quá [​IMG] Tiếc công bác với tôi lâu nay, tôi cố thêm được tí nào hay tí ấy vậy:
    5 vị Hoàng Đế tốt (2)
    Marcus Ulpius Trajanus (AD 52 - AD 117)
    Trajan sinh ngày 18/9 dường như là năm 52 tại Italica gần Seville (Tây Ban Nha) ngày nay và là vị Hoàng Đế La Mã đầu tiên không phải người Italy. Nhưng Trajan cũng không phải người Tây Ban Nha gốc. Ông xuất thân từ 1 dòng tộc Italy cũ ở Tuder (phía Bắc Italy) nhưng đã chọn Tây Ban Nha làm nơi định cư. Cha của Trajan, Marcus Ulpius Trajanus là người chỉ huy quân đoàn La Mã số 10 ?oLegion Fretensis? trong cuộc Chiến tranh Do Thái năm 67-68, sau đó trở thành chấp chính quan vào khoảng năm 70. Đến năm 75, ông trở thành thống đốc Syria, một trong những căn cứ quân sự chủ chốt của La Mã đế chế. Sau này ông còn là thống đốc của các tỉnh Baetica [1 trong 3 tỉnh của La Mã tại Hispania (nay là Iberia) có biên giới phía Tây là Lusitania (nay là Bồ Đào Nha), phía Đông Bắc là phần bờ biển Địa Trung Hải thuộc Tây Ban Nha. Đến thế kỷ thứ 8, Baetica được đổi tên thành Andalucia] và Asia (bao gồm Mysia, Lydia, Caria và Phrygia thuộc vùng tiểu Á, Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay).
    Trajan là 1 hộ dân quan trong quân đội tại Syria trong nhiệm kỳ thống đốc của cha mình. Ông đạt bước thăng tiến trong sự nghiệp khi giao chức trưởng pháp quan vào năm 85. Ngay sau đó, ông trở thành tổng chỉ huy quân đoàn số 7 ?oLegion Gemina? đóng tại Legio (Leon) phía Bắc Tây Ban Nha. Năm 88/89, Trajan đưa quân đoàn này đến vùng Thượng Đức để giúp quân đội La Mã tại đây đàn áp cuộc nổi loạn của Saturninus chống lại Domitian. Dù đã đến quá muộn và không đóng vai trò gì trong việc đập tan cuộc nổi loạn nhưng hành động của Trajan trên danh nghĩa là đội quân đại diện cho vị Hoàng Đế đã khiến ông có được sự tín nhiệm từ Domitian và đưa Trajan trở thành Chấp chính quan năm 91. Mối quan hệ gần gũi này tự nhiên đưa Trajan vào tình trạng lúng túng sau khi Domitian bị ám sát.

    Nhưng Nerva, người kế vị Domitian không phải là kẻ đố kỵ và năm 96, Trajan trở thành thống đốc vùng Thượng Đức. Đến cuối năm 97, Trajan nhận được 1 bút tín từ Nerva, thông báo rằng ông được Nerva nhận làm con nuôi. Không ai nhận ra bất kỳ dấu hiệu nào của Trajan cho thấy ông đã biết trước sự việc này. Những người ủng hộ Trajan tại Rome có lẽ đã có những vận động hành lang cần thiết nhân danh ông. Việc Trajan trở thành người kế vị là 1 động thái chính trị thuần khiết. Nerva cần 1 người thừa kế có thế lực và danh tiếng giúp ông ta củng cố lại bộ máy chính trị đang lay động 1 cách nghiêm trọng. Trajan có được sự kính trọng lớn trong giới quân đội và việc đưa ông trở thành người kế vị là biện pháp tốt nhất có thể để chống lại sự oán giận mà hầu hết giới quân nhân dành cho Nerva. Nhưng thay vì lập tức trở về Rome để nhận lễ kế vị, Trajan ở lại Thượng Đức ra lệnh triệu tập những pháp quan đứng đầu cuộc nổi loạn trước đó và lập tức cho xử tử những người này ngay khi họ đến nơi thay vì thăng chức cho họ như đã hứa. Hành động tàn nhẫn này cho tất cả thấy 1 điều rõ ràng rằng với Trajan, chính phủ Rome không phải là nơi có thể can thiệp vào. Nerva chết ngày 28/1/98. Nhưng 1 lần nữa, Trajan thấy không cần thiết phải hành động 1 cách vội vàng. Ông vẫn tiếp tục thực hiện nốt chuyến thị sát các quân đoàn La Mã dọc biên giới sông Rhine và Danube. Với việc các quân đoàn này vẫn lưu giữ những kỷ niệm và lòng yêu mến dành cho Domitian, Trajan đã có 1 bước đi khôn khoan nhằm củng cố sự ủng hộ trong giới quân đội tại đây.

    Sau cùng Trajan cũng trở về Rome vào năm 99. Dân chúng hân hoan đón chào ông ngày trở về. Vị Hoàng Đế mới tiến vào Rome bằng cách đi bộ và ôm hôn tất cả các nghị sĩ. Ông thậm chí còn đi bộ giữa đám đông dân chúng, điều mà không một vị Hoàng Đế La Mã nào từng làm. Nó phần nào cho chúng ta thấy con người thực vĩ đại của Trajan. Tính khiêm tốn và sự kính trọng dành cho Viện nguyên lão cũng như dân chúng được minh chứng qua việc Trajan hứa sẽ luôn thông báo cho Viện nguyên lão về các affairs của chính phủ và qua việc Trajan tuyên bố rằng các luật lệ do Hoàng Đế ban bố sẽ thích ứng với quyền tự do của dân chúng. Trajan là mẫu đàn ông nam tính, mạnh mẽ, thích săn bắn, phi ngựa xuyên qua các cánh rừng và thậm chí trèo lên các đỉnh núi. Trong thời của ông, các dự án công cộng được phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy. Hệ thống giao thông trên toàn Italy được cải tạo, những đoạn đường băng qua vùng đầm lầy được gia cố, rất nhiều cây cầu được xây dựng, người nghèo được trợ cấp đặc biệt là trẻ em. Một quỹ đặc biệt được tạo ra để duy trì khoản trợ cấp này (và nó được duy trì cho đến 200 năm sau).

    Nhưng dù có rất nhiều ưu điểm, Trajan vẫn không thể là người hoàn hảo. Ông nghiện rượu, ưa thích những chàng trai trẻ và thực sự đam mê chiến tranh. Cảm hứng với chiến tranh của Trajan chủ yếu bắt nguồn từ 1 lý do đơn giản là ông quá giỏi về nó. Trajan là 1 vị tướng thiên tài với rất nhiều chiến tích quân sự, rất nổi tiếng trong giới quân đội đặc biệt với việc ông sẵn lòng chia sẻ gian khổ với quân lính của mình. Chiến dịch quân sự nổi tiếng nhất của Trajan là cuộc chiến với Dacia, vương quốc hùng mạnh phía Bắc sông Danube (thuộc Romania ngày này). Hai cuộc chiến tranh được tiến hành và kết quả là sự hủy diệt và sát nhập Dacia thành 1 tỉnh của La mã vào năm 106. Câu chuyện về chiến tranh Dacia được minh họa bằng một tác phẩm điêu khắc ấn tượng với những đường chạm xoáy trôn ốc hướng lên phía trên chung quanh ?oTrajan?Ts Colum?, một công trình nghệ thuật được đặt tại Quảng trường Trajan tại Rome. Hầu hết kho tàng khổng lồ chiếm được từ Dacia được dùng để xây dựng các dự án công cộng bao gồm một hải cảng mới tại Ostia và Quảng trường Trajan.

    Niềm đam mê chiến tranh & các chiến dịch quân sự không cho Trajan được nghỉ ngơi. Năm 114, Trajan lại tiếp tục 1 cuộc chiến mới. Và toàn bộ phần đời còn lại của ông là để dành cho chiến dịch quân sự ở phía Đông này, cuộc chiến với Đế chế Parthian (kẻ thù không đội trời chung của La Mã ở phía Đông, Đế quốc có lãnh thổ trải dài trên những vùng đất mà ngày nay là Iran, Iraq, Azerbaijan, Armenia, Georgia, phía đông Thổ Nhĩ Kỳ, phía đông Syria, Turkmenistan, Afghanistan, Tajikistan, Pakistan, Kuwait, vùng bờ biển Vịnh Ba Tư thuộc Saudi Arabia, Bahrain và Các tiểu Vương Quốc A Rập thống nhất). Trajan trước tiên sát nhập Armenia vào La mã rồi mở 1 cuộc chiến ngoạn mục chinh phục toàn bộ Mesopatamia bao gồm cả Ctesiphon, thủ đô của Parthian. Nhưng lúc này, ngôi sao chiếu mệnh của Trajan bắt đầu đi xuống. Các cuộc khởi nghĩa của người Do Thái ở Trung Đông và chiến dịch chinh phục Mesopotamian trước đó đã làm suy yếu khả năng tiếp tục chiến tranh của quân La Mã. Những thất bại quân sự đầu tiên làm mờ đi danh tiếng bất khả chiến bại của Trajan. Ông đưa quân lui về Syria rồi quay lại Rome. Nhưng Trajan đã không bao giờ còn được thấy lại trung tâm quyền lực của mình nữa. Với tiền sử về bệnh rối loạn tuần hoàn máu, mà ông nghi ngờ là do bị đầu độc, 1 cơn đột quỵ đã khiến Trajan bán thân bất toại. Không lâu sau đó, ngày 9/8/117, Trajan chết tại Selinus thuộc Cilicia (phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Thi thể ông được đưa tới Seleucia để hỏa táng. Tro táng sau đó được đưa về Rome, đựng trong 1 chiếc bình bằng vàng và được đặt trong bệ của ?oTrajan?Ts Colum?.

    Trajan được tôn xưng là vị Hoàng Đế hầu như hoàn hảo, tên tuổi ông được La Mã mãi mãi ghi nhớ. Cuộc sống của ông là tấm gương mà các Hoàng Đế La Mã sau này khao khát noi theo. Và cho tới tận thế kỷ thứ 4, Viện nguyên lão La Mã vẫn cầu phước cho các vị Hoàng Đế mới bằng câu: ?oCó phúc hơn Augustus và giỏi hơn Trajan? (felicior Augusto, melior Traiano)
    (to be continued)
    Được eskimot09 sửa chữa / chuyển vào 23:31 ngày 03/06/2006
  4. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    5 vị Hoàng Đế tốt (3)
    Publius Aelius Hadrianus (AD 76 - AD 138)
     
    Hadrian sinh ngày 24/1/76 có lẽ là tại Rome. Họ tộc Hadrian là những người La Mã khai khẩn tại Picenum,  Đông Bắc ?" Tây Ban Nha. Họ sống ở Italica (gần Seville, Tây Ban Nha ngày nay). Với việc Trajan cũng xuất thân từ Italica và là anh em con bác con chú với cha của Hadrian, dòng tộc Hadrian vô danh tự nhiên sở hữu một mối quan hệ đầy quyền lực. Năm 86, cha Hadrian qua đời và Hadrian, lúc đó 10 tuổi sống dưới sự bảo trợ của 2 người là Acilius Attianus (1 quan chức La Mã) và Trajan. Cố gắng đầu tiên của Trajan nhằm tạo ra 1 sự nghiệp quân sự cho chàng trai Hadrian lúc 15 tuổi không thành công vì Hadrian thích 1 cuộc sống dễ dàng, ưa săn bắn và hưởng thụ đời sống xa hoa ngoài quân đội. Trajan tức giận ra lệnh cho Hadrian rời bỏ vị trí trong quân đội tại vùng Thượng Đức đến Rome để giám sát. Chàng trai trẻ Hadrian, kẻ trước nay vẫn phụ lòng mong đợi của người bảo trợ quyền lực Trajan, trở thành quan tòa tại 1 tòa án dân sự ở Rome. Không lâu sau đó, Hadrian trở thành 1 sĩ quan quân đội thuộc Quân Đoàn La Mã số 2 ?oLegion Adiutrix? và sau đó phục vụ trong Quân Đoàn La Mã số 5 ?oLegion Macedonia? tại vùng Danube.

    Năm 97, khi Trajan, lúc đó đang là tư lệnh Quân đội La Mã vùng Thượng Đức, được Nerva nhận làm con nuôi, Hadrian là người được cử mang lời chúc mừng của Quân Đoàn số 5 tới vị Hoàng Đế tương lai. Đến năm 98, Nerva qua đời và Hadrian đứng trước 1 cơ hội lớn. Đó là 1 cuộc đua để trở thành người đầu tiên mang tin về cái chết của Nerva đến cho Trajan. Với quyết tâm cao độ, Hadrian phi ngựa đêm ngày tới Đức, vượt qua hàng loạt chướng ngại vật được sắp đặt có chủ ý dọc đường đi và đạt được điều mình mong muốn dù phải đi bộ trên đoạn đường cuối cùng. Sự biết ơn của Trajan là không phải nghi ngờ và Hadrian trở thành 1 người bạn rất gần gũi của vị Hoàng Đế. Năm 100, Hadrian cưới Vibia Sabina, con gái của Matidia Augusta (cháu ruột Trajan) sau khi đã tháp tùng vị Hoàng Đế về đến Rome nhận chức. Trong chiến tranh Darcia lần 1, Hadrian là quan chức phụ trách hậu cần và là sĩ quan hành chính. Đến chiến tranh Darcia lần 2 ngay sau đó, Hadrian đã là tư lệnh Quân Đoàn La Mã số 1 ?oLegion Minervia? và khi trở lại Rome sau chiến tranh, Hadrian nhận chức pháp quan vào năm 106, trở thành Thống Đốc vùng Hạ Pannonia (1 phần Hungary và phía Bắc Yugoslavia ngày nay) 1 năm sau đó và là Chấp chính quan năm 108.  Khi Trajan dấn thân vào cuộc chiến tranh với Parthian năm 114, Hadrian 1 lần nữa được nắm giữ 1 chức vụ chủ chốt, lần này là Thống Đốc của căn cứ địa quân sự quan trọng Syria.

    Hadrian, không nghi ngờ gì, là người có vị trí cao trong thời Trajan trị vì, nhưng cũng không có dấu hiệu trực tiếp nào cho thấy ông được sắp đặt để trở thành người thừa kế. Việc Hadrian kế vị là 1 điều bí ẩn, Trajan có lẽ đã quyết định cho Hadrian quyền thừa kế vào phút lâm chung trên giường bệnh. Nhưng những sự kiện diễn ra tiếp theo quả thực là rất đáng ngờ. Trajan chết ngày 8/8/117 nhưng ngày công bố lại là 11/8, trong khi đó tin Hadrian được Trajan nhận làm người kế vị được thông báo vào ngày 9/8. Theo sử gia Dio Cassius (165-sau 229), việc Hadrian kế vị hoàn toàn do sự sắp đặt của Nữ Hoàng Plotina, người đã giữ bí mật cái chết của Trajan trong nhiều ngày. Trong thời gian đó, bà gửi vài lá thư tới Viện nguyên lão tuyên bố người kế vị là Hadrian. Trên những lá thư này là chữ ký của bà thay vì của Trajan với lý do có lẽ là do bệnh tình của vị Hoàng Đế không cho phép ông viết nữa. Một tin đồn khác khẳng định rằng Nữ Hoàng đã cho ai đó giả mạo Trajan trong phòng ngủ của ông. Và chỉ khi sự kế vị của Hadrian đã được đảm bảo, bà mới cho tuyên bố cái chết của Trajan. Hadrian, lúc đó đang ở Syria đã đến dự lễ hỏa táng Trajan tại Seleucia với tư cách là Hoàng Đế mới của La Mã.

    Ngay từ khi bắt đầu trên cương vị là Hoàng Đế La Mã, Hadrian đã thể hiện rõ ông là 1 người độc lập. Một trong những quyết định đầu tiên của Hadrian là hủy bỏ đường biên giới phía Đông mà Trajan vừa chinh phục trong chiến dịch quân sự cuối cùng của ông. Một thế kỷ trước, Augustus từng nói rằng những người nối nghiệp ông nên duy trì La Mã đế chế trong phạm vi đường biên giới tự nhiên tạo bởi các con sông Rhine, Danube, và Euphrates. Trajan đã phá vỡ nguyên tắc đó và đẩy biên giới La Mã về phía Đông, sang bên kia con sông Euphrates. Mệnh lệnh của Hadrian 1 lần nữa đưa La Mã trở lại phía sau Euphrates. Sự rút lui này, sự từ bỏ lãnh địa mà quân đội La Mã vừa giành được bằng máu, là rất khó giải thích. Hadrian không ngay lập tức trở về Rome. Trước tiên , ông đến vùng Hạ Đức giải quyết rắc rối với những người Sarmatian tại biên giới. Trong lúc ở đây, Hadrian tái xác nhận việc (Trajan) sát nhập Darcia vào La Mã. Kỷ niệm về Trajan, những mỏ vàng của người Darcian và sự nghi ngờ của binh lính về quyết định rút quân khỏi những vùng đất đã chiếm đóng đã khiến Hadrian nhận ra 1 điều rằng lui quân về sau đường biên giới tự nhiên theo lời khuyên của Augustus không phải lúc nào cũng là khôn ngoan.

    Nếu Hadrian bắt đầu quyền lực 1 cách đáng kính như người tiền nhiệm thì có thể ông đã thoát khỏi 1 khởi đầu tồi tệ. Hadrian vẫn chưa về đến Rome nhưng 4 nghị sĩ đáng kính, tất cả đều là cựu Chấp chính quan những người ở vị trí cao nhất trong xã hội La Mã đã bị giết vì âm mưu chống lại Hadrian. Rất nhiều người nhìn nhận những cuộc hành hình này là cách mà Hadrian dùng để loại trừ những kẻ đe dọa ngôi vị của ông ta. Cả 4 nghị sĩ nói trên đều là bạn của Trajan. Lusius Quietus từng là chỉ huy quân đội còn Gaius Nigrinus là 1 chính khách giàu có và quyền lực đến mức đã từng được cho là người kế vị tiềm năng của Trajan. Nhưng điều khiến ?ovụ affair của 4 Chấp chính quan? này bị coi là 1 điều đáng xấu hổ là việc Hadrian từ chối nhận bất cứ trách nhiệm nào. Các Hoàng Đế khác có lẽ đã chọn cách tuyên bố rằng kẻ cai trị cần thiết phải hành động 1 cách tàn nhẫn để có thể mang lại cho Đế Chế sự ổn định và 1 chính phủ vững mạnh, nhưng Hadrian phủ nhận tất cả thậm chí còn đi xa tới mức tuyên thệ sự trong sạch của mình trước dân chúng. Hơn thế nữa, Hadrian tuyên bố Viện nguyên lão đã ra lệnh hành hình (về mặt luật pháp là đúng) trước khi đổ trách nhiệm dứt khoát lên đầu Attianus, trưởng pháp quan (và cùng với Trajan là người đồng giám hộ của Hadrian khi còn nhỏ). Tuy nhiên, nếu Attianus quả thật đã làm gì không đúng trong mắt Hadrian thì rất khó hiểu việc Hadrian lại trao cho ông ta vị trí Chấp chính quan ngay sau đó.

    Bất chấp việc khởi đầu đáng xấu hổ đó, Hadrian nhanh chóng chứng tỏ ông là 1 Hoàng Đế giỏi. Kỷ luật quân đội được siết chặt và tuyến phòng thủ dọc biên giới được củng cố. Chương trình phúc lợi dành cho người nghèo của Trajan được mở rộng hơn nữa. Và trên tất cả, Hadrian nổi tiếng vì nỗ lực thị sát những vùng lãnh thổ của đế chế để có thể tự mình thẩm tra các chính quyền địa phương. Chiến dịch du hành này bắt đầu bằng chuyến thị sát tới Gaul vào năm 121 và kết thúc hơn 10 năm sau đó khi Hadrian trở lại Rome vào năm 133-134. Không có bất kỳ vị Hoàng Đế nào khác từng quan sát thấy nhiều thứ trên đế chế của mình như Hadrian. Từ miền viễn Tây của Tây Ban Nha đến miền viễn Đông của Pontus (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay), từ cực Bắc xa xôi của nước Anh cho đến miền cận Nam của sa mạc Sahara hoang vắng trên đất Lybia, Hadrian đã tận mắt chứng kiến tất cả. Đây không chỉ đơn thuần là 1 chuyến vãn cảnh. Xa hơn thế, Hadrian muốn tự mình thu thập thông tin về những vấn đề mà các địa phương La Mã đang gặp phải. Các thư ký của ông biên soạn thành sách toàn bộ lượng thông tin này. Kết quả nổi tiếng nhất có được từ những thu thập của bản thân Hadrian sau chuyến đi có lẽ là quyết định cho xây dựng 1 bức tường lớn mà ngày nay vẫn còn nhìn thấy cắt ngang lãnh thổ phía Bắc nước Anh. Bức tường Hadrian, che chắn lãnh thổ (tỉnh) nước Anh của La Mã khỏi sự nhòm ngó của những tộc người hoang dại ở phía Bắc hòn đảo. Ngay từ khi còn bé, Hadrian đã bị quyến rũ bởi sự tinh tế của nền văn hóa Hy Lạp. Chắc chắn bởi vậy mà ông bị những người cùng thời gán cho cái tên ?ongười Hy Lạp?. Khi đã trở thành Hoàng Đế, sự ưa chuộng mọi thứ liên quan đến Hy Lạp là đặc điểm riêng của Hadrian. Trong thời gian trị vì, Hadrian tới thăm Athens, lúc đó vẫn là trung tâm văn hóa lớn, không dưới 3 lần. Không chỉ Rome mà cả Athens cũng được hưởng lợi lớn từ nhà bảo trợ quyền năng với kế hoạch xây dựng những công trình kiến trúc vĩ đại tại các thành phố khác nhau.

    Tình yêu lớn mà Hadrian dành cho nghệ thuật cũng bị hoen ố bởi khoảng tối phía trong con người ông. Apollpdorus Damascus, kiến trúc sư riêng của Trajan, tác giả bản thiết kế Quảng trường Trajan được mời đến để góp ý cho 1 ngôi đền do chính Hadrian thiết kế. Hadrian thay đổi thái độ ngay khi Apollpdorus đưa ra ý kiến. Apollpdorus trước tiên bị trục xuất rồi bị hành quyết sau đó. Những vị Hoàng Đế vĩ đại luôn cho thấy họ có đủ khả năng đối phó với các chỉ trích và sẵn lòng lắng nghe những lời khuyên nhưng Hadrian rõ ràng không có khả năng đó hoặc không sẵn sàng thực hiện nó. Hadrian là người có sở thích ******** phức tạp. Trong Historia Augusta (sử liệu về tiểu sử của các Hoàng Đế La Mã giai đoạn từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ 3, bắt đầu với Hadrian kết thúc với Carus) Hadrian bị chỉ trích vì cả hai sở thích ******** với những chàng trai trẻ đẹp và với những phụ nữ đã có chồng. Mối quan hệ của Hadrian với vợ được giữ kín nhưng lời đồn đại rằng Hadrian từng cố gắng đầu độc vợ mình phần nào cho thấy 1 sự thực có lẽ còn tồi tệ hơn thế. Sau nay sở thích ******** đồng tính của Hadrian trở thành chuyện công khai nhưng mọi tư liệu còn lại về giai đoạn này lại không rõ ràng. Hầu hết mọi sự chú ý đều hướng đến chàng thanh niên Antinous, người mà Hadrian rất yêu quý. Bức tượng của Antinous còn lại đến ngày nay cho thấy sự bảo trợ mà vị Hoàng Đế dành cho chàng trai này lớn đến mức ông cho tạc tượng anh ta. Năm 130, Antinous hộ tống Hadrian tới Ai Cập và đột ngột chết 1 cách khá bí ẩn trong 1 chuyến đi trên sông Nile. Những gì được biết là Antinous đã ngã xuống sông và bị chết đuối. Nhưng có lời đồn rằng Antinous đã được dùng làm vật hiến tế cho 1 nghi lễ huyền bí của Phương Đông. Nguyên nhân cái chết của chàng trai trẻ này có thể không rõ ràng nhưng sự đau đớn sâu sắc mà Hadrian dành cho anh ta là sự thật. Ông thậm chí còn dựng lên 1 thành phố bên bờ sông Nile, nơi Antinous chết đuối & đặt tên là Antinoopolis. Nếu câu chuyện này là sự thực dù chỉ vài phần thì đó là 1 hành động không tương xứng với 1 vị Hoàng Đế và mang lại cho Hadrian nhiều lời nhạo báng.

     
  5. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Hardian (tiếp)
    Nếu như việc xây dựng Antinoopolis mới chỉ khiến vài người nhíu mày thì cố gắng khôi phục Jerusalem sau đó của Hadrian quả thực là 1 bất hạnh. Jerusalem chưa bao giờ được khôi phục kể từ khi bị Titus hủy diệt năm 71. Một cách không chính thức, Hadrian mưu cầu 1 hành động lịch sử vĩ đại là cho xây dựng 1 thành phố mới nơi đó với tên gọi Aelia Capitolina. Đó là 1 thành phố La Mã tráng lệ, là ngôi đền vĩ đại mà La Mã đế chế kiêu hãnh dâng lên vị thần Jupiter. Người Do Thái khó lòng chấp nhận hành động này và lặng lẽ quan sát sự báng bổ mà vị Hoàng Đế La Mã dự định dành cho chốn linh thiêng nhất của họ, ngôi đền Salomon. Và rồi dưới sự lãnh đạo của Simeon BarKochba, cuộc khởi nghĩa đầy cay đắng của người Do Thái nổ ra năm 132. Mãi đến cuối năm 135, La Mã mới giành lại quyền kiểm soát với sự hy sinh của hơn nửa triệu người Do Thái. Đó có lẽ là cuộc chiến tranh của riêng Hadrian, cuộc chiến mà chỉ có duy nhất ông ta là người thực sự phải chịu trách nhiệm. Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh rằng những rắc rối chung quanh cuộc khởi nghĩa của người Do Thái và sự đàn áp tàn bạo dành cho nó chỉ là nét cá biệt trong triều đại Hadrian. Ngoại trừ sự việc này, chính phủ của Hadrian là 1 chính phủ ôn hòa và thận trọng. Hadrian quan tâm sâu sắc đến luật pháp. Ông chỉ định luật gia nổi tiếng người Châu Phi Lucius Salvius Julianus soạn thảo 1 đạo luật rõ ràng và cho văn phòng pháp quan La Mã công bố mỗi năm. Đây là 1 sự kiện quan trọng trong nền luật pháp La mã. Nó cung cấp cho người lao động nghèo cơ hội có được những kiến thức tối thiểu về quyền được luật pháp che chở mà họ được hưởng.

    Năm 136, Hadrian, lúc này 60 tuổi và sức khỏe bắt đầu đi xuống, muốn tìm kiếm 1 người thừa kế. Có thể Hadrian kiếm tìm sự bảo vệ trước mối đe dọa của những kẻ đang nhòm ngó chiếc ngai vàng trong khi ông ta ngày càng suy yếu. Hoặc cũng có thể Hadrian chỉ đơn giản tìm kiếm 1 cuộc chuyển giao quyền lực an toàn cho Đế chế. Cho dù là vì cái gì đi nữa, Hadrian nhận Lucius Ceionius Commodus làm người thừa kế. Và 1 lần nữa khoảng tối trong con người Hadrian lại bộc lộ khi ông ta ra lệnh cho những người bị nghi ngờ là có thể đe dọa sự kế vị của Commodus tự tử, đáng kể nhất trong số đó phải kể đến Lucius ****** Ursus Servianus, nghị sĩ xuất sắc và là anh em rể của Hadrian. Dù đã được chọn làm người thừa kế, dù mới chỉ ở tuổi 30, nhưng sau 1 cơn bạo bệnh, Commondus qua đời ngày 1/1/138. Một tháng sau đó, Hadrian nhận Antonius Pius, 1 nghị sĩ rất đáng kính làm người kế vị với điều kiện Pius (không có con) đến lượt mình phải nhận người cháu trai đầy triển vọng của Hadrian là Marcus Aurelius và Lucius Verus (con trai của Commondus) làm người thừa kế.

    Chuỗi ngày cuối cùng của Hadrian rất không êm ả. Ông suy sụp hơn bao giờ hết và trải qua những cơn đau dai dẳng & dữ dội trên giường bệnh. Hadrian muốn chấm dứt cuộc đời mình bằng 1 lưỡi kiếm hay 1 liều thuốc độc nhưng những người phục vụ ngày càng thận trọng giữ những thứ đó ngoài tầm tay của ông. Một lúc nào đó, ông thậm chí còn ra lệnh được cho 1 người hầu ngốc ngếch có tên là Mastor giết ông. Nhưng ở thời khắc cuối cùng, Mastor đã không thể thực hiện được mệnh lệnh đó. Tuyệt vọng, Hadrian giao toàn bộ chính phủ vào trong tay Pius, tuyên bố nghỉ hưu, rồi qua đời không lâu sau đó vào ngày 10/7/138 tại khu nghỉ dưỡng Baiae. Là 1 nhà chính trị thiên tài đã có công duy trì sự ổn định và hòa bình cho La Mã đế chế trong vòng 20 năm, nhưng Hadrian qua đời mà không có được sự ưa chuộng của dân chúng. Hadrian là 1 vị Hoàng Đế có giáo dục, ông đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho đức tin, cho luật pháp, cho nghệ thuật, và cho nền văn minh La Mã. Nhưng Hadrian cũng đồng thời mang trong mình 1 khoảng tối khiến ông nhiều lúc bị nhìn nhận như Nero hay Domitian. Ông đã sống trong sự lo sợ. Và 1 vị Hoàng Đế luôn lo sợ khó lòng được dân chúng ưa chuộng. Thi thể Hadrian được hỏa táng 2 lần tại 2 nơi khác nhau, những gì còn lại được đặt trong lăng mộ mà ông tự xây cho mình tại Rome. Viện nguyên lão sau đó miễn cưỡng truy phong cho Hadrian theo yêu cầu của Antonius Pius.
     
    (to be continued)
     
  6. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Các triều đại dòng Severans
    Marcus Aurelius, không giống những Hoàng đế trước trong thời kỳ thịnh trị, có 1 con trai là Commodus. Khi Marus chết, Commodus lên nắm quyền. Commodus, giống như các Hoàng đế sau của dòng Julio-Claudians và Domitian của dòng Flavians, lớn lên ở cung đình, ông ta thích tiệc tùng hơn là chiến trận và làm việc điều hành đế chế. Nhưng nói chung ban đầu thì ông ta cũng lãnh đạo khá tốt, lập lại được hòa bình với người Germans. Nhưng khi Commodus quay về Rome, chị ông ta, Lucilla, được sự giúp đỡ của 1 số thành viên Viện nguyên lão tìm cách giết ông ta. Tuy kế hoạch này thất bại nhưng làm Commodus trở nên rất đa nghi, lại giống như Domitian và hàng loạt thành viên Viện nguyên lão cùng với dân thường đã bị giết. Tuy nhiên trong 1 kế hoạch giết 1 số bạn bè gần gũi của mình, Commodus bị chính những người này giết chết vào năm 192. Những người đã giết Commodus không biết lập ai lên làm Hoàng đế. 1 số nhân vật quyền lực hơn ở Rome đứng lên nhưng rốt cục họ lại nhanh chóng bị giết, có vẻ như nội chiến là khó tránh khỏi.
    Năm 193, 1 người châu Phi tên là Septimius Severus, viên tướng chỉ huy quân đội ở Thượng Pannonia (theo tôi biết thì Pannonia là vùng Hungaria và bắc Slovenia ngày nay, nằm ở bờ phải sông Danube, nên có lẽ Thượng Pannonia là vùng tây Hungaria và 1 phần tây bắc Slovenia) được sự ủng hộ của quân đội lên làm Hoàng đế. Severus mất vài năm để đánh bại các kẻ cạnh tranh còn lại, trong đó chủ yếu là 1 người châu Phi khác, Albinus, viên toàn quyền ở Anh (Britain). Năm 197, những người Parthians nhân cuộc nội chiến lại tấn công vào đế quốc. Nhưng Severus nhanh chóng đem quân đến dẹp và dành chiến thắng quyết định. Sau khi đi thị sát vòng quanh đế quốc, Severus ở lại Rome 4 năm, trước khi đến Anh (England) để thực hiện 1 cuộc xâm lược mở rộng ở đây. Severus chết ở Anh (ở York) vào tháng 2 năm 211. Ông ta để lại đế quốc cho cả 2 người con trai, Carcalla và Geta với mong muốn cả 2 sẽ giúp đỡ nhau chỉ huy quân đội và coi giữ đế quốc.
    Nhưng ngay từ đầu Carcalla và Geta đã không thể hòa hợp. Đến tháng 2 năm 212, Caracalla giết Geta và thậm chí phá bỏ tất cả các đài tưởng niệm ghi tên và gắn ảnh Geta trên khắp đế quốc (theo thông lệ những người đứng đầu đế quốc được lưu danh tại các đài tưởng niệm). Suốt thời gian trị vì của mình Caracalla gây chiến khắp nơi. Ông ta đánh người German ở phía bắc, chiến thắng. Sau đó Caracalla tấn công những người Parthians nhưng bị những người bảo vệ giam cầm đến chết vào giữa cuộc chiến với người Parthians, năm 217. Chỉ huy những lính bảo vệ này, Macrinus, tự tuyên bố làm Hoàng đế.
    Tuy nhiên các phụ nữ thân thuộc trong gia đình Severan tìm cách chống lại. Vợ của Severus, Julia Domna, thành viên của 1 gia đình quyền lực lâu đời ở Tây Á (cụ thể là Syria), đã tuyệt thực đến chết để phản đối Macrinus. Chị gái của Domna, Julia Maesa (cách đặt tên của dân vùng Syria này có lẽ hơi khác biệt), có 1 người cháu ******** bằng bà là Elagabalus. Maesa giúp tiền bạc để Elagabalus tổ chức quân đội và Elagabalus đã đánh bại Macrinus. Elagabalus lên làm Hoàng đế nhưng quyền hành thực sự trong tay của Maesa. Maesa buộc Elagabalus lập 1 người cháu khác của mình là Alexander làm người thừa kế.
    Sau đó mẹ của Alexander là Julia Mamaea (cũng là 1 người trong gia đình Julia) lập kế hoạch giết chết Elagabalus và mẹ Elagabalus vào năm 222. Sau đó Julia Maesa và Julia Mamaea cùng điều hành đế quốc. Nhưng có 1 vấn đề, họ là đàn bà nên không thể chỉ huy quân đội trong khi Alexander vẫn còn nhỏ. Khi quân Sassanid (1 quyền lực mới ở Tây Á bắt đầu khoảng năm 224 đến 650, trên vùng của Iran ngày nay) tấn công vào, 2 người đàn bà này không thể chỉ huy quân đội bảo vệ tốt đế quốc. Ngay lập tức, những người German lợi dụng tấn công ở phía bắc. Julia Maesa chết, Julia Mamaea càng không thể kiểm soát được tình hình. Quân đội thấy được vấn đề lập tức giết cả Mamaea và Alexander.
    @eskimoto9 : Góp với bác ít bài vậy . Lúc này box ít bài mới quá nên ít vào .
  7. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ 3
    Đế chế Rome trải qua 1 thời kỳ khó khăn trong thế kỷ thứ 3. Các nhà sử học còn bất đồng về các lý do, nhưng 1 trong các lý do đó chắc chắn là cuộc tấn công của người Sassanids từ phía đông và của người Germans từ phía bắc.
    Nói về người Sassanids họ là 1 nhóm người Persians, từ khoảng năm 210 đã đánh bại được người Parthians và chiếm quyền kiểm soát vương quốc của người Parthians, họ muốn khôi phục đất đai của đế quốc Persia trước kia bao gồm đến tận Ixrael, Syria, Li băng và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng thời cả Ai Cập. Sassanid thường được xếp vào lịch sử của Iran ngày nay. Còn người German là những người Ấn Âu, trước kia ở vùng biển Đen và Caspian, từ khoảng năm 2000 Tr.CN bắt đầu di cư nhiều đợt vào miền bắc châu Âu như vùng bán đảo Scandinavia (nước Nauy, Thụy Điển và Denmark) và vùng Đức, dần dần là Áo, Thụy Sĩ ngày nay.
    Có 1 thực tế là các hoàng đế Rome không thể chỉ huy cả 2 bộ phận quân đội cùng 1 lúc, cần thêm 1 viên tướng nữa chỉ huy mặt trận thứ 2, khi đó vấn đề quân đội ở đâu cũng luôn muốn lập viên tướng của mình làm hoàng đế sẽ dẫn đến xung đột nội bộ và kết quả là 2 nửa quân đội của Rome chủ yếu là đánh lẫn nhau hơn là đánh người Sassanids và người Germans.
    Ngoài ra để phục vụ cho chiến tranh, dân chúng trong đế quốc cũng sẽ phải è cổ ra đóng thuế, vì vậy các cuộc nổi loạn nhỏ xảy ra khá thường xuyên cũng khiến quân đội phải can thiệp. 1 cuộc nổi dậy lớn và kéo dài khá lâu là ở Palmyra, 1 thành phố thương mại gần Arabia, vua vùng này Odoenathus trước đây vốn thuần phục Rome nhưng tình cảnh bị chèn ép đã khiến ông ta nổi dậy. Khi ông ta chết, vợ ông ta là Zenobia tiếp tục lên nắm quyền nhiếp chính cho con trai nhỏ, nhưng cuối cùng thì quân đội Roman cũng chiếm lại được Palmyra và bắt Zenobia làm tù binh về Rome.
    Trong giai đoạn này có rất nhiều Hoàng đế vì lần lượt bị giết trong chiến trận hoặc vì binh lính nổi loạn, gần như không có ai cầm quyền được quá 5 năm, có 1 Hoàng đế tương đối nổi bật trên chiến trường là Numerian.
    Triều đại của dòng Constantine
    Khoảng năm 280 thì những người Sassanids dần ngừng tấn công dồn dập vào đế quốc vì bản thân họ cũng bị tấn công từ phía bắc và cũng có những cuộc nội chiến. Nhờ vậy quân đội Roman có dịp rảnh tay để đẩy lùi người Germans và dẹp yên các cuộc nổi dậy bên trong. Đặc biệt những người Roman có được 1 Hoàng đế trẻ tuổi, nhiệt huyết và tài năng, Diocletian, người lên nắm quyền từ năm 284. Diocletian cũng xuất thân là 1 viên tướng, ông ta đánh lui cả người Sassanids và người Germans, dẹp tan tất cả các cuộc nổi loạn. Diocletian cũng giải quyết cuộc xung đột giữa 2 bộ phận quân đội đông và tây bằng cách lập nên 1 hệ thống gồm 2 Hoàng đế cùng lúc, và 2 phụ tá, khi 1 Hoàng đế chết, 1 phụ tá của ông ta sẽ lên thay và chỉ định 1 phụ tá mới, hệ thống này gọi là Bộ tứ (Tetrarchy - quyền lực 4 người).
    Hệ thống Bộ tứ hoạt động tốt trong khoảng 20 năm thì bị phá vỡ. Đó là vì vào năm 306, 1 Hoàng đế Constantius chết, đáng lý người lên thay là phụ tá của Constantius, Severus, nhưng con trai của Constantius là Constantine lại được sự ủng hộ từ phía quân đội của Constantius lên làm Hoàng đế. 1 cuộc nối chiến lớn đã xảy ra vì Severus được sự ủng hộ của vị Hoàng đế còn lại, Maximian. Năm 312, 1 trận chiến lớn giữa Constantine và Maxentius con trai của Maximian đã xảy ra ngay tại Rome, Constantine ở bên ngoài tường thành và Maxentius ở bên trong Rome. Quân của Constantine ít hơn nhưng đã chiến thắng. Về chiến thắng này có 1 truyền thuyết là Constantine đã mơ thấy hình ảnh cây thập tự của Cơ đốc giáo xuất hiện trên bầu trời kèm theo lời sấm truyền "dưới biểu tượng này nhà ngươi sẽ chiến thắng", và ông ta đã ra lệnh cho binh lý vẽ lên trên áo giáp hình thập tự trước khi bước vào trận chiến, bởi vậy Constantine rất ấn tượng với quyền lực của chúa Jesu và quyết định trở thành 1 người Cơ đốc giáo. Thể theo nguyện vọng của 1 số bạn muốn tìm hiểu thành phố Rome, sẽ cố gắng ***g thêm vào giới thiệu các địa danh có liên hệ, ở đây xin post ảnh cầu Milvian nơi diễn ra trận chiến giữa Constantine và Maxentius
    Năm 324 Constantine chính thức lên làm Hoàng đế duy nhất. Cùng năm đó ông ta thành lập 1 thành phố mới ở phía đông, thành phố Constantinople (có nghĩa là thành phố của Constantine, nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ) để phản ánh sự lớn mạnh của phần phía đông của đế quốc đồng thời là điểm giữa 2 chiến trường phía bắc và phía đông, thuận tiện cho sự cai quản của 1 Hoàng đế duy nhất.
    Constantine chết năm 337. Sau đó 3 người con còn sống sót của Constantine chia sẻ đế quốc và lập tức đánh lẫn nhau, cộng thêm cuộc nổi loạn ở xứ Gaul khiến tình hình đế quốc lại rối ren. Đến năm 350, Constantius mới giết được 2 người anh em kia và lên làm Hoàng đế, đó là Constantius II, giống như cha, Constantius II là 1 người Cơ đốc giáo (Christian).
    Nhưng giờ cũng là lúc người Sassanids kết thúc cuộc nội chiến và lại bắt đầu tấn công vào đế quốc. Constantius bận đánh nhau với quân German và phải chỉ định cháu là Gallus chỉ huy mặt trận phía đông tuy nhiên Gallus vừa bất tài vừa tàn bạo nên Constantius phải giết Gallus và đưa Julian, em trai của Gallus lên thay nhưng đổi chỗ, Julian đánh người German và Constantius đánh quân Sassanid. Julian tỏ ra là 1 viên tướng có tài, đánh lui được quân German nhiều trận và nhận được sự ủng hộ của quân đội lên làm Hoàng đế. Constantius kéo quân về đánh Julian nhưng chết vì đau tim trên đường hành quân kết quả là Julian trở thành Hoàng đế năm 361. Nhưng Julian sau khi lên lại tuyên bố từ bỏ Cơ đốc giáo và muốn khôi phục lại tôn giáo cũ của người Roman (gần gần với tôn giáo của người Hy Lạp nhưng có 1 số khác biệt chẳng hạn thay cho Zeus là Jupiter, rồi coi bản thân Hoàng đế cũng là thần...). Điều này làm Julian mất sự ủng hộ của quân đội và Julian bị quân lính của mình giết trong cuộc chiến với người Sassanid vào năm 363.
  8. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Các triều đại dòng Theodosius
    Trong năm đó, sau khi Julian bị giết, các tướng lĩnh trong bộ phận quân đội phía đông chọn 1 người trong số họ, 1 người Cơ đốc giáo tên là Jovian lên. Jovian đánh được vào vương quốc Sassanids rồi rút quân. Nhưng Jovian chết ngay năm sau, năm 364. Người thay thế Jovian là 1 viên tướng phía đông khác là Valentinian, 1 người Thiên chúa giáo (Catholic). Valentinian muốn quay về để kiểm soát phần phía tây của đế quốc vì vậy ông ta để lại phần phía đông cho em trai Valens , 1 người Arian. Thủ đô của phần lãnh thổ do Valentinian kiểm soát đặt tại Milan, trong khi Valens đóng tại Constantinople.
    Ở đây dừng lại giải thích 1 chút về Cơ đốc giáo (Christianity) và các nhánh của nó. Những người Arians theo quan điểm phân biệt Jesus với đức chúa trời God, chúa trời sinh ra trước, ngay sau đó sinh ra Jesus của thày tu Arius - đối lập với những người Athanasians, cho rằng Jesus cũng chính là chúa trời của giáo sĩ Athanasius. Những người Arians và người Athanasians đã đánh nhau để tranh thắng thua, đến khoảng năm 400 thì người Athanasians thắng thế và toàn bộ người Romans chuyển đổi hết thành Athanasians. Nhưng người Germans là Arians, tuy vậy dần dần họ cũng bị chuyển đổi, những người Arians cuối cùng là những người Visigoths chuyển thành người Thiên chúa giáo Catholic cùng với vua Reccared của họ vào năm 590). Thiên chúa giáo (Catholicism) là 1 nhánh tiếp theo của Cơ đốc giáo, hay chính xác hơn là bước phát triển tiếp theo của quan điểm Athanasians, theo quan điểm chỉ tin vào kinh thánh, theo chiều hướng tôn sùng Jesus hơn nữa, phân biệt với những người Christian thông thường. Trước khi phát sinh chia rẽ giữa những người Arians và những người Athanasians thì Cơ đốc giáo còn bị chia rẽ thành những người ôn hòa (moderates) và những người tử đạo (donatists). Những người ôn hòa tuân theo lời kinh thánh răn, nên trước đây khi Cơ đốc giáo bị cuộc đàn áp đẫm máu của Diocletian, họ chỉ tìm cách chạy trốn. Trong khi những người tử đạo không bỏ trốn mà đứng lên chống lại, những người tử đạo chủ yếu ở châu Phi. Sau này khi Constantine lên nắm quyền và trở thành 1 người Cơ đốc giáo, những người ôn hòa và những người tử đạo đưa ra đòi Constantine phân xử xem ai đúng ai sai. Lúc đầu Constantine muốn hòa giải 2 bên nhưng sau đó Constantine nhận ra rằng tư tưởng của những người tử đạo thực sự nguy hiểm nên ủng hộ những người ôn hòa và đánh những người tử đạo. Tất nhiên phe ôn hòa thắng, tuy nhiên phe tử đạo còn tiếp tục chiến đấu cả khi người Vandals đến châu Phi, hay khi người Romans tái chiếm châu Phi, thậm chí cả khi người Ả rập xâm chiếm Bắc Phi khoảng năm 670.
    Con trai nhỏ của Valens , Gratian, được đính hôn với con gái của Constantius II, Constantia, rồi sau đó được lập lên Hoàng đế vào năm 367 khi mới 8 tuổi. Còn Valentinian thì lập con trai nhỏ của mình lên làm Valentinian II. Thời gian này các cuộc chiến với người German và Sassanid vẫn tiếp diễn dai dẳng cùng với cuộc chống trả của những người tử đạo ở châu Phi đã nói ở trên. Năm 378, tại thành phố Adrianople ở Balkans, Valens đã thua 1 trận lớn trước người Visigoths và bị giết. Những người Visigoths tìm được con đường để tràn vào bên trong đế quốc. Theodosius, 1 viên tướng Thiên chúa giáo trẻ tuổi, là con của 1 viên tướng ở mặt trận tại đây, được chọn để thay thế Valens . Theodosius lấy Galla, con gái của Valentinian, và cùng cai trị đế chế với Gratian và Valentinian II (lúc này đều còn nhỏ). Theodosius dẹp yên được người Visigoths và người Sassanids nhưng chủ yếu là thông qua thỏa hiệp. Năm 383, Maximus, 1 viên tướng ở Constantinople nổi loạn, giết chết Gratian và năm 388 tấn công Valentinian II nhưng bị Theodosius giết. Năm 391, dưới ảnh hưởng của giáo sĩ thành Milan tên là Ambrose (sau là thánh), Theodosius quyết định cấm tất cả các lễ nghi tà giáo ngoại đạo (ngoài Cơ đốc giáo), thậm chí ở ngay nhà riêng, chỉ có Cơ đốc giáo và 1 nhánh mở rộng là Do thái giáo được phép tồn tại trong đế quốc. Trước lệnh này, 1 viên tướng không phải người Roman, tên là Arbogast nổi loạn, giết chết Valentinian II và đưa 1 người bạn của ông ta, 1 người Roman tên là Eugenius, lên ngai vàng nhưng Theodosius đã đánh bại và giết họ. Theodosius chết năm 395, hoàn thành sứ mạng biến toàn bộ đế quốc theo Cơ đốc giáo.
  9. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Italia khi Tây đế quốc sụp đổ
    Odoacer lên nắm quyền trên chủ yếu là Italy. Zeno, Hoàng đế Roman ở phía đông, nhận được thông báo của Odoacer dù rất tức giận và muốn chiếm lại Italy nhưng lúc này phần lớn quân đội phía đông và bản thân ông ta đang phải phòng thủ Constantinople trước sự tấn công của người Sassanids. Vì vậy Zeno cho những người Ostrogoths theo Arians, dưới sự chỉ huy của vua của họ là Theodoric đi chiếm lại Italy từ tay Odoacer. Đội quân Ostrogoths này nhanh chóng giết được Odoacer và trên thực tế Theodoric trở thành vua Italy dù trên danh nghĩa, ông ta vẫn thuần phục Zeno, là đại diện của Zeno ở Italy. Theodoric nắm quyền khá lâu và cai trị khá tốt. Ông ta có lúc đã nắm được cả Tây Ban Nha với tư cách nhiếp chính cho vua ở đó còn nhỏ tuổi. Nhưng sau khi Theodoric chết, những người kế thừa bất tài và Justinian, Hoàng đế mới ở Đông đế quốc quyết đinh lấy lại Italy. Đầu tiền ông ta cho tướng Belisarius chiếm lại châu Phi từ tay người Vandals, sau đó Belisarius được lệnh mang quân đánh Italy nhưng người Ostrogoths chống trả rất dữ dội. Sau khoảng 20 năm chiến tranh, quân đội Đông đế quốc chiến thắng nhưng Italy bị tàn phá nặng nề.
    Năm 568, những người Lombard bắt đầu tấn công Italy, muốn chiếm Italy từ tay quân đội Đông đế quốc, tuy nhiên họ chỉ chiếm được miền bắc rồi bị chặn lại. Những người Lombard làm chủ bắc Italy khoảng 200 năm đến khi bị vua Charlemagne chinh phục và sát nhập vào đế quốc Roman thần thánh của Charlemagne vào năm 774. Phần phía nam thì vẫn thuộc quyền kiểm soát của Đông đế quốc nhưng dần Giáo hoàng mới, dưới sự bảo trợ của vua Pháp mới thực sự là người nắm quyền. Đến năm 830 thì quân Ả rập chiếm Sicily và phần nam Italy, Giáo hoàng chỉ giữ được phần miền trung, và Italy bị chia 3. Nhưng thời gian này thuộc vào thời kỳ trung cổ, về Rome cổ đại chỉ dừng khi Đông đế quốc mất hẳn kiềm quyển soát Italy
    Bác eskimot09 cho em hỏi là trong lịch sử thì sao thấy ít cuộc nổi loạn chống La Mả quá . Vậy có phải là La Mã đã đồng hoá các sắc dân bản địa ko .
  10. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Nhiều chứ bác. Suy cho cùng, Cesar là cuộc nổi loạn lớn đầu tiên (vì đã bị Viện Nguyên Lão tuyên bố là kẻ thù của Đế chế), một loạt các triều đại sau này cũng bắt nguồn từ các cuộc nổi loạn mà thời đại của Nero, Galba, Vitellius đến Vespasian là điển hình. Tất nhiên đó là những cuộc nổi loạn của những viên tướng nổi tiếng trong quân đội La Mã. Còn dân thường và những chủng tộc hay vùng đất bị xâm chiếm thì dù có nổi loạn cũng ko đủ bản sắc để được ghi nhận như 1 sự kiện lịch sử đáng chú ý. Lý do là vì quân đội La Mã quá mạnh. Ngay các tướng lĩnh La Mã muốn nổi loạn thành công cũng phải có sự ủng hộ của các Quân đoàn chủ lực đóng rải rác ở nhiều nơi trên đế chế và sự hậu thuẫn về chính trị của Viện nguyên lão.
    Tôi cóp lại đây 1 trích đoạn trong tài liệu mà tôi đã Post ở những trang đầu tiên có thể phần nào giúp bác lý giải thắc mắc: "Lịch sử cổ đại cho thấy rằng việc giữ các vùng đất chinh phục được là rất khó khăn. Tuy nhiên, La Mã dường như đã tìm ra cách giải quyết vấn đề này với các chính sách vừa tự do vừa quân phiệt. Thứ nhất, Rome không hủy diệt các vùng đất này mà trao cho chúng những quyền lực chắc chắn. Một số nơi được chấp thuận trở thành công dân La Mã đặc biệt là các vùng gần La Mã, một số vùng khác được chấp nhận chỉ phải theo những luật nào đó của La Mã. Một số vùng được cho phép trở thành khu tự trị, một số khác được cho phép trở thành đồng minh. Nhưng tất cả đều phải đóng thuế và cung cấp binh lính cho La Mã. Ngoài ra, La Mã cho quân lính định cư trên các miền đất chiếm đóng như là phần thưởng cho sự phục vụ của họ. Quân lính có đất đai có thể sinh lợi, và La Mã có đội quân cố định trên các miền đất đã chiếm đóng. Để tăng cường sức mạnh cho các đội quân này, La Mã tiến hành các dự án làm đường đầy tham vọng. Họ xd các con đường thẳng tắp vượt qua các ngọn núi cho phép quân đội nhanh chóng vận động tới các vùng có nổi loạn. Sự kết hợp của việc trao quyền hành và quyền công dân với việc đảm bảo những phản ứng nhanh chóng và khắt khe đối với những kẻ nổi loạn đã cho ra đời 1 đế chế hòa bình và bền vững"
    Bác Post tiếp đi, dạo này tôi ít thời gian quá, không dịch tiếp được mớ tài liệu còn dở.

Chia sẻ trang này