1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu về đế chế La Mã

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 01/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Chinh phục Hy Lạp
    Trong thời gian La Mã đang bận rộn với những tranh chấp chính trị nội bộ và cuộc chinh phục Italy thì người Hy Lạp gốc Macedonia (nằm giữa Nam Tư và Hy Lạp) đã chinh phục hầu hết lãnh địa Hy Lạp và sau đó vươn bàn tay đế quốc ra khắp thế giới. Năm 324 trước cn, khi mà Rome vẫn chưa chinh phục hết Italy và vẫn đang sa lầy trong mối xung đột giữa giới quý tộc và dân nghèo, thì toàn bộ lãnh địa thế giới nằm phía đông La Mã đã thuộc về 1 người đàn ông duy nhất, Alexander Đại Đế, nhà quân sự có thể coi là vĩ đại nhất trong lịch sử cổ đại. Sau khi chinh phục toàn bộ Ba Tư, Alexander bất ngờ chết để lại đế chế mênh mông ông đã dựng lên trong sự xâu xé của các tướng lĩnh. Năm 312 trước cn, Seleucus, 1 trong các viên tướng này xưng vua tại Babylon và phần đất rộng lớn phía đông Hy Lạp, sau đó tiếp tục mở rộng lãnh thổ tới phía đông Anatolia (Thổ Nhĩ Kỳ) và phía bắc Syria thành lập Seleucid, đệ nhị đế chế Hy Lạp. Nhưng La Mã dường như không quan tâm lắm đến những sự kiện chấn động này. Bị chi phối bởi những vấn đề trong nội bộ, La Mã không quan tâm lắm đến tình hình bên ngoài và chưa nhìn nhận đế quốc Hy Lạp như 1 mối đe dọa. Nhưng chiến tranh Punic lần 2 đã làm tất cả thay đổi. Rome gần như đã bị hủy diệt bởi người Carthage và vương quốc Macedonian (dưới quyền trị vì của Philip V 221-179 trước cn) lại liên minh với Carthage. Thế giới Hy Lạp xuất hiện trong mắt của người La Mã như là mối đe doạ lớn nhất đến từ bên ngoài.
    Philip V là 1 vị vua nhiều tham vọng, muốn mở rộng lãnh thổ và biến Macedonia thành 1 đế chế. Không may cho ông ta, Antiochus III (223-187 trước cn), vị vua của đế chế Seleucid cũng có cùng tham vọng này. Antiochus III bắt đầu chiếm đoạt lãnh thổ Palestine, tranh giành quyền kiểm soát Ptolemies thuộc Ai Cập. Đồng thời, Philip V cũng bắt đầu vươn tay tới biển Aegean (nằm giữa bán đảo Hy Lạp và vùng tiểu Á thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) và vùng tiểu Á. 2 vị vua này thấy giải pháp tốt nhất là bắt tay nhau cùng chinh phục Ai Cập sau đó mới tính đến chuyện chia chác.
    La Mã, sau khi trải qua kinh nghiệm cay đắng với Carthage, đã trở nên rất cảnh giác với các quốc gia có tham vọng đế chế bên ngoài. Họ đã chống lại Philip V trong thời gian chiến tranh Punic lần II (cuộc chiến này được gọi là Chiến tranh Macedonian lần I) và sau này lại yêu cầu ông ta chấm dứt việc xâm chiếm đất đai Hy Lạp. Philip V từ chối, và La Mã cử tướng Flaminius tiến đánh Macedon năm 200 trước cn, cuộc chiến Macedonia lần 2 bắt đầu. Sau 3 năm, Flamiuss đánh bại Philip V trong trận Thessaly (địa danh nằm ở miền trung Hy Lạp, phía bắc biên giới Macedonia) và đến năm 196 trước cn thì tuyên bố các thành phố Hy Lạp được độc lập.
    Nhưng La Mã vẫn rất cảnh giác với Antiochus III. Vị vua này đưa quân lên đất Hy Lạp tấn công người La Mã nhưng nhanh chóng bị đánh bật khỏi Hy Lạp rồi bị thảm bại trong trận Magnesia ở Tiểu Á năm 189 trước cn. Trong cuộc chiến này, người La Mã không chiếm đoạt đất đai mà chỉ buộc Antiochus nộp 1 khoản tiền phạt lớn. Nói chung, La Mã coi các thành phố Hy Lạp như những thành phố tự do ít tiềm lực, và La Mã coi mình là người bảo vệ Hy Lạp, và bằng cách này ngăn chặn sự phát triển của bất kỳ quyền lực tập trung nào có khả năng đe dọa Rome. Năm 179 trước cn, Philip V chết, người kế vị là Perseus khuấy động phong trào dân chủ và tinh thần cách mạng ở Hy Lạp. Và La Mã lại xâm lược Hy Lạp. Cuộc chiến Macedonia lần 3 nổ ra (172-168 trước cn). Không giống với lần trước, khi cuộc chiến này kết thúc, dù vẫn không chiếm đất đai nhưng Rome áp đặt luật lệ bá chủ rất cứng rắn đối với các đồng minh cũng như các thành phố phụ thuộc nhằm ngăn chặn mọi ngọn lửa cách mạng. La Mã đã học được từ việc kiểm soát các thành phố ở Italy rằng có thể kéo dài sự thần phục của các thành phố này nếu duy trì được sự đàn áp dứt khoát, nhanh chóng và tàn bạo.
    Lúc này, đế chế La Mã đã thành hình. La Mã đáp trả các mối đe dọa ngay khi nó chỉ mới sắp xẩy ra. Việc đánh bại Perseus đi kèm với việc cướp phá các thành phố bị chinh phục 1 cách nặng nề. Thêm vào đó, khoản tiền phạt mà những kẻ bại trận phải chịu làm ngập đầy kho tàng La Mã. Đồng thời, ở phía Tây, các quan chức đại diện của La Mã đánh thuế nặng lên những người bị cai trị. Đến giữa thế kỷ 2 trước cn, La Mã đã trở thành 1 cỗ máy làm tiền khổng lồ với những affair có lợi đến mức không tưởng. Tuy nhiên, lượng của cải khổng lồ này đã khơi dậy mối xung đột giai cấp có từ trước đây và nền cộng hòa sẽ phải sống trong cơn khủng hoảng trong hơn 100 năm tới, cơn khủng hoàng mà tại thời điểm nó kết thúc, sẽ xô đổ nền cộng hòa và đưa La Mã ngả sang chế độ độc tài.
    (to be continued)
    @dimbag: Attila là chuyện của những năm 450 AD, nghĩa là còn cách 500, 600 năm nữa cơ bác ạ. Cứ tạm tính mỗi bài cover khoảng 100 năm thì cũng còn 5, 6 bài nữa Bác chịu khó
  2. toanthui

    toanthui Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/09/2005
    Bài viết:
    156
    Đã được thích:
    0
    Bác gửi tiếp đi ,em nôn nóng muốn đọc ghênhanh nhanh lên bác
  3. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Cuộc khủng hoảng của nền cộng hòa
    Giới bình dân La Mã bao gồm những nông dân, thợ thủ công và những lao động chân tay khác. 1 phần nông dân làm việc trong những trang trại nhỏ của riêng mình, phần còn lại cùng với các thợ thủ công và các loại lđ khác đ làm thuê cho giới quý tộc với mức lương không tồi. Chiến tranh Punic lần II đã thay đổi tận gốc rễ sự sở hữu tài sản trong xã hội. Hannibal đã san bằng các miền nông thôn khi vận động chiến quanh La Mã, toàn bộ của cải của quốc gia được tập trung sau những bức tường thành Rome để bảo vệ. Bên ngoài, nhà cửa và ruộng đất của hàng vạn nông dân bị phá hủy. Sau chiến tranh, giới quý tộc càng giàu thêm vì chiến lợi phẩm chiến tranh mua sạch đất đai trồng trọt. Đến giữa thế kỷ II trước cn, nền nông nghiệp La Mã hoàn toàn bị chi phối bởi các đồn điền mênh mông thuộc sở hữu của những chủ đất giàu có đến mức không tưởng. Những nông dân khánh kiệt tràn vào các thành phố kiếm việc làm. Đây mới chỉ là phần chìm của tảng băng xung đột.
    Trong khi đó các cuộc chiến Punic và Macedonia đã cung cấp cho La Mã rất nhiều nô lệ. Trước đây, La Mã đã có những lao động là nô lệ, nhưng phải đến giữa thế kỷ 2 trước cn, sự chuyển đổi từ nền kinh tế lao động làm công sang lao động nô lệ mới thực sự diễn ra. Đến cuối thế kỷ 2 trước cn, phần lớn dân số La Mã thuộc tầng lớp nô lệ. Tình trạng này làm giảm đi các cơ hội việc làm và thu nhập tốt cho người lđ gốc La Mã. Nếu muốn có công việc, họ buộc phải chấp nhận mức thu nhập thậm chí thấp hơn những người nô lệ, mức đã không thể đủ sống. Tình trạng này tạo ra 1 làn sóng di trú khổng lồ của những người LĐ từ thành phố này sang thành phố khác ở La Mã với nỗi oán giận ngày càng tăng. Thùng thuốc súng khủng hoảng đã được châm ngòi.
    Nội chiến Grachhi
    Năm 133 trước cn, tranh chấp đưa La Mã vào nội chiến. Tiberius Gracchus, vị quan hộ dân đại diện cho dân chúng đề nghị giới hạn quyền sở hữu đất đai dưới 640 acre (1 acre ~ 0.4 ha), và như vậy lấy đi phần lớn đất đai của giới quý tộc. Những người có trên 640 acre đất phải trả lại phần dôi để Nhà nước chia cho dân nghèo. Tất nhiên, giới thượng lưu và viện nguyên lão La Mã tìm mọi cách có thể để phản đối dự luật này. Họ nắm được vị quan hộ dân thứ hai là Octavius và thuyết phục ông này phủ quyết cải cách ruộng đất của Gracchus. Khó chịu vì bị phản đối, Gracchus cách chức Octavius, 1 hành động vi hiến rõ ràng. Khi nhiệm kỳ kết thúc, Gracchus tiếp tục có thêm hành động vi hiến thứ 2 là tham gia kỳ bầu cử cho nhiệm kỳ tiếp theo. Bạo loạn nổ ra trong lần bầu cử này và Gracchus bị 1 nhóm các nghị sĩ ám sát, lần đầu tiên trong lịch sử tồn tại, người La Mã chém giết lẫn nhau.
    Nhiều người đã không đánh giá đúng vai trò của Tiberius Gracchus đối với lịch sử La Mã. Dù cuộc cải cách của ông thất bại, nhưng Gracchus đã tạo ra một phong cách chính trị mới: phục vụ đa số. Trước Gracchus, những thay đổi chính trị được thực hiện chủ yếu do những yêu cầu của, và để phục vụ 1 thiểu số là giới quý tộc. Tuy nhiên, Tiberius lại tìm kiếm những thay đổi vì lợi ích của số đông dân chúng và hoàn toàn không đếm xỉa đến giới quý tộc. Điều đó đã tạo ra 1 lớp chính trị gia mới ở La Mã, những người được gọi là chính trị gia mị dân do những cố gắng giành quyền lực của họ bằng cách thu hút sự ủng hộ trong dân chúng. Đối lập với những chính trị gia kiểu này, giới quý tộc tiếp tục nỗ lực duy trì cơ cấu chính trị truyền thống: phục vụ tầng lớp giàu có.
    Tiberius chết nhưng nhà Gracchi chưa dừng lại ở đó. Liên tiếp hai năm 123 và 122 trước cn, Gaius Gracchus (em trai Tiberius) được bầu là quan hộ dân. Có nguồn ủng hộ khổng lồ từ dân chúng, Gaius tìm cách thông qua rất nhiều bộ luật tại quốc hội. Đầu tiên, ông ra luật bình ổn giá cả ngũ cốc bằng việc cho xây dựng các nhà kho chứa ngũ cốc thừa từ mùa trước. Dự luật thứ hai sẽ mang lại cho ông rất nhiều sự chống đối là trao quyền công dân cho tất cả người Italy (nhằm làm tăng quyền lực của bản thân Gaius). Năm 121 trước cn, Viện nguyên lão thông qua 1 luật định yêu cầu các quan chấp chính bảo vệ nền cộng hòa và tuyên bố Gaius Gracchus là kẻ thù của nhà nước. Gaius bị săn đuổi và tự sát, hàng ngàn người ủng hộ ông bị giết và treo cổ.
    Marius
    Sau đó ít lâu, năm 111 trước cn La Mã bắt đầu cuộc chiến với Jugurtha, vị vua của Numidia (1 quốc gia bắc Phi nằm phía nam Carthage). Cuộc chiến này được gọi là chiến tranh Jugurthine, đã được tiến hành không triệt để và sự nghi ngờ của người La Mã đối với viện nguyên lão tăng lên. Vì vậy, năm 107 trước cn, Gaius Marius (157-86 trước cn) được bầu làm quan chấp chính và được cử đến Numidia. Marius nhanh chóng đánh bại Jugurhta. Nhưng người thực sự đánh bại hoàn toàn Jugurtha là Sulla (138-78 trước cn), 1 sĩ quan của Marius. Dù thuộc về 1 dòng dõi quý tộc lâu đời nhưng Sulla là 1 vị tướng nghèo. Còn Marius lại là 1 quý tộc mới, người đầu tiên trong dòng họ đạt được vị trí cao trong xã hội. Cả 2 đều không được giới quý tộc La Mã công nhận. Sulla cho rằng Marius đã giành lấy tín nhiệm bằng những chiến công không thuộc về mình. Sự ganh đua giữa hai ông này là nguyên nhân của cuộc nội chiến năm 88 trước cn. Marius là 1 nhà cải cách sáng tạo. Ông thay đổi hoàn toàn cơ cấu quân đội của mình bằng cách hầu như chỉ sử dụng những người tình nguyện. Họ là những người nghèo nhất La Mã, những người vẫn nuôi dưỡng lòng căm thù với chế độ đặc biệt từ sau khi anh em Gracchi bị giết. Marius đưa ra lời hứa sẽ chia chiến lợi phẩm chiến tranh và ruộng đất để đổi lấy sự phục vụ lâu dài của đội quân này. Và 1 cái gì đó mới mẻ đã xuất hiện. Sự bần cùng đã đẩy 1 lượng lớn người nghèo thành binh lính, và những binh lính này có lòng trung thành và sự biết ơn sâu sắc không phải là với nhà nước mà với vị tướng bảo trợ của họ. Sự tôn sùng cá nhân này đã trao cho Marius, và những tướng lãnh khác trong tương lai, 1 quyền lực mà họ chưa bao giờ có trước đây.
    Sulla
    Trong những năm 80 trước cn, La Mã phải giải quyết hàng loạt cuộc chiến với các đồng minh Italy, những người phải chịu đựng sự bất công lớn. Sulla chứng tỏ mình là 1 tướng giỏi trong suốt các cuộc chiến này và được bầu làm quan chấp chính năm 88 trước cn. Khác với Marius, Sulla coi mình thuộc về giới quý tộc. Ông ta đánh bại Marius trong cuộc nội chiến. Viện nguyên lão, lo sợ sự chống đối của dân chúng, đã trao cho Sulla quyền lực độc tài. Đến lúc này, vị trí độc tài đã là vị trí hợp hiến. Chính phủ La Mã được phép trao toàn bộ quyền lực quân vương cho 1 cá nhân trong thời gian của cuộc khủng hoảng. Vị quân vương này sẽ không phải chia sẻ quyền lực với 1 người khác như dưới chế độ quan chấp chính. Sulla ngay lập tức thực hiện cải cách chính phủ trong vòng 3 năm với việc khôi phục quyền lực của Viện nguyên lão và cắt đứt quyền của quốc hội. Dù ý định là khôi phục lại hình thức chính phủ ban đầu nhưng Sulla sử dụng 1 biện pháp khác hẳn. Ông ta sử dụng quân đội để giết tất cả các đối thủ (và thậm chí những người không phải là đối thủ). Nền tảng của đế chế đã có những đứt gãy nguy hiểm.
    Bắt đầu của sự kết thúc
    Cuộc cải cách của Sulla mang lại sự phản kháng dữ dội. Sau khi Sulla chết, viện nguyên lão phải đối mặt với các cuộc nổi loạn có vũ trang. Năm 70 trước cn, hai chính trị gia nhiều tham vọng là Crassus Pompey lên làm quan chấp chính và ngay lập tức bãi bỏ hiến pháp của Sulla. 1 trào lưu chính trị mới xuất hiện. Crassus và Pompey liên minh với các quan hộ dân và quốc hội chống lại viện nguyên lão cùng giới quý tộc.
    Năm 67 trước cn, Pompey được trao quyền lãnh đạo toàn bộ vùng Địa Trung Hải trong 3 năm, và quyền lực này được kéo dài trong nhiều năm tiếp theo để ông có thể tiếp tục cuộc chiến ở vùng Tiểu Á. Đến cuối giai đoạn này, Pompey đã trở thành nhà lãnh đạo nổi tiếng nhất ở La Mã. Việc này khiến Crassus lo sợ vì ông ta không có vị trí quan trọng như Pompey trong cả viện nguyên lão lẫn Quốc hội. Và Crassus quyết định liên minh với các chính trị gia tiếng tăm khác, trong đó nổi bật nhất là Gaius ****** Caesar (100-44 trước cn). Caesar xuất thân từ 1 gia đính quý tộc lâu đời, và là vị tướng thiên tài chỉ huy quân La Mã ở Tây Ban Nha và Gaul.
    Khi Caesar trở về từ Tây Ban Nha, ông yêu cầu 1 cuộc diễu binh chiến thắng vòng quanh Rome. Viện nguyên lão từ chối cuộc diễu binh này vì sợ ảnh hưởng của ông tới đám đông dân chúng. Caesar thuyết phục Pompey và Crassus hòa giải và thể chế tam hùng đầu tiên được thành lập bao gồm 3 chính trị gia nói trên. Chính phủ này chấm dứt quyền lực của chính phủ và bắt đầu sự kết thúc của nền cộng hòa La Mã.
    (to be continued)
    @toanthui: tài liệu của mình xuất bản tôi có mấy quyển nhưng từ Almanach trở xuống đều viết rời rạc, ít thông tin. Thấy tài liệu Văn minh thế giới của Đại học Washington hay quá nên lọ mọ dịch để mọi người cùng xem (cũng là 1 cách tự học ấy mà). Hehe, cố lắm thì 1 ngày cũng chỉ ngồi được 1,2 tiếng vừa dịch vừa gõ đấy là chưa nói thỉnh thoảng gặp 1 địa danh hay nhân vật lịch sử mà google cũng chịu không mò ra nằm ở đâu hay là ai, sống bao giờ nữa Bác thông cảm Ít thời gian nên nhiều đoạn tôi chỉ dịch ý, với cũng lược đi phần nào. Các bác có đọc nguyên bản thì cũng thông cảm cho
    Được eskimot09 sửa chữa / chuyển vào 15:34 ngày 06/11/2005
  4. hajimemashite

    hajimemashite Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/03/2003
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    muốn biết thì chơi trò Rome:total war thì hiểu hết về quân đội rome
  5. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Thời kì thịnh vượng:
    117-138 : triều đại của hadrianus
    117 : rời bỏ vùng Lưỡng Hà
    121-126 : Hadrianus kinh lí đến Hy Lạp , Thổ Nhĩ Kỳ và các tỉnh phía tây
    122 : Hadrianus đến Anh
    thập niên 120 : bắt đầu xây dựng trường thành Hadrianus
    129-134 : Hadrianus kinh lí đến Ai Cập và các tỉnh phía đông
    138-161 : triều đại của Antonius pius . Đây là thời kì hoà bình và thịnh vượng nhất
    161-180 : triều đại của Marcus Aurelius . Ông được mệnh danh là vua triết gia
    161-166 : chiến tranh với người Parthia
    166 : bệnh dịch hạch lây lan khắp đế chế . Các thương nhân La Mã đến Trung hoa
    167-175 : các cuộc chiến tranh Marcomannic . Người German chọc thủng phòng tuyến và tràn vào Ý
    180-192 : triều đại của Commodus
    193-197 : nội chiến . Các tỉnh trưởng kình chống nhau giành ngôi hoàng đế
    193-211: Severus lập ra một triều đại mới và lao vào những cuộc viễn chinh mới
    195-199 : chiến tranh ở Scotland . Severus chết ở York
    212 : áp dụng quyền công dân La Mã cho tất cả mọi đàn ông tự do sống trong đế chế
    227 : quốc vương Ba tư lật đổ Parthia
  6. 9635741

    9635741 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/09/2005
    Bài viết:
    1.067
    Đã được thích:
    0
    tài liệu của eskimo còn sơ sài nhiều quá, thậm chí cả các sự kiện chính liên quan đến bản chất vận động của lịch sử giai đoạn này cũng không nhắc đến. Tôi chỉ bổ sung đại lược vì không có sẵn tài liệu:
    sự kiện quan trọng dẫn đến quá trình độc tài hóa nền cộng hòa là cuộc cải cách quân đội của Marius. Trước Marius, chỉ có công dân La Mã, tức là những chủ nô hoặc bình dân thành thị mới được tham gia quân đội và vị trí trong quân đội được sắp xếp theo tài sản của binh sĩ, càng giàu thì càng nhiều tiền để chi trả cho quân trang nên càng có địa vị cao. Sau Marius, quân đội La Mã là quân đội chuyên nghiệp, phục vụ suốt tuổi lao động thì cho về quê và được cấp cho đất đai để sống. Chính vì điều này mà quân đội của Marius tinh nhuệ, thiện chiến hơn (vì là quân nhân chuyên nghiệp) và vì thế Marius phải ban quyền công dân cho nông dân và các cư dân trên đất Ý. Từ đây, quyền lực chính trị đi đôi với lực lượng quân sự. Ai nắm được quân đội, 1 hay nhiều quân đoàn (Legion) thì mới là lãnh đạo, chứ không phải là những quý tộc cũ kỹ dựa vào danh tiếng và bầu chọn nữa.
    Thêm nữa, trong giai đoạn cuối đời Sulla nổ ra cuộc nổi dậy vĩ đại của nô lệ do Spartacus lãnh đạo. Chính vì được điều động đàn áp nô lệ nên Pompey và Crasssius mới nắm hầu hết quân đoàn tinh nhuệ của La Mã. Chiến thắng trong cuộc đàn áp đẫm máu nô lệ đưa Pompey và Crassius ngồi lên ghế chấp chính nhưng thực chất chính ủng hộ của đội quân mạnh mẽ mà 2 người đã cướp được cái ghế đó. Caesar tuy ko nổi như vậy, nhưng nhờ chiến công chinh phục Gô Loa (Gaul) mà có lực lượng quân sự mạnh, kết với 2 người kia thành thế Tam Hùng Chế (Triumvirate). Theo đó, quyền lực lãnh đạo La Mã sẽ luân phiên cho 3 người. Việc này kéo dài vài chục năm đến khi Crassius tử trận ở Trung Đông.
  7. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Tôi khen cái đang up là hay vì tính khái quát của nó hơn hẳn Almanach chứ không nói nó là chi tiết. Tài liệu thì sẵn nhưng thú thực với bác là tôi không có ý định (và cũng không có thời gian) đưa chi tiết hơn (trừ khi định xuất bản sách dịch).
    Marius được đánh giá là 1 nhà quân sự lỗi lạc trong thời của ông. Nhưng xét về bố cục của tài liệu này thì Marius thuộc trung thời của khủng hoảng chính trị La Mã dẫn đến sự chấm dứt của nền cộng hòa. Với bố cục này thì vai trò của gia đình Grachhi được đánh giá cao hơn vì là những người đầu tiên đưa ra tư tưởng thay đổi mà Marius đã kế thừa. Thêm nữa tài liệu này không nói nhiều về quân sự bác ạ.
    Mà bác nghĩ sao về việc trình bày chi tiết lịch sử (hình thành, phát triển, suy vong gồm đủ tư tưởng, văn hóa, kinh tế, quân sự...) của 1 đế chế tồn tại hơn 1000 năm???
    Thư giãn bác nhé
  8. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    ****** CAESAR (1)
    Chính phủ tam tài đầu tiên bao gồm Caesar, Crassus và Pompey bắt đầu nắm quyền lực năm 59 trước cn sau khi Caesar được bầu làm quan chấp chính. Chương trình cải cách của chính phủ mới được ban hành và Caesar trở thành thống đốc của 2 tỉnh Gaul (phía bắc Italy) và Illycrium (ven biển Adriatic của Nam Tư). Các chiến dịch chinh phục bằng quân sự là con đường để vươn tới quyền lực ở La Mã, bằng cách đó tạo cho các tướng lãnh 1 đội quân trung thành, sự giàu có, sự ủng hộ và uy tín ở Rome. Chức thống đốc ở 2 tỉnh nói trên cho phép Caesar thực hiện ước mơ chinh phục của mình.
    Lúc này người La Mã không có lý do gì phải xâm chiếm khu vực Trung và Bắc Âu. Những bộ lạc Đức và Celt (chủng người cổ đại sống chủ yếu ở Trung và Tây Âu, có hậu duệ là những người Ireland, Wale, cao nguyên Scotland và ven biển phía bắc nước Pháp ngày nay) sống ở khu vực này là những bộ lạc bán du cư. Tỉnh Illycrium là vùng đệm đủ an toàn cho La Mã đối với bất cứ sự đe dọa nào đến từ những bộ lạc này. Nhưng Caesar vẫn đã thực hiện những cuộc chinh phục kỳ diệu hướng về vùng đất này. Với hàng loạt những chiến dịch quân sự thiên tài, Caesar kéo dài đường biên giới của đế chế La Mã ra mãi phía bắc các nước Pháp, Bỉ và thậm chí cả phía nam vương quốc Anh, khuất phục hoàn toàn những người Celt sống tại đây. Khi Caesar hoàn tất cuộc chinh phục của mình thì chính phủ tam tài của ông tan rã. Crassus chết trong cuộc chiến chống lại người Parrhian (người Ba Tư cổ đại) ở Trung Đông, Pompey quay lưng lại Caesar và lôi kéo viện nguyên lão chống lại ông. Viện nguyên lão tuyên bố Caesar là kẻ thù của đế chế và ra lệnh cho ông giao lại quyền thống lãnh và vùng đất đang trị vì. Caesar không tuân theo mệnh lệnh này. Với đội quân tuyệt đối trung thành, năm 49 trước cn, Caesar đưa quân vượt sông Rubicon vào Italy. Nội chiến bùng nổ.
    Đây là cuộc chiến giưa 2 vị tướng vĩ đại là Pompey và Caesar. Từ tháng 1 năm 49 trước cn đến lúc xảy ra trận Pharsalus (9/8/48 trước cn) trên đất Hy Lạp, cuộc chiến chia cắt đế quốc La Mã với các trận đánh trên đất Italy, Tây Ban Nha, châu Phi, Gaul, và cuối cùng là Hy Lạp. Chỉ 1 tuần trước trận Pharsalus, quân đội của Caesar phải chịu 1 thất bại nghiêm trọng trong 1 chiến dịch bao vây quân Pompey kéo dài tại thị trấn Dyrrhachium trên bờ biển phía bắc Hy Lạp. Sau khi đột phá vòng vây, Pompey đã có thể hủy diệt phần lớn đội quân thiện chiến của Caesar nếu cho quân truy kích ngông ngừng nghỉ như Caesar đã nhận xét 1 cách khinh bỉ sau trận đánh: ?okẻ thù đã có thể giành chiến thắng hôm nay nếu chúng có 1 vị chỉ huy biết cách làm thế nào để chiến thắng? (Suetonius). Không gặp sự ngăn cản đáng kể nào, Caesar rút lui về Thessaly, nơi mà đội quân mệt mỏi vì hậu cần thiếu thốn sau nhiều tháng bao vây đối thủ, tìm thấy đầy đủ lương thực cho người và cỏ cho ngựa. Ở đây, Caesar tái hợp với các đơn vị đặc biệt của ông dưới quyền chỉ huy của tướng Domitius Calvinus.
    Trong khi đó, Pompey nhập đội quân của mình với 1 đội quân mới do tướng Metellus Scipio chỉ huy và theo Caesar về hướng tây nam, tiến vào nội địa Hy Lạp đến 1 cánh đồng nằm phía ngoài 1 thương trấn nhỏ có tên Pharsalus, giao lộ của con đường giao thương đông-tây. Caesar có khoảng 22000 bộ binh và 1000 kỵ binh dàn trận trên cánh đồng phía bờ bắc sông Enipeus. Pompey đối trận với 45000 quân ở vị trí cao hơn trên cánh đồng. Đội quân của Caesar chủ yếu gồm những binh lính đã theo ông tham chiến trong 10 năm ở Gaul, trong khi binh lính của Pompey, dù đông gấp hơn 2 lần, lại chỉ là những người nô lệ và số quân được huấn luyện sơ sài do các vị vua đồng minh cung cấp. Rất nhiều sử gia đã lưu ý rằng quân đội Pompey vào trận với tinh thần rất cao vì đã chiến thắng đội quân huyền thoại của Caesar trước đó 1 tuần. Và Pompey dường như đã sờ thấy chiến thắng. Caesar triển khai quân đội trong nhiều ngày trên mảnh đất rộng 4 dặm ngăn cách giữa 2 đối thủ để nhử Pompey vào trận. Tuy nhiên, Pompey đã trở nên thận trọng sau thời gian đối chiến với Caesar. Ông ta muốn tiêu hao sinh lực địch bằng cách bỏ thời gian chờ đợi nhằm khai thác vấn đề tiếp tế và sự bất mãn của quân lính Caesar theo thời gian trong khi bản thân Pompey được đảm bảo nguồn tiếp tế liên tục cả về lương thực và người từ phía đông. Pompey cho rằng không lợi lộc gì để khai chiến nhưng Pompey không chỉ có 1 mình. Xung quanh ông ta có quá nhiều các nghị sĩ có quyền lực. 1 số thiếu kinh nghiệm, 1 số phấn khích quá đà vì chiến thắng tại Dyrrhachium, còn số khác đã quá mệt mỏi với cuộc chiến và muốn chấm dứt nó ngay lập tức. Tất cả bọn họ thúc giục Pompey khai chiến, liên tục hướng sự chú ý của Pompey vào Caesar, người đang nóng lòng tham chiến. Dưới các áp lực này, và đi ngược lại chiến thuật của bản thân mình, Pompey buộc phải tham chiến. Caesar rất hài lòng với điều này vì nguồn tiếp tế của ông rất hạn hẹp và Pompey đáng lẽ chỉ cần chờ đợi. Pompey dường như rất lo lắng về trận đánh này khi có 1 tuyên bố rất khó hiểu với đội quân của mình: ?oBất cứ chiến thắng thuộc về bên nào, ngày hôm nay sẽ là ngày bắt đầu của 1 giai đoạn khủng khiếp và không có kết thúc với La Mã? (Appian)
    (to be continued)
  9. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    ****** CAESAR (2)
    Caesar tham chiến với các quân đoàn số 8,9,10,11 và 12 chia thành 80 toán quân với tổng số quân gần 22000 bộ binh, 1000 kỵ binh nặng và một số nhỏ kỵ binh nhẹ. Pompey có 110 toán quân tổng số lên đến 45000 bộ binh gồm đủ cả chủ lực và dự bị được yểm trợ bởi 3000 quân cung nỏ, 1200 quân bắn đá và 7000 kỵ binh. Đội quân này là sự tập hợp của các quân đoàn La Mã với các quân đoàn đồng minh đến từ rất nhiều quốc gia khác nhau, từ Gaul, Đức đến Thổ Nhĩ Kỳ và Syria.
    Pharsalus là 1 trong những trận đánh lịch sử khi mà chiến thắng thuộc về vị tướng có những sáng tạo thiên tài về chiến thuật. Caesar đã chiến thắng vì có thể đoán định chính xác Pompey sẽ làm gì. Lợi thế lớn nhất của Pompey là đội kỵ binh dưới quyền chỉ huy của Titus Labienus, tập trung toàn bộ bên cánh trái cùng với đội cung thủ và bắn đá. Caesar ngay lập tức đoán ra ý đồ của Pompey là muốn đập tan đội kỵ binh 1000 người đang dàn trận bên cánh phải của ông. Caesar rút 6 toán quân bộ binh ở hậu phương lên đặt chếch phía sau đoàn kỵ binh bên cánh phải với vũ khí là trường thương. Khuất sau những con ngựa cao lớn, đội kỵ binh này rất khó bị kẻ địch quan sát thấy. Sau 1 bài phát biểu mà Caesar mạnh mẽ chỉ ra rằng toàn bộ trận đánh phụ thuộc vào sự dũng cảm của đội quân này, ông ra lệnh cho toàn bộ quân đội của mình không được hành động khi chưa có hiệu lệnh từ ông. Thời điểm là vấn đề mấu chốt khi phải đối đầu với 1 kẻ địch có quân số đông gấp hơn 2 lần mình. Bờ sông Enipeus dốc đứng bảo vệ cánh phải của Pompey, nơi ông bố trí binh lính Tây Ban Nha và Cilicia (vùng đất Tiểu Á phía nam Thổ Nhĩ Kỳ). Quân đoàn Syria được đặt ở trung tâm. Đối lại, Caesar bố trí 2 quân đoàn 11 và 12 bên cánh trái dưới sự chỉ huy của tướng Marc Antony, tướng Domitius Calvius chỉ huy quân trung tâm, Publius Sulla chỉ huy quân đoàn 10, quân đoàn tinh nhuệ nhất của Caesar bên cánh phải, trạm chỉ huy của Caesar ở phía sau cánh quân này.
    Khi lực lượng kỵ binh của Pompey và quân cung thủ tấn công vào cánh phải của quân Caesar, cú đánh gần như ngay lập tức chọc thủng cánh quân trống trải này. Và lực lượng kỵ binh của Pompey bất ngờ giáp mặt với quân đoàn bộ binh thiện chiến được trang bị đặc biệt để đối phó với lính khinh kỵ. Lực lượng mai phục lúc này mới được lệnh tấn công từ Caesar. Họ tràn lên và cùng kỵ binh nhà xiết chặt đội hình quanh đạo quân tiên phong của Pompey. Hoảng loạn, kỵ binh và các cung thủ của Pompey dẫm đạp lên nhau để chạy chốn. Caesar ngay lập tức thừa thắng kích thẳng vào cánh trái giờ đã rệu rã của địch đồng thời cho các quân đoàn khác tiến đánh vỗ mặt quân Pompey. Bị tấn công cùng lúc cả phía chính diện trong khi cánh trái đã bị chọc thủng toàn bộ, quân Pompey vỡ trận và tháo chạy về phía sau. Khi cánh trái quân địch đã vỡ, thậm chí khi địch quân phần đã bị bao vây để tiêu diệt, phần đã tháo chạy không dám chống cự và vừa chạy vừa hô ?ochúng ta đã bại trận?... Caesar tiếp tục có các mệnh lệnh khôn ngoan nhằm đảm bảo chiến thắng không chỉ là 1 trận đánh này mà là toàn bộ chiến dịch. Ông cho các sĩ quan liên lạc đi khắp nơi trên chiến trường truyền đi mệnh lệnh không được giết những người La Mã mà chỉ tấn công các đội quân đồng minh của Pompey. Các chiến binh của Caesar bỏ qua đội quân đồng hương, bắt đầu tàn sát quân đồng minh, những người đã không còn khả năng chống cự, 1 trận thảm sát khủng khiếp.
    Hành động này của Caesar đã khiến những binh lính La Mã còn lại trong quân đội Pompey không phải lo sợ về số phận của họ sau chiến thắng của ông. Và họ quay lại với Caesar trong khi đội quân đồng minh của Pompey toàn bộ bị đập tan và tháo chạy. Sau khi chứng kiến thất bại thảm hại của mình, Pompey trở về lều chỉ huy (nơi những vòng nguyệt quế đã được chuẩn bị sẵn để mừng chiến thắng) và trong 1 lúc, dường như bị mất kiểm soát. Caesar tập hợp quân đội của mình lại để thực hiện động thái cuối cùng (mà ông viết rằng: ngay lập tức trước buổi trưa cùng ngày) tấn công khu doanh trại của Pompey. Pompey, hồi tỉnh lại sau khoảng thời gian mất thăng bằng được những người tuỳ tùng cải trang rồi cùng 4 người tâm phúc chạy tới cảng Larissa. Caesar viết khi bước chân vào lều của Pompey: ?oCó thể nhìn thấy hàng chồng đĩa bạc được xếp sẵn, bạt căng rộng trên các bãi cỏ..., và rất nhiều dấu hiệu khác của niềm tin chiến thắng ngông cuồng trong quân trại của Pompey. Và có thể kết luận rằng họ đã không hề nghĩ đến 1 kết quả như ngày hôm nay...? Ngày hôm đó, Caesar ăn tối trong lều của Pompey, chia sẻ với binh lính của mình yến tiệc thịnh soạn đã được kẻ thù chuẩn bị sẵn. Toàn bộ quân Pompey còn lại đầu hàng vào ngày hôm sau. Caesar ước tính có 15000 người chết trong đó 6000 là người La Mã. Rất nhiều nghị sĩ hiếu chiến bao gồm cả Lucius Domitius, Ahennobarbus chết trong quân Pompey. Caesar đề bia sau trận đánh rằng: ?oBất chấp những chiến công đã giành được, ngày hôm nay, Gaius Caesar đã có thể là kẻ chiến bại nếu như không có sự ủng hộ hết lòng của binh lính?
    Các sử gia trong khi ca ngợi thiên tài của Caesar trong việc nhìn rõ chiến thuật của Pompey vẫn lấy làm tiếc cho Pompey vì ông đã bị đẩy vào trận đánh trong khi chiến thuật nhẫn nại của ông có thể đã mang lại cho ông chiến thắng. Kế hoạch quân sự của ông là rất có cơ sở nhưng lại thiếu quyết đoán mà kết quả là 1 thất bại vô cùng thảm khốc. Trước đó, ông cũng đã thiếu quyết đoán như vậy khi để Caesar thoát khỏi trận Dyrrhachium với quân đội hầu như nguyên vẹn. Cuối cùng, kẻ quyết đoán đã chiến thắng. Dù còn nhiều trận đánh nữa, nhưng sự sụp đổ của quân đội Pompey về cơ bản đã được quyết định tại trận Pharsalus. Pompey bị ám sát không lâu sau đó bởi những người Ai Cập mà ông tìm kiếm sự ẩn náu. Caesar chiến thắng, và sự quả cảm của ông cùng với đội quân của mình sẽ mãi được các sử gia tán dương. Pompey chiến bại, và rất nhiều người cùng với nhà thơ Lucan sẽ đau lòng vì tư tưởng cộng hòa đã chết trên mảnh đất Pharsalus. Sau đó Caesar đưa đội quân của mình hướng về vùng Tiểu Á trong 1 cuộc chinh phục nhanh đến mức được ông miêu tả trong 3 từ: ?oVeni, vidi, vici? ?oTa đã đi, đã đến, và đã chiến thắng?
    Caesar trở về Rome năm 46 trước cn và được viện nguyên lão trao chức tổng tài trong 10 năm. Quyền lực của ông là tuyệt đối trên khắp đế chế và tất cả hành động của ông nằm trên luật pháp và hiến pháp. 2 năm sau đó, Caesar được chỉ định là tổng tài suốt đời và nhanh chóng nắm giữ tất cả các cơ quan trọng yếu trong chính phủ. Ông tiến hành cải cách chính phủ bằng nhiều cách nhưng những cải cách này hầu như vô giá trị vì quyền lực hoàng đế của ông. Người La Mã, luôn tự hào vì truyền thống cộng hòa của mình, rất không bằng lòng với quyền lực này. Ngày 15/3/44 trước cn, một nhóm các nghị sĩ lãnh đạo bởi Gaius Cassius Longinus Marcus Junius Brutus ám sát Caesar khi ông bước vào viện nguyên lão theo thói quen không hề có vệ sĩ và vũ khí bên mình.
    Vậy là sau tất cả những gì đã làm, Caesar chỉ cai trị La Mã được có 2 năm. Những kẻ ám sát ông, thực hiện vụ ám sát vì nền cộng hòa, hoàn toàn tin tưởng rằng nền cộng hòa sẽ có thể khôi phục lại. Tuy nhiên, ước mơ của họ biến mất trong 1 cuộc nội chiến tàn bạo kéo dài 13 năm. Khi cuộc chiến này chấm dứt, nền cộng hòa La Mã hoàn toàn tan vỡ và không bao giờ xuất hiện trở lại trên sân khấu lịch sử.
    (to be continued)
    Được eskimot09 sửa chữa / chuyển vào 09:02 ngày 09/11/2005
  10. dimbag

    dimbag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2005
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    Sao topic này mốc meo ra thế nhỉ. Mấy bác cao sủ hình như chỉ thích cãi nhau. Up cái

Chia sẻ trang này