1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu về đế chế La Mã

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi chinook178, 01/11/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. 9635741

    9635741 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/09/2005
    Bài viết:
    1.067
    Đã được thích:
    0
    bác eskimo nói thế là không hiểu ý tôi rồi. nếu chép sử biên niên thì ai làm cũng được, cần gì sinh ra mấy ông sử gia làm gì? cái chính khi viết sử là phải có phân tích, nhận định, đánh giá từng giai đoạn lịch sử chứ? có thế thì mới hiểu mà nhớ được sử. mặc dù nhận định của sử gia có thể thiếu khách quan nhưng có thể đưa nhiều nguồn nhận định hoặc chính bác nhận định mà.
    trong phần tôi post ở trên ý không nói Marius quan trọng mà là nói sự kiện cải cách của Marius quan trọng, tức là lấy sự kiện đó làm mốc phân cách thời kỳ Cộng Hòa của La Mã với thời kỳ độc tài quân sự của La Mã chuẩn bị tiến vào đế chế.
    trong phần này, theo các sử gia duy vật Mác-Lênin thì nguyên nhân của diễn tiến đưa La Mã bước vào thời kỳ độc tài quân sự là kết quả cuộc tranh giành quyền lực giữa "quý tộc mới" và "quý tộc cũ" trong xã hội La Mã, trong đó phe "quý tộc mới" nhận được ủng hộ của bình dân và quân đội. còn theo sử gia tư sản thì chính là tôi nói ở trên: tính quyết định của quân đội, của sức mạnh trong chính trị. cả 2 cách nhìn trên có thể dung hòa để người đọc tự rút ra ý kiến. bác thấy sao?
  2. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Công nhận là bác nói đúng. Nhưng bác thử đọc lại những đoạn tôi đã up xem tác giả chỉ chép sử hay đã ***g những phân tích, đánh giá của mình vào trong các đoạn chép đó Cấu trúc phân chia lịch sử của La Mã thành các thời kỳ: Khởi thủy, Vương quốc La Mã, Nền cộng hòa, Khủng hoảng của nền cộng hòa, Nền độc tài với Caesar.., Đế chế... đã là 1 cách làm sử rất khoa học định hướng cho người đọc sự phát triển của 1 nền văn minh theo dòng thời gian 1 cách rất rõ ràng.
    Tôi cũng đã đọc 1 số tài liệu nói về Marius như bác nói. Nhưng tài liệu này có cách nhìn nhận khác. Bác có thể xem lại bài Cuộc khủng hoảng của nền cộng hòa, tác giả cũng viết rất rõ rằng: "Có nhiều người (sử gia) không đánh giá đúng vai trò của Gracchus trong lịch sử La Mã..." Gracchus là người đầu tiên châm ngòi thùng thuốc súng xung đột giai tầng trong xã hội La mã cộng hòa. Marius chỉ là người đốt tiếp cái ngòi nổ đã được Gracchus châm từ trước nhưng đã bị viện nguyên lão dập tắt. Và ngọn lửa do Marius đốt lên cũng lại bị dập tiếp mà. Như vậy, bắt đầu từ Gracchus, kết thúc bởi Caesar, khó nói Marius là cái mốc phân cách La Mã cộng hòa và La Mã độc tài được.
    Cách nhìn nhận của các sử gia duy vật Mác Lê với tư sản như bác ví dụ ơ trên theo tôi chả có gì khác nhau mà chỉ là 2 mặt của 1 vấn đề. 2 giới muốn tranh giành quyền lực và để làm điều đó họ phải dùng đến sức mạnh của quân đội và sức mạnh chính trị. Phải thế không ạ? Mác Lê hay tư sản thì có gì khác đâu? Tính quyết định của quân đội mà bác nói ngay từ bài trước thì không phải đợi đến thời của Marius mới active mà có từ lúc La Mã hình thành. Bác thử xem có vị chấp chính nào của La Mã không phải là tướng lãnh không?
    Chuyện La Mã đi vào con đường độc tài là con đường tất yếu của phát triển đế chế chứ không phải chỉ đơn thuần là vì cuộc chiến quyền lực giữa phe quý tộc mới hay cũ. Hiến pháp của nền cộng hòa quy định nhiệm kỳ của quan chấp chính (consul) chỉ có 1 năm và có 2 quan chấp chính cộng thêm 1 viện nguyên lão nắm quyền giám sát hoạt động chấp chính để ngăn chặn quyền lực tập trung trong tay 1 người (độc tài). Nhưng khi đi vào con đường phát triển đế chế, với quy mô và thời gian của các cuộc chiến tranh ngày càng dài, La Mã cộng hòa tự phải thay đổi hiến pháp này bằng cách trao quyền chấp chính chỉ cho 1 người và thời hạn có thể lên đến 5, 3 năm hay hơn nữa nhằm tập trung quyền lực cho vị chấp chính này giải quyết dứt điểm cuộc chiến vì quyền lợi của cả chế độ. Chức danh lúc này là Proconsul chứ không còn là Consul nữa. Chính việc này đã tạo điều kiện để những Proconsul có sự gắn bó lâu dài với binh lính, có nhiều thời gian ở trong trung tâm chính trị xã hội hơn bình thường. Việc này có từ những năm 325 trước cn chứ không phải đợi đến thời Marius đâu bác ạ
  3. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    Quân đoàn La Mã
    Quân đoàn La Mã có các đơn vị như sau
    10 tiểu đội , mỗi tiểu đội gồm 8 người hợp thành 1 đại đội . 6 đại đội hợp thành 1 tiểu đoàn . 10 tiểu đoàn hợp thành 1 quân đoàn . Mỗi quân đoàn còn kẻm theo 120 kị binh . Số này làm nhiệm vụ hướng đạo và giữ liên lạc
    Quân đội La Mã dựa nhiều vào quân địa phương ( hay quân trợ chiến ) được tuyển mộ từ các dân tộc chư hầu trong đế chế , họ ít khi là công dân đế chế . Các lính điều khiển ná bắn đá và cung thủ điệu nghệ nhất được tuyển từ quần đảo Balearic và đảo Create . Người la Mã và người Ý ko phải là những kị binh giỏi nên quân đội đã tuyển mộ người Numidia và Gaul , vốn là những kị binh giỏi vào các trung đoàn kị binh của đế chế
  4. danngoc

    danngoc Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/08/2004
    Bài viết:
    3.760
    Đã được thích:
    1.330
    Các bác cố gắng post thêm nhé. Cám ơn nhiều.
  5. I_am_the_man

    I_am_the_man Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Các bác cho ké một câu hỏi có liên quan đến La Mã với nhé :
    Một điều đã thành thói quen là chúng ta vẫn nói chữ quốc ngữ tiếng Việt viết bằng chữ cái La Tinh. Nhưng thực ra La Tinh là một họ ngôn ngữ gồm tử ngữ và các sinh ngữ.
    Bảng chữ cái mà chúng ta đang dùng là phát triển từ bảng chữ cái La Mã (Roman alphabet). Việc sáng tạo ra chữ quốc ngữ này, tiếng Anh gọi là Romanization. Latinh là một họ ngôn ngữ, các ngôn ngữ trong họ này có thể kể : Ý, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Rumani. Vậy chữ cái La Mã chứ không phải Latinh dù rằng các ngôn ngữ Latinh dùng chữ La Mã để viết. Tiếng Anh thuộc họ German nhưng cũng dùng chữ cái La Mã.
    Dù rằng người La Mã nói thứ ngôn ngữ thuộc họ La Tinh, nhưng gọi tên chữ viết này là La Mã phải chăng mới chuẩn và đúng bản quyền hơn ? Mong các bạn cho ý kiến.
  6. kronpas

    kronpas Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    02/11/2004
    Bài viết:
    219
    Đã được thích:
    0
    Latin là họ, nhưng cũng là 1 ngôn ngữ. Tiếng Latin là thứ tiếng chuẩn cho cộng đồng nghiên cứu khoa học/học giả thời trung cổ châu Âu.
    múa rìu qua mắt thợ tí thôi , sai khỏi vặn vẹo thằng em này nhé các bác.
  7. eskimot09

    eskimot09 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/08/2005
    Bài viết:
    249
    Đã được thích:
    0
    Bác nói đúng. Bảng chữ cái Latinh chính là bảng chữ cái La Mã. Latinh trở thành ngôn ngữ quan trọng bậc nhất trên thế giới như hiện nay vì đã được đế chế La Mã sử dụng làm ngôn ngữ chính thức trước đây. Theo thói quen và để dễ hiểu nên tất cả các chữ cái có nguồn gốc trực tiếp từ các chữ cái người La Mã đã sử dụng đều được gọi là chữ cái Latinh. Thực ra, tiếng Latinh gốc với tiếng La Mã (sau này phân ra Tây Ban Nha, Pháp, Ý, Bồ, Ru) có khác nhau về độ dài của các nguyên âm, phụ âm, về cách sử dụng trọng âm, và đặt cách ở cuối các từ trong câu (cái này thì không hiểu mấy chỉ đọc được thế thôi bác ạ).
    Còn về chuyện bản quyền không ai thắc mắc thì vì không ai được nhận xu nào từ việc thế giới sử dụng 26 chữ cái này cả Vả lại, Latium, quê hương của tiếng Latinh là một miền đất ở trung Italy, sau trở thành 1 phần của đế chế La Mã. Bởi vậy vinh danh Latinh cũng là vinh danh La Mã và Italy cả thôi. Thêm nữa, nếu tra đến cùng chuyện bản quyền, thì phải trả tiền cho người Hy Lạp. Vì 26 chữ cái Latinh (La Mã) có nguồn gốc mật thiết từ Hy Lạp. Việc nghiên cứu tiếng Latinh ngày nay có bao gồm nghiên cứu ngôn ngữ Hy Lạp cổ đại nữa.
  8. dimbag

    dimbag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2005
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    Các bác cao thủ chắc đang bận không post bài được. Xin phục vụ bằng đống tài liệu tìm được, không có giá trị nhiều giải trí là chính
    Cuộc nổi dậy do Spartacus lãnh đạo
    Spartcus là một chiến binh thuộc các bộ lạc du mục phía Đông châu Âu, ông từng phục vụ cho quân đội La Mã trước khi bị bắt và buộc trở thành nô lệ do phạm tội-có thể là đào ngũ.

    Theo Plutarch, một nhà sử họ cổ đại, Spartacus bị bán ở chợ nô lệ tại ROme vào khoảng năm 73 trước Công Nguyên.
    Người ta kể rằng khi Spartacus bị đưa đến Rome, ông ngủ quên không biết rằng mình bị một con rắn bò lên và nằm cuộn tròn trên mặt. Vợ ông ta-một nữ tiên tri, tu sĩ của giáo phái Dionysus khi chứng kiến điều kì lạ này đã fán rằng đó là dấu hiệu cho biết ông sẽ trở thành một nhân vật đầy quyền lực. Nhưng may mắn có lẽ đã bỏ rơi vợ chồng Spartacus khi họ bị bán cho một người tên là Lentulus Batiates-chủ một trường đào tạo võ sĩ giác đấu.. Điều này có nghĩa là Spartcus sẽ bị huấn luyện sử dụng vũ khí để làm trò tiêu khiển cho đám đông trong hý trường.
    Vợ chồng Spartacus bị đưa đến thành phố Capua,cách ngọn Vesuvius-trung tâm italia khoảng 20 dặm. Ở đây, Spartacus cùng 200 nô lệ khác được huấn luyện kỹ thuật chiến đấu bằng tay không và roi trong trường đào tạo đấu sĩ, nơi thực chất là một nha tù được canh gác chặt chẽ.
    Trừ một số là phạm nhân, hầu hết các đấu sĩ là tù binh trong những cuộc chiến ở Bắc Âu. Họ được dạy cách sử dụng nhiều loại binh khí rất kỳ quặc, gồm cả lưới, đinh ba, kiếm và trang bị một bộ áo giáp che mặt nhưng lại để hở bụng. Mặc dù biết rằng họ không có nhiều hy vọng thoát được cái chết nhưng những chiến binh nô lệ cũng hiểu rằng công việc đẫm máu của họ có sức cuốn hút đặc biệt. Sống sót qua vô số nhứng trận đấu , những chiến binh giỏi nhất trở nên vô cùng nổi tiếng trước khi họ qua đời. Ở thành phố Pompey, những thương gia giàu có trang trí biệt thự của họ bằng chân dung của những đấu sĩ nổi tiếng còn những cô gái thì khắc lên bức tường nơi công cộng những dòng say đắm biểu lộ sự hâm mộ của mình.
    Spartacus dù sao cũng không cảm thấy bất kỳ sự cuốn hút nào từ thứ vinh quang đó. Ông nói với các đấu sĩ dưới chướng rằng: " Nếu phải chiến đấu, chúng ta cũng chỉ chiến đấu cho sự tự do của mình".
    Tiếp thu những câu huấn đầy nhiệt huyết của Spartacus cũng như những lời tiên tri lạc quan của vợ ông, những đấu sĩ sắp xếp kế hoạch cho một cuộc nổi loạn.
    Plutarch viết
    200 đấu sĩ tìm cách bỏ trốn nhưng lính canh đã bắt lại được phần đông. Chỉ có khoảng 78 người chiến đấu và chạy thoát nhờ nhũng thứ "vũ khí" mà họ tìm thấy trong nhà bếp như dao chặt thịt,...Khi thoát ra được ra ngoài đường phố họ may mắn tìm được một số những xe chất đầy vũ khí chuẩn bị được vận chuyển đi sang thành phố khác. Với số vũ khí này họ dễ dàng tìm được đườn thoát ra khỏi Papua. Họ dừng lại tại một vị trí có khả năng phòng thủ ở ngoại thành và chọn ra một thủ lĩnh cùng hai trợ lý, tất nhiên vị thủ lĩnh được chọn là Spartacus. Mặc dù xuất thân từ những bộ lạc du mục nhưng Spartacus giống một công dân Hy Lạp thông minh, dũng cảm và lịch lãm hơn là là một kẻ hoang dã dến từ vùng Balkan. Khi quân đội ra khỏi thành phố để bắt họ, Spartacus dẫn đầu những người nổi loạn ra tiếp chiến. Quân đột bị bao vây và tiêu diệt, những đấu sĩ dùng ngay những chiến lợi phẩm trang bị cho mình.
    Spartacus dẫn quân tiến về ngọn Vesuvius ở phía Nam-một ngọn núi lửa đã ngưng hoạt động. Dọc đường họ tấn công một đồn điền và giải phóng cho những người nô lệ ở đây, rất nhiều trong số này đã chấp nhận lời đề nghị tham gia vào nhóm của Spartcus để trở thành thảo khấu.
    Nô lệ chiếm phần lớn trong dân số khu vực bán đảo Italia ở thế kỷ cuối cùng trước Công lịch. Không ai biết chính xác nô lệ chiếm bao nhiêu phần trăm , nhưng ở những vùng nông thôn con số có thể so sách với Hoa Kỳ trong những năm 1850-cứ 3 người thì có một nô lệ. Hầu hết nô lệ của La Mã là người từ bên ngoài Italia bị bắt bởi đội quân viễn chinh ở Bắc Âu, Bắc Phi hay Trung Đông.
    Các quan chức địa phuơng Capua dưới tình trang báo động của bạo loạn leo thang đã cầu viện từ ROme. Một đội quân gồm 3000 từ Rome tiến tới bủa vây Spârtacus-lúc này đã chạt thoát lên núi Vesuvius. Những đấu sĩ nổi loạn trốn trên đỉnh của quả núi nơi có độc nhất một con đường hiểm trở dẫn tới. Quân La Mã canh phòng con đường nghiêm ngặt và cho rằng họ đã đưa những người nổi loạn vào một cái bẫy không lối thóat khi bốn mặt ngọn núi bao bọc bởi vực thẳm. Họ không ngờ rằng trên ngọn núi lửa có rất nhiều nho dại, những nô lệ đã cắt lấy thân cây và bện lại thành những cuộn thang dây đủ dài để giúp họ trèo xuống chân núi. Spartacus khi biết quân đội không phát giác ra họ đã thoát ra khỏi ngọn núi quyết định tấn công bất ngờ. Họ đánh úp vào sườn của doanh trại quân đội cà chiếm được nó. Sự kiện chấn động này cổ vũ cho những người nô lệ trong vòng xiềng xích, ngày càng nhiều nô lệ nổi dậy chống lại chủ nô và gia nhập vào đội quân của Spartacus.
    Còn tiếp
    Được dimbag sửa chữa / chuyển vào 21:53 ngày 16/11/2005
  9. chinook178

    chinook178 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/08/2005
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    chính sự đối xử tàn bạo với các nô lệ là nguyên nhân khiến La Mã suy yếu . Các nô lệ - vốn là lực lượng lao động chủ yếu ngày càng cảm thấy bất mản với La Mã cộng thêm việc các bộ tộc man di xâm phạm Đế chế càng đưa La Mã đến gần bờ của sự sụp đổ
    Về vụ này thì bên vnexpress có bài về sự suy tàn của La Mã:
    Dĩ nhiên đã có câu trả lời của các nhà sử học. Ở đây, trong một vị thế khác, các nhà xã hội học và nhân loại học muốn khảo sát vấn đề sụp đổ của đế quốc La Mã dưới góc độ "tính văn hóa" để nhìn thấy một đáp án khác thuộc về những chiều sâu nhân văn.
    Vào thời cổ đại, người La Mã thường thực hiện việc hôn nhân theo 4 hình thức. Một là cướp đoạt; hai là thể nghiệm; ba là cộng thực; và bốn là mua bán.
    Hình thức thứ nhất có tính cưỡng chiếm, xảy ra vào thời nguyên thủy. Khi nhân khẩu tăng trưởng, hình thức này được chuyển sang dạng thể nghiệm, tức là nam nữ sống chung một thời, sau đó mới xác định hôn nhân chính thức. Chỉ cần hai bên chung sống liên tục từ một năm trở lên, gia đình cô gái sẽ không còn quyền gia trưởng, và cô ta sẽ thuộc quyền của chồng và gia đình chồng. Thế nào là chung sống liên tục? Người La Mã quan niệm nếu rời bỏ người chồng trên danh nghĩa 3 ngày 3 đêm, coi như cô gái phải làm lại từ đầu.
    Thứ ba là hình thức hôn nhân cộng thực (cũng gọi là hôn nhân tôn giáo) được cử hành long trọng và theo những nghi thức phức tạp. Hôn lễ gồm 3 giai đoạn chính: tống thân (đưa dâu), nghinh thân (đón dâu) và cộng thực (thành thân). Thứ tư là hình thức hôn nhân mua bán. Hình thức này coi phụ nữ như một thương phẩm: Người đàn ông chỉ cần 5 người làm chứng và một người phụ trách chiếc cân là có thể mua được vợ. Trước những nhân chứng, chú rể một tay cầm một vật có giá trị xác định, một tay cầm khối đồng tuyên bố: "Theo luật pháp La Mã, vật này là sở hữu của tôi, tôi dùng đồng và chiếc cân để mua lấy". Sau khi đặt đồng lên cân, anh ta được gia trưởng trao quyền làm chủ người vợ. Đây là hình thức hôn nhân đơn giản được lưu hành rộng rãi nhất ở La Mã thời đó.
    Xã hội La Mã cổ đại tuyệt đối hóa quyền của người chồng. Chồng có thể bỏ vợ bất kỳ lúc nào. Trái lại, người vợ luôn phải trung thành. Nếu bắt quả tang vợ ngoại tình, chồng có quyền giết vợ tại chỗ. Thậm chí chỉ cần nghe dư luận đồn đại vợ mình lăng nhăng, người chồng đã có thể "xử lý".
    Đến năm 195 trước Công nguyên, phụ nữ La Mã vùng lên, lập thành đội ngũ vây kín Viện Nguyên lão, đòi quyền tự do. Từ lúc đó, không khí nghiêm khắc trong gia đình dần dần không còn nữa và dẫn đến sự phá sản nền đạo đức cũ. Thời này, mục đích chính của người đàn ông trong việc lập gia đình là để có của hồi môn. Vì thế chỉ cần người vợ không làm phiền mình, người chồng có thể cho cô ta tùy ý trong cách sống. Do đó đến khoảng thế kỷ thứ II trước CN, phụ nữ La Mã dần dà thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình. Hiện tượng ngoại tình và đời sống ******** của họ cũng phóng khoáng không thua đàn ông. Trước đấy người phụ nữ không có quyền ly hôn, nhưng bây giờ họ có thể ly hôn với bất kỳ lý do nào. Đến nỗi một nhà thơ đương thời đã mỉa mai:
    Trong 5 mùa đông
    Nàng thay đến 8 chồng
    Và tự hào muốn khắc kỳ công lên bia mộ!
    Sự lỏng lẻo của gia đình khiến các ông chồng cực kỳ bất mãn. Vì thế hoàng đế Augustus đã ban bố pháp lệnh: Nếu phát hiện vợ tư thông, người chồng phải ly hôn, nếu không sẽ bị nghiêm trị. Theo điều luật này, "dâm phụ" sẽ bị lưu đày đến một hòn đảo không có dấu chân người và không có quyền tái hôn. Còn "dâm phu" phải lưu đày đến một hòn đảo khác. Thậm chí đàn ông có vợ dan díu với kỹ nữ chưa đăng ký vẫn bị kết tội. Vì thế, số kỹ nữ đến đăng ký tăng vọt lên, đến nỗi nhiều danh môn quý phụ cũng xin đăng ký làm kỹ nữ!
    Khởi đầu sự phá sản
    Vào thời kỳ cuối của chế độ Cộng hòa, kịch viện và đấu trường phát triển rộng rãi ở La Mã khiến điều kiện gặp gỡ nam nữ dễ dàng hơn. Ở những sân khấu ngoài trời, trai gái có thể ngồi lẫn lộn để xem kịch hoặc đấu vật. Đây là điều kiện thuận lợi để tình yêu nảy nở tự do.
    Vào thời viễn cổ, người La Mã ít bàn về văn hóa do họ dồn hết tinh lực vào chiến tranh. Vì thế họ thích nói về kỷ luật, trách nhiệm, hơn là về tính văn hóa. Nhưng khi đại đế quốc La Mã kiến lập, người La Mã trở thành ông chủ của nhiều tài sản kếch xù và các nô lệ, cuộc sống xa hoa đã làm họ thay đổi. Ý thức về "tính" cũng biến dạng. Để thấy rõ sự chuyển hóa này, chúng ta có thể khảo sát sự sùng bái các vị thần của người La Mã. Đầu tiên họ sùng bái những hình tượng lạnh lùng, nghiêm túc, biểu trưng cho đạo đức trừu tượng có ý nghĩa bảo vệ người La Mã. Tiêu biểu nhất là nữ thần lửa bếp - người bảo vệ cho sự thịnh vượng quốc gia và sự bình yên của gia đình. Trong nhiều tác phẩm điêu khắc cổ La Mã, vị nữ thần này được tạo hình rất đoan trang, tư thế chính trực mặc dù hoàn toàn khỏa thân.
    Để thờ phụng vị nữ thần, người ta lựa chọn 6 trinh nữ từ những gia đình quyền quý. Từ lúc lên mười, 6 thiếu nữ trên được đưa vào đền để tuyệt đối hiến thân cho nghi thức thuần túy tôn giáo trong 30 năm. Đạo đức của những nữ tế nhân được coi là bảo chứng thiêng liêng về sự hưng vượng của quốc gia.
    Năm 216 trước Công nguyên, đại quân La Mã thất trận. Cho đây là điềm gở, xuất phát từ sự băng hoại đạo đức của 6 nữ tế nhân, người ta đã cho xử tử họ. Thế nhưng, sau khi đã chinh phục được những vùng đất rộng lớn, dân La Mã lại đột nhiên chuyển ra phóng túng và sùng bái tửu thần Hy Lạp.
    Khoảng đầu thế kỷ 2 sau Công Nguyên, người La Mã chuyển sang suy tôn thần Venus. Đây là vị thần đại diện cho tình yêu và tính dục. Vì thế cuộc sống ******** của người La Mã đã trở nên cực kỳ phóng túng.
    Thời kỳ này, luật pháp La Mã rất trọng nam khinh nữ. Theo quy định, một cô gái muốn về nhà chồng phải có của hồi môn là 150 bảng vàng (khoảng 68 kg), và phải nộp cho nhà chồng trong hạn kỳ 3 năm. Chính vì thế, khi gả con gái út, triết gia Cicero (106 - 45 trước CN) phải tán gia bại sản, thậm chí phải trù tính kế hoạch ly hôn cho con gái để thu lại của hồi môn. Để tránh khỏi phí tổn quá lớn, nhiều người La Mã đã chọn cách giết chết con gái. Và chính luật pháp cũng quy định rằng cha mẹ phải dưỡng dục tất cả các con trai, nhưng trái lại, chỉ có trách nhiệm nuôi đứa con gái thứ nhất mà thôi. Điều này dẫn tới tình trạng trai thừa gái thiếu. Phụ nữ trở thành đối tượng săn lùng ráo riết của đàn ông. Vì thế, hiện tượng thiếu nữ thất trinh rất phổ biến trong xã hội.
    Sau khi La Mã chinh phục thế giới, sự tự do ******** của phụ nữ cũng được nới rộng, nhất là đối với các quý phụ. Không gian giao tiếp khoáng đạt đã phá vỡ nền tảng đạo đức cũ. Người La Mã rất thực tế, họ coi tình ái là một hoạt động nhục thể, có liên quan mật thiết đến tiền bạc và không có ý nghĩa gì về tinh thần. Họ tuyệt đối không có kiểu tình yêu thuần túy tinh khiết của Plato. Xuất phát từ nhận thức bản chất nhục thể là công cụ của tính ái, và tính giao là hành vi tự nhiên giữa hai giới, các chàng trai và các cô gái La Mã đã thoải mái hẹn hò và thực hiện ân ái theo sự tự nguyện đôi bên. Bất kỳ ở đâu, trong phòng, ngoài đồng nội, nơi hành lang, tự miếu, đấu trường. Nói chung, người La Mã yêu nhau cực kỳ tự nhiên.
    Thời đó, các kỹ nữ trang điểm rất công phu, khêu gợi. Họ thường đứng đón khách làng chơi dưới những "Fornices" (lầu xanh), vì thế đã nảy sinh nguồn gốc của động từ fornicity (tính giao). Khi phân tích các di tích trên cổ thành Pompeii, các nhà nghiên cứu nhận định: "Trong số những chữ viết và vết khắc thô thiển nơi tường vách và cột trụ hành lang thành Pompeii, hai từ felicitas và felix, có nghĩa là vui sướng và khoái lạc, đập vào mắt nhiều nhất".
    Khoả thân là mốt của người La Mã cổ đại mà biểu hiện rõ nhất là nhà tắm công cộng. Với lý do tắm gội, họ thoải mái cởi bỏ trang phục trước mắt mọi người không chút e ngại. Thậm chí phụ nữ La Mã còn cho phép nam nô lệ thoa dầu, massage thân thể. Đôi khi họ cũng đồng ý cho những nô lệ của mình khỏa thân và tiến hành "tính giao". Không phải chỉ khỏa thân trong gia đình, nơi nhà tắm, người La Mã còn buôn bán nô lệ khỏa thân. Nói chính xác hơn, khi mua bán nô lệ nơi quảng trường, người La Mã cho họ thoát y toàn thân để tiện việc lựa chọn. Trong những thành thị lớn ở La Mã cổ đại, hầu như ngày nào cũng diễn ra cảnh mua bán như thế. Bất kể ở điều kiện thời tiết nào, người nô lệ da đen bị đem bày bán cũng hoàn toàn khoả thân. Họ đứng trên một "khán đài chuyển động" để người mua có thể dễ dàng quan sát, sờ mó, định giá, trả giá.
    Số nô lệ ở La Mã rất nhiều. Trong thành phố, cứ khoảng 3 cư dân lại có 1 nô lệ. Con số nô lệ còn cao hơn nhiều lần ở khu vực ngoại thành. Trong các gia đình La Mã, nam chủ nhân chiếm hữu nô lệ như công cụ lao động; nữ chủ nhân biến nam nô lệ thành công cụ hưởng lạc. Hình ảnh về sự phóng túng của tính dục lan tràn khắp xã hội. Trước khi kết hôn, hầu như cô gái nào cũng đã từng "tận hưởng" với nô lệ của mình.
    Đề phòng việc mang thai, phụ nữ quý tộc yêu cầu nô lệ phải chấp nhận một số hình thức thiến, hoặc thực hành các hình thức giao hoan mà không gây "hậu quả". Để giữ bí mật cho mình, phụ nữ La Mã còn bắt những nam nô lệ ******** phải chịu cảnh bị chọc cho mù mắt.
    Những cảnh thoát y vũ kỳ quặc
    Tại La Mã cổ đại, thoát y vũ là thú tiêu khiển phổ biến. Cách thoát y của các cô gái La Mã rất nhẹ nhàng, đôi khi họ chỉ cần di chuyển ngược chiều, y phục sẽ tự động rơi xuống. Kịch trường La Mã cũng rất phóng khoáng, có thể diễn bất kỳ tác phẩm khêu gợi nào. Mô thức cố định của kịch là cảnh bắt quả tang cô gái khỏa thân. Bất kỳ nam hay nữ diễn viên đều có thể tùy hứng biểu diễn những động tác kích thích dục tính. Tuy vậy, trong lĩnh vực kịch nghệ, địa vị của nữ diễn viên vẫn rất thấp so với nam diễn viên, tương tự vị trí của kỹ nữ, gái bán bar ngoài xã hội.
    Ngoài việc phóng túng nơi kịch trường, người La Mã cổ đại còn có cách thể hiện tính dục nơi đấu trường. Ví dụ ở các võ trường giác đấu, khán giả có thể xem những tay tử tù biểu diễn cảnh thần Athis bị thiến đầy máu me, hay cảnh thần Mythi thoát y. Khi Cơ đốc giáo bị bức hại, nhiều nữ tín đồ đã bị ép đến đấu trường biểu diễn. Trước mắt 2 vạn khán giả, bọ bắt buộc phải thoát y để giác đấu với bò tót...
    Sự phóng túng tính dục của người La Mã được đẩy lên cao điểm qua hình mẫu một nhân vật trứ danh thời đó: hoàng hậu Theodore. Từ một diễn viên ca kịch, từng đóng vai khỏa thân, Theodore đã leo lên địa vị quý tộc, trở thành một nữ hoàng đầy quyền lực và dâm đãng.
    Sử gia Procopius (499 - 565), trong cuốn Bí sử, đã viết về người phụ nữ lừng danh này như sau: "Ở Byzantine có một người tên là Akamas, chuyên quản lý các động vật ở đấu trường. Mặc dù mạnh như gấu, nhưng đến thời Anasthatus chấp chính, ông ta đã mắc đột bệnh và qua đời, để lại 3 người con gái: Komith, Theodore và Anasthania, trong đó cô lớn nhất là Komith mới lên 7. Người vợ cải giá. Sau khi trưởng thành, cả 3 cô gái đều rất xinh đẹp, được mẹ cho phép đi biểu diễn trên sân khấu. Do không được huấn luyện chuyên nghiệp về ca múa, Theodore chỉ có thể dựa vào sắc đẹp và tuổi trẻ của mình để chinh phục khán giả. Trong nhiều vở kịch, nàng chấp thuận đóng vai khỏa thân một cách tự nhiên. Từ đó, trong những buổi yến tiệc sang trọng của các gia đình quyền quý, Theodore đều được mời tới để vũ thoát y...".
    Nhờ sắc đẹp và sự phóng đãng, Theodore nhanh chóng nổi tiếng, và trở thành tình nhân của hoàng đế Byzantine. Sau khi được "thăng cấp" quý tộc, Theodore kết hôn với vua La Mã Justinian. Lúc đó nàng mới 16 tuổi. Theodore cùng chấp chính với Justinian trong tư cách hoàng hậu. Nàng được ghi nhận là một nữ hoàng quyền lực và đầy dục vọng. Cho dù các sử gia không tiếc lời bình luận về tính dâm đãng của nàng, nhưng họ cũng phải thừa nhận năng lực của Theodore trong vai trò phụ tá Justinian.
    Như vậy, trong đời sống tình ái, người La Mã đã rất coi trọng và tôn vinh khoái lạc. Nhưng họ lại lơ đãng một nhiệm vụ quan trọng, đó là "duy trì nòi giống". Một trong những nguyên nhân đẩy La Mã đến chỗ suy vong là hiện tượng giảm thiểu nhân khẩu một cách nghiêm trọng. Vì thế trong khoảng năm thứ 18 đến năm thứ 9 trước CN, đại đế Augustus (năm 63 trước CN - 14) phải ban bố pháp lệnh mới, quy định quả phụ phải tái giá trong vòng hai năm sau ngày chồng mất. Bất kể ai ly hôn, đều phải đi bước nữa trong thời hạn 18 tháng. Đàn ông không kết hôn, không được thừa kế tài sản. Vợ chồng không có con chỉ được hưởng một nửa di sản của cha ông. Pháp lệnh mới cũng phóng khoáng hơn, cho phép người không cùng giai cấp có thể kết hôn. Người tự do và các nô lệ đã được trả tự do cũng có thể thành vợ chồng. Hơn nữa, nguời đông con sẽ được tưởng thưởng.
    Nhưng pháp lệnh của Augustus không đạt được hiệu quả mong muốn vì chủ nghĩa hưởng lạc đã ăn sâu vào đời sống người La Mã. Nhiều người rất sợ có con, và họ dùng biện pháp tránh thai. Mặt khác, dân số La Mã giảm thiểu còn có một nguyên nhân căn bản nữa, đó là đại đa số đàn ông La Mã mất khả năng có con, và phụ nữ mắc chứng vô sinh. Có thể kể 3 nguyên nhân chính sau:
    Một là ẩm tửu quá độ. Rượu có thể kích thích tính dục, nhưng lại chế ngự khả năng sinh sản. Một điều tra mới nhất cho thấy, trong 14.000 người nghiện rượu nặng, có tới 1.400 người hoàn toàn mất khả năng sinh con. Người La Mã nổi tiếng là dân tộc "túng tửu cuồng hoan", nhiều người đàn ông có thói quen uống rượu tại nhà tắm công cộng từ trưa hôm trước đến tận ngày hôm sau.
    Hai là tắm gội quá mức. Nhà tắm công cộng La Mã nổi tiếng không phải là nơi tắm đơn thuần mà còn là không gian giao tiếp xã hội. Đàn ông La Mã thường có mặt hàng ngày tại địa điểm này, và đôi khi họ tắm từ nửa ngày đến... cả ngày. Nghiên cứu cho thấy, việc ngâm mình quá lâu trong nước nóng làm hạn chế việc sản sinh tinh trùng, ảnh hưởng đến khả năng sinh nở. Nhiệt độ bình thường của dịch hoàn thấp hơn thân nhiệt và các bộ phận khác trong cơ thể, trong khi nhiệt độ nước ở nhà tắm La Mã luôn luôn duy trì ở khỏang 43 độ C, nên dịch hoàn bị ảnh hưởng, dẫn tới nhiều trường hợp vô sinh ở đàn ông.
    Ba là nhiễm độc chì mạn tính. Theo nghiên cứu của một nhà xã hội học Mỹ, người La Mã bị chứng nhiễm độc này khiến đàn ông không có con, còn phụ nữ thường đẻ non hoặc thai nhi chết khi vừa lọt lòng. Nguyên do là người La Mã thường sử dụng ống dẫn nước, ly tách, nồi niêu bằng chì. Về phía phụ nữ, họ dùng quá nhiều mỹ phẩm pha bột chì nên rất dễ nhiễm độc.
    Vào thời kỳ cuối, do ngâm mình quá lâu trong nước nóng và bị nhiễm độc chì, dân số La Mã giảm đáng kể. Mặt khác, vì sa đà quá đáng vào chuyện ********, họ hoàn toàn mất nhuệ khí, thiếu vũ dũng. Cuối cùng, binh lực của họ ngày càng suy yếu, đế quốc La Mã đã nhanh chóng bị tiêu diệt.
  10. dimbag

    dimbag Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2005
    Bài viết:
    200
    Đã được thích:
    0
    Tôi đọc ở đâu đó là lính viễn chinh La Mã do quân lệnh quá nghiêm không được tiếp xúc với phụ nữ trong thời gian kéo dài nên rất nhiều người trở thành đống tính, cấp trên cố ý sắp xếp họ trong cùng một đơn vị nên khi lâm trận những "cặp tình nhân" đồng tính này chiến đấu rất hăng. Sự việc tương tự xảy ra trong quân đội dưới trướng Alexander, bản thân ông ta cũng là một gay. Không biết đây la truth hay myth.

Chia sẻ trang này