1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu về STRESS

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Candi, 11/03/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Candi

    Candi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/11/2004
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    Tìm hiểu về STRESS

    Trong cuộc sống hàng ngày , chúng ta thường gặp những hiện tượng thường được gọi dưới cái tên chung là Stress . Chúng ta không quan niệm mọi Stress đều xấu , song những stress bệnh lý không thể không có tác hại đối với những hoạt động tâm lý , sinh lý và tập tính , thậm chí còn liên quan đến các bệnh lý tâm lý và thực thể của con người . Cơ chế bệnh sinh và biểu hiện lâm sàng của stress rất đa dạng và phức tạp . Những vấn đề cơ bản của Stress như : phản ứng thích nghi và phản ứng bệnh lý của cơ thể trước các yếu tố gây stress ; những yếu tố hỗ trợ cho stress ; biểu hiện lâm sàng của rối loạn stress ; vấn đề điều trị và dự phòng stress v.v... đang ngày càng được nghiên cứu một cách đầy đủ .

    Stress không chỉ là đối tượng nghiên cứu của y học mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như tâm lý học , xã hội học , sinh học ...ở đây chúng ta tiếp cận vấn đề Stress từ góc độ tâm lý y học .

    1. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG VỀ STRESS

    1.1 Những nhận xét ban đầu về Stress

    Thuật ngữ Stress lúc đầu được sử dụng trong vật lý học , để chỉ một sức nén mà một loại vật liệu nào đó phải chịu đựng . Sau đó nam 1914 , Walter Cannon đã sử dụng thuật ngữ này trong sinh lý học , để chỉ các stress cảm xúc . Năm 1935 , ông đã đi sâu vào nghiên cứu về sự cân bằng nội môi ở động vật có vú khi chúng lâm vào tình huống khó khăn , nhất là khi thay đổi nhiệt độ . Ông cũng mô tả những nhân tố cảm xúc trong quá trình phát sinh , phát triển một số bệnh và xác định vai trò của hệ thần kinh khi cơ thể đối phó với các tình huống khẩn cấp .

    Trong y học , từ lâu người ta đã chú ý đến vấn đề là tại sao những bệnh nhân khác nhau lại mắc những triệu chứng giống nhau . Nhiều tác giả đã mô tả các triệu chứng loét dạ dày và ruột ở những bệnh nhân bị bỏng da ( như Svon ( 1823) , Kerling (1842) - người Anh ) hoặc ở những bệnh nhân sau một phẫu thuật lớn bị nhiễm trùng ( như Billrot - người Đức ) . Viện Paster Rom và viện Yersen đã mô tả tuyến thượng thận của chuột lang bị tăng trưởng và xuất huyết khi chúng bị nhiễm bệnh bạch hầu ...

    Trong đời sống , khái niệm Stress được dùng để chỉ các hiện tượng mất sức hoặc kiệt quệ về sức lực sau một thời gian lao động nặng nhọc , kéo dài , sau một thời gian cơ thể bị nhiễm lạnh hay say nắng , bị mất máu nhiều , bị nhiễm trùng nặng ; sau những cơn sợ hãi , căng thẳng , lo âu hoặc sau những niềm vui , phấn chấn quá mức chịu đựng của cơ thể ...

    Rõ ràng là những nguyên nhân gây ra các hiện tượng là khác nhau , nhưng phản ứng của cơ thể đối với chúng thì đều giống nhau . Tất cả các phản ứng này đều diễn ra theo 3 giai đoạn :

    - Giai đoạn đầu : con người cảm thấy khó khăn
    - Giai đoạn 2 : con người thích nghi với những khó khăn
    - Giai đoạn 3 : giai đoạn cuối cùng , con người không chịu đựng được nữa .

    Ba giai đoạn của phản ứng này giống như một quy luật chung điều hoà tập tính của mọi sinh vật trong điều kiện đặc biệt căng thẳng , giống như một phản ứng thích nghi không đặc hiệu của cơ thể đối với những tác động khác nhau nặng nề , đột ngột ...của môi trường .

    Chính Hans Selye , nhà nghiên cứu người Canada , đã phát triển khái niệm Stress hiện đại . Năm 1936 , ông đã chiết từ dịch tiết của buồng trứng động vật có sừng một loại hormon và đem tiêm nó cho chuột . Sau khi tiêm một thời gian , chuột có những biểu hiện như :

    - Vỏ tuyến thượng thận tăng trưởng mạnh và chứa một lượng không lớn các hạt lipit bài tiết .
    - Tuyến ức , các hạch limpho và các cấu trúc chứa limpho bị teo nhỏ lại ( involution ) .
    - Thành tá tràng , dạ dày và ruột bị loét và chảy máu .

    Những thí nghiệm khác đã cho thấy các chất chiết từ tuyến thượng thận , tuyến tụy và một số chất độc cũng gây nên những biến đổi tương tự .

    Lúc đầu những biến đổi này được gọi là " triệu chứng được gây ra bởi các tác nhân khác nhau " . Về sau chúng được đổi thành " triệu chứng thích ứng chung " hay còn gọi là " triệu chứng stress sinh học " . Và ba biến đổi trên đã trở thành ba chỉ số quan trọng của Stress và là cơ sở để phát triển một khái niệm đầy đủ về stress .

    1.2 Những khái niệm về Stress

    Trong thực tế , stress là thuật ngữ đôi khi dùng để chỉ một nguyên nhân , một tác nhân gây stress ( như tiếng ồn của thành phố , cái nắng nóng của sa mạc , bệnh tật , sự thay đổi chỗ ở , chỗ làm ...) hoặc đôi khi dùng để chỉ hậu quả của những tác nhân kích thích mạnh ( như sự hốt hoảng khi gặp thiên tai nặng nề , sự cô quanh khi sống lâu ngoài đại dương , sự căng thẳng khi gặp những khó khăn trong công việc ...) . Như vậy :

    Khái niệm Stress vừa để chỉ tác nhân công kích , vừa để chỉ phản ứng của cơ thể trước các tác nhân đó .

    Hay nói như H.Selye :

    Stress là mối tương quan giữa tác nhân kích thích & phản ứng của cơ thể .

    Chúng ta cũng có thể xem stress như một đáp ứng của chủ thể trước một nhu cầu hoặc một sự tương ứng của mối quan hệ giữa con người với môi trường xung quanh . Một số người còn cho rằng , tress là một chứng bệnh gắn liền với nền văn minh hiện đại bị chi phối bởi sự cạnh tranh và những mối nguy hại khác .

    Trong điều kiện bình thường , stress là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm lý , sinh học và tập tính . Stress đặt chủ thể vào quá trình dàn xếp thích ứng với môi trường xung quanh , tạo cho cơ thể một sự cân bằng mới sau khi chịu những tác động của môi trường . Nói cách khác , phản ứng Stress bình thường đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi .

    Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố stress không đầy đủ , không thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới , thì chức năng của cơ thể ít nhiều bị rối loạn , những dấu hiệu bệnh lý cơ thể , tâm lý , tập tính sẽ xuất hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lý cấp tính hoặc kéo dài .




    Được Candi sửa chữa / chuyển vào 14:33 ngày 11/03/2005
  2. Candi

    Candi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/11/2004
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    2 . CÁC GIAI ĐOẠN CỦA TRẠNG THÁI STRESS .
    Theo Selye , phản ứng Stress hay hội chứng thích ứng chung , được chia thành 3 giai đoạn sau :
    2.1 Giai đoạn báo động
    Đây là giai đoạn được biểu hiện bằng những biến đổi đặc trưng của chủ thể khi tiếp xúc với các yếu tố gây Stress , như :
    - Các hoạt động tâm lý được kích thích , đặc biệt là quá trình tập trung chú ý , tăng cường quá trình ghi nhớ & tư duy ...
    - Những phản ứng chức năng sinh lý của cơ thể được triển khai như tăng huyết áp , tăng nhịp tim , nhịp thở và trương lực của cơ bắp ...
    Những thay đổi tâm lý , sinh lý , tập tính đã góp phần giúp con người đánh giá các tình huống stress và bước đầu đề ra chiến lược đáp ứng trước các tình huống stress . Giai đoạn này có thể diễn ra rất nhanh ( vài phút ) hoặc kéo dài vài giờ , vài ngày ... Chủ thể có thể chết trong giai đoạn này , nếu yếu tố gây stress quá mạnh , tình huống stress quá phức tạp . Nếu tồn tại được thì các phản ứng ban đầu chuyển sang giai đoạn ổn định ( giai đoạn thích nghi ) .
    2.2 Giai đoạn thích nghi
    Trong giai đoạn này , mọi cơ chế thích ứng được động viên để cơ thể chống đỡ và điều hoà các rối loạn ban đầu . Sức đề kháng của cơ thể tăng lên , con người có thể làm chủ được tình huống stress , lập lại các trạng thái cân bằng nội môi ( homeostase ) và tạo ra sự cân bằng mới với môi trường . Giai đoạn này còn gọi là giai đoạn chống đỡ .
    Trong một tình huống stress bình thường , chủ thể đáp ứng lại bằng giai đoạn báo động và giai đoạn chống đỡ .
    Nếu giai đoạn chống đỡ tiến triển tốt thì các chức năng tâm lý , sinh lý của cơ thể được phục hồi . Nếu khả năng thích ứng của cơ thể mất dần , thì quá trình phục hồi không xảy ra và cơ thể chuyển sang giai đoạn kiệt quệ .
    2.3 Giai đoạn kiệt quệ
    Phản ứng stress trở thành bệnh lý khi tình huống stress hoặc bất ngờ , quá dữ dội , hoặc ngược lại , quen thuộc nhưng lặp đi lặp lại , vượt quá khả năng dàn xếp của chủ thể . Trong giai đoạn kiệt quệ , các biến đổi tâm lý , sinh lý và tập tính của giai đoạn báo động xuất hiện trở lại , hoặc là cấp tính & tạm thời , hoặc là nhẹ hơn & kéo dài .
    2.3.1 Stress bệnh lý cấp tính
    Những tình huống gây ra stress bệnh lý cấp tính thường là những tình huống không lường trước , có tính chất dữ dội , như bị tấn công bất ngờ , gặp thảm hoạ hay biết mình hay người thân bị bệnh nặng ... Trạng thái Stress bệnh lý cấp tính được chia làm hai loại theo sự diễn biến tức thì hay chậm chạp của các phản ứng cảm xúc cấp tính .
    2.3.1.1 Các phản ứng cảm xúc cấp xảy ra nhanh , tức thì

    Trạng thái stress bệnh lý cấp tính thuộc loại này có đặc trưng là chủ thể hưng phấn quá mức về mặt tâm thần và cơ thể . Những biểu hiện cụ thể :
    - Tăng trưởng lực cơ , biểu hiện ở nét mặt căng thẳng ,những cử chỉ cứng ngắc , kèm theo các cảm giác đau bên trong cơ thể .
    - Rối loạn thần kinh thực vật , biểu hiện ở nhịp tim nhanh , có cơn đau vùng trước tim , cao huyết áp , khó thở , ngất xỉu , chóng mặt giả , vã mồ hôi , nhức đầu , đau nhiều nơi , nhất là các cơ bắp .
    - Tăng quá mức phản ứng của các giác quan , nhất là tai ( có cảm giác khó chịu với tất cả những tiếng động bình thường )
    - Sự rối loạn trí tuệ biểu hiện chủ yếu ở kém khả năng tập trung suy nghĩ do nhớ lại các tình huống stress , torng khi trí nhớ các sự kiện vẫn còn sâu sắc .
    - Tính tình dễ nổi cáu , bất an , trạng thái kích động nhẹ , có thể có rối loạn hành vi và gặp khó khăn khi giao tiếp với người xung quanh .
    - Có trạng thái lo âu , kèm theo một nỗi sợ hãi mơ hồ .
    *** Loại phản ứng stress cấp này kéo dài từ vài phút đến vài giờ, rồi mờ nhạt đi , tùy theo tính chất & tiến triển của stress . Sự mờ nhạt càng rõ hơn khi có mặt người khác , làm chủ thể yên tâm & khuây khoả .
    2.3.1.2 NHững phản ứng cảm xúc cấp tính , xẩy ra chậm
    Các rối loạn ở đây xuất hiện chậm . Chủ thể có vẻ như chịu đựng và chống đỡ được với tình huống gây stress . Song họ cũng tự nhận thức được rằng , mình đã bị các tình huống stress xâm chiếm .
    Cơ thể tiếp tục giai đoạn chống đỡ , nhưng chỉ tạo được một cân bằng không bền vững , kéo dài trong vài giờ hoặc vài ngày . Sau đó đột nhiên xuất hiện một phản ứng stress cấp tính , diễn ra chậm . Biểu hiện & tiến triển của nó cũng giống như phản ứng cảm xúc cấp , diễn ra tức thì . Điều này chứng tỏ chủ thể không còn có thể dàn xếp được với tình huống về mặt tâm lý nữa . Chủ thể bị suy sụp và mất bù một cách chậm chạp .
    Được Candi sửa chữa / chuyển vào 14:39 ngày 11/03/2005
  3. Candi

    Candi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/11/2004
    Bài viết:
    97
    Đã được thích:
    0
    2.3.2 Stress bệnh lý kéo dài
    2.3.2.1 Sự hình thành stress bệnh lý kéo dài
    - Thường được hình thành từ các tình huống stress quen thuộc , lặp đi lặp lại như những trường hợp xung đột , không toại nguyện , hoặc gặp những phiền nhiễu trong đời sống hàng ngày ...
    - Đôi khi được hình thành từ các tình huống stress bất ngờ và dữ dội sau một phản ứng cấp & không thoái lui hoặc sau một loạt các phản ứng cấp thoáng qua .
    2.3.2.2 Biểu hiện của stress bệnh lý kéo dài
    Cho dù được hình thành từ nguồn gốc nào thì những biểu hiện của stress bệnh lý kéo dài cũng rất đa dạng và thay đổi tùy theo biểu hiện ưu thế về tâm lý cơ thể hay tập tính .
    a. Các biểu hiện về biến đổi tâm lý , tâm thần
    - Chủ thể phản ứng quá mức với hoàn cảnh , dễ nổi cáu , có cảm giác khó chịu , căng thẳng về tâm lý , mệt mỏi về trí tuệ & ko thư giãn được .
    - Rối loạn giấc ngủ , khó ngủ , hay thức giấc và không có cảm giác hồi phục sau khi ngủ .
    Các rối loạn này tùy theo tính chất , hoàn cảnh và sự lặp lại của tình huống stress mà có thể tiến triển thành các triệu chứng sau đây :
    - Chủ thể chờ đợi tình huống stress một cách bi quan .
    - Cảnh tỉnh một cách cao độ & luôn ở trong tình trạng nghe ngóng , căng thẳng nội tâm , dễ nổi cáu .
    - Có những biểu hiện lo âu , ám ảnh sợ . Những lo âu , ám ảnh sợ này hình thành trên nền một sự lo âu dai dẳng , xuất hiện những cơn lo lắng về nơi xảy ra tình huống stress ( ở nơi làm việc hay ở gia đình ) . Các rối loạn này có khi mở rộng sang các lãnh vực khác nhau như sợ các phương tiện giao thông công cộng , sợ xung đột với cấp trên , với người thân, sợ giao tiếp , sợ bệnh tật ...
    b. Các biểu hiện về cơ thể
    - Chủ thể thường có những rối loạn thần kinh thực vật ở mức độ vừa . Những rối loạn này tăng lên khi chủ thể hồi tưởng về các tình huống stress mà mình đã phải chịu đựng .
    - Các rối loạn tâm thần & chức năng cơ thể ( qua những lời than phiền của người bệnh ) thể hiện như sau :
    + Bệnh nhân trong trạng thái suy nhược kéo dài
    + Căng cơ bắp ( chuột rút ) , run tay chân , đổ mồ hôi
    + Nhức đầu , đau nửa đầu kéo dài , đau cột sống dai dẳng
    + Đánh trống ngực , đau vùng trước tim , huyết áp tăng không ổn định .
    + Có biểu hiện bệnh lý đại tràng chức năng , bệnh đau bàng quang với nước tiểu trong ...

    Tất nhiên , không phải mọi stress bệnh lý kéo dài đều có tất cả những biểu hiện về cơ thể và tâm lý như đã nêu . Ngoài những triệu chứng trên , chúng ta còn gặo những biểu hiện khác về cơ thể , có liên quan tới trạng thái lo âu .
    c. Các biểu hiện về tập tính .
    Tình huống stress có thể ức chế hoặc kích thích những tập tính của con người . Những rối loạn chức năng thích nghi của tập tính được biểu hiện ở những rối loạn hành vi . Những rối loạn hành vi này được tạo ra từ thái độ rút lui và tránh né các quan hệ xã hội hoặc ngược lại , từ những xung động , mất kiềm chế mà dẫn đến sự khó khăn trong giao tiếp ở nơi làm việc hay ở gia đình . Có người thay đổi về tính cách và làm cho người khác không còn nhận ra nhân cách của họ nữa , làm cho những người xung quanh băn khoăn , suy nghĩ về họ . Các rối loạn tập tính này lúc này chỉ gây khó khăn cho người bệnh , về sau nó phát triển , gây ra những tổn thất & làm trở ngại cho công việc của họ .
    Những người lúc đầu muốn dùng rượu , thuốc để làm dịu những căng thẳng , lo âu , nhưng sau đó bản thân rượu , thuốc lại là chất gây lo âu , nên bắt buộc chủ thể cứ tăng dần liều sử dụng . Hành vi cứ như vậy lặp đi lặp lại , đưa chủ thể vào vòng xoắn đáng sợ của sự nghiện rượu & thuốc . Những tập tính nghiện rượu nghiện thuốc này không thể không ảnh hưởng tai hại đến quan hệ xã hội của chủ thể .
    d. Trạng thái trầm cảm .
    Khi những tình huống stress kéo dài dai dẳng , người bệnh xuất hiện tình trạng lo âu kéo dài & hạn chế các hoạt động bình thường của họ . Người bệnh nghĩ rằng , họ không thể nào làm cho bản thân của mình tiến triển tốt hơn khi phải đương đầu lâu dài với tình huống stress . Họ có thái độ nổi khùng & đòi hỏi . Thông thường hơn cả là họ tự đánh giá thấp mình & bắt đầu đi dần vào hội chứng trầm cảm .
    Tóm lại khi nằm trong tình huống stress , con người có phản ứng stress , hoặc là phản ứng stress bình thường mang tính thích nghi , hoặc là stress bệnh lý . Chúng ta cần hết sức chú ý những biến đổi về tâm lý , cơ thể và về tập tính của chủ thể khi có phản ứng stress bệnh lý cấp tính hay kéo dài .
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.037
    Đã được thích:
    46

Chia sẻ trang này