1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tìm thơ Vũ Hòang Chương

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi chieusahuynh, 19/09/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. chieusahuynh

    chieusahuynh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2006
    Bài viết:
    13
    Đã được thích:
    0
    Chắc là khó quá nhể
  2. 3dong

    3dong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2006
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    1
    Mười Hai Tháng Sáu
    trăng của nhà ai trăng một phương
    nơi đây rượu đắng mơ đêm trường
    ờ, đêm tháng sáu mười hai nhỉ
    Tố của Hoàng ơi ! hỡi nhớ thương !
    là thế, là thôi, là thế đó
    mười năm thôi nhé mộng tan tành
    mười năm trăng cũ ai nguyền ước !
    Tố của Hoàng ơi ! Tố của anh
    tháng sáu mười hai - từ đấy nhé
    chung đôi - từ đấy nhé lìa đôi
    em xa lạ quá đâu còn phải
    Tố của Hoàng xưa , Tố của tôi
    men khói đêm nay sầu dựng mộ
    bia đề tháng sáu ngày mười hai
    tình ta ta tiếc, cuồng ta khóc
    Tố của Hoàng, nay Tố của ai ?
    tay gõ vào bia mười ngón rập
    mười năm theo máu hận trào rơi
    học làm Trang Tử thiêu cơ nghiệp
    khúc Cổ bồn ca gõ hát chơi
    Kiều Thu hề Tố em ơi !
    ta dương lửa đốt tơi bời Mái Tây
    Hàm Ca nhịp gõ khói bay
    hồ xừ xang xế bàn tay điên cuồng
    Kiều Thu hề trọn kiếp thương
    sầu cao ngùn ngụt mây đường tơ khô
    xừ xang xế xự xang hồ
    bàn tay nhịp gõ điên rồ khói lên
    Kiều Thu hề Tố hỡi em !
    nghiêng chân rốn bể mà nghe lửa bùng
    xế hồ xang khói mờ rung
    nhịp vươn sầu tỏa năm cung ngút ngàn
    VŨ HOÀNG CHƯƠNG
    Được 3dong sửa chữa / chuyển vào 18:02 ngày 19/01/2007
  3. 3dong

    3dong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2006
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    1
    TIỂU SỬ VŨ HOÀNG CHƯƠNG
    Vũ Hoàng Chương sinh ngày 5 tháng 5 năm 1916 tại Nam Định. Chánh quán ông là làng Phù Ủng, tỉnh Hưng Yên.
    Thuở nhỏ, ông theo học Albert Sarrault ở Hà Nội, đỗ tú tài năm 1937. Năm 1938 ông vào Trường Luật nhưng chỉ được một năm thì lại bỏ đi làm làm Phó kiểm soát sở hỏa xa Đông Dương.
    Năm 1941, ông bỏ sở hỏa xa đi học toán tại Hà Nội, rồi bỏ dở để đi dạy ở Hải Phòng. Trong suốt thời gian này, ông không ngừng viết thơ, viết kịch.
    Năm 1954, Vũ Hoàng Chương vào Sài Gòn, tiếp tục sáng tác không ngừng cho đến khi ông mất (tháng 10 năm 1976).
    Tác phẩm tiêu biểu: các tập thơ Thơ Say (1940), Mây (1943), Tâm Sự Kẻ Sang Tần (1961), Lửa Từ Bi (1963), Ta Đợi Em Từ 30 Năm (1970), Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau (1973)...; kịch thơ Trương Chi (1944).
    Thơ ông hoài cổ, giàu chất nhạc, với nhiều sắc nét Đông Phương dù ông lớn lên giữa cao trào Thơ Mớị Theo Tạ Tỵ, thơ Vũ là "tiếng thở dài của phương Đông trầm mặc".

    <BLOCKQUOTE id=quote><font size=1 face="Arial" id=quote>Trích từ:
    TƯ LIỆU VĂN HỌC
    Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương ?" những nhà thơ không? nhà!
    10:49'''''''' 10/08/2004 (GMT+7)
    LTS: Lịch sử văn học Việt Nam đã ghi nhận tên tuổi họ, nhưng trong biến thiên của lịch sử dân tộc không ít văn thi sĩ tên tuổi phải chìm nổi cùng vận mệnh đất nước. Người Viễn Xứ xin giới thiệu tư liệu văn học sau đây được viết bởi một người trong cuộc là nhà thơ, nghệ sĩ Tô Kiều Ngân ?" ông là người tiếp bước nhà thơ Đinh Hùng phụ trách chương trình ngâm thơ Mây Tần trên Đài phát thanh Sài Gòn cũ. Người Viễn Xứ cũng mong nhận được những tư liệu của những ?ongười trong cuộc? như thế. NVX

    Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương là những nhà thơ nổi tiếng từ hồi ?ophong trào thơ mới?. Họ đều là những ?ođại gia? trong làng thơ nhưng cả hai, không ai tự tạo được cho mình một mái nhà mà suốt đời toàn đi ở nhà thuê. Năm 1954, khi vào Sài Gòn, hai người thuê một căn nhà lợp tôn, vách ván tại xóm Hòa Hưng. Vũ Hoàng Chương cùng vợ ở trên gác, dưới nhà là tổ ấm của gia đình Đinh Hùng. Nhị vị này là anh em: Vũ Hoàng Chương lấy chị ruột Đinh Hùng là bà Đinh Thị Thục Oanh nên hai nhà sống chung với nhau trong bước đầu nơi xứ lạ, quê người là điều dễ hiểu. Tuy nhiên thực tế lại rất? khó sống. Quen với cảnh ?omiếu nguyệt, vườn sương?, ?ocách tường hoa ảnh động? nay phải giam mình trong căn gác gỗ nóng hầm hập, hơi nóng từ mái tôn phả xuống như muốn luộc chín người, Vũ Hoàng Chương cảm thấy nguồn thơ đang bị nắng Sài Gòn làm cho khô cạn. Dưới nhà, Đinh Hùng cũng chẳng hơn gì, anh cũng đánh trần ra, vừa quạt, vừa nắm viết ?oKỳ Nữ gò Ôn Khâu?, ?oĐao phủ thành Đại La? cho các nhật báo Sài Gòn thời đó. Ngoài viết tiểu thuyết dài từng kỳ, anh còn vẽ tranh vui và giữ luôn mục ?oĐàn ngang cung? là mục thơ trào phúng ký tên Thần Đăng.

    Vũ Hoàng Chương dạy học tại trường Văn Lang. Đinh Hùng viết báo và bình thơ tại Đài phát thanh. Cả hai kiếm tiền không đến nỗi chật vật nhưng cả hai đều không tậu được cho mình một mái ấm là vì họ trót dính đến nàng tiên nâu nên kiếm tiền bao nhiêu đều tan thành mây khói. Để kiếm một chỗ ở thoải mái hơn họ Đinh và họ Vũ tạm chia tay nhau, mỗi gia đình đi thuê một nơi ở khác. Tác giả ?oThơ Say? dọn về chợ Vườn Chuối (đường Nguyễn Đình Chiểu bây giờ). Họ Đinh thì mướn một căn gác hẹp ở xóm lao động gần đường Frères Louis (trước 1975 là đường Võ Tánh, nay là Nguyễn Trãi). Xóm lao động này có ngõ dẫn ra đường Lê Lai. Con đường nằm bên cạnh ga xe lửa Sài Gòn, hồi đó chưa lập thành công viên như bây giờ, quang cảnh còn rất vắng. Chỗ ở mới cũng không hơn gì căn nhà ở xóm Hòa Hưng, chật hẹp, tối tăm, nóng bức. Mỗi lần xong việc ở đài phát thanh, Đinh Hùng thường rủ chúng tôi về nơi anh ở, không phải ở nhà anh mà là họp nhau tại một quán rượu ở gần nhà, đường Lê Lai. Đường này thường đêm vắng ngắt, có lần uống say, Đinh Hùng cao hứng mở cuộc thi? bò ra đường xem ai bò nhanh. Thế là Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Đinh Hùng, Thái Thủy, Hoàng Thư, Quách Đàm? hăng hái tham gia môn vận động chưa từng diễn ra ở bất cứ vận động trường nào! Bò xong rồi nằm lăn ra đường, vừa đọc thơ, vừa cười.

    Ít lâu sau, Đinh Hùng lại đổi nhà. Lần này anh thuê được một căn gác, nhà tường hẳn hoi, tại đường Trần Văn Thạch, gần chợ Tân Định, nay đổi tên là Nguyễn Hữu Cầu. Nhà lợp ngói lại ở mặt tiền nhưng vào nhà chẳng thấy bàn ghế gì, chỉ thấy một chiếc giường nằm chình ình ngay giữa nhà. Trên giường chất chồng đủ thứ: mền gối, sách vở, ấm chén và có một thứ không thể thiếu đó là chiếc bàn đèn thuốc phiện. Đinh Hùng nằm lọt thỏm vào giữa ?ogiang sơn? của anh, vừa ?odìu hồn theo cánh khói? vừa tìm ý thơ. Tác giả ?oĐường vào tình sử? có thói quen nằm mà viết. Anh nằm vắt chân chữ ngũ, đặt tập giấy lên đùi. Có lẽ lâu ngày nên quen, trong tư thế đó, chữ viết anh vẫn bay ****, rõ ràng, không dập xóa, trang bản thảo nào cũng sạch sẽ, xinh đẹp. Khi cần đi đâu , họ Đinh lại vớ lấy chiếc sơ mi đã mặc bốn, năm hôm trước, quàng bên ngoài chiếc áo vét cũ, cà vạt đàng hoàng. Tắm ư, chỉ cần vào ?otoa-let? mở nước ở ?ola-va-bô?, nhúng đầu vào bồn nước rồi hất lên, chảy xơ qua là xong. Trông Đinh Hùng lúc nào cũng ăn mặc chỉnh tề nhưng đừng ai ngồi quá gần anh, vì anh ít khi? tắm.

    Vũ Hoàng Chương lại đổi nhà một lần nữa. Lần này anh mướn nhà ở đường Nguyễn Khắc Nhu, ở gần nhà Bình Nguyên Lộc. Tuy được đi dự Hội nghị Thi Ca quốc tế ở nước ngoài, có thơ dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, tiền kiếm được có thể mua một căn nhà bực trung nhưng họ Vũ vẫn đi ở nhà thuê. Vào các năm 1973 - 1975, vợ chồng anh được nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội mời về cho ở một căn gác tại toà biệt thự đồ sộ của bà ở đường Nguyễn Trọng Tuyển. Nói là cho ở nhưng họ Vũ phải trả tiền điện, tiền nước và tiền điện thoại. Anh đặt tên chỗ ở mới này là ?oGác Mây?. Nơi đây, tôi và bạn bè đã có lần uống rượu với Vũ Hoàng Chương, nghe anh đọc thơ Tuy Lý Vương và phát hiện ra cái thôn Vỹ Dạ ở Huế đã đi vào thơ Hàn Mạc Tử không phải là Vỹ Dạ mà là Vỹ Dã (cánh đồng lau). Nhưng rồi Vũ Hoàng Chương cũng không an trú lại ?oGác Mây? được bao lâu. Sài Gòn giải phóng, bạn bè cách mạng của chủ nhân Mộng Tuyết vào ra thăm bà tấp nập; có lẽ thấy sự hiện diện của Vũ Hoàng Chương ở tại nhà mình có sự không tiện nên bà đánh tiếng để họ Vũ dọn đi. Phải đi thôi nhưng phải đi đâu? Thời buổi khó khăn, tiền đâu để đặt cọc, thuê nhà? Anh đành dắt díu vợ con về tá túc tại căn nhà bé bằng bàn tay của bà quả phụ Đinh Hùng bên khu Khánh Hội.

    Đinh Hùng ra đi trước Vũ Hoàng Chương. Anh mất vì bệnh ung thư tại bệnh viện Bình Dân, an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi. Đám tang trọng thể. Thuở sinh thời, Đinh Hùng từng viết trong thơ:

    Khi tôi chết các em về đấy nhé
    Cảm tấm lòng tri ngộ với nhau xưa
    Tay cầm hoa, xoả tóc đến bên mồ?

    Điều mong ước đó, kỳ diệu thay lại biến thành hiện thực: trong đám tang của anh người ta thấy có hai chục cô thiếu nữ mặc áo trắng, xỏa tóc, tay cầm hoa lặng lẽ sắp hàng đi theo linh cửu. Họ đến bên mồ và lặng lẽ thả những bó hoa xuồng lòng huyệt, ngậm ngùi tiễn đưa người thi sĩ. Hiện tượng này không do một sự sắp đặt mà do một cảm ứng tự nhiên. Đinh Hùng mất rồi, vợ anh phải trả căn nhà ở gần chợ Tân Định lại cho chủ. Đang chưa biết ở đâu thì may thay, một vị tướng quân hồi đó, rất yêu thơ mà lại có chức quyền nên đã vận động cấp cho bà quả phụ Đinh Hùng một căn nhà ở khu Khánh Hội. Bà Đinh Hùng với con trai là Đinh Hoài Ngọc không thể ôm một căn nhà lớn để mà nhịn đói nên đã bán căn nhà đó đi rồi rút lui vào vùng sâu, vùng xa của bến Phạm Thế Hiển lúc đó còn đìu hiu lau lách, dựng một mái chòi để sống qua ngày. Chính nơi đây, Vũ Hoàng Chương đã cùng vợ con sống chui rúc những ngày cuối đời của anh trước khi ?ođược? đưa đến ở một toà nhà to lớn, kiên cố, có lính gác ngày đêm, đó là? khám Chí Hoà! Vũ Hoàng Chương bệnh hoạn, suy sụp rất nhanh nên ít lâu sau khi được thả ra, anh lặng lẽ ra đi. Đám tang anh cũng cử hành trong lặng lẽ, nghèo nàn, hiu hắt. Năm 76, vừa giải phóng Sài Gòn xong, mọi người còn bận rộn với những vấn đề to lớn, đa số bạn bè và người hâm mộ anh kẻ đi tập trung cải tạo, kẻ đi nước ngòai, người còn lại thì do không biết tin anh chết nên đám tang anh chỉ thưa thớt dăm người đi đưa, trong đó có nhà thơ Bàng Bá Lân và Tôn Nữ Hỷ Khương.

    Mười năm sau, 1986 mộ Vũ Hoàng Chương được cải táng về chôn tại nghĩa địa của chùa Giác Minh tại Gò Vấp. Suốt một đời lận đận vì nỗi không nhà, giờ đây hai con người tài hoa kia đã có một chỗ ở trang trọng, miên viễn đó là chỗ ngồi lâu bền trong văn học sử và điều an ủi lớn nhất là họ còn sống mãi trong tâm hồn những khách yêu thơ.

    TÔ KIỀU NGÂN
    [/QUOTE]
    Được 3dong sửa chữa / chuyển vào 20:31 ngày 21/01/2007
  4. 3dong

    3dong Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/02/2006
    Bài viết:
    267
    Đã được thích:
    1
    Nhớ Cố Nhân

    Khanh của Hoàng ơi lửa bốn phương
    Khói lên ngùn ngụt chén tha hương
    Nghe vang sóng rượu niềm ly tán
    Trạnh xót nòi thơ buổi nhiễu nhương
    Biết có đêm nào trăng Thủy Tạ
    Ngâm cùng ai nữa kịch Anh Nương
    Dệt khôn thành mộng tơ tầm rối
    Mây cách non Vu nhớ lạ thường
    Mây cách non Vu nhớ lạ thường
    Chiêm bao lẩn quất **** mê đường
    Tình si hận đã mành ngưng máu
    Người ngọc hoa chưa bóng gợn tường
    Mấy thuở còn thơm trang Dị Sử
    Muôn đời vẫn đẹp gái Tây Sương
    Cố Đô một buổi lầm chinh chiến
    Vầng nguyệt chia hai vạn dặm trường
    Vầng nguyệt chia hai vạn dặm trường
    Đêm sầu lữ quán tóc pha sương
    Xanh xanh cỏ ngút bao hàng lệ
    Bằn bặt hoa chìm nửa phiến gương
    Liễu biếc loi thoi bờ rủ oán
    Sen vàng lững đững gót bay hương
    Chờ nhau chẳng gặp nhau trong mộng
    Vẳng tiếng gà lên chợt nhớ thương
    Vẳng tiếng gà lên chợt nhớ thương
    Dòng châu hoen gối đẫm canh trường
    Theo màu ngọc tỏ ghê màu tuyết
    Đè chữ "tư" nằm cạnh chữ "tương"
    Cả một mùa say duyên nghệ thuật
    Nửa năm trời lỡ hẹn yêu đương
    Bèo đây hoa đấy dù trôi giạt
    Hai ngả quỳ tâm vẫn hướng dương
    Hai ngả quỳ tâm vẫn hướng dương
    Kẻ đầu sông kẻ cuối sông Tương
    Kìa mây kìa sóng lòng xa gửi
    Này kịch này thơ nợ trót vương
    Tiên dịch còn thơm lời ký chú
    Thần giao chẳng lẽ thuyết hoang đường
    Trang thơ đọc lại bài trao ý
    Vần dậy men nồng nhạc chuyển hương
    Vần dậy men nồng nhạc chuyển hương
    Nét thon mềm mại gợi vóc băng sương
    Hôn nhòe cặp má hoa bên cửa
    Ghì hẫng đôi tay nguyệt trước giường
    Tỉnh, bẽ bàng duyên, vò nát mộng
    Nằm, điên cuồng nhớ, đập tan gương
    Đêm nào, Khanh nhỉ! tình ta mới
    Hà Nội đèn treo đỏ phố phường
    Hà Nội đèn treo đỏ phố phường
    Sóng hồ trăng giãi bập bềnh sương
    Một trời thu ngủ men hoàng cúc
    Đôi ******** say mộng viễn phương
    Kìa ý đàn trao mười nẻo gió
    Đây lòng hoa mở bốn mùa hương
    Ôi thôi, khoảnh khắc dâu thành bể
    Gươm báu rùa thiêng cũng đoạn trường
    Gươm báu rùa thiêng cũng đoạn trường
    Nhớ nơi kỳ ngộ hứng thê lương
    Sao nằm quạnh quẽ mờ sông Hán
    Sầu chất bao la hẹp điệu Đường
    Lòng nghệ sĩ mơ tình tuyệt mỹ
    Cây Hàm Dương cách khói Tiêu Tương
    Chia ta đằng đẳng năm già nửa
    Một trái tim mềm trĩu nhớ thương
    Một trái tim mềm trĩu nhớ thương
    Ngờ đâu tan tác cánh uyên ương
    Kiếp phiêu bồng ấy đời thi bá
    Nẻo định tình kia bụi chiến trường
    Sông thẳm non cao hồn Thục Đế
    Mây gầy mưa quạnh giấc Tương Vương
    Ai đi chốn cũ giùm ta nhắn
    Rằng kẻ vào Ngô nhớ Lạc Dương
    Rằng kẻ vào Ngô nhớ Lạc Dương
    Lòng băng chẳng thẹn với đài gương
    Ngâm câu chiết liễu còn sa lệ
    Ngược nẻo tiền thân ướm hỏi đường
    Khói ngút ba canh hồn **** lẩn
    Tơ chia mười mối ruột tầm vương
    Đèn hoa chợt thắm môi hàm tiếu
    Khanh đã về trong lửa Túy hương

    VŨ HOÀNG CHƯƠNG

Chia sẻ trang này