1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm hiểu về trang phục cổ truyền Việt nam (sưu tầm)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi falling-rain, 18/10/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0

    TRANG PHỤC THỜI LÊ - MẠC
    Trang phục của vua, chúa và thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa Tây Sơn
    Đời Lê Thái Tông, từ năm 1434, những khi đại lễ như lễ tế trời, tế tôn miếu, lễ lên ngôi, lễ thánh tiết, Tết Nguyên đán..., vua mặc áo long cổn, đầu đội mũ miện. Còn lễ thường triều, những ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng, thì mặc hoàng bào, đội mũ xung thiên. Sau này đại lễ vua cũng chỉ mặc hoàng bào, đội mũ xung thiên, mang đai ngọc. Khi thường triều, đội mũ tam sơn, mặc áo màu xanh huyền. Ngày giỗ k?hà Thái miếu chỉ đội mũ bình đính mặc áo thanh cát.
    Trong các đại lễ, chúa Trịnh mặc áo bào tía, đội mũ xung thiên, mang đại ngọc. Khi lễ thường (như lễ thị chính, triều hội và yết kiến) đều đội mũ tam sơn, mặc áo bào tía. Khi yết lầu kính thiên hoặc là sinh nhật ở Thái miếu thì đội mũ bình đính, mặc áo thanh cát màu hỏa minh. Lễ k?t các vị đời gần thì dùng mũ bình đính, mặc áo vải thâm.
    Trang phục của chúa Trịnh không khác biệt gì trang phục của vua Lê mà chỉ khác về màu sắc (vua dùng màu vàng, chúa dùng màu tía), biểu hiện một sự lấn quyền nghiêm trọng. Điều này còn được chứng minh cả ở trang phục tầng lớp con cháu vua chúa. Con sẽ nối ngôi vua (Hoàng Thái tử) mặc áo xanh, đội mũ dương đường. Con sẽ nối ngôi chúa (Vương Thế tử) mặc áo đỏ, đội mũ dương đường cánh chuồn dát vàng, bố tử hình kỳ lân thêu kim tuyến, mang đai đính đá quý bịt vàng. Khi chầu ở phủ chúa mới mặc áo thanh cát có dây thao kép (giáp thao) xây hạt ngọc, dát vàng, đội mũ ô sa.
    Họ Nguyễn ở phía Nam, tuy vẫn xưng là chúa nhưng thật ra vẫn chỉ là tước Thái Bảo quận công của nhà Lê.
    Năm 1466, vua Lê Thánh Tông định màu phẩm phục cho các quan văn võ: từ nhất phẩm đến tam phẩm cho mặc áo màu hồng, tứ, ngũ phẩm: màu lục. Ngoài ra đều mặc áo màu xanh.
    Năm 1469, nhắc lại: chỉ có thân quân mới được dùng nón thủy ma và nón sơn đỏ.
    Năm 1471, ban mẫu họa đồ về hoa dạng của bố tử văn: vẽ loài cầm, võ: vẽ loài thú; nếu chức tước là công, hầu, bá, phò mã và quan đường thượng ở Ngự sử đài đều vẽ hai còn. Các chi tiết mây, núi, nước, hoa, cây, tùy ý chế tác. Các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, kim, biếc, lục tùy nghi thêu thùa không nhất thiết phải thêm vàng gấm cả, có thể dùng kim tuyến cũng được.
    Năm 1486, định kiểu mũ chầu: các quan văn võ vào chầu đội mũ ô sa, hai cánh chuồn phải nhất luật hơi hướng về đằng trước, không được tự ý làm ngang hay lệch.
    Năm 1499 (đời Lê Hiến Tông), định rõ y phục thường triều (từ tháng 10 trở đi, mặc áo là bằng gai tơ, từ tháng 2 trở đi, mới mặc áo sa).
    Năm 1500, nhà vua hạ chiếu "Tất cả quan lại, quân và dân đều phải tuân theo chế độ mũ áo mới định":
    Hoàng thân và quan văn, quan võ từ tam phẩm trở lên có tước công đội mũ phác đầu, nhưng mũ của hoàng thân trang sức bằng vàng, quan văn, quan võ trang sức bằng bạc. Aáo: dùng màu tía. Bố tử: các tước công trong hoàng thân dùng hình con kỳ lân; quan nhất, nhị phẩm về hàng văn dùng hình con tiên hạc, về hàng võ: con sư tử; tam phẩm, văn: hình con cẩm kê, võ: con trạch trạch. Đai lưng: dùng sừng con tê hoa, đai của hoàn thân trang sức bằng vàng, quan văn, quan võ hàm nhất, nhị phẩm trang sức bằng bạc; tam phẩm: dùng đồi mồi trang sức bằng bạc, bao lưng: dùng lụa đỏ.
    Các quan từ tứ phẩm đến ngũ phẩm, mũ: về hàng võ đội nón sơn trắng, về hàng văn đội mũ phác đầu, không trang sức. Aáo màu lục. Bố tử: quan tứ phẩm, dùng hình con hổ, văn dùng hình con vân nhạn. Đai lưng: quan văn, quan võ đều dùng đồi mồi, trang sức bằng thau. Bao lưng: lụa đỏ.
    Lục phẩm trở xuống: Về hàng võ đội nón sơn đỏ, về hàng văn đội mũ phác đầu, không trang sức. Aáo màu xanh. Bố tử, võ, hình con voi. Văn: hình con bạch nhạn. Đai lưng: quan văn, quan võ đều dùng tốc hương, chung quanh viền thau. Bao lưng: bằng đoạn thâm.
    Aáo mặc khi thường triều: các quan hàm nhất, nhị phẩm trở lên dùng hàng gấm vóc có dệt hoa lá sặc sỡ, tam phẩm đến ngũ phẩm dùng các hàng gấm vóc, lục phẩm trở xuống dùng các hàng tơ lĩnh.
    Mệnh phụ đều theo với phẩm trật của chồng (tức là được dùng mũ áo của bậc quan kém bậc quan của chồng một bậc). Người đàn bà nào chính bản thân làm nên sang hiển, thì không phải kém mũ áo của chồng một bậc.
    Giám sinh, nho sinh, học sinh, sinh đồ, lại điền và quan viên tử quan viên tôn đều dùng các hàng lĩnh, là, hoặc vải lụa.
    Năm 1653 (đời Lê Thần Tông), định mẫu y phục trong nước, dài rộng khác nhau: quan văn, từ khoa đạo, quan võ, từ quận công mặc áo thanh cát, đều dùng lá phủ đằng sau. Người khác không được mặc kiểu đó.
    Năm 1661, vua Lê Chấn Tông định rõ thêm:
    - Mũ áo của hoàng thân, vương tử, văn võ trăm quan dùng khi vào chầu vua Lê.
    - Mũ ô sa, áo thanh cát của hoàng thân, vương tử, văn võ trăm quan khi vào hầu phủ Chúa.
    Năm 1664 (đời Lê Huyền Tông), định rõ áo thường mặc của các quan bằng vải thanh cát, tay rộng 9 tấc 5 phân (khoảng 30m), nách rộng 8 tấc 2 phân (khoảng 27cm).
    Năm 1725 (đời Lê Dụ Tông) lại định rõ phẩm phục trăm quan khi đại triều ở cung điện vua Lê và khi chầu hầu ở phủ chúa Trịnh. Năm 1767 đối với các vị thân thổ trong đền cũng định ra phẩm cách về mũ áo, nghi trượng, phân biệt rõ ràng.
    Khoảng những năm này, mũ bình đính được thông dụng từ quan cao cấp cho tới kẻ lại sĩ, nhưng tùy cấp bậc mà làm mũ cao, thấp. Vua cũng đội mũ bình đính nhưng thêu thêm chỉ kim tuyến.
    Mũ chữ đinh chia làm ba loại: loại một thì hình tròn, đỉnh mũ bằng phẳng, dệt bằng lông đuôi ngựa, nạm vàng bạc ở phía trước để phân biệt thứ bậc, vua và chúa khi thường cũng dùng, con vua, con chúa khi vào hầu mới đội, thứ hai là mũ lục lăng, đỉnh mũ trũng xuống, làm bằng sa nam, giành cho các quan nội giám; thứ ba là mũ hình tròn làm bằng vải thanh cát may túm lại, để cho kẻ sĩ thứ, quân lính và thơ lại thường dùng.
    Ngoài những điều quy định bằng văn tự để lại, một số tượng của thời Lê còn cho ta biết được cụ thể thêm về trang phục trong triều đình hay ngoài nhân dân: Võ phục có áo giáp dài đến đầu gối, được trang trí nhiều họa tiết như hình vẩy rồng, ở trước ngực có hình bố tử. Trong áo giáp có hai lớp áo nữa: áo ngoài tay rộng, áo trong tay chật. Ngoài ra, còn có mũa, đai, hia đầy đủ.
    Ơở trường hợp khác, còn thấy loại mũ (hay khăn) đội chùm gáy với tấm áo dài chấm gót, tay áo rất rộng... Qua tranh vinh quy của quan văn, qua tranh chân dung Nguyễn Trãi (dù có thể là về sau mới vẽ), ta thấy nhiều hình ảnh rất gần với chi tiết trong sách đã ghi về phẩm phục triều Lê: Mũ cánh chuồn, hai cánh hướng về phía trước, tay áo rộng, ngực có bố tử thêu, mang đai, chân đi hia.
    Trang phục của phụ nữ trong triều đình cũng được phản ánh trên những tượng chân dung hay ở các bức chạm gỗ, như tượng vợ vua Lê, tượng người hầu trong cung...
    Trang phục của các vợ vua Lê: bên trong là tấm yếm (hoặc áo cánh?) cổ tròn, kín ngực. Bên ngoài mặc áo dài mở giữa, buông vạt, nẹp trang trí đẹp (loại áo này ống tay chật). Đều thắt bao lưng vải buộc múi trước bụng. Một tượng khác có đeo vân kiên rộng, thêu nhiều hình trang trí, phủ cả hai vai và ngực. Tiếp theo là những dải vải đẹp tỏa kín bụng. Tượng nào cũng đội mũ đẹp, chạm trổ tinh vi, cho ta cảm giác là làm bằng vàng. Đặc biệt từ thời gian này ta thấy xuất hiện hình ảnh người phụ nữ Việt Nam để tóc dài, vấn khăn, rẽ đường ngôi giữa. Mặc áo dài cổ tròn, tay áo chật, có xẻ một đoạn ở cổ tay áo để khi mặc cho bàn thay luồn qua dễ dàng. Thắt lưng buông dải trước bụng, váy dài và rộng. Có người còn mang những dải xiêm đẹp rủ xuống chân.
    - Ơở những tượng cung nữ ta thấy hình thức búi tóc gọn lên đỉnh đầu từ thời Trần đến thời Lê vẫn còn tồn tại. Đời vua Lê Hiển Tông (1418 - 1504) cho phép cung nhân khi hầu thường được búi tóc lệch, lúc ra tấu nhạc thì đội mũ chữ đinh tròn.
    Đồ trang sức có vòng tay tròn dẹt, hoa tai hình quả bầu, hình hoa sen hay khuyên tròn.
    (còn nữa)
    FR
  2. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0

    (tiếp)
    b. Trang phục nhân dân
    Dưới thời Lê, triều đình rất quan tâm đến vấn đề trang phục, không những đối với quan, quân mà cả đối với nhân dân lao động, trên cơ sở quyền lợi của giai cấp thống trị.
    Năm 1448, để phân biệt đẳng cấp và để đề phòng những hiện tượng tiếm lấn, vua Lê Nhân Tông ra lệnh cho Bộ Lê yết biểu cấm dân gian mặc áo màu vàng, đi hài, mang giầy và dùng đồ đạc chạm rồng, vẽ phượng.
    Năm 1467, cấm dệt mũ mát vì cho rằng nhiều người cắt trộm lông đuôi ngựa của triều đình để làm mũ này.
    Năm 1469, cấm nhân dân dùng nón thủy ma và nón sơn đỏ là các đồ đội của quân lính bảo vệ kinh thành. Lại cấm làm và bán thứ nón sắc trắng như phấn. Hiện tượng cạo trọc đầu trong nhân dân đã bị hạn chế; chỉ sư sãi mới được gọt tóc. Lệnh của triều đình: Người không phải sư sãi không được gọt tóc (1470).
    Năm 1497, cấm quan viên và nhân dân làm mũ bằng ngọc, thủy tinh.
    Năm 1664, quy định kích thước tay áo của nhân dân rộng 9 tấc (khoảng 30 cm), nách rộng 7 tấc 8 phân (khoảng 26 cm), hẹp hơn kích thước áo các quan.
    Năm 1696, cấm nhân dân ở ven biên giới không được mặc theo kiểu trang phục phương Bắc.
    Một thời kỳ, nhân dân đi việc công hay mặc áo màu thậm (chuy y). Ơở thôn quê mặc áo vải trắng thô. Đến giai đoạn sau thường mặc áo thanh cát. Aáo thanh có màu hỏa minh (màu xanh đậm), màu vi minh và màu quỳ, tục gọi là màu sừng. Màu quỳ được ưa chuộng hơn cả. Còn hai màu trên, về sau ở thành thị ai cũng cho là màu quê mùa ít dùng.
    Đàn bà lao động thường mặc yếm cổ xây, cánh tay để trần, mặc váy ngắn, thắt lưng thả múi phía trước. Đầu thường dùng khăn lượt để cuốn tóc, lúc yết kiến bậc tôn trưởng lại xõa tóc xuống để làm kính lễ.
    Trang phục đàn ông không có gì đặc biệt lắm. Khi lao động thường cởi trần, đóng khố.
    Hình thức búi tóc vẫn còn phổ biến. Có thời gian, khi đi việc công, ra đường mặc áo màu quỳ, búi tóc, đội nón. Nhưng rồi bất cứ lúc nào người ta cũng mặc áo màu quỳ, đầu không đội nón mà búi tóc trần đi ra đường, làm nhiều nhà nho nghiêm khắc lên án cho là một biểu hiện không hay.
    Trang phục của các nhà tu hành thời Lê như tấm áo pháp khoác ngoài ở pho tượng Tây Thiên Đông Đô Việt Nam lịch đại tổ (chùa Bút Tháp - Hà Bắc) hay ở pho tượng Tôn Giả, các vị tổ chùa Tây Phương (Hà Sơn Bình) đều là các loại áo rộng, thoáng mát.
    Y phục của sư sãi khi hành lễ cũng đã được triều đình quy định: Hòa thượng mặc áo màu lục, cà sa bào màu đỏ, mũ cũng màu đỏ. Tăng chính, tăng phó mặc áo xanh, cà sa bào và mũ màu lục. Chúng tăng có độ điệp thì áo đen, cà sa bào và mũ màu xanh. Lúc trụ trì bình thường thì hòa thượng mặc áo xanh, tăng chính, tăng phó áo đen, chúng tăng áo mộc lan màu đen xám.
    Cho đến thời Lê, trong xã hội thấy đã có nhiều loại nón: Đàn ông, đàn bà thôn quê đội nón xuân lôi tiểu lạp, tục gọi là nón sọ nhỏ. Người ở Kinh thành thường đội nón liên diệp, tục gọi là nón lá sen. Trẻ con đội nón tiểu liên diệp, tục gọi là nó nhỏ khuôn. Các ông già đội nón ngoan xác, tục gọi là nón mềm giải hay là nón tam giang. Con nhà quan và học trò các học hiệu thì đội nón phương đẩu đại, tục gọi là nón lá. Họ hàng nhà quan và một số ông già đội nón cổ châu, tục gọi là nón dâu. Lính tráng đội nón trạo lạp, tục gọi là nón chèo vành. Người hầu hạ và vợ con lính tráng đều đội nón viên đẩu, tục gọi là nón khua. Các nhà sư đội nón cẩu diện, tục gọi là nó tu lờ. Người có tang đội nón xuân lôi đại, tục gọi là nón cạp. Người có trở một năm trở xuống đội nón cổ châu, quai bằng mây. Nhà quan và nhà quyền thế có tang đội nón cẩu diện để phân biệt. Người trong Thanh, Nghệ đội nón viên cơ, tục gọi là nón nghệ... Có thời gian ở thôn quê theo dáng nón ngoan xác mà làm thấp phần trên đi, gọi là nón toan bì, tục gọi là nón vỏ bứa.
    FR
  3. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0

    (tiếp)
    b. Trang phục nhân dân
    Dưới thời Lê, triều đình rất quan tâm đến vấn đề trang phục, không những đối với quan, quân mà cả đối với nhân dân lao động, trên cơ sở quyền lợi của giai cấp thống trị.
    Năm 1448, để phân biệt đẳng cấp và để đề phòng những hiện tượng tiếm lấn, vua Lê Nhân Tông ra lệnh cho Bộ Lê yết biểu cấm dân gian mặc áo màu vàng, đi hài, mang giầy và dùng đồ đạc chạm rồng, vẽ phượng.
    Năm 1467, cấm dệt mũ mát vì cho rằng nhiều người cắt trộm lông đuôi ngựa của triều đình để làm mũ này.
    Năm 1469, cấm nhân dân dùng nón thủy ma và nón sơn đỏ là các đồ đội của quân lính bảo vệ kinh thành. Lại cấm làm và bán thứ nón sắc trắng như phấn. Hiện tượng cạo trọc đầu trong nhân dân đã bị hạn chế; chỉ sư sãi mới được gọt tóc. Lệnh của triều đình: Người không phải sư sãi không được gọt tóc (1470).
    Năm 1497, cấm quan viên và nhân dân làm mũ bằng ngọc, thủy tinh.
    Năm 1664, quy định kích thước tay áo của nhân dân rộng 9 tấc (khoảng 30 cm), nách rộng 7 tấc 8 phân (khoảng 26 cm), hẹp hơn kích thước áo các quan.
    Năm 1696, cấm nhân dân ở ven biên giới không được mặc theo kiểu trang phục phương Bắc.
    Một thời kỳ, nhân dân đi việc công hay mặc áo màu thậm (chuy y). Ơở thôn quê mặc áo vải trắng thô. Đến giai đoạn sau thường mặc áo thanh cát. Aáo thanh có màu hỏa minh (màu xanh đậm), màu vi minh và màu quỳ, tục gọi là màu sừng. Màu quỳ được ưa chuộng hơn cả. Còn hai màu trên, về sau ở thành thị ai cũng cho là màu quê mùa ít dùng.
    Đàn bà lao động thường mặc yếm cổ xây, cánh tay để trần, mặc váy ngắn, thắt lưng thả múi phía trước. Đầu thường dùng khăn lượt để cuốn tóc, lúc yết kiến bậc tôn trưởng lại xõa tóc xuống để làm kính lễ.
    Trang phục đàn ông không có gì đặc biệt lắm. Khi lao động thường cởi trần, đóng khố.
    Hình thức búi tóc vẫn còn phổ biến. Có thời gian, khi đi việc công, ra đường mặc áo màu quỳ, búi tóc, đội nón. Nhưng rồi bất cứ lúc nào người ta cũng mặc áo màu quỳ, đầu không đội nón mà búi tóc trần đi ra đường, làm nhiều nhà nho nghiêm khắc lên án cho là một biểu hiện không hay.
    Trang phục của các nhà tu hành thời Lê như tấm áo pháp khoác ngoài ở pho tượng Tây Thiên Đông Đô Việt Nam lịch đại tổ (chùa Bút Tháp - Hà Bắc) hay ở pho tượng Tôn Giả, các vị tổ chùa Tây Phương (Hà Sơn Bình) đều là các loại áo rộng, thoáng mát.
    Y phục của sư sãi khi hành lễ cũng đã được triều đình quy định: Hòa thượng mặc áo màu lục, cà sa bào màu đỏ, mũ cũng màu đỏ. Tăng chính, tăng phó mặc áo xanh, cà sa bào và mũ màu lục. Chúng tăng có độ điệp thì áo đen, cà sa bào và mũ màu xanh. Lúc trụ trì bình thường thì hòa thượng mặc áo xanh, tăng chính, tăng phó áo đen, chúng tăng áo mộc lan màu đen xám.
    Cho đến thời Lê, trong xã hội thấy đã có nhiều loại nón: Đàn ông, đàn bà thôn quê đội nón xuân lôi tiểu lạp, tục gọi là nón sọ nhỏ. Người ở Kinh thành thường đội nón liên diệp, tục gọi là nón lá sen. Trẻ con đội nón tiểu liên diệp, tục gọi là nó nhỏ khuôn. Các ông già đội nón ngoan xác, tục gọi là nón mềm giải hay là nón tam giang. Con nhà quan và học trò các học hiệu thì đội nón phương đẩu đại, tục gọi là nón lá. Họ hàng nhà quan và một số ông già đội nón cổ châu, tục gọi là nón dâu. Lính tráng đội nón trạo lạp, tục gọi là nón chèo vành. Người hầu hạ và vợ con lính tráng đều đội nón viên đẩu, tục gọi là nón khua. Các nhà sư đội nón cẩu diện, tục gọi là nó tu lờ. Người có tang đội nón xuân lôi đại, tục gọi là nón cạp. Người có trở một năm trở xuống đội nón cổ châu, quai bằng mây. Nhà quan và nhà quyền thế có tang đội nón cẩu diện để phân biệt. Người trong Thanh, Nghệ đội nón viên cơ, tục gọi là nón nghệ... Có thời gian ở thôn quê theo dáng nón ngoan xác mà làm thấp phần trên đi, gọi là nón toan bì, tục gọi là nón vỏ bứa.
    FR
  4. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Khăn Piêu Thái
    Mỗi dân tộc trên thế giới đều mang sắc thái văn hóa độc đáo của mình qua trang phục. Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai để chúng ta dễ nhận biết tộc người này và tộc người khác mỗi khi dịp tiếp xúc. Người Thái cư trú ở nhiều nơi trên đất nước ta nhưng tập trung đông nhất là ở các tỉnh Tây Bắc; Sơn La, Lai Châu.... Ngoài sức hấp dẫn của trang phục, khăn piêu của phụ nữ Thái mang một nét riêng thật hấp dẫn, độc đáo:
    ...."Em xe sợi thành vóc hoa dâu
    Em dệt cửi thành gấm vân chéo
    Em dệt tơ thành đóa hoa vàng
    Người các bản các phường muốn khóc
    Đều ước ao được em thêu khăn"
    (Dân ca Thái)
    Nếu chỉ trừ một bộ phận phụ nữ ngành Thái trắng đội nón tát thì đa số phụ nữ Thái Mường Thanh (Lai Châu), Mường La (Sơn La), Mường Lò (Lào Cai), đều đội khăn vải, khăn vải dùng để đội trên đầu người Thái gọi là piêu. Piêu có nhiều loại khác nhau, có loại được thêu hoa văn bằng chỉ màu sặc sỡ, có loại chỉ là một tấm vải bông nhuộm chàm, tùy từng vùng, từng địa phương mà piêu có những sắc thái riêng của nó. Piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông giá lạnh... Piêu còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là trong lúc đi chơi hay dự lễ hội...
    Đồng bào Thái làm piêu từ loại vải bông tự dệt. Trước khi thêu, miếng vải được chọn làm khăn đội đều phải nhuộm chàm. Chàm là mầu nền để trên đó người phụ nữ Thái thêu lên các đồ án hoa văn bằng các loại chỉ màu (xanh, đỏ, tím, vàng, da cam....) ở hai đầu khăn. Để có một chiếc piêu hoàn chỉnh, người phụ nữ Thái phải mất thời gian từ hai đến bốn tuần. Piêu Thái không phải trang trí ở toàn bộ diện tích của nó mà được tập trung đồ án trang trí ở hai đầu. Trước khi thêu các đồ án trang trí ở hai đầu khăn, phụ nữ Thái ghép mảnh vải đỏ làm viền. Các viền đỏ bọc cho sợi ở các đầu khăn khỏi bị xổ ra, vừa như là giới hạn diện tích trang trí ở đầu khăn. Đường viền vải đỏ bọc ở ba mép đầu khăn rộng trên dưới 1 cm. Phụ nữ Thái dùng lối khâu luồn rất khéo léo để hạn chế tới mức tối đa đường chỉ lộ ra ngoài để cho đường viền màu đỏ và nền chàóm của khăn liền làm một.
    Trước khi thêu, chị em làm những chiếc cút để đính vào piêu, có thể làm nhiều cút piêu một lúc rồi dùng dần. Cút piêu được làm từ một mảnh vải đỏ rộng khoảng 1 cm, bên trong bọc lõi chỉ rồi cuộn tròn lại. Cuộn vải tròn được khâu vắt thành một hình tròn rồi quấn dây vải lại theo hình trôn ốc, sau đó được quấn thêm các loại chỉ màu thành các múi trong hình tròn. Đối với các cút piêu đòi hỏi phải tỷ mỷ, cầu kỳ, chỉ có những người thành thạo mới biết làm. Các cút sau khi làm xong được ghép lại rất khéo léo vào đầu piêu. Các loại chỉ màu được sử dụng như vậy vừa mang chức năng kỹ thuật, vừa mang giá trị thẩm mỹ. Nhìn vào chiếc cút được dính vào đầu piêu, ta rất khó đoán nhận ra được mạch chỉ khâu ghép các đường trang trí với nhau. Các loại đường khâu đều do phụ nữ Thái tự sáng tạo, có nhiều kiểu: móc xích, chân rết, xương cá... Các cút piêu trước hết được đặt trên ba đoạn thẳng của mỗi đầu khăn. Còn chính bốn góc của khăn, chị em dùng dây làm cút còn dư tết thành hình bông hoa cách điệu. Cút piêu thường được sắp xếp thành từng chùm lẻ (3, 5, 7 cái) trên các vị trí cách đều nhau ở hai đầu khăn, bởi vậy cút ở trên piêu bao giờ cũng là cút chùm. Cũng như nhiều vật dụng khác (cúc áo, chắn song cửa sổ, bậc thang nhà sàn...), cút piêu được thiết kế theo quan niệm số lẻ.
    Bình thường phụ nữ Thái thường đội piêu có cút chùm ba, nhưng khi tặng piêu cho người bậc trên, người mình quý trọng, kính yêu thì tặng loại piêu có cút chùm năm trở lên....
    Sau khi bọc viền và ghép cút piêu xong, phụ nữ Thái bắt đầu công việc thêu piêu. Khi thêu những đồ án hoa văn đa dạng lên hai đầu khăn, họ nhìn theo mẫu, song không rập khuôn một cách máy móc. Trong quá trình thêu, họ có thể sáng tạo theo ý muốn chủ quan của mình. Nét đặc biệt là phụ nữ Thái không thêu piêu ở mặt phải (như lối thêu thông thường) mà lại thêu từ mặt trái, các hoa văn với đồ án và màu sắc phức tạp lại hiện lên ở mặt phải, đó là lối thêu truyền thống với trí tưởng tượng của kỹ thuật và mỹ thuật dân gian tài tình. Piêu được tạo theo lối luồn chỉ hay đan chỉ màu vào vải, nhưng cái khó là phải tính toán theo một nguyên tắc nhất định để luồn chỉ vào mặt trái và hoa văn lại hiện lên chính xác ở mặt phải. Hoa văn piêu không đơn giản, điểm xuyết mà là một hệ thống đồ án có bố cục nội dung phức tạp, đòi hỏi người phụ nữ Thái phải nắm chắc nguyên tắc kỹ thuật, phải thuộc đồ án hoa văn với hai mặt phải, trái của nó.
    Con gái Thái từ 6,7 tuổi phải làm quen với bông, sợ, dệt vải, mười hai, mười ba tuổi bắt đầu làm quen với công việc thêu thùa. Thành viên nữ của cộng đồng Thái phải biết nhìn vào mẫu piêu, biết nhận ra bố cục của đồ án hoa văn... Học thêu piêu với các cô gái Thái là một quá trình nhận thức và rèn luyện đôi bàn tay khéo léo của mình để chuẩn bị bước vào đời. Lúc đầu các cô gái chỉ thêu được những đường thẳng hoặc những mô-típ hoa văn đơn giản, dần dần tiến tới biết xử lý đồ án, bố cục, biết xử lý màu sắc ở nhiều mô-típ hoa văn trong những bố cục phức tạp. Việc học dệt vải và học thêu khăn piêu là bài học phổ thông, tất yếu của mọi thành viên nữ trong nếp sống của cộng đồng dân tộc Thái, bởi vậy piêu còn là một tiêu chuẩn xã hội để đánh giá một phụ nữ. Qua chiếc piêu có thể biết được chủ nhân của nó là người tài hoa, siêng năng, chịu khó hay là người lười nhác, vụng dại.
    Khăn piêu của phụ nữ Thái không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn mang tính xã hội, cùng với váy, áo, nón đội, thắt lưng piêu góp phần tạo nên một nét đẹp, một sắc thái riêng, hấp dẫn về trang phục truyền thống của dân tộc Thái.
    FR
  5. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Khăn Piêu Thái
    Mỗi dân tộc trên thế giới đều mang sắc thái văn hóa độc đáo của mình qua trang phục. Cùng với ngôn ngữ, trang phục là dấu hiệu thông tin quan trọng thứ hai để chúng ta dễ nhận biết tộc người này và tộc người khác mỗi khi dịp tiếp xúc. Người Thái cư trú ở nhiều nơi trên đất nước ta nhưng tập trung đông nhất là ở các tỉnh Tây Bắc; Sơn La, Lai Châu.... Ngoài sức hấp dẫn của trang phục, khăn piêu của phụ nữ Thái mang một nét riêng thật hấp dẫn, độc đáo:
    ...."Em xe sợi thành vóc hoa dâu
    Em dệt cửi thành gấm vân chéo
    Em dệt tơ thành đóa hoa vàng
    Người các bản các phường muốn khóc
    Đều ước ao được em thêu khăn"
    (Dân ca Thái)
    Nếu chỉ trừ một bộ phận phụ nữ ngành Thái trắng đội nón tát thì đa số phụ nữ Thái Mường Thanh (Lai Châu), Mường La (Sơn La), Mường Lò (Lào Cai), đều đội khăn vải, khăn vải dùng để đội trên đầu người Thái gọi là piêu. Piêu có nhiều loại khác nhau, có loại được thêu hoa văn bằng chỉ màu sặc sỡ, có loại chỉ là một tấm vải bông nhuộm chàm, tùy từng vùng, từng địa phương mà piêu có những sắc thái riêng của nó. Piêu có tác dụng che đầu khi nắng gió, làm ấm đầu khi mùa đông giá lạnh... Piêu còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái Thái trong sinh hoạt hằng ngày, nhất là trong lúc đi chơi hay dự lễ hội...
    Đồng bào Thái làm piêu từ loại vải bông tự dệt. Trước khi thêu, miếng vải được chọn làm khăn đội đều phải nhuộm chàm. Chàm là mầu nền để trên đó người phụ nữ Thái thêu lên các đồ án hoa văn bằng các loại chỉ màu (xanh, đỏ, tím, vàng, da cam....) ở hai đầu khăn. Để có một chiếc piêu hoàn chỉnh, người phụ nữ Thái phải mất thời gian từ hai đến bốn tuần. Piêu Thái không phải trang trí ở toàn bộ diện tích của nó mà được tập trung đồ án trang trí ở hai đầu. Trước khi thêu các đồ án trang trí ở hai đầu khăn, phụ nữ Thái ghép mảnh vải đỏ làm viền. Các viền đỏ bọc cho sợi ở các đầu khăn khỏi bị xổ ra, vừa như là giới hạn diện tích trang trí ở đầu khăn. Đường viền vải đỏ bọc ở ba mép đầu khăn rộng trên dưới 1 cm. Phụ nữ Thái dùng lối khâu luồn rất khéo léo để hạn chế tới mức tối đa đường chỉ lộ ra ngoài để cho đường viền màu đỏ và nền chàóm của khăn liền làm một.
    Trước khi thêu, chị em làm những chiếc cút để đính vào piêu, có thể làm nhiều cút piêu một lúc rồi dùng dần. Cút piêu được làm từ một mảnh vải đỏ rộng khoảng 1 cm, bên trong bọc lõi chỉ rồi cuộn tròn lại. Cuộn vải tròn được khâu vắt thành một hình tròn rồi quấn dây vải lại theo hình trôn ốc, sau đó được quấn thêm các loại chỉ màu thành các múi trong hình tròn. Đối với các cút piêu đòi hỏi phải tỷ mỷ, cầu kỳ, chỉ có những người thành thạo mới biết làm. Các cút sau khi làm xong được ghép lại rất khéo léo vào đầu piêu. Các loại chỉ màu được sử dụng như vậy vừa mang chức năng kỹ thuật, vừa mang giá trị thẩm mỹ. Nhìn vào chiếc cút được dính vào đầu piêu, ta rất khó đoán nhận ra được mạch chỉ khâu ghép các đường trang trí với nhau. Các loại đường khâu đều do phụ nữ Thái tự sáng tạo, có nhiều kiểu: móc xích, chân rết, xương cá... Các cút piêu trước hết được đặt trên ba đoạn thẳng của mỗi đầu khăn. Còn chính bốn góc của khăn, chị em dùng dây làm cút còn dư tết thành hình bông hoa cách điệu. Cút piêu thường được sắp xếp thành từng chùm lẻ (3, 5, 7 cái) trên các vị trí cách đều nhau ở hai đầu khăn, bởi vậy cút ở trên piêu bao giờ cũng là cút chùm. Cũng như nhiều vật dụng khác (cúc áo, chắn song cửa sổ, bậc thang nhà sàn...), cút piêu được thiết kế theo quan niệm số lẻ.
    Bình thường phụ nữ Thái thường đội piêu có cút chùm ba, nhưng khi tặng piêu cho người bậc trên, người mình quý trọng, kính yêu thì tặng loại piêu có cút chùm năm trở lên....
    Sau khi bọc viền và ghép cút piêu xong, phụ nữ Thái bắt đầu công việc thêu piêu. Khi thêu những đồ án hoa văn đa dạng lên hai đầu khăn, họ nhìn theo mẫu, song không rập khuôn một cách máy móc. Trong quá trình thêu, họ có thể sáng tạo theo ý muốn chủ quan của mình. Nét đặc biệt là phụ nữ Thái không thêu piêu ở mặt phải (như lối thêu thông thường) mà lại thêu từ mặt trái, các hoa văn với đồ án và màu sắc phức tạp lại hiện lên ở mặt phải, đó là lối thêu truyền thống với trí tưởng tượng của kỹ thuật và mỹ thuật dân gian tài tình. Piêu được tạo theo lối luồn chỉ hay đan chỉ màu vào vải, nhưng cái khó là phải tính toán theo một nguyên tắc nhất định để luồn chỉ vào mặt trái và hoa văn lại hiện lên chính xác ở mặt phải. Hoa văn piêu không đơn giản, điểm xuyết mà là một hệ thống đồ án có bố cục nội dung phức tạp, đòi hỏi người phụ nữ Thái phải nắm chắc nguyên tắc kỹ thuật, phải thuộc đồ án hoa văn với hai mặt phải, trái của nó.
    Con gái Thái từ 6,7 tuổi phải làm quen với bông, sợ, dệt vải, mười hai, mười ba tuổi bắt đầu làm quen với công việc thêu thùa. Thành viên nữ của cộng đồng Thái phải biết nhìn vào mẫu piêu, biết nhận ra bố cục của đồ án hoa văn... Học thêu piêu với các cô gái Thái là một quá trình nhận thức và rèn luyện đôi bàn tay khéo léo của mình để chuẩn bị bước vào đời. Lúc đầu các cô gái chỉ thêu được những đường thẳng hoặc những mô-típ hoa văn đơn giản, dần dần tiến tới biết xử lý đồ án, bố cục, biết xử lý màu sắc ở nhiều mô-típ hoa văn trong những bố cục phức tạp. Việc học dệt vải và học thêu khăn piêu là bài học phổ thông, tất yếu của mọi thành viên nữ trong nếp sống của cộng đồng dân tộc Thái, bởi vậy piêu còn là một tiêu chuẩn xã hội để đánh giá một phụ nữ. Qua chiếc piêu có thể biết được chủ nhân của nó là người tài hoa, siêng năng, chịu khó hay là người lười nhác, vụng dại.
    Khăn piêu của phụ nữ Thái không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn mang tính xã hội, cùng với váy, áo, nón đội, thắt lưng piêu góp phần tạo nên một nét đẹp, một sắc thái riêng, hấp dẫn về trang phục truyền thống của dân tộc Thái.
    FR
  6. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Thổ cẩm người Tày
    Trang Phục của người Tày đơn giản một sắc chàm, trong sưu tập này chỉ giới thiệu những mẫu hình trang trí trên vải dệt của họ.
    Loại vải dệt hoa văn mầu đen trên nền vải trắng là loại vải để may mặt chăn, loại hình trang trí này phổ biến trong các dân tộc nói ngôn ngữ Tày-Thái, mà người ta còn dùng một thuật ngữ để gọi đồ án trang trí hoa văn như thế này là lái ăm - có nghĩa là vằn đồ đan, giống như các vằn nổi trên đồ đan. Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Các dân tộc Thái, Lào, Lự ở nước ta phát triển loại hình trang trí này rất đa dạng, phong phú.
    Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.
    Thổ cẩm có loại hình vuông để may mặt địu, có thể thức bố cục hoa văn đăng đối tuyệt đối, bao gồm những diềm và hoa văn bỏ ô ở khu vực trung tâm trang trí. Ngoài ô quả trám đã xuất hiện các biến thể như ô hình tám cạnh, hình vuông, hình chữ nhật, tạo cho đồ án trang trí có đường nét cấu tạo phong phú hơn, đa dạng hơn.
    Có loại thổ cẩm bố cục hình chữ nhật để làm mặt chăn, màn che. Những tấm màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên - tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới - tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian. Ngoài ra, còn có nhiều họa tiết khác nữa, như các chữ Hán-theo kiểu chữ triện, hồi văn phật giáo-chữ Vạn, Hoa đào, Hoa cúc cách điệu, hình mặt trời, ngôi sao tám cánh v.v.
    Mầu sắc rực rỡ, sự phối hợp các màu nguyên sắc có độ tương phản cao bên nhau khá mạnh bạo. Có những hòa sắc trầm, dịu, hoặc sáng tươi, các sắc thái khác nhau cho thấy thổ cẩm Tày không gò bó trong quy thức hòa màu hạn chế nào, cho thấy sức sáng tạo phong phú và đa dạng của nghệ nhân nhiều thế hệ, đó cũng là những dấu ấn của sự phát triển trong trang trí dệt dân gian của người Tày để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống ngày một đa dạng phong phú, về các mặt văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc.
    Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới - là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.
    [​IMG]
    [​IMG]
    FR
    Được falling-rain sửa chữa / chuyển vào 19:55 ngày 20/10/2002
    Được falling-rain sửa chữa / chuyển vào 19:56 ngày 20/10/2002
  7. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0
    Thổ cẩm người Tày
    Trang Phục của người Tày đơn giản một sắc chàm, trong sưu tập này chỉ giới thiệu những mẫu hình trang trí trên vải dệt của họ.
    Loại vải dệt hoa văn mầu đen trên nền vải trắng là loại vải để may mặt chăn, loại hình trang trí này phổ biến trong các dân tộc nói ngôn ngữ Tày-Thái, mà người ta còn dùng một thuật ngữ để gọi đồ án trang trí hoa văn như thế này là lái ăm - có nghĩa là vằn đồ đan, giống như các vằn nổi trên đồ đan. Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày. Các dân tộc Thái, Lào, Lự ở nước ta phát triển loại hình trang trí này rất đa dạng, phong phú.
    Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài mầu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.
    Thổ cẩm có loại hình vuông để may mặt địu, có thể thức bố cục hoa văn đăng đối tuyệt đối, bao gồm những diềm và hoa văn bỏ ô ở khu vực trung tâm trang trí. Ngoài ô quả trám đã xuất hiện các biến thể như ô hình tám cạnh, hình vuông, hình chữ nhật, tạo cho đồ án trang trí có đường nét cấu tạo phong phú hơn, đa dạng hơn.
    Có loại thổ cẩm bố cục hình chữ nhật để làm mặt chăn, màn che. Những tấm màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên - tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới - tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian. Ngoài ra, còn có nhiều họa tiết khác nữa, như các chữ Hán-theo kiểu chữ triện, hồi văn phật giáo-chữ Vạn, Hoa đào, Hoa cúc cách điệu, hình mặt trời, ngôi sao tám cánh v.v.
    Mầu sắc rực rỡ, sự phối hợp các màu nguyên sắc có độ tương phản cao bên nhau khá mạnh bạo. Có những hòa sắc trầm, dịu, hoặc sáng tươi, các sắc thái khác nhau cho thấy thổ cẩm Tày không gò bó trong quy thức hòa màu hạn chế nào, cho thấy sức sáng tạo phong phú và đa dạng của nghệ nhân nhiều thế hệ, đó cũng là những dấu ấn của sự phát triển trong trang trí dệt dân gian của người Tày để đáp ứng những nhu cầu của cuộc sống ngày một đa dạng phong phú, về các mặt văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc.
    Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới - là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.
    [​IMG]
    [​IMG]
    FR
    Được falling-rain sửa chữa / chuyển vào 19:55 ngày 20/10/2002
    Được falling-rain sửa chữa / chuyển vào 19:56 ngày 20/10/2002
  8. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0

    Thổ cẩm người Nùng
    Người Nùng là dân tộc ở xen kẽ với người Tày, có nhiều mối quan hệ mật thiết trong phong tục, tập quán, tín ngưỡng ngôn ngữ và văn hóa nghệ thuật dân gian. Người Nùng có nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm lại có trang phục có đặc điểm trang trí khác nhau đôi chút, nhưng chủ yếu trên trang phục cũng không có thêu thùa gì ngoài một số khoang vải có mầu khác với thân áo được đắp vào ống tay áo, vạt áo v.v... mà thôi. Người Nùng cũng dệt mặt hàng thổ cẩm có dùng chung phong cách nghệ thuật, đề tài như thổ cẩm Tày.
    Trong các đồ dùng bằng vải như túi đeo, giầy, khăn. Người Nùng có thêu họa tiết và chắp vải. Đường nét mềm mại, uyển chuyển, điển hình gần gũi với hiện thực, tự nhiên, mầu sắc êm dịu, chuyển sắc tinh thể gần với màu trong thiên nhiên. Họ còn có nhiều thủ thuật sử dụng sáp ong để tạo họa tiết trên vải màu chàm, trong đó có cách vẽ sáp ong để tạo thành đường nét trang trí cũng đáng lưu ý về giá trị thẩm mỹ như hình số 13 trong sưu tập này. Ơở đây, ta thấy gần với các đồ án hoa văn hình kỷ hà trong bố cục hình vuông của thổ cẩm Tày, Nùng nhưng ở trung tâm trang trí, các ô vuông đã áp dụng lối bố cục đối xứng quay quanh điểm trung tâm tạo cho đồ án trang trí vui mắt hơn thể thức bố cục đăng đối tuyệt đối trong trang trí thổ cẩm Tày.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    FR
  9. falling-rain

    falling-rain Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/05/2002
    Bài viết:
    1.197
    Đã được thích:
    0

    Thổ cẩm người Nùng
    Người Nùng là dân tộc ở xen kẽ với người Tày, có nhiều mối quan hệ mật thiết trong phong tục, tập quán, tín ngưỡng ngôn ngữ và văn hóa nghệ thuật dân gian. Người Nùng có nhiều nhóm địa phương, mỗi nhóm lại có trang phục có đặc điểm trang trí khác nhau đôi chút, nhưng chủ yếu trên trang phục cũng không có thêu thùa gì ngoài một số khoang vải có mầu khác với thân áo được đắp vào ống tay áo, vạt áo v.v... mà thôi. Người Nùng cũng dệt mặt hàng thổ cẩm có dùng chung phong cách nghệ thuật, đề tài như thổ cẩm Tày.
    Trong các đồ dùng bằng vải như túi đeo, giầy, khăn. Người Nùng có thêu họa tiết và chắp vải. Đường nét mềm mại, uyển chuyển, điển hình gần gũi với hiện thực, tự nhiên, mầu sắc êm dịu, chuyển sắc tinh thể gần với màu trong thiên nhiên. Họ còn có nhiều thủ thuật sử dụng sáp ong để tạo họa tiết trên vải màu chàm, trong đó có cách vẽ sáp ong để tạo thành đường nét trang trí cũng đáng lưu ý về giá trị thẩm mỹ như hình số 13 trong sưu tập này. Ơở đây, ta thấy gần với các đồ án hoa văn hình kỷ hà trong bố cục hình vuông của thổ cẩm Tày, Nùng nhưng ở trung tâm trang trí, các ô vuông đã áp dụng lối bố cục đối xứng quay quanh điểm trung tâm tạo cho đồ án trang trí vui mắt hơn thể thức bố cục đăng đối tuyệt đối trong trang trí thổ cẩm Tày.
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    FR
  10. Johnny_Walker

    Johnny_Walker Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    163
    Đã được thích:
    0
    Ngày xưa đọc cuốn sách gì gì của nhà xuất bản Thuận Hoá, quên mất rôi chỉ nhớ lõm bõm, sách cũng mất tiêu đâu rồi ý,
    Đại khái la từ thời chúa Nguyễn Phúc gì gì ấy, để phân biệt phong tục Nam Bắc, nhằm đề cao vương quốc của mình, Chúa đã ra lệnh cho mấy ông quan sáng tác ra áo dài (hình như cũng dựa trên cơ sở của bộ xường xám ) và nón Huế, để phân biệt với miền Bắc là phụ nữ mặc váy và đội nón quai thao
    Nhớ mỗi câu ca dao :
    Tháng 8 có chiếu vua ra
    Cấm quần không đáy người tâ hãi hùng
    Còn 2 người có ảnh hưởng lớn tới áo dài hiện đại thì hình như là Lamuya Cát Tường từ thập niên 30 ở miền bắc của thế kỷ trước và Trần Lệ Xuân vào thập niên 50 ở miền nam
    Bác nào có điều kiện thì tra cứu lại hộ tôi với
    w

Chia sẻ trang này