1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TIN TỨC CHO KỸ SƯ (Tờ báo cho kỹ sư)

Chủ đề trong 'Câu lạc bộ kỹ sư' bởi small_porcupine, 18/05/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Năm mới, chuyện cũ
    15:57:53 02/02/2007
    [​IMG]
    Thế hệ tương lai- Nguyễn Thị Sin
    Cách đây mấy tháng, phát biểu trước Quốc hội khi từ nhiệm, nguyên Thủ Tướng Phan Văn Khải nhìn nhận chúng ta không thành công trên lĩnh vực giáo dục và khoa học. Rồi chỉ mới cách đây vài tuần, ông Lý Quang Diệu, một chính khách lỗi lạc của Singapore, lại có lời nhắc nhở chúng ta: thắng trong giáo dục thì sẽ thắng trong kinh tế.
    Trong không khí rộn ràng chuẩn bị cho việc hội nhập quốc tế khi đất nước gia nhập WTO, mong rằng hai ý kiến đó sẽ tạo một cú hích mới cho giáo dục và khoa học Việt Nam.

    Thật ra sự trì trệ triền miên của giáo dục và khoa học Việt Nam nhiều năm qua là sự thật khách quan dễ nhận thấy. Nhưng đây là lần đầu tiên sự thật đó được chính thức thừa nhận bởi người có trách nhiệm chính quyền cao nhất trong một thời gian dài. Nếu như trung thực với chính mình, không tự ru ngủ bằng những thành tựu ảo hay phóng to lên nhiều lần, là điều kiện đầu tiên để thành công trong hội nhập thì nhận định của vị cựu lãnh đạo không những không làm chúng ta bi quan mà ngược lại đã gây cho chúng ta niềm tin vào tương lai hơn, vì từ đây ta biết rõ hơn mình đang ở đâu và cần làm gì để gỡ lại sự chậm trễ.
    Singapore là nước đã bứt phá ngoạn mục từ kém phát triển lên tiên tiến trong thời gian 3-4 thập kỷ, nhờ chủ yếu đã biết chăm lo giáo dục từ sớm. Cho nên lời khuyên của họ có trọng lượng thuyết phục hơn cả mọi lý thuyết. Phải nói rằng chúng ta cũng đã có những nhà lãnh đạo sáng suốt nhìn nhận tầm quan trọng ''quốc sách hàng đầu'' của việc phát triển giáo dục, khoa học và công nghệ. Song thực tế nhiều năm qua cho thấy không dễ gì đưa được quan điểm ấy vào cuộc sống. Trong khi các văn kiện, nghị quyết nhấn mạnh quan điểm ấy, thì nhiều chính sách thực tế liên quan giáo dục và khoa học đều thể hiện tinh thần ngược lại. Hy vọng lần này tác dụng cộng hưởng của hai ý kiến trên của hai chính khách Việt Nam và Singapore sẽ làm thức tỉnh quan chức ở mọi ngành để có quyết tâm cao hơn góp sức chấn hưng giáo dục và khoa học vì sự phát triển của đất nước.
    1. Cần một tầm nhìn chiến lược. Muốn vực giáo dục và khoa học lên, vấn đề đầu tiên không phải là ''tiền đâu''. Thật sự nguyên nhân chính của sự suy thoái giáo dục, khoa học không phải do thiếu tiền mà do ta không biết cách làm, cách quản lý. Giáo dục, khoa học là một hệ thống phức tạp, chỉ có thể quản lý tốt trên cơ sở hiểu biết đầy đủ các đặc thù hệ thống của nó, và chú ý kinh nghiệm của thế giới và các thế hệ đi trước. Điều quan trọng trước hết là phải có một tầm nhìn chiến lược về mục tiêu trước mắt và lâu dài, hướng đi, nhu cầu, khả năng trong xu thế phát triển, tư tưởng chỉ đạo, đường lối tổng quát, cũng có thể gọi là triết lý làm giáo dục, khoa học thời nay, trong thế giới này. Thiếu một tư duy hệ thống, một tầm nhìn chiến lược bao quát thì dễ sa vào sự vụ, nay thế này mai thế khác, ''cải cách'' liên miên nhưng vụn vặt, chắp vá, không nhất quán, rốt cục tiêu tốn nhiều mà kết quả chỉ là làm rối thêm một hệ thống vốn đã què quặt, không có sinh khí. Thế giới ngày nay biến chuyển mau lẹ, xây dựng giáo dục và khoa học trong thế giới đó đòi hỏi những người lãnh đạo không chỉ có tâm trong sáng và trung thực mà còn phải đủ tầm nắm bắt nhanh nhạy những biến chuyển đó và có khả năng suy nghĩ sáng tạo để tìm ra chiến lược phát triển thích ứng nhất.
    [​IMG]
    Được điểm 10- Trần Thế Long
    2. Một lỗi hệ thống cần sửa. Không đâu cần bốn chữ cần kiệm liêm chính hơn trong lĩnh vực giáo dục, khoa học. Một nền giáo dục, khoa học đã thiếu vắng các đạo đức cơ bản ấy tất nhiên hoạt động không bình thường và sớm muộn lâm vào bế tắc. Khi đó chỉ bằng những điều chỉnh cục bộ theo cơ chế phản hồi trong điều hành không cứu nổi hệ thống, mà phải tìm cho ra các lỗi hệ thống và sửa các lỗi đó mới mong đưa được hệ thống ra khỏi khủng hoảng. Vậy cái lỗi hệ thống gì khiến cho giáo dục, khoa học của ta thiếu cần, thiếu kiệm và thiếu cả liêm, chính? Câu hỏi này đặt ra không chỉ cho giáo dục, khoa học mà cho cả bộ máy nhà nước ta. Chính vì cái lỗi hệ thống đó nên cuộc chiến chống tham nhũng cho đến nay vẫn chưa thành công.
    Mấu chốt nằm ở nghịch lý lương/thu nhập: lương chỉ bằng một phần nhỏ thu nhập ngoài lương, thì đương nhiên người lao động giáo dục, khoa học phải dồn phần lớn tâm trí, khả năng để kiếm thu nhập ngoài lương, mà phần này thì phân phối tùy tiện, bất công, không có kiểm toán chặt chẽ, cho nên là nguồn gốc nhiều sự tiêu cực mà ai cũng biết. Vì sao nói đó là lỗi hệ thống? Vì nó chi phối, làm méo mó mọi quan hệ trong hệ thống. Đến mức bây giờ dù có tăng lương cho đủ sống mà không sửa cái lỗi hệ thống đó thì cũng chẳng thay đổi được tình hình. Thậm chí lỗi hệ thống đó đã sản sinh ra những quan hệ vận hành lâu ngày trở thành một phần cấu trúc của hệ thống nên ngay khi đã sửa lỗi đó rồi cũng phải đợi một thời gian và có thể phải sửa thêm một số lỗi hệ thống khác nữa mới đưa được hệ thống về hoạt động bình thường.
    Dù sao, giải tỏa cái nghịch lý lương/thu nhập là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cần, kiệm, liêm, chính và do đó nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục, khoa học. Tôi dám cam đoan còn tồn tại nghịch lý đó thì giáo dục, khoa học còn hư hỏng. Mà giải tỏa cái nghịch lý đó hoàn toàn khả thi về tài chính, nhưng đương nhiên khó khăn tư tưởng khá lớn vì nó đụng chạm đến một bộ phận khá đông quan chức được hưởng lợi từ cách quản lý thiếu minh bạch này. Chung quy vấn đề là ta có thật sự muốn xây dựng một nền giáo dục, khoa học lành mạnh hay không, đó chính là câu hỏi phải trả lời trung thực.
    3. Tư duy toàn cầu. Muốn thắng cuộc trong thế giới toàn cầu hóa, tất nhiên mọi suy nghĩ và hành động đều phải chú ý tới luật chơi chung. Phải hướng tới và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong mọi lĩnh vực hoạt động thì mới có thể hợp tác và cạnh tranh được. Tiếc thay, từ việc đào tạo tiến sĩ, việc tuyển chọn giáo sư, tiêu chuẩn đánh giá trình độ một công trình khoa học, một nhà khoa học, một trường đại học, chúng ta đều có tiêu chuẩn riêng chẳng giống ai. Có những công trình khoa học, những luận văn tiến sĩ của ta ngay cả về những ngành học thuật có tính quốc tế như khoa học cơ bản, kinh tế, v.v..., nếu xét theo tiêu chuẩn thông thường ở các nước thì thậm chí chỉ là những mớ giấy lộn. Đội ngũ GS của ta thì nhiều người hữu danh vô thực, số khá đông dưới xa chuẩn mực quốc tế bình thường nhất. Oái ăm là trong khi đó nhiều người có năng lực xứng đáng, nhất là người trẻ, lại bị loại vì không đạt các tiêu chuẩn vớ vẩn, không giống ai, của ta. Chẳng lạ gì có những ông A bà B trong nước được coi là nhà khoa học nổi tiếng mà trên quốc tế hoàn toàn vô danh. Thời gian gần đây lại xuất hiện ngay trong hàng ngũ các quan chức hàng loạt viện sĩ ''hữu nghị'', viện sĩ ''chạy'', viện sĩ ''mua'', hoàn toàn không xứng với danh hiệu mà nhiều người vẫn tưởng là dành cho những tài năng lỗi lạc.
    Chuẩn mực xô bồ như vậy mà ngày nọ tôi còn thấy môt vị lãnh đạo của Hội đồng Chức danh GS tuyên bố trên báo rằng GS... phải là người xây dựng được trường phái học thuật của mình(!). Thật tình tôi không biết cái gọi là trường phái học thuật đó có gì chung với khái niệm trường phái học thuật theo cách hiểu thông thường ở các nước. Với chuẩn mực khác người như vậy, làm sao có thể hội nhập quốc tế dễ dàng được..
    Cái nguy hại của việc huênh hoang bất chấp các chuẩn mực quốc tế là ta tự lừa dối ta quá dễ dàng, cuối cùng thật giả lẫn lộn, chẳng còn sự phân biệt nào giữa người có năng lực thật và những kẻ bất tài. Các chức danh GS, PGS ở Việt Nam bây giờ quá rẻ, đến độ khi bàn về nhân tài mà nêu GS nọ GS kia, nhiều người nghe cũng đủ ớn.
    4. Trách nhiệm cộng đồng. Kinh tế tri thức thực chất là nền kinh tế dựa vào chất xám và tài năng. Cho nên công cuộc hội nhập muốn thành công phải coi trọng đặc biệt vấn đề thu hút nhân tài. Đã từ nhiều năm Nhà nước hô hào người Việt thành tài ở nước ngoài về nước làm việc. Chủ trương đó rất đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên sự thực thì vấp phải quá nhiều rào cản, mà rào cản lớn nhất là chủ trương chung thì thoáng nhưng đi vào cụ thể thì còn nhiều chính sách rất bí. Từ cấp lãnh đạo cao đến người dân chưa phải ai cũng đã thật sự thông suốt với chủ trương này.
    Chẳng hạn các cơ quan quan trọng như Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Văn phòng Chính phủ đều có nhiều quy định kỳ lạ, thể hiện những quan niệm rất bảo thủ và lạc hậu hoàn toàn không đếm xỉa gì đến những yêu cầu tối thiểu về điều kiện làm việc cho các nhà khoa học. Một vài ví dụ: theo quy định của bộ Tài Chính, tiêu chuẩn không gian nơi làm việc cho giáo sư thấp hơn cả trưởng phó phòng hành chính, giáo sư phải chen chúc nhiều người trong một phòng chật hẹp, tìm đâu có chỗ để nghiên cứu, thảo luận, gặp gỡ giúp đỡ sinh viên. Tiền thù lao giờ giảng thì phụ thuộc chức vụ hành chính một cách lố bịch (Thứ, Bộ trưởng được thù lao giờ giảng cao hơn hẳn GS, PGS). Xếp ngạch bậc lương thì GS bậc cao nhất cũng chưa bằng chuyên viên cao cấp bậc thấp nhất, và số bậc nhiều đến mức phần lớn nhà khoa học giỏi làm việc nghiêm túc đến khi nghỉ hưu vẫn chưa leo lên được đến bậc cuối cùng, trừ khi tuổi hưu được gia hạn đến... 90 hay 100.
    Hôm nọ tôi thấy trên báo còn có độc giả phát biểu: những người được đi học thành tài ở nước ngoài chưa đóng góp được gì cho Tổ quốc mà đòi hỏi điều kiện đãi ngộ này nọ là không ổn. Ai dám bảo ý kiến đó sai, nhưng sao mà nó giống với ý kiến: giáo sư là gì mà đòi hỏi buồng riêng, hoặc: anh là nhà khoa học Việt kiều, đã sống sung túc bao nhiêu năm, bây giờ về nước công tác sao còn đòi hỏi ưu đãi nọ kia. Với những quan niệm như thế thì thôi xin đành gác lại chủ trương thu hút người tài, và lùi cái thời hạn đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu sang thế kỷ 22 hoặc sau nữa.
    5. Tư duy tốc độ. Để hội nhập thành công trong thế giới ngày nay, không chỉ cần hiệu quả mà còn cần tốc độ, hay nói đúng hơn đáp ứng nhanh trở thành một lợi thế đáng kể trong kinh doanh, nhiều khi còn quan trọng hơn hiệu quả.
    Số là, cho đến gần đây, tiêu chí hàng đầu trong lĩnh vực kinh doanh là hiệu quả và thông thường các hãng tập trung vào dự đoán nhu cầu của khách hàng và tăng hiệu quả đồng vốn. Logic kinh doanh đó thích hợp khi thị trường ổn định và thay đổi chậm. Nhưng ngày nay, khi thị trường khó tiên liệu và thế giới biến chuyển nhanh chóng mặt, thì cái logic ấy không còn thích hợp mà phải nhường chỗ cho một logic mới đặt ưu tiên vào khả năng thích ứng mau lẹ nhiều hơn là hiệu quả. Trước kia cặm cụi ''làm-ra-và-tiêu-thụ'' ?" make-and-sell thì bây giờ phương châm hoạt động là thường xuyên ''nắm-bắt-và-ứng-đáp'' ?" sense-and-respond. Tốc độ, khả năng thích ứng mau lẹ trở thành yêu cầu tối quan trọng, nếu không muốn bỏ lỡ cơ hội.
    Trong cái thế giới đổi thay cực nhanh này, khó ai chấp nhận kiểu làm việc lề mề, chậm chạp như chúng ta. Cải cách hành chính hơn mười năm chưa thấy kết quả gì, chỉ thấy làm rối thêm một số việc đơn giản. Nhiều lỗi hệ thống là nguyên nhân chủ yếu sinh ra tham nhũng, quan liêu, lãng phí tràn lan, nhưng vẫn cứ tồn tại năm này qua năm khác. Kỳ họp Quốc hội nào cũng lên án mạnh mẽ tham nhũng, thế mà rồi cái quốc nạn ấy không hề bị đẩy lui. Ngay cái tập quán phong bì là nét văn hóa đáng xấu hổ của xã hội ta mà hàng chục năm rồi vẫn ngang nhiên tồn tại, thậm chí văn phòng một cơ quan đầu não còn làm gương xấu. Giáo dục, khoa học trì trệ, trong lúc chất xám bị sử dụng hết sức lãng phí. Năm này qua năm khác, hội thảo đi rồi hội thảo lại không biết bao nhiêu lần mà vẫn không có được một chính sách cụ thể khả dĩ đem lại chút niềm tin trong vấn đề này. Bàn đi tính lại mãi chuyện khuyến khích tài năng, cuối cùng chỉ làm được mỗi việc là ghi tên các thủ khoa đại học vào bảng vàng để ở Văn Miếu! Từ hơn mười năm về trước đã có biết bao đề nghị hợp lý về cải cách, chấn hưng giáo dục, từ việc đào tạo tiến sĩ, công nhận GS, PGS, đến nhiều việc cụ thể khác về thi cử, phân ban, tuyển sinh, tự chủ đại học,v.v. có thể nói không có vấn đề gì thiếu những đề nghị cải cách cụ thể, nhưng mãi đền gần đây một số những đề nghị ấy mới bắt đầu được nghiên cứu. Cải cách quản lý luôn là những chủ đề nóng của giáo dục và khoa học, nhưng cũng không có lĩnh vực nào đổi mới chậm chạp hơn giáo dục và khoa học. Ngay gần đây nhất cái ý tưởng hay lập một đại học đẳng cấp quốc tế, từ lúc được Thủ Tướng chấp nhận và nêu ra, được nhiều nhà khoa học Mỹ nhiệt tình ủng hộ, đến nay đã gần hai năm vẫn chưa thấy hình hài rõ ràng. Anh bạn tôi kể lại trong khi đó Thủ tướng Trung Quốc vừa sang thăm một nước Phương Tây, thỏa thuận với họ cho một đại học nổi tiếng mở chi nhánh ở Bắc Kinh thì chỉ mấy tháng sau họ đã chiêu sinh. Cơ hội gì cũng chỉ trong thời gian nào đó, có bao giờ là vĩnh viễn.
    Sống trong thời đại internet, tên lửa vũ trụ, điện thoại di động, mà cứ giữ nếp tư duy chậm chạp và làm việc rùa bò thì mọi thời cơ bay đi hết. Không ai đủ kiên nhẫn chờ chúng ta. Thời đại công nghệ thông tin vừa mới bắt đầu chưa lâu la gì thì nay họ đã bàn chuyển qua thời đại công nghệ nano, chưa biết rồi sẽ còn những gì bất ngờ nữa đây để liệu mà vừa làm vừa nghĩ vừa chạy, vẫn không kịp ''sense-and-respond''.
    Hoàng Tụy
    ---------------------------------------------------
    @ Tạp chí Tia Sáng - tiasang.com.vn http://huynh.thegioiblog.com/news?id=1307
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 20:37 ngày 23/10/2008
  2. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Khoa học và nghệ thuật
    14:21:58 19/01/2006
    Thông qua những thành tựu quan trọng trong toán học và nhất là trong vật lý học hiện đại, có thể nhận thấy, ở nhiều khía cạnh: có thể là cuộc đời, là cách mô tả thế giới khách quan, là cách vận dụng tư duy và trí tưởng tượng... các nhà khoa học và các nghệ sĩ có mối tương quan, mặc dầu quá trình sáng tạo khoa học và nghệ thuật đi qua những mê lộ khác nhau của logic và trực giác.
    [​IMG]
    Gauguin và Bolyai
    Có nhiều nghệ sĩ cũng như nhiều nhà khoa học đạt những thành tựu to lớn, đem lại vô vàn giá trị cho nhân loại và cuộc đời của họ sáng chói lên như một bó đuốc, làm rung cảm sâu sắc trái tim của các bạn, của tôi và của hàng vạn con người. Số phận của họ có lúc vừa bi thảm vừa hùng tráng.
    Trong ký ức của tôi luôn luôn sâu đậm ấn tượng của hai cuộc đời: cuộc đời của hoạ sĩ Pháp Paul Gauguin và nhà toán học Hungary Janos Bolyai.
    Eugène Henri Paul Gauguin (1848-1903) là một họa sĩ hậu ấn tượng.
    Có thể nói, như trong một truyền thuyết khó lòng giải thích được bằng logic, tiềm thức nghệ sĩ của Gauguin bỗng bừng dậy theo tiếng gọi thầm kín của nghệ thuật. Gauguin không thể nào cưỡng lại cái ma lực đó và bỏ nhà cửa vợ con đi tìm cái đẹp của những màu sắc dưới ánh nắng chói chang của vùng nhiệt đới. Những bụi hoa dại màu đỏ, những đám rêu xanh bên cạnh những dòng nước trong rừng già, những đám lá cây vàng mục hầm hập toát lên mùi nguyên thủy, những bờ biển quyến rũ trên đảo Tahiti, những thổ dân đáng yêu đầy sức sống. Cam chịu một cuộc đời khổ ải, Gauguin theo đuổi cái đẹp mà chỉ riêng tâm hồn và tài năng của ông mới phát hiện và mô tả lại được.
    Trong nhiều tài liệu người ta cho rằng Gauguin chán nỗi với văn minh Âu Châu vì ''ở đấy mọi điều đều giả tạo và ước lệ'' để xuôi buồm về Tahiti rồi Marquesas. Song trong thâm tâm tôi vẫn nghĩ rằng có lẽ tiếng gọi thầm kín của nghệ thuật và sức hút của những vùng nhiệt đới xa lạ (exotic) mới có sức mạnh mãnh liệt đó. Đến đây tôi không thể nào không nhớ đến thi sĩ người Pháp thế kỷ thứ 19 Leconte de Lisle, chắc cũng không phải quá chán nỗi với văn minh Âu Châu mà ông sáng tác tập thơ về những nền văn minh xa lạ: Poèmes barbares ?" Những vần thơ man dại mà chính vì những miền xa lạ này có sức cuốn hút đầy ma lực. Xin trích ba câu từ bài thơ tuyệt vời đầy màu sắc exotic: Giấc mơ của con báo đốm ?" Le rêve du Jaguar:
    Giữa cây lá rừng già nằm mơ con báo đốm
    Một bước nhảy vồ mồi cắm sâu vòng vuốt nhọn
    Và bò rừng quằn quại gục dưới nắng chiều hôm.

    Cái màu sắc exotic đó cũng là màu sắc exotic trong hai bức tranh tiêu biểu của Gauguin là: ''Chúng ta từ đâu đến'' và ''Manao Tupapau''. Hai bức tranh này được in lại đây cùng với lời chú thích
    [​IMG]
    Paul Gauguin . Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta là ai? Chúng ta đi về đâu?
    Đây là bức tranh lớn nhất mà Gauguin đã từng vẽ: 1,39m x 3,75m. Gauguin xem đây là tuyên ngôn của ông về bản thân, về triết lý, về hội hoạ . Sau khi vẽ bức tranh này ông đã viết cho bạn ông là Daniel de Monfreld: '' Phải nói với bạn rằng tôi đã có ý định tự sát. Trước khi chết tôi muốn hoàn thành bức tranh lớn này. Tôi đã làm việc trong một cơn sốt, tôi tin tưởng rằng bức tranh này vượt xa các bức khác về giá trị. Tôi đã trút vào bức tranh sự đam mê đau đớn trong những tình huống khủng khiếp''.
    Ý nghĩa của bức tranh là mô tả vòng đời. Bức tranh phải được đọc từ phải qua trái: một trẻ đang ngủ, tiếp đến ba người đàn bà ngồi, rồi đến một nhân vật tay đưa lên cao kinh ngạc nhìn hai nhân vật khác đang suy nghĩ về số phận,... tiếp theo là một tượng thần giơ hai tay như chỉ về thế giới bên kia..
    [​IMG]
    Paul Gauguin. Manao Tupapau (Nghĩ về người đã mất)
    Một người đàn bà Châu Đại dương khỏa thân nằm sấp, thể hiện một thần thoại địa phương nhờ một bóng hiện về đứng phía sau, những hoa màu có ánh lân quang, và nhạc nguyện qua các màu tím, xanh tối, vàng cam.

    Hãy đem cuộc đời đam mê nghệ thuật của Gauguin đặt cạnh một cuộc đời khác, cuộc đời của nhà toán học tài năng người Hungari: Janos Bolyai.
    [​IMG]
    Trong lịch sử toán học có nhiều phát minh kỳ diệu, nhưng có lẽ chỉ sự phát minh ra hình học phi - Euclide là sáng chói nhất và đầy kịch tính. Sự phát minh ra hình học phi Euclide gắn liền với tên tuổi của ba nhà toán học vĩ đại: Bolyai, Gauss và Lobatchevski.
    Janos Bolyai (1802- 1860) có khiếu toán học từ ngày còn nhỏ. Trong những năm từ 1820 đến 1823 Bolyai
    nghiên cứu hình học phi Euclide, đến năm 1832 ông công bố các kết quả nghiên cứu của mình dưới dạng Phụ lục trong một quyển sách toán học mà tác giả là Farkas Bolyai, bố của ông. Nhà toán học Gauss khi đọc Phụ lục này đã thốt lên: ''Tôi cho rằng nhà hình học trẻ tuổi Janos Bolyai là một thiên tài bậc nhất''.
    Từ khi nghe bố cũng là một nhà toán học xuất sắc, nói đến tiên đề về các đường song song của Euclide thì Bolyai không giờ phút nào để cho tâm hồn mình được yên tĩnh. Tiên đề về các đường song song của Euclide đã hai nghìn năm chưa ai chứng minh được: nếu kéo dài hai đường song song ra vô tận thì chúng sẽ gặp nhau, hay ngược lại xa nhau dần? Bài toán đó đã thu hút hết trí lực của Bolyai. Bố của Bolyai trước đây cũng đã mất bao nhiêu năm tháng của cuộc đời mình cho tiên đề về các đường thẳng song song của Euclide, đã viết cho con một bức thư đẫm nước mắt. Trong bức thư bố của Bolyai khẩn cầu con đừng để tâm lực vào tiên đề V của Euclide. ''Đó không phải là một bài toán mà là một lời nguyền có ma lực của kẻ phù thủy! Bố đã mất ăn mất ngủ vì tiên đề đó, bố không muốn con chết dần mòn, tiêu hủy tuổi thanh xuân vì tiên đề đó không đem lại sự yên tĩnh cho tâm hồn và vinh quang cho cuộc đời con. Bố van con!''
    Mặc cho mọi lời khuyên của bố, Janos Bolyai bị cuốn hút bởi tiên đề V của Euclide như bởi một ma lực có thể so sánh với cái ma lực đã cuốn hút Gauguin đi tìm vẻ đẹp của thiên nhiên và con người vùng nhiệt đới.
    Janos Bolyai là một nhà ngôn ngữ kiệt xuất, ông biết 9 thứ tiếng trong đó có tiếng Trung Quốc, tiếng Tây Tạng ở một trình độ cao. Đại học ở Cluj-Napoca hiện nay mang tên ông, ngoài ra người ta còn lấy tên ông để đặt tên cho một miệng núi trên mặt trăng để người đời tưởng nhớ đến ông.
    Nếu không có những nhà khoa học và những nghệ sỹ thiên tài, chúng ta không nhìn thấy được thế giới khách quan với tất cả những tính chất và vẻ đẹp của nó.
    Nhờ Bolyai, Gauss, Lobatchevski và nhà vật lý lớn nhất của mọi thời đại là Einstein, chúng ta hiểu được rằng, không thời gian là một thực thể bốn chiều mô tả bởi hình học phi Euclide, tính chất của không thời gian được quyết định bởi sự phân bố của vật chất.
    (còn tiếp)
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 20:29 ngày 23/10/2008
  3. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    (tiếp theo)
    Lỗ đen trong vũ trụ và maelstrom của Edgar Poe
    Maelstrom có nghĩa là một vùng nước xoáy nguy hiểm rợn người. Khi nói đến câu chuyện vùng nước xoáy này của Edgar Poe người ta thường dùng ngay từ maelstrom để giữ lại không khí nguyên bản.
    Edgar Poe(1809-1849) là văn sĩ, thi sĩ và triết gia Mỹ, tác giả của nhiều tiểu thuyết kinh dị. Năm 1849, người ta tìm thấy ông bất tỉnh trên một đường phố Baltimore và sau đó ông chết trong bệnh viện từ thiện. Một tài hoa kỳ lạ và bi thảm trong lịch sử văn học Mỹ.
    Mỗi người trong chúng ta đều có dịp, một đêm trăng sao nào đó, nhìn lên bầu trời sâu thẳm, và sau giây lát choáng ngợp bởi sự bao la bí mật của vũ trụ, chúng ta tự hỏi: vũ trụ hữu hạn hay vô hạn, có biên giới hay không biên giới, vũ trụ đã hình thành và phát triển như thế nào, vật chất và không thời gian liên hệ với nhau theo những định luật gì? Lý thuyết tương đối của Einstein đã đặt cơ sở cho việc trả lời những câu hỏi trên.
    Năm 1973, thông báo về sự phát hiện ra lỗ đen đã làm cho các nhà thiên văn và vật lý hấp dẫn, sửng sốt, mặc dầu sự tồn tại của lỗ đen đã được Oppenheimer và Snyder tiên đoán từ năm 1939 trên cơ sở của lý thuyết tương đối Einstein.
    Lỗ đen là những sao đã tiêu hao hết nhiên liệu hạt nhân của mình và co lại dưới tác dụng hấp dẫn. Trường hấp dẫn và độ cong của không gian ở đây lớn đến nỗi tia sáng bức xạ từ lỗ đen cũng không đủ sức vượt ra ngoài. Quanh lỗ đen có những vùng không gian với tính chất riêng. Vùng ngoài cùng có ranh giới gọi là ranh giới tĩnh. Nếu con tàu vũ trụ lọt vào vùng này thì còn có hy vọng thoát khỏi sức hấp dẫn của lỗ đen và vượt ra ngoài theo chiều quay của lỗ đen. Tiếp theo vùng không gian này là vùng không gian nằm sau ranh giới có tên là chân trời. Nếu con tàu rơi vào vùng không gian nằm phía sau chân trời thì mất mọi hy vọng thoát khỏi tai biến bị hút vĩnh viễn bởi lỗ đen. Những vùng không gian với các tính chất nói trên đều suy ra từ phương trình Einstein. Sự phát hiện ra lỗ đen đầu tiên (Thiên nga X-1) đập mạnh vào trí tưởng tượng của con người.
    Song có một điều kỳ lạ và bất ngờ đối với các nhà vật lý là hiện tượng lỗ đen với các vùng không gian có các tính chất nói trên đã được mô tả trong truyện: Một cuộc đi xuống vực xoáy (A descent into the Maelstrom) của Edgar Poe.
    Một sự trùng hợp tình cờ? Hai hiện tượng giống nhau? Hay ở đây là sự gặp gỡ giữa duy lý của trí tuệ khoa học với trực giác của tài năng nghệ thuật.
    Sau đây là một đoạn trích từ truyện:
    ''Con thuyền của chúng tôi bị hất tung lên khỏi mặt biển, tôi cố gắng vuợt qua nỗi sợ và tập trung mọi cảm giác để nghĩ xem có thể làm được điều gì thì tôi thấy dường như ai đó đã bấu chặt vào cánh tay tôi. Đấy là anh tôi và tim tôi rộn lên một niềm vui sướng vì nghĩ rằng anh tôi đã bị sóng hất ra khỏi con thuyền-song tiếp theo giây phút hạnh phúc đó thì tôi lại rơi vào một niềm kinh hãi ?" anh tôi đã ghé sát vào tai tôi rồi thét lên ''maelstrom''.
    Chưa hết! Độc giả hãy nhìn kỹ bức tranh gỗ ở thế kỷ XIX. Bức tranh đã lột hết tinh thần tai biến của hiện tượng lỗ đen và làm cho chúng ta ngạc nhiên vì tính chính xác trong cách mô tả của nghệ nhân. Các bức tranh nghệ thuật sau này về lỗ đen dường như chép lại ít nhiều từ bức tranh khắc gỗ trên
    [​IMG]
    Maelsstrom- bức tranh khắc gỗ thế kỷ XIX
    Nhị nguyên vĩ mô và vi mô của vật chất hay là cuộc phiên lưu của bé ALICE
    Alice, nhân vật trong cuốn sách nổi tiếng: ''Cuộc phiêu lưu của bé Alice vào thế giới những điều kỳ lạ'' của Lewis Carroll. Lewis Carroll có tên thật là Charles Lutwidge Dodgson vốn cũng là một nhà toán học có nhiều công trình biên soạn về đại số, hình học và logic, ông giảng dạy tại Đại học Christ Church ở Oxford.
    Tôi hồi tưởng lại những năm tháng được làm việc tại Viện Liên hiệp Nghiên cứu Hạt nhân ở thành phố Dubna (Nga), tại đây tôi được biết bên cạnh Viện sĩ Nga Moisce Aleksandr Markov, một con người lỗi lạc.
    Các công trình sâu sắc của Viện sĩ Markov đã dẫn trí tưởng tượng của chúng ta đến một bức tranh lạ lùng của thế giới khách quan, dường như phát hiện một nhị nguyên mới ngoài nhị nguyên sóng và hạt của vật chất. Đó là một nhị nguyên vĩ mô - vi mô: vật chất vừa có tính vi mô vừa có tính vĩ mô.
    Viện sĩ Markov mô tả hạt cơ bản như mẫu vũ trụ đóng kín ứng với lời giải Fridman của phương trình Einstein. Tính chất đặc biệt của mẫu vũ trụ này là diện tích bao quanh tâm vũ trụ tăng từ số không đến một trị số cực đại và sau đó lại giảm về số không khi bán kính của vũ trụ tăng từ số không đến trị số cực đại. Tính chất này có thể dễ dàng nhận thấy được nếu ta xem vũ trụ này là mặt cầu hai chiều và trung tâm vũ trụ được đặt ví dụ tại cực Nam; diện tích bao quanh tâm vũ trụ bây giờ là những đường vĩ tuyến có độ dài tăng từ không đến một trị số cực đại và sau đó giảm về không lúc chúng ta đi từ tâm vũ trụ và tiến dần về cực Bắc.
    [​IMG]
    Nhưng nếu hạt cơ bản có một thông số nào đó (ví dụ điện tích, momen quay...) thì mẫu vũ trụ không còn kín nữa và mở ra như một đài hoa. Phần dưới ứng với lời giải trong Fridman, còn phần trên ứng với lời giải ngoài Reissner ?" Nordstrom hoặc Kerr hoặc Kerr-Newman tùy theo thông số của hạt cơ bản. Chỗ eo lại là vùng không ?" thời gian nối liền hai lời giải trong và ngoài. Như vậy đối với một quan sát viên ở vùng ngoài thì kích thước của vùng trong Fridman bằng đúng kích thước của chỗ eo lại, nghĩa là chỗ mà vũ trụ kín bắt đầu mở ra. Kích thước vùng này cỡ kích thước hạt cơ bản. Người ta còn có thể chứng minh rằng khối lượng của vùng trong cũng vào cỡ khối lượng một hạt cơ bản bằng cách lấy tổng đại số của khối lượng quán tính và năng lượng hấp dẫn.
    Một điều kỳ lạ nhất trong những điều kỳ lạ đập mạnh vào trí tưởng tượng của ta là: nếu ta đi từ vùng ngoài của vũ trụ xuyên qua chỗ eo thì ta rơi vào vùng trong của vũ trụ, ở đấy ta có thể thấy cả một vũ trụ vĩ mô với các sao, các thiên hà lẫn những nền văn minh tuyệt đỉnh của những con người với mọi niềm buồn vui hằng ngày của họ. Tất cả thế giới vĩ mô này đối với người quan sát ''bên ngoài'' chỉ là một vật thể vi mô.
    Lý thuyết của Viện sĩ Markov đã vẽ nên một thế giới khách quan kỳ ảo hơn cả các thế giới trong các truyện viễn tưởng.
    [​IMG]
    Bé Alice bối rối vì mất định hướng quy chiếu
    Bức tranh của Markov làm chúng ta liên tưởng đến quyển tiểu thuyết nổi tiếng Cuộc phiêu lưu của Alice vào thế giới những điều kỳ lạ (Alice,s adventuves in wonderland) của nhà văn Lewis Carroll. Trong quyển tiểu thuyết bé Alice đã gặp nhiều nhân vật kỳ lạ thử thách logic và lương tri cảm nhận thông thường của bé. Bé Alice luôn biến đổi kích thước cơ thể mình và mất định hướng quy chiếu nên nhiều câu hỏi sâu sắc về sự tồn tại đã được bé đặt ra, làm cho chúng ta bối rối lạ lùng như bé Alice, vì ta bất giác tự hỏi: tất cả mọi vật xung quanh chúng ta và cả chúng ta thật sự nằm '' trong'' một hạt cơ bản bé xíu hay sao?
    Duy lý, trí tuệ khoa học của Markov đã dẫn đến những bức tranh không khác mấy bức tranh vẽ nên bởi trực giác, tâm hồn giàu trí tưởng tượng của Carroll.
    Lời kết
    Trong thời đại hiện nay, sự xâm nhập của toán học và vật lý học vào các ngành khoa học khác như hóa học, sinh học, dường như khoảng cách giữa các bộ môn khoa học ngày càng nhỏ đi. Liệu khoa học và nghệ thuật có xích gần lại với nhau để cuối cùng hòa lẫn với nhau thành một phạm trù khoa học ?" nghệ thuật? Điều lạ lùng là ý tưởng này đã được Gustave Flaubert phát biểu từ thế kỷ XIX: ''khoa học và nghệ thuật đã từ lâu bị phân chia bởi những hoạt động phân kỳ của trí óc phải được xích gần nhau lại nếu không phải là được hòa lẫn với nhau làm một''. Bản thân Flaubert, ông tự xem là trong ông có hai con người, một thuộc về nghệ thuật để tưởng tượng, để viết nên những câu chuyện trữ tình, và một để phân tích khách quan, bảo đảm tính hiện thực theo đúng tinh thần khoa học (khi mô tả cái chết của bà Bovary ông đã nghiên cứu hàng nghìn tài liệu y học về nhiễm độc arsenic).
    Trong những năm gần đây người ta nghiên cứu vấn đề viễn tải lượng tử (quantum teleportation) mà câu chuyện lại xuất phát từ nghệ thuật.
    Phim khoa học viễn tưởng nhiều tập Star Trek đã dựng nên một viễn cảnh khoa học giàu tưởng tượng. Thuyền trưởng Kirk nhờ thuyền phó bấm một số nút và Kirk đã phi vật chất hóa (dematerialise) thành một tia chớp ánh sáng để xuất hiện trên một hành tinh bí ẩn. Đây là một ví dụ đặc sắc về tác động củanghệ thuật lên khoa học (cũng có thể nhắc đến trường hợp họa sĩ Escher tìm ra đối xứng màu trong toán học).
    Hi vọng lý thuyết siêu dây là lý thuyết tối hậu có khả năng thống nhất bốn loại tương tác của thiên nhiên: hấp dẫn, điện từ, mạnh và yếu, gọi là lý thuyết M (M ở đây là chữ đầu của ma lực). Lý thuyết này sẽ là bức panô lớn nhất của thế kỷ XXI, mô tả thế giới khách quan một cách toàn diện hơn bất cứ lý thuyết nào hiện có và sẽ là chiếc đèn thần giúp các nhà khoa học và nghệ thuật tìm ra nhiều mối quan hệ mới trong thế giới khách quan, cung cấp cho chúng ta nhiều dạng năng lượng, sáng tạo ra những công trình khoa học, nghệ thuật.
    Tài liệu tham khảo
    [1]. V.P. Frolov: UFN, vol 118, N0 3, 1976.
    [2]. B. Carter, J, P. Luminet : La Recherche, N0 94, Novembre 1978.
    [3]. Mỹ đã quay phim Lỗ đen. Khoa học viễn tưởng, đạo diễn Ron Miller, phim quay tốn 20 triệu đôla, chỉ đứng sau phim Star-Trek quay tốn 40 triệu đôla.
    [4]. S. G. Matinian: UFN, vol 130, N03, 1980.
    [5]. D. Z. Freedman, P. Van Niewen hui-zen: UFN, vol 128, N01, 1979.
    [6]. Cao Chi: Einstein với khoa học và công nghệ hiện đại, 2005.
    [7]. Cao Chi: Einstein dấu ấn trăm năm, Tia sáng 2005.
    [8]. Cao Chi: Viễn tải lượng tử , Vật lý ngày nay, 2005

    Tác giả: Cao Chi
    Lan0303: chú thích Cao Chi là GS-TSKH.
    ---------------------------------------------------------------
    http://huynh.thegioiblog.com/news?id=285
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 20:33 ngày 23/10/2008
  4. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Hôm nay có dịp xem lại hồ sơ Y2K, thấy có một bài cũng là lạ, nên post lên đây chia xẻ cùng các Bạn:
    [​IMG]
    Ngày 25/11/98 Nguồn: http://www.year2000.com
    Sự cố năm 2000 và Con tàu Titanic
    Warren S. Reid

    Do thành công vang dội của bộ phim Titanic, nên hiện nay có rất nhiều ý kiến đưa ra xung quanh cuộc hành trình đầu tiên bất hạnh của con tầu Titanic, con tầu đã chìm ở Đại Tây Dương năm 1912.
    ở đây chúng ta có một tuyệt tác công nghệ của thời đại, con tầu lớn nhất, sang trọng nhất được chế tạo ở vào thời điểm đó, con tầu bất khả đắm Titanic. Thế nhưng đêm ngày 14/4/1912, tầu Titanic đã va phải một tảng băng và chìm trong làn nước giá lạnh tàn nhẫn của Đại Tây Dương, cướp đi sinh mạng của 1523 hành khách con tầu du hành chỉ với 20 thuyền cứu hộ. Thế kỷ 20 vừa mới bắt đầu, vậy mà chỉ có sự chấp nhận về lý, hầu như không một chút nghi ngờ gì về công nghệ mới cũng như khả năng làm cho cuộc sống dễ chịu và tốt đẹp hơn của nó.
    Tầu bất khả đắm như thế nào?
    Vượt qua những lời đồn đại thổi phồng về con tầu Titanic, chúng ta biết rằng có một vài con tầu được chế tạo thậm chí là 50 năm trước đó, trên thực tế còn vững chắc và bất khả đắm hơn thế. Những tầu như Great Eastern, một con tầu chở khách khổng lồ, có hai lớp thân tầu với vách ngăn kín nước cao hơn, hai vách ngăn dọc và mười lăm vách ngăn ngang, tất cả tạo nên 45 đến 50 khoang kín nước, hơn nữa trreen những vách ngăn này lại không có cửa.Tầu Titanic, mặt khác, chỉ duy nhất một vỏ thân tầu, nhằm mở rộng diện tích trong các khoang hạng nhất, chỉ có các vách ngăn kín nước ngang thân tầu tổng cộng 15 vách ngăn (tạo ra được 16 ngăn kín nước). Đỉnh các vách tương đối thấp hơn so với tàu Great Eastern. Trên rất nhiều vách ngăn có thiết kế cửa, tạo điều kiện cho bồi bàn và người phục vụ đi lại, làm việc nhanh hơn. (Cần chú ý một điều quan trọng là đa số những cửa này bị mở khi con tàu đang chìm dần, với mục đích để các máy bơm hoạt động nhưng cũng đồng thời khiên cho nước tràn vào nhiều hơn).
    Điều thú vị nhất về Titanic là những bài học rút ra từ bi kịch này và chính những bài học đó có thể giúp chúng ta chuẩn bị tốt hơn cho cơn khủng hoảng máy tính năm 2000. Thảm hoạ tàu Titanic không khủng khiếp ơ chỗ nó đã bị đắm, mà là ở sự hi sinh tính mạng của hơn 1500 con người vô tội.
    Những mục tiêu
    Tôi tin là thảm họa đó dã có thể tránh được ở 3 thời điểm khác nhau:
    Trước khi tầu đâm vào băng
    Sau khi tàu đâm vào băng nhưng vẫn còn đang nổi
    Sau khi tàu chìm
    Giống như tàu Titanic, sự cố năm 2000 cũng có 3 thời điểm khác nhau để tránh hay làm giảm tối thiểu thiệt hại.
    Hiện nay (nghĩa là trước những đợt hỏng hóc đầu tiên)
    Vào ngày 1-1-2000
    Và trong suốt 18 đến 24 tháng sau đó
    Trong mỗi khung thời gian này, có thể giảm tối thiểu ảnh hưởng tai hại tiềm tàng của Y2K tới cơ quan cũng như cuộc sống của bạn. Cần phải nhận thấy rằng những thiệt hại sẽ càng nặng nề hơn nếu bạn chờ đợi lâu hơn nữa.
    Trong bài viết này, tôi hi vọng cùng các bạn soi xét những tình huống nguy hiểm, nhưng có thể ngăn chặn được. Ta cũng xem sét những sai lầm dẫn đến tai hoạ cho tàu Titanic để bạn có thể tránh được những tảng băng tương tự vào năm 2000.
    Tôi sẽ cố gắng khám phá ra những lời đồn đại thổi phồng và huyền bí từ sự thất quanh những thảm hoạ này. Cuối cùng, tôi sẽ đưa ra một loạt các ''tảng băng'' mà ''con tàu năm 2000'' của các bạn phải chèo lái để vượt qua được dông bão năm 2000.
    Tôi tin rằng hầu hết các tảng băng nằm sâu dưới nước và những khối băng lớn này có thể cản đường đi của bạn bất kì lúc nào thì việc biết những nguy hiểm sắp tới nằm ở đâu, bạn có thể làm gì với chúng sẽ giúp bạn chọn hướng đi tốt hơn, không bao giờ sợ chìm và những điều này sẽ giúp bạn tới đích.
    Trước vụ va chạm
    Trước khi tàu Titanic va vào tảng băng, có đã nhận được cả thay bảy bức điện tín cảnh báo từ những tàu khác. Những khuyến cáo này (tất cả đều phát đến trong vòng 24 giờ đồng hồ trước sự cố) chỉ ra rằng lộ trình đặc biệt của tàu Titanic đã đặt ra những rủi ro rất lớn do thời tiết mùa đông băng giá và sự hiện diện của các luồng băng không điển hình. Bức điện cảnh báo cuối cùng thậm chí cũng đã không được chuyển tới trưởng tàu, vì thế ông ta không hề bận lòng gì khi chiêu đãi hành khách. Những nguy hiêm đã không được biết tới và bị bỏ mặc không sử lý.
    Cũng như thế, rất nhiều nhân viên điều hành và cả các CIO đã không thèm biết tới dư luận truyền thông và những khuyến cáo liên tục về định mệnh treo lơ lửng trước mặt, qua ti vi, báo chí, đài phát thanh, băng hình, từ thông tin từ các nhà cung cấp, các chuyên gia đến các cuộc hội nghị, hội thảo, báo ngành... hầu như khắp mọi nơi.
    Năm 1998, một vài hỏng hóc sớm được loan tin liên quan đến việc hết hạn trả của các khoản vay nợ, việc đăng ký mua tạp chí dài hàn, mua thẻ tín dụng... Tuy vậy, phần lớn các công ty vẫn không tin rằng cơn khủng hoảng này sẽ tác động tới họ, hay nếu không thế thì cũng chẳng hành động gì. Vô số các cuộc điều tra đáng tin cậy cho thấy dưới 15% tổng số các công ty ở Hoa Kỳ hiện đang ở bên kia của giai đoạn nhận thức và lập kế hoạch.
    Đến giữa năm 1998 mới có sự nhận biết đầu tiên và tiến hành lập kế hoạch cho Y2K thì quả là quá muộn. Hi vọng duy nhất là việc lập các kế hoạch đề phòng, giúp các công ty xoay sở quan năm 2000 và 2001 trong khi họ tập trung những phần việc chưa làm được lại với nhau.
    Bây giờ thậm chí vẫn còn những người cho rằng ''điều này không đáng được gọi là một sự kiện'' mà chỉ có tác dụng tạo công ăn việc làm cho các nhà cố vấn và các luật sư. Một điều không thể tin nổi là có những người khác luôn khẳng định rằng Bill Gates sẽ không để cho ngành công nghiệp này chìm đắm và ông ta sẽ cung cấp viên đạn bạc vào phút cuối cùng.
    Thái độ tâm lý chủ quan về sự vĩ đại, an toàn cùng với sự hài lòng trong những hoạt động hàng ngày của con tàu lan truyền trong toàn bộ hành khách trên tàu Titanic. Người ta chẳng mảy may nghĩ gì tới khả năng xảy ra thảm kịch hay những tai nạn hàng hải thông thường khác.
    Rất nhiều, nếu không phải là hầu hết các nhân viên điều hành công ty ngày nay vẫn tin tưởng ''Điều đó không thể xảy ra với chúng ta'' hoặc ''Nó có thể nghiêm trọng đến mức nào được chứ?''. Quan niệm về một trạng thái ''bất khả đắm'' vẫn còn tồn tại ở ngay những công ty đó. Họ tin rằng máy tính vẫn luôn hoạt động ngay cả khi chúng thường xuyên bị trục trặc. Nhân viên hay các nhà cố vấn vẫn luôn có thể chỉ ra những rắc rối ngay cả trong quá trình sản xuất.
    Sự phủ nhận thực tế này và phạm vi rộng lớn của vấn đề năm 2000 cùng với khả năng ảnh hưởng đến tất cả các hệ thống máy vi tính các nhân, các chíp nhúng, các thiết bị viễn thông và cơ sở hạ tầng.
    Chẳng có cuộc diễn tập bằng thuyền nào được diễn ra trên tàu Titanic để cho phép hành khách và thuỷ thủ đoàn thực tập các phương án cần phải tuân theo trong trường hợp nguy cấp xảy ra.
    Cũng như thế, hầu như không có công ty nào ngày nay có được một kế hoạch dự phòng trên văn bản giấy tờ được xem xét và tuyên truyền để phác hoạ những đường lối, phương hướng, trình tự cũng như điều kiện vật chất và nhân lực cần thiết giữ cho công ty của họ tiếp tục hoạt động trong trường hợp các hệ thống quan trọng đó bị tác động nghiêm trọng bởi SCN2000.
    Cố gắng quyết định xem có đúng là một con tàu đang chìm thì rõ ràng không phải là thời điểm tốt nhất để đề ra chiến lược và thực hiện một kế hoạch! Con tàu Titanic chỉ mang theo 20 thuyền cứu hộ, kể cả 4 thuyền cứu hộ nhỏ kiểu bơm hơi. Những thuyền cứu hộ này nếu có đầy chật người đi chăng nữa cũng không thể đủ chỗ cho 50% số hành khách trên tầu. Đó không phải là kế hoạch đề phòng biến cố. Tuy nhiên nếu như một con tàu là ''bất khả đắm'' thì việc gì phải lo ngại?
    Bạn lo ngại vì có quá nhiều điều may rủi, việc chuẩn bị cho những rủi ro là vô cùng quan trọng. Dù vậy hiện nay rất nhiều công ty sợ sệt hay không sẵn lòng chấp nhận việc điều chỉnh cho năm 2000 có thể sẽ cần những nguồn tài chính khổng lồ. Trong nhiều trường hợp, công việc này đòi hỏi chi phí quá mức, thiết bị, công cụ, việc quản lý, lập kế hoạch hay cần nhân lực gấp đôi để thực hiện các kế hoạch dự phòng cùng với các nỗ lực sửa chữa.
    Chẳng hạn tại sao những nhà băng và công ty tiến bộ hơn lại lập dự thảo ngân sách từ 250 triệu đến 500 triệu đôla nhưng công ty khác cùng cảnh ngộ chỉ lập dự thảo ngân sách từ 20 đến 40 triệu đôla? Tổ chức nào đang đối mặt với tảng băng Y2K?.
    Các thủy thủ của đoàn tầu Titanic không phải không hay biết gì về kết quả kiểm tra việc sơ tán (đưa người xuống tầu cứu hộ trước khi tầu được hạ thủy). Những cuộc diễn tập kiểm tra này được thực thi hàng tháng trước đó, chứng tỏ những tầu cứu hộ của Titanic (dựa trên cơ cấu máy của tàu và các định mức nước) có thể trở được 60 - 65 người một cách an toàn trước khi hạ thuyền. Điều này trở nên vô cùng quan trọng khi thực tế sau đó các thuỷ thủ ra lệnh cho một vài thuyền cứu hộ hạ thủy chỉ với một nửa số người trên thuyền hoặc ít hơn vì sợ rằng những con thuyền này có thể gãy và đâm xuống biển.
    Vậy ngày nay đã có bao nhiêu kết quả kiểm tra, những hạn chế trong hệ thống hoạt động được thông tin tới ban quản lý công ty và người điều hành những hệ thống này, họ có thể đánh giá đầy đủ những hạn chế sắp gặp phải từ hệ thống của họ vào năm 2000?
    Một con tầu gần đó, tầu Califonia, trong tầm nhìn (cách khoảng 16 dặm) thực sự đã cố gắng gửi một thông điệp và cảnh báo cho tầu Titanic trước thời điểm nó va phải tảng băng. Phòng điện tín của chính con tầu Titanic, một trong bức điện rất không bình thường đáp lại '' Im đi, hãy im đi!'' và không chịu chấp nhận bức điện đó.
    Các nhân viên tổng đài tầu Titanic lúc đó đang gửi những lời chào mừng từ các hành khách trên tầu lên bờ và không muốn bị làm phiền. Người trực tổng đài tầu Califonia sau đó đi ngủ, một điều bình thường vào năm 1912 (không yêu cầu nhân viên trực điện đài trong suốt 24 giờ) Tầu Califonia đã không nhận thấy tầu Titanic đang gặp phải sự cố, cho tận tới vài giờ sau khi tầu Titanic chìm và tầu Califonia đã hoàn tất việc cứu chữa những người sống sót.
    Cuộc khủng hoảng năm 2000 cũng là một sự tương tự đáng chú ý. Ban đầu rất nhiều CIO kêu gào sự trợ giúp của ban giám đốc nhưng nhiều ban giám đốc không chịu hay không muốn nghe tin dữ, những vấn đề có ảnh hưởng lớn và yêu cầu về những khoản ngân sách quá lớn. Tuy nhiên hiện nay các ban giám đốc lại đang hò hét, yêu cầu thêm thông tin về những tảng băng năm 2000, nhưng những CIO, những nhà công nghệ, các cố vấn lại phải hoàn tất việc đánh giá chính xác và đầy đủ. Ai là người đang ngủ lúc này?
    Nổi sau khi va chạm
    Một vài giờ sau khi đâm vào tảng băng, tầu Titanic chìm, những cú điện kêu cứu điên cuồng đã được nhiều tầu đáp lại nhưng con tầu gần nhất thì cũng cách xa nó gần 5 giờ chạy. Đợi đến lúc nó đến nơi, thì khoảng 1500 hành khách đã chết cóng (chứ không chết đuối) trong nước biển Bắc Đại Tây Dương chờ cứu hộ.
    Thật không may, nhân viên tầu Califonia đang ngủ ở tay lái bỏ mặc điện đài, không có người trực và đã không giúp đỡ và cứu được sinh mạng nào. Vào giữa năm 1998, hơn 50% các công ty được khảo sát bởi các nhà tổ chức thăm dò và nghiên cứu danh tiếng bao gồm: Andersen Consulting, Howard Rubin, Capers Jones, Gartner Group và những người khác đã cho thấy họ thậm chí còn chưa hoàn tất giai đoạn đánh giá Y2K.
    Những lời cầu cứu gấp gáp gửi tới các cố vấn đang bị kiệt sức vì công việc (những người không thể đảm bảo gì được trong mọi trường hợp) đã gây nên hàng đống yêu cầu bị tồn đọng. Vào tháng 6 năm 1998, 6 hãng kế toán lớn tuyên bố họ đang cố thoát ra khỏi công việc cứu chữa năm 2000 do sức ép thời gian, xung đột giữa nhân viên (một hãng nói: Công việc Y2K thì buồn tẻ và chẳng đem lại sự tiến bộ nào cho nhân viên của hãng'') lại còn gây ra khả năng tranh chấp kiện tụng.
    Trong một số ngành công nghiệp như giải trí, các đối thủ đang thực sự hiệp lực để giúp đỡ nhau có chung các giải pháp hệ thống. Tương tự như thế các công ty trong ngành an ninh cũng đang cùng nhau tham dự vào các nỗ lực hợp tác. Tuy nhiên trong rất nhiều trường hợp, dù cho bạn có được giúp đỡ đi chăng nữa thì cũng sẽ là quá muộn để ngày 1- 1- 2000 là hạn chót của công việc sửa chữa.
    Vì thế, những hệ thống hư hỏng tạm thời sẽ phải sử dụng tạm thời để giữ cho tổ chức của bạn nổi và sống sót cho tới khi những hệ thống cứu chữa thực sự (những con tầu cứu hộ đến). Tầu Titanic đã không hề có sự chuẩn bị cho tai hoạ sảy ra. Do thiếu sự kiểm tra và truyền tin liên lạc mà rất nhiều hành khách ban đầu bị hướng dẫn đi xuống boong B để lên thuyền cứu hộ. Sau khi dồn họ xuống thuyền trưởng nhận ra rằng những thuyền cứu hộ phải được hạ thuỷ tại boong A vì có hàng rào cửa kính mới được lắp đặt để giữ ấm cho hành khách. Tất cả lại phải quay trở lại boong A nơi những con tầu cứu hộ thực sự được hạ thuỷ sau khi làm mất đi thời giờ quí giá.
    Rất nhiều công ty đang mất đi thời giờ quí giá với việc cố gắng xác định công cụ và phương pháp nào là tốt nhất để bắt đầu nỗ lực đánh giá và sửa chữa. Những công ty này chỉ nên chọn một trong những cong cụ tốt nhất của mỗi loại (máy quét, máy phân giải, công cụ ghi nhận, bộ công cụ kiểm tra và môi trường, bộ sinh và so sánh giữ liệu kiểm tra) và khởi động.
    Một vài công ty bắt đầu, rồi thay đổi và thay đổi nữa. Chẳng có người bán hàng nào lũng đoạn được cả thị trường. và chẳng có một công cụ nào làm được tất cả mọi việc. Vì thế hãy bắt đầu ngay từ bây giờ và thu những kết quả mà mỗi công cụ có thể mang lại bằng cách tự động hoá một phần của quá trình. (còn tiếp)
    được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 02:13 ngày 10/08/2007
  5. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Sự cố năm 2000 và Con tàu Titanic (tiếp theo)
    Warren S. Reid

    Niềm tin dai dẳng về tính ''bất khả đắm'' cũng đặt ra một vấn đề trên tầu Titanic - khi con tầu va phải tảng băng, Những hành khách không hề biểu hiện sự sợ hãi, không hề tỏ ra vội vã, và không gắn cho sự kiện này bất kỳ tầm quan trọng nào - Vẫn tin tưởng rằng con tầu là bất khả chìm. Niềm tin sai lầm này càng trở nên chết người hơn khi thời gian cứ trôi qua, hành khách từ chối lên thuyền cứu hộ. Họ kêu lên: ''Tại sao lại phó mặc tính mệnh của chúng ta trong biển Đại Tây Dương giá băng trôi nổi trên một chiếc thuyền bé tẹo trong khi chúng ta đang ở trên con tầu ''bất khả chìm'' ấm áp và an toàn này''. Sự tin tưởng vào những lời quảng cáo phóng đại về con tầu và sự không tin nổi về một thảm kịch như thế có thể xảy ra tới từng người một, đã phải trả giá bằng nhiều mạng sống.
    Càng về sau này, các công ty càng tin rằng họ đã bị lỡ con thuyền cứu hộ và càng trở nên tê liệt. Quên chuyện đó đi! hãy làm những gì bạn có thể làm lúc này, hãy cắt giảm một số phần kinh doanh của bạn nếu như bạn bắt buộc phải làm như thế. Đơn giản hoá dây chuyền sản xuất cung cấp vốn cho những khả năng nhất định, thay đổi cách làm việc truyền thống của bạn để kéo dài thời gian trong khi sửa chữa hệ thống. Mục đích là nhằm cứu vẫn càng nhiều tài sản công ty, khách hàng, các nhà cung ứng, các hợp đồng, các mối quan hệ, các vị trí cạnh tranh lợi thế càng tốt cho tới khi các hệ thống thay thế được sửa chữa đã sẵn sàng.
    Những kế hoạch không được luyện tập tạm thời đã cướp đi sinh mạng con người trên tầu Titanic. Chẳng hạn, trên những con thuyền cứu hộ mới chỉ có nửa số người (mà đã được hạ xuống quá sớm vì sợ bị lật thuyền khi hạ) đám thuỷ thuỷ được chỉ bảo (được ra lệnh) ngay lập tức trèo tới một trong số vài ván cầu chỉ định để đón thêm hành khách cho đầy thuyền.
    Chứng cứ cho thấy, không một hành khách được đón từ ván cầu một khi thuyền đã được hạ. Những người sống sót trên thuyền, sợ bị chen lấn bởi những người khác, tiếp tục tránh xa con tầu Titanic đang chìm dần. Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nhóm trong dây truyền bị phá vỡ; thuỷ thủ đoàn chính, những nhân viên hạ thuyền cứu hộ, những thuỷ thuỷ trên tầu cứu hộ, những hành khách còn lại trên tầu và những hành khách hoảng loạn trong dòng nước, họ chưa bao giờ thực sự tôn trọng mối quan hệ tương hỗ và sự cần thiết phải hợp tác với nhau vì thế lại càng làm thêm nhiều người nữa phải chết.
    Những luật lệ quan trọng khác cũng đã không được tuân theo, không được biết đến. Thuỷ thuỷ bên mạn phải tầu theo quy tác ''phụ nữ và trẻ em trước'' đã cho phép nam hành khách lên một con thuyền cứu hộ thừa chỗ khi không còn phụ nữ và trẻ em nào ở lại. Thuỷ thủ ở mạn cửa gió tầu, tuy nhiên theo quy tắc ''chỉ có phụ nữ và trẻ em''. Điều này nghĩa là, ở mạn cửa gió, một khi người vợ và một đứa con đã lên thuyền cứu hộ thì cho dù vẫn còn chỗ, người chồng hay người con trai lớn hơn đang sẵn sàng chờ đợi họ cũng không dược phếp lên thuyền.
    Tôi thấy một sự ứng dụng sai lầm tương tự trong các quy tắc của công ty và của CNTT như quy tắc: ''quy tắc 3 giai đoạn''. Quy tắc thường xuyên đòi hỏi: (1) Trước hết phải nghiên cứu xem xét những ứng dụng có tầm quan trọng sứ mệnh. (2) Tạm thời ngưng hoạt động các hệ thống kém quan trọng khác. (3) Tiếp tục bỏ toàn bộ các hệ thống khác. Tuy thế, cùng với sự cạn kiệt của thờig gian, rất nhiều công ty đang chỉ lập kế hoạch về thời gian và nguồn lực cho giai đoạn đầu.
    Nhưng sự thật là cũng cần phải bỏ thời gian làm việc với những hệ thống ít quan trọng để đảm bảo những hệ thống này không vô tình phá hỏng ''hệ thống đã được điều chỉnh'' với những ngày tháng sai, không rõ ràng. Quan trọng là những hệ thống sẽ bị bỏ rơi phải được chấm dứt hoạt động một cách cẩn thận và có tính toán để những người sử dụng trước đây vẫn có thể hoàn thành công việc khi không có những hệ thống này. Hãy nghĩ xem ngày làm việc của bạn sẽ bị ảnh hưởng thế nào nếu tôi cất đi một vài hệ thống máy tính đặt bàn của bạn vào ngày 1/1/2000 mà không báo trước, không đào tạo lại hay đưa cho bạn các phương tiện khác để có công cụ, dữ liệu và thông tin bạn cần cho công việc.
    Tầu Titanic chìm chỉ với 12 feet vuông trong tổng diện tích bị thiệt hại do tảng băng (rộng một vài inch nhưng dài khoảng 200 feet). Tầu đã bị vỡ rất ít, dưới 1% nhưng lại toàn vào đúng chỗ. Nếu như tầu Titanic đã va vào băng sớm hơn hay muôn hơn 15 giây thì vài nhà chuyên gia cho rằng thảm hoạ rất có thể đã tránh được. ít phút trước đó, tầu Titanic đã có thể va vào tảng băng ở đầu tầu và có thể bị ngập nhiều nhất một hay 2 ngăn kín nước. 15 giây sau đó, tầu có tể đã va vào băng ở phần sau (hay chẳng va đập chút nào) và sẽ chỉ bị phá hỏng nhiều nhất 3 vách ngăn (hay 4 ngăn kín nước), một sự hư hại mà tầu Titanic có thể chịu đựng được.
    Dự án năm 2000 là một con rệp quái quỷ cần phải được sửa chữa tỉ mỉ. Trong những hệ thống điều hành hàng ngàn hay hàng triệu giao dịch mỗi ngày (hay hơn thế) thậm trí dưới 1% của một lỗi cũng có thể cũng có thể có nghĩa là hàng trăm, hàng ngàn hay nhiều lỗi sẩy ra mỗi ngày. Nếu ban ''may mắn'' các hệ thống của bạn sẽ ngừng hoạt động toàn bộ, do đó ít ra bạn cũng biết là bạn đang gặp vấn đề nếu không được may mắn như thế, các file của bạn sẽ mất nhiều thời gian để bị phá hỏng đần dần. Xây dựng lại chúng có thể là một nỗ lực lớn lao trong nhiều môi trường.
    Sau khi tầu chìm
    Tất cả các thuyền, trừ một chiếc thuyền cứu hộ, đều từ chối quay trở lại để giúp các hành khách khác đang ở trong dòng nước đóng băng lên thuyền vì sợ các thuyền nhỏ này bị lật. Chỉ có 6 trong số 1500 hành khách trong dòng nước được cứu trong trường hợp này. Hầu hết những người sống sót sống với cảm giác tội lỗi trong phần đời còn lại.
    Sự tương ứng năm 2000 một lần nữa lại ở chỗ không đủ các công ty đang giúp đỡ các đối tác hay đạt được sự tuân thủ chắc chắn từ phía họ để đảm bảo cho luồng hàng hoá được cung ứng dịch vụ và tiền bạc hiện thời. Một công ty không thể giăng buồm tiến vào hoàng hôn một cách đơn lẻ. Nó phải dừng lại hay quay ngược trở lại và mang theo những tổ chức quan trọng khác cho phép nó tiếp tục sống sót và thịnh vượng. Nó phải chia sẻ kế hoạch Y2K, những bí quyết, bí mật, nhân viên, các nguồn lực với những đối tác mà hoàn toàn không thể hay không tự đi xa được như nó. Việc sống sót có nghĩa lý gì khi người cung cấp vật liệu không thể tiếp tục cung cấp cho bạn lâu hơn nữa, hay những người bán hàng của bạn đã ra khỏi thương trường? Điều gì xẩy ra nếu khách hàng của bạn không thể trả tiền vì những hệ thống không chịu tuân thủ, không cho phép thu được những món nợ? Điều gì xẩy ra nếu bạn thiếu những hợp đồng cốt yếu? chúng ta chỉ có thể sống sót nếu chúng ta giúp đỡ người khác và cùng đồng bộ giải pháp và thách thức như họ.
    Dường như cũng giống các con thuyền cứu hộ không bao giờ quay lại đón hành khách, chúng ta trong quản lý và công nghệ thông tin cũng không rút ra những bài học từ sai lầm của mình. Chúng ta dường như chưa nhận thức được rằng hầu như mọi hệ thống đã không tầm thường đều gặp trục trặc, có rệp ''bugs''. Chúng ta dường như đã quên rằng việc phát triển một hệ thống luôn luôn tốn nhiều thời gian hơn dự tính ban đầu.
    Hơn 80% tổng các dự án lớn hoặc không theo kịp chương trình, thừa kinh phí hoặc thiếu chức năng dự định. Chúng ta quên mất những công cụ và công nghệ mới, bản thân chúng có chứa những lỗi thường đánh dấu một đường cong (khúc tuyến) nhận thức cao. Chúng ta quên rằng những điều chỉnh của chúng ta vẫn sẽ đưa ra những lối mới. Giống như trong luật chơi bài Roulete của Nga, những thay đổi để rút ngắn moduls chương trình dài 50 dòng, dẫn đến một trong sáu moduls đó có thêm một lỗi mới trong quá trình sửa chữa).
    Cuối cùng, theo luật hàng hải quốc tế năm 1912, pháo hoa bắn lên không trung mà nổ và tan ra như ''những ngọn nến bay'' là dấu hiệu cầu cứu để người khác không dược làm ngơ. Vì những lý do vẫn chưa rõ ràng (sau chứng thực của họ ở các phiên toà) tầu California đã hiểu nhầm những pháo hoa đó là pháo hoa của bữa tiệc và vì vậy không đến cứu hộ tầu Titanic.
    Không rõ là các ban lãnh đạo và quản lý nghĩ gì khi tảng lờ đi các quy tắc SEC và những đòi hỏi đẻ chấm dứt hoàn toàn mọi vấn dề năm 2000 và những lỗ lực trong các đệ trình 10K, 10Q và 8K. phần lớn các công ty có kèm các boilerplate yếu ớt hay những tiết lộ nửa vời, hay trong tiết lộ gì trong những đệ trình SEC tháng 3/1998 của họ. Việc tảng lờ những tiết lộ chân thật sẽ không chấm dứt những pháo hoa, trái lại nó càng có thể nổ tung trước mặt họ và dẫn đến nhiều vụ kiện tụng, nhiều công việc và đầu tư bị biến mất.
    Có rất nhiều điều phải học về những lời quảng cáo thổi phồng về tính bất khả chìm, bất khả thất bại, nhưng điều cần học lại không thống nhất trước sau như một cùng lịch sử. Và những người từ chối học tập lịch sử cầm chắc sẽ lại dẫm lên dấu vết lịch sử đó.
    Trong cách nhìn khác đối với bài học ''phụ nữ trước'', tôi vẫn còn kinh ngạc là phần lớn các công ty đang lập các kế hoạch và ngân sách vẫn chưa chọn thông báo vầ những yêu cầu chuẩn mực, phương pháp một văn phòng dự án mà họ định theo đuổi trong suốt thời kỳ sửa chữa năm 2000 bao gồm các kỹ thuật, trình tự triển khai và kiểm tra kế hoạch dự phòng.
    Không có chỉ thị, yêu cầu được triển khai kỹ lưỡng và thông báo cẩn thận những giải pháp khác nhau trong cả công ty có thể sẽ không bao giờ phát huy tác dụng cùng nhau và sẽ phải tốn rất nhiều tiền của hơn nữa.
    Con tầu Y2K của bạn ''không thể chìm được? không thể tin được!''
    Để giúp con tầu công ty của bạn nổi, tôi đề nghị bạn nhận thức được, lập kế hoạch và tránh 5 tảng băng năm 2000 sau này (chú ý những ''bẫy băng'' đều được trình bầy có thể phủ định và chỉ ra những phương pháp tránh chúng, tức những lỗi Y2K điển hình). Việc tránh né hay thực thi những điều đối lập với lỗi/khu vực này, không những có thể giúp bạn đạt được mục tiêu sửa chữa năm 2000 mà còn giúp bạn rất nhiều trong một phiên toà để chứng tỏ rằng công ty của bạn và/hoặc các nhân viên công ty đac chăm chỉ trong việc chữ chạy vấn đề, giảm nhẹ ảnh hưởng tiêu cực và thể hiện sự quan tâm hợp lý, đánh giá công việc đúng đắn.
    Tảng băng 1 (phương pháp học)
    Những bằng cấp, chững chỉ không đáng tin cậy - ''Chứng nhận chỉ do khảo sát'' mà không hề có bằng cớ gì tiếp theo thì vô tác dụng và tạo ra sự tin tưởng sai lầm cho những người sử dụng hiện thời trong thời gian tới.
    Chờ đợi mơ hồ sự điều chỉnh của người bán - nếu người bán trước kia đã thường xuyên trễ hẹn trong việc điều chỉnh và nâng cấp ông ta cũng lại sẽ muộn như thế trong tương lai.
    Quy tắc 3 yếu kém - cho dẫu việc điều chỉnh một vài hệ thống bị trì hoãn cũng không thể trì hoãn một cách mơ hồ. Chúng ta phải tìm ra được chúng, cách này hay cách khác trước năm 2000.
    Bỏ phí thời gian đừng khổ sở đi tìm giải pháp tốt nhất, hãy bắt đầu ngay từ bây giờ.
    Không có/ hay chỉ là những dự phòng yếu kém, những điều bất ngờ sẽ xảy ra & bạn phụ thuộc vào những bên hợp tác mà bạn không có mấy kiểm soát được nhiều. Bạn cần những kế hoạch dự phòng/ Những cách lựa chọn để kéo dài thời gian khi những kế hoạch ban đầu của bạn bị thất bại hay bị trì hoãn. Không được có những kế hoạch sửa chữa & các yêu cầu riêng lẻ. Vấn đề của bạn bao trùm cả doanh nghiệp vì thế những giải pháp của bạn cũng phải như thế (nghĩa là một kế hoạch sửa chữa thống nhất & không có những giải pháp rời rạc nào ở mỗi bộ phận đơn lẻ của công ty).
    Đánh giá thấp - hãy thực tế, đừng lạc quan (nguyên nhân dẫn đến sự suy sụp của ngành sử lý thông tin là ở sự quá lạc quan mơ tưởng); hãy đưa ra những đánh giá nghiêm khắc, chỉ ra những giả thuyết để nhân viên công ty & và ban lãnh đạo nghiên cứu xem xét chúng, có thêm vào những nhân tố dự phòng.
    Không xử lý những rủi ro - định dạng ra ''mười điều cần nhất'' kết hợp hợp với dự án & điều chỉnh; truy cập & báo cáo chúng mỗi tuần; cập nhập thông tin nếu cần thiết.
    Bắt đầu quá muộn - nếu bạn bắt đầu muộn, bạn sẽ kết thúc muộn, như thế cũng được, miễn là bạn thực thi những trình tự dự phòng tạm thời để xoay sở cho qua tới khi những hệ thống khác của bạn được sửa chữa.
    Những báo cáo tình hình ''lạc quan hơn thực tế '' - đừng lừa dối bản thân mình & và những người khác về tiến triển công việc của bạn; nếu bạn rớt lại phía sau thì bạn có thể không theo kịp công việc. Hãy tiến hành những giải pháp thay thế tạm thòi để kéo dài thời gian.
    Những ngày tháng chấm dứt một thời kỳ đang được kiểm tra & làm cho có hiệu lực - phần lớn những lỗi xảy ra ở những thời điểm kết thúc 1 thời khoảng (ví dụ: cuối tuần, cuối tháng, cuối quý, cuối năm...) làm chi mọi việc càng trở nên tồi tệ, tốn nhiều kinh phí hơn (tổng chi phí hoạt động) & ảnh hưởng mạnh tới công ty. Hãy kiểm tra những thời điểm chuyển giao sau.
    Những thời điểm Y2K đặc biệt đang được kiểm tra & và làm cho có hiệu lực, bao gồm:
    31/12/1998 (ngày cuối năm bình thường)
    31/12/1999, 1/1/2000 (chuyển thế kỷ mới)
    1/1/1999, 9/9/1999 (lỗi ngày tháng đặc biệt)
    29/2/2000, 1/3/2000 (kiểm tra năm nhuận ) 29/2/2004( năm nhuận )
    1/4/1999 (có thể là năm tài khoá đầu tiên của thế kỷ mới)
    10/10/2000 ( ngày tháng đầu tiên gồm 10 ký tự )
    31/12/2000 (ngày thứ 366 của năm)
    1/1/2001 (thế kỷ 21); 1/1/2002 (đảm bảo không có những lỗi xử lý lạc hậu)
    (còn tiếp)
    được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 02:20 ngày 10/08/2007
  6. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Sự cố năm 2000 và Con tàu Titanic (tiếp theo)
    Warren S. Reid

    Những dự tính không thực tế - hãy xác định một phạm vi có thể điều khiển được. Chỉ nên lập kế hoạch cho những gì có thể hoàn thành hợp lý trong phần thời gian còn lại dựa trên những nguồn lực sẵn có & chất lượng của công việc cần đạt được. Phần còn lại phải được hoàn tất với các phương án thay thế.
    Giải pháp ''Code and Blow'' tránh sửa chữa cố định & cắt ngắn giai đoạn kiểm tra. Những điều chỉnh của bạn sẽ lại đưa ra những lỗi mới & có thể không chữa được tất cả các vấn đề về ngày, tháng. Dịch vụ đường dài ''AT&T'' sụp đổ vài năm trước đây khi chỉ 3 dòng mã số bị thay đổi, nhóm QA cho rằng những thay đổi đó chẳng đáng quan trọng để phải kiểm tra lại.
    Kiểm tra tắt - bạn phải tiến hành kiểm tra để cầm chắc những điều chỉnh hoạt động như dự tính & rằng bạn đã không vô ý gây nên lỗi mới. Những chức năng trước kia hoạt động tốt có thể bất chợt bị ảnh hưởng & cần phải được kiểm tra lại với ''phép kiểm tra hồi quy''.
    Không có chức năng đảm bảo chất lượng độc lập - Những người sửa chữa hệ thống không thể là những người duy nhất kiểm tra nó, nếu những người sửa chữa quên cái gì đó trong quá trình sửa chữa, rất có thể họ lại bỏ qua nó trong quá trình kiểm tra.
    Một nhóm độc lập ( trong - ngoài công ty) nên tiến hành kiểm tra lần cuối cùng trước khi bước vào sản xuất. Tiến hành xử lý sự cố kém - thường để các kế hoạch dự phòng được được hữu hiệu, cần phải thi hành chúng khi những ngày tháng quan trọng trong các kế hoạch ban đầu có vẻ bị bỏ lỡ. Đừng đợi cho đến khi quá muộn mới tiến hành những kế hoạch dự phòng.
    Ban lãnh đạo hiểu không đầy đủ / cam kết nhưng không thực hiện / ban lãnh đạo không bao giờ chịu bỏ mặc những cơ hội kinh doanh mà lấy những nguồn tài nguyên giành cho Y2K để đầu tư vào các hoạt động khác.
    Tảng băng thứ 2 - Con người (nhân viên)
    ''Những điều kỳ diệu trong 5 tuần'' - Đừng thuê những tay vừa mới qua 3-5 tuần tập luyện COBOL trừ khi bạn dự tính đào tạo chuyên sâu và quản lý họ hết sức chặt chẽ.
    Hệ thống đào tạo được thừa hưởng lại không hữu hiệu có đầy đủ những mà nguồn thất lạc và những logic quái quỷ dùng để bắt máy tính xử lý những hệ thống phức tạp trong những bộ nhớ rất nhỏ, phổ biến cách đây 20 - 30 năm. Đây không phải là công việc cho nhà lập trình mới tập sự.
    Những nhân viên tự mãn biến công ty thành con tin - hãy lập quy trình bổ xung nhân viên - nếu khác đi, bạn có thể phải bỏ một khoản tiền chuộc lớn để tránh bị tấn công.
    Tốc độ chu chuyển nhân viên cao - tốc độ chu chuyển cao có thể rất tai hại do giới hạn năm 2000 sắp tới - sẽ tạo ra một môi trường để giữ tốc độ chu chuyển thấp nhất.
    Sự mất mát những nhân viên giả không kiểm soát nổi - có rất nhiều cách để giữ những nhân viên quan trọng mà không làm thay đổi cấu trúc lương và ngân sách, bao gồm: các phần thưởng cho việc ở lại / hoàn thành công việc & và kí hợp đồng làm tiếp; các kỳ nghỉ khi dự án kết thúc thành công, hứa hẹn những khoá đào tạo công nghệ mới nhất & thú vị nhất sau năm 2000; chính sách làm việc tại nhà một số ngày trong tháng với phí tổn liên lạc ISDN tới nhà nhân viên do công ty chịu chi trả. Không có khả năng cung cấp chỗ cho những nhân viên mới hay nhân viên cần thiết - khi bạn tìm thấy những nhân viên mới, bạn sẽ lấy đâu ra chỗ cho họ, bạn có thể cần thêm phòng tắm, máy làm lạnh bằng nước, máy photocopy, các thiết bị, chỗ đậu xe.
    Những đổ vỡ trong cấu trúc lương - chỉ đơn giản gấp ba phần lương của những nhân viên & lập trình viên quan trọng có thể phá vỡ sự cân bằng của cấu truc lương của công ty. Nhớ là bạn phải xem xét mọi tác động nhỏ của việc sửa đổi lương, nếu không bạn sẽ mất nhiều chi phí hơn dự tính ban đầu.
    Không có đội ngũ sửa chữa phần mềm sau năm 2000 - những vấn đề sẽ không chấm dứt vào 1/1/2000. Những lỗi, những hiểu biết & những chương trình bị bỏ sót tất cả sẽ hiện ra để gây nên một loạt vấn đề mới mẻ, nghiêm trọng hơn. Giữ nguyên đội ngũ của bạn để tách biệt, nhận dạng & điều chỉnh những vấn đề này khi chúng mới nảy sinh. Rất có thể sẽ phải cần đến đội đội ngũ này đến giữa năm 2000 là ít nhất.
    Chi phí quá mức vào các nhà máy chế tạo phần mềm - Lịch sử năm ngoái đã chỉ ra rằng việc điều hành những nhà máy này sẽ khá tốn kém (thêm nữa chúng phải được quản lý chặt chẽ) & chúng không phải là viên đạn bạc hứa hẹn.
    Biết những người sửa chữa Y2K của bạn - đặc biệt khi bạn vắng mặt và / hoặc sang các nước khác bạn và / hoặc những hệ thống của bạn có thể gặp phải gián điệp, khủng bố (nghĩa là có ai đó cài vi rút, một qủa bom hẹn giờ, hay bom của sau những phần ứng dụng của bạn )
    Những vấn đề của người bán bị bỏ qua (kể cả những vấn đề của năm 2000) - Những người bán & cung ứng có vấn đề Y2K của riêng họ, họ có thể không được khách hàng trả tiền vì những vấn đề đó hay có thể điều chỉnh của họ không thích hợp với cách điều chỉnh của bạn. Hãy liên lạc với họ và cùng xác định những rủi ro, đề ra các phương án.
    Chịu thua trước sức ép của thời gian - '' hạn cuối là đây, vì thế chúng ta phải hoàn thành xong công việc '' giả như điều đó là sự thật.
    Không có văn phòng dự án hay sự liên lạc tối thiểu giữa các nhóm. Bạn đã không tạo được một nguồn lực thuần nhất, tập trung & đồng bộ trong toàn công ty để lập nên những yêu cầu cần thiết của công việc sửa chữa, xác định những công cụ sử dụng ( bao gồm máy quét & máy phân giải); duy trì các ngân hàng mã nguồn thông thường; triển khai môi trường kiểm tra & và các trường hợp kiểm tra thông thường; cung cấp dịch vụ bảo đảm chất lượng; tiến hành những trình tự kiểm tra chất lượng; kí kết các mô đun chuẩn bị cho sản xuất.
    Không có khả năng khuyến khích nhân viên - nhân viên mệt mỏi vì các dự án vô tận & và bạn chưa tìm được cách khuyến khích họ, tiếp thêm sức lực cho họ.
    Tảng băng 3 - Sản phẩm
    Những máy tính cá nhân, tầm chung, Client/Server, Mạng máy tính & những hệ thống viễn thông bị bỏ mặc - nó không phải là những hệ thống thừa hưởng duy nhất gặp phải các vấn đề năm 2000 & cần được sửa chữa.
    Những nhà cung ứng chưa sẵn sàng - nếu những người cung ứng không thể đem lại cho bạn sản phẩm & nguyên vật liệu cho bạn thì ai sẽ làm cho bạn.
    Không giảm bớt hay xoá đi những rủi ro của việc xử lý dữ liệu hư hỏng nhận từ các đối tác kinh doanh bên ngoài - các hệ thống của bạn thì hoàn hảo nhưng các đối tác của lại không được như thế. Bạn gặp rắc rối lớn trừ khi bạn có thể tìm ra các lỗi trong dữ liệu về ngày tháng từ hệ thống của họ, bất đắc dĩ phải xử lý chúng.
    Dựa vào chứng chỉ của bên thứ 3 - hầu hết không có thời gian hay tiền bạc để chứng thực hệ thống của người khác. Hãy kiểm tra cẩn thận công việc của họ để xác định những rắc rối đối với công ty của bạn, bổ xung & và chứng nhận, phải xử lý những rắc rối.
    Những hệ thống chíp nhúng bị bỏ qua - những chíp & bộ xử lý dùng để vận hành thang máy, mạng lưới năng lượng điện, tín hiệu giao thông, những phương tiện tự động, thiết bị y tế, phòng nghiên cứu, những tòa nhà cầu kỳ, hệ thống sưởi ấm, hệ thống làm lạnh, hệ thống an ninh & điện thoại PBX, tất cả đều có khả năng gặp thất bại. Cho dẫu, phần lớn các hệ thống vẫn làm việc tốt đẹp vì chúng vẫn không quan tâm đến ngày tháng hay các bộ phận tự bỏ qua lỗi, bạn vẫn phải xác định cái gì sẽ không sẵn sàng - hay không được sửa chữa đúng lúc & dự phòng cho nó.
    ĐI tắt trong việc kiểm tra - những đi tắt không được cho phép trừ khi bạn xác định được trước những rủi ro & ảnh hưởng của thất bại như thế nào. Nếu như công ty của bạn sẵn sàng chấp nhận những rủi ro nhất định ( và nên như thế, vì việc kiểm tra mọi thứ & ngăn chặn mọi lỗi của Y2K là quá tốn kém ) thì bạn có thể đi tắt trong những lĩnh vực đã được xác định. Nắm được việc tập trung vào lĩnh vực nào là chìa khoá của mọi việc.
    Thất bại của người thầu - nếu người thầu, người bán hàng hay người cố vấn của bạn ''nó đã được sửa cố định'' thì thế nào ? Có đúng như vậy không ? Bạn có thể làm gì để khẳng định chắc chắn sự sẵn sàng của họ ?
    Tính toán sai năm nhuận - chẳng có gì giống như một ''năm nhuận vĩ đại'' ( bạn có tin một số công ty vào tháng 2 năm 2000 có 30 ngày không) Quy tắc là : nếu như năm đó chia hết cho 4 thì nó là năm nhuận trừ khi nó chia hết cho 100 thì nó lại không phải là năm nhuận, nhưng nếu nó chia hết cho 400 thì nó lại là năm nhuận. Vì vậy năm 2000 là năm nhuận, 1900 và 2001 không phải là năm nhuận.
    (còn tiếp)
    được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 02:23 ngày 10/08/2007
  7. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Sự cố năm 2000 và Con tàu Titanic (tiếp theo và hết)
    Warren S. Reid

    Những ngày tháng quan trọng ''trước năm 2000'' bị thất lạc - một vài ngành công nghiệp và các công ty sẽ va phải bức tường chắn vao 10/10/98, khi họ lần đầu tiên viết những chính sách cho giai đoạn từ 1/1/99 đén 1/1/00 những công ty mua cổ phiếu - rất nhiều trong số đó đang gặp rắc rối và các công ty có năm tài chính bắt đầu từ 1/7/99 - 30/6/00. Những khung thời gianquan trọng đối với các công ty này thì ngắn hơn.
    Không đồng bộ với khách hàng / những nhà cung ứng - bạn có thể có những giải pháp hoàn hảo, nhưng nó phải bổ xung giải pháp của các đối tác kinh doanh ( nghĩa là tất cả các bạn phải sử dụng kiểu ngày tháng thành 4 chữ số,hay là sử ụng cùng một phương pháp cửa sổ, hay cùng trình tự gộp chung, theo cách khác, mỗi hệ thống sẽ tuân thủ Y2K một cách riêng, nhưng vẫn không kết hợp được với nhau trừ khi bạn nối cầu. Hơn nữa, cho dẫu tất cả các bạn đang cùngsử dụng một giải pháp bạn vẫn phải đồng bộ hoá thời gian, đưa hệ thống mới vào sản xuất.
    Khách hàng chưa sẵn sàng - bạn sẽ làm được gì ? Bạn sẽ để mất việc kinh doanh ư? làm thế nào để bổ xung lại công việc kinh doanh đã mất ?
    Thống nhất kém - bạn không có chuẩn mực hay văn phòng dự án nào vì thế các hệ thống của bạn có vô số giải pháp không thể thống nhất được với nhau.
    Chờ giải pháp ''viên đạn lạc'' - Hãy chấm dứt ngay đi ! - Những ''Viên đạn bạc'' đã chết cùng với câu chuyện LoneRanger ! Nếu bạn chờ đợi cho đến khi có một viên đạn thật sự, bạn sẽ thất bại! Bạn sẽ bị trễ!
    Thay đổi môi trường hoạt động - đừng cố gắng thay đổi môi trường hoạt động của bạn trong quá trình kiểm tra và điều chỉnh Y2K ! Đây không phải là lúc để nâng cấp sâu sắc những hệ thống hoạt động, những chương trình dịch, những ứng dụng và phần mềm liên lạc của bạn trừ khi bạn bị bắt buộc phải thế vì một lý do công việc nào đó.
    Những yêu cầu không cố định - đừng cố điều chỉnh, tăng cường, hay nâng cấp những ứng dụng trừ phi bạn phải làm vậy. Việc này sẽ chỉ làm khó khăn thêm quá trình phân tách lỗi do điều chỉnh Y2K hay những bảo hành máy móc gây ra.
    Tảng băng 4 - Công nghệ
    Sử dụng những công cụ mới - những công cụ mới có các vấn đề mã và logic riêng. Hơn nữa, những người sử dụng có thể mắc lỗi trước khi học cách sử dụng công cụ tốt nhất thich hợp nhất. Nhưng công cụ mới có thể biến một dự án phát triển thành một dự án nghiên cứu phát triển, Hãy cẩn thận !
    Sử dụng không đúng công cụ - sử dụng đúng công cụ cho mục đích sai lầm sẽ cho bạn kết quả sai và làm cho bạn nghĩ là công việc của bạn đã hoàn tất.
    Sử dụng công cụ một cách sai lệch - hãy hiểu giới hạn của mỗi công cụ và của mỗi loại công cụ ! Nhớ là một máy quét sẽ chỉ tìm ra những lỗi nhất định mà không phải là tất cả. Bạn phải làm gì để hoàn tất công việc.
    Sử dụng những người bán hàng mới - nhiều người bán hàng mới đã xuất hiện, lợi dụng rối loạn năm 2000 và sự thiếu hụt của nhân viên. Hãy kiểm tra tiểu sử, những giấy tờ chứng nhân và tài chính của họ.
    Quên mất ngày 1/1/99 và 9/9/99 là những ngày ''hư hại ít nhất''. Những trình tự cũ khiến cho những nhà lập trình đặt mã cho những ngày không được biết đến là 1/1/99 và 9/9/99. Khi đến ngày 1/1/99 và 9/9/99 thực sự những chương trình này sẽ coi những ngày tháng đó là ngoại lệ và không phải là những ngày tháng hiện thời.
    Không sử dụng công cụ nào - trong khi tất cả các công cụ có hạn chế, phần lớn sẽ giúp thúc đẩy quá trình xác định, đánh giá và sửa chữa. Không sử dụng những công cụ này thì qủa là mắc tội.
    Thay đổi cấu hình - những dich vụ sửa chữa đều hữu hiệu khi được tiến hành trong một môi trường ổn định. Thay đổi, nâng cấp phần cứng, mạng lưới vi tính và cơ sở hạ tầng của hệ thống trong quá trình sửa chữa sẽ chỉ làm mất thời gian và tăng cường việc kiểm tra cùng khả năng thất bại.
    ''Tê liệt khả năng phân tích'' - Không hành động thận trọng và nhanh chóng trong quá trình tìm giải pháp tốt nhất.
    Encapsulation, Window, Bit-Fiddling, Four-Digit Century Date '' Có nhiều con đường dẫn đến Manthatlan nhưng bạn phải kiên định. Mỗi giải pháp đều có ưu - nhược điểm.
    Một số giải pháp cần thời gian thực hiện, một số chỉ hoạt động trong khoảng thời gian ngắn hơn, một số ít tốn kém hơn, một số chiếm nhiều nguồn lực máy tính hơn.
    Hội chứng ''không được phát minh ở đây'' Hãy đọc, tham dự hội nghị, vào mạng Internet tới những cuộc gặp mặt những người quan tâm tới Y2K. Đừng phát minh lại bánh xe. Không quan trọng hoá công việc nó đã ra đời hay ai đã phát minh ra nó. Nếu nó làm việc, hãy sử dụng một kỹ thuật, sản phẩm, qui tắc hệ thống, phương pháp.
    Quên đi những bộ phận mạng lưới viễn thông của hệ thống. Khi những máy nhắn tin trở nên hết mode ở Los Angeles vài tháng trước, nhiều ngành kinh doanh gần như ngừng trệ. Hãy thử nghĩ xem điều gì xảy ra nếu điện thoại, mạng lưới (Kể cả Internet) và máy Fax, tất cả ngừng hoạt động vào năm 2000. Những lựa chọn và kế hoạch dự phòng của bạn là gì?.
    Có điều hành những hệ thống tuân thủ năm 2000 mà không có sự đào tạo thích hợp cho việc sử dụng những công nghệ mới, những mánh khoé, phương pháp, phần mềm và các công cụ đều rất phức tạp và đòi hỏi một đường cong nghiên cứu gỡ rối cố hết mức của bạn, không dự phòng cho các đường cong này sẽ chỉ đẩy bạn lại phía sau.
    Tảng băng 5 - Hợp Pháp
    Sự tiết lộ không đúng - luật pháp yêu cầu sự tiết lộ phải chính xác. Tiết lộ thông tin thiếu hay sai lệch trong các bản kết toán tài chính, các đơn bảo hiểm, các tuyên bố sát nhập, hay mua lại công ty, 10K và 10Q, tất cả có thể quay trở lại quấy nhiễu bạn. Tiết lộ quá nhiều thông tin cũng có tác hại. Cơn ác mộng sát nhập và mua lại công ty, bạn sẽ làm thế nào để cầm chắc công ty mà bạn đang sát nhập hay sẽ mua trên thực tế năm 2000. Bạn có thể dựa vào những đảm bảo báo cáo của họ đến mức nào? Bạn có thể thực hành sự cần cù của bạn đến mức nào?
    Những thoả thuận về thời hạn hiệu lực đang báo động - khi nào thì những bảo hành, bảo hiểm và pháp quy về thời hiệu bắt đầu được tính - kể từ lúc mua ư?.Thời điểm thi hành? thời điểm gặp phải khuyết điểm đầu tiên? hay một thời điểm nào khác? Làm thế nào để đảm bảo quyền lợi của bạn khi thời hạn kết thúc.
    Những bảo hành theo hợp đồng được ghi rõ- ngụ ý bạn được bảo vệ như thế nào với những hợp đồng đến nay còn hiệu lực. Bạn dễ bị sơ hở ở chỗ nào nhất? có thể làm gì để tối thiểu hoá rủi ro hiện nay và trong tương lai.
    Những cam kết tuân thủ mức độ sẵn sàng của các đối tác kinh doanh của bạn? Đầu tư? Ngày tháng và đảm bảo nào mà họ sẵn sàng hay có thể chấp nhận cho bạn? Những kế hoạch dự phòng của họ là gì? Những câu trả lời cho các câu hỏi trên làm ảnh hưởng hay làm thay đổi vị trí và ké hoạch của bạn như thế nào? Việc chuẩn bị trên văn bản giấy tờ còn kém chứng tỏ bằng tài liệu nỗ lực trong việc xác định và sửa chữa các vấn đề của bạn. ít nhất bạn phải giữ lại danh mục đã liệt kê liên quan đến SCN 2000 (của Warren S. Reid in lần đầu tiên trên tạp chí Hệ thống doanh nghiệp Tháng 6/1998).
    Vô số nguyên cáo - bất kỳ người nào đều có thể kiện: người sử dụng, người cung cấp, khách hàng, cổ đông.. và các bên bị thệt hại.
    Trách nhiệm của ban lãnh đạo mới - ban lãnh đạo sẽ chịu trách nhiệm với những thất bại kinh doanh do SCN2000 gây ra. Trong quá khứ sự làm việc sai chức năng của máy tính chỉ có nghĩa là các CIO hay CEO bị khiển trách.
    Sử dụng chuyên gia không hợp lý - sử dụng quá ít chuyên gia và quá muộn sẽ không chứng tỏ sự cần mẫn đáng có và sự quyết định tiến bộ để những thành viên không có kiến thức chuyên môn đương đầu với các vụ kiện tụng.
    Những biên bản khủng khiếp - những tờ biên bản rời rạc về các cuộc thảo luận và quyết định SCN2000 có thể không đủ để chứng tỏ sự cần mẫn đáng có và khả năng đánh giá đúng công việc.
    Những email (thư điện tử) ''chết người'' - một số nói ''không thể thu lại được một email một khi nó đã được gửi đi''. Nhớ là bạn phải có sự kưu trữ số liệu và các chính sách bằng biện pháp cưỡng chế. Cấm dứt việc những nhân viên bất mãn truyền tin không đúng sự thật.
    Không xẻ lý rủi ro - Tất cả các dự án lớn đều có rủi ro. Công ty của bạn có những rủi ro nào: Không đủ nhân viên? Không đủ thời gian? Không đủ ngân sách? Quy chế thay đổi? Có những vấn đề cần kinh phí hơn? Người bán hàng đã ngừng kinh doanh? Không có mỗi nguồn? Sử dụng những ngôn ngữ khó hiểu, lòng tin tưởng không bình thường vào khách hàng, nhà cung ứng hay hợp đồng quan trọng? Tốc độ chu chuyển nhân viên cao? Sự chuuyển đổi của Châu Âu? Sự thay đổi từ kiến trúc Legacy đến Client/Server. Và bạn giám sát quản lý, giảm bớt những rủi ro này bằng cách nào?
    Những kinh phí ít một cách tuỳ tiện - so sánh ngân sách của bạn với những công ty cùng ngành nghiên cứu côngn ghiệp. Nếu ngân sách của bạn kém hơn người ta nhiều thì hãy tìm lý do. Hợp đồng yếu kém về các hệ thống mới và các phương pháp sửa chữa. Không có lý do nào cho việc lãng quên, không tính đến những điều khoản năm 2000 vào các hợp đồng mới hay lại được nới hạn của bạn. Đừng mắc phải những lỗi tương tự một lần nữa?
    Không có văn kiện- chính sách lưu trữ lâu dài- hãy xác định và thực thi những qui tắc kiên định, khéo léo cho việc sắp xếp, phá huỷ tài liệu liên quan tới những nỗ lực năm 2000.
    Xử lý rủi ro kém- trong những trường hợp đó bạn đã xác định được rủi ro nhưng chưa lập ngân sách, văn kiện, nhân viên và những phương án thay thế khi rủi ro xảy ra trong thực tế.
    Một lời cảnh báo cuối cùng về trình tự. Tôi nhận thấy mỗi tổ chức và con đường đi dự định sẽ và cần phải khác nhau một chút, phụ thuộc vào vị trí, nguồn lực, mục tiêu hiện tại. Một vài người trong số các bạn sẽ di chuyển như các tầu chiến, những người khác như tầu tuần tiễu, và một số như tầu du hành. Nhưng những tảng băng này đang nằm ở đó và chúng đã ở đó được một thời gian rồi. Hãy cảnh giác, vẽ đường đi của bạn chỉ định một thuyền trưởng, tìm kiếm và đào tạo một đoàn thủy thủ, tập hợp những nguồn lực cần thiết, xử lý những rủi ro có được sự trợ giúp và tránh xa được các tảng băng.
    Chúc lên đường may mắn!
    Ngày 25/11/98 Nguồn: http://www.year2000.com
    được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 02:27 ngày 10/08/2007
  8. levant57

    levant57 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    1.520
    Đã được thích:
    1
    Mấy bài báo trên của Ian đáng đọc nhưng nếu post vào thread Tin tức dành cho Kỹ sư thì thích hợp hơn. Còn bài nào nữa không đ/c Oanh?
  9. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    - OK! Lan Tui chỉ ngại Anh Em mình không phân tích kịp nội dung sẽ cho là thông tin cũ, tài liệu nầy tuy do người nước ngoài viết nhưng do Bộ Công Nghiệp VN phát hành năm 1999, tui sẽ chuyễn bài ''Y2K và TITANIC'' vào TOPIC ''Tin tức dành cho Kỹ sư''.
    - Có nhiều điều trong BOX Kỹ sư tui chưa biết hết, nhưng hiện nay biết một cách chắc chắn là trong BOX Kỹ sư có một Anh người Mỹ gốc Việt là chuyên gia Y2K của USA, tui mong rằng sẽ có điều kiện trao đỗi sâu hơn.
    Mến!
    được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 02:36 ngày 10/08/2007
  10. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Làm giàu từ khả năng tích hợp công nghệ
    15:09:59 19/01/2006
    Chiếm gần 30% thị phần cột bơm xăng dầu điện tử trong nước, tham gia xấp xỉ 300 dự án lớn trong các lĩnh vực tự động hoá và xử lý nước thải, là một trong những công ty Việt Nam tiên phong trong việc sản xuất nhiều loại thiết bị đo lường công nghiệp và các loại công nghệ xử lý nước thải công nghiệp và sinh hoạt ..., tất cả những cố gắng trên đã mang lại cho Công ty kỹ thuật SEEN (SEEN Technologies Corporation) doanh thu hơn 100 tỉ đồng/năm. Tuy nhiên, tất cả dường như mới chỉ bắt đầu vì thị trường trước mắt đối với doanh nghiệp khoa học công nghệ này vẫn còn ''mênh mông''-theo lời của Tổng giám đốc Lê Đức Bảo.
    [​IMG]
    Thay thế và... đẩy bật hàng ngoại
    Cuộc chiến khốc liệt giữa SEEN và các tên tuổi lớn của Hàn Quốc trên thị trường cột bơm xăng dầu điện tử cách đây vài năm chắc chắn không bao giờ phai nhòa trong ký ức của cán bộ, công nhân viên công ty. ''Để chiếm lĩnh thị trường, các công ty nước ngoài thậm chí hạ giá xuống xấp xỉ với sản phẩm của chúng tôi, vốn có giá thành chỉ bằng 1/3 của họ. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã có cách để không chỉ chiếm giữ mà còn tiếp tục phát triển thị trường'', Ông Bảo nhớ lại. Kết cục, các công ty này đã rút khỏi thị trường bởi không thể tiếp tục cạnh tranh với SEEN. Hiện chỉ còn lại các cột bơm xăng dầu của Nhật trong hệ thống các trạm bán xăng dầu của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam. Hầu hết thị trường bên ngoài, các trạm xăng tư nhân đều dùng hàng của SEEN. Đó ít nhất cũng là một thành công lớn và niềm tự hào của toàn bộ công ty. Theo ông Bảo, bí quyết chính vẫn là chất lượng sản phẩm được kiểm chứng qua thời gian cộng với mẫu mã đẹp, giá thành cạnh tranh và mạng lưới bảo hành 24/24 trên toàn quốc .
    Một trong những mục tiêu chính mà SEEN đeo đuổi là tạo ra các công nghệ và sản phẩm thay thế hàng ngoại nhập. Để làm được điều này, lực lượng lao động được coi là ''kho báu'' đối với công ty. 140 kỹ sư, phần lớn tốt nghiệp từ Đại học Bách khoa, chính là những người phát triển khả năng sáng tạo của SEEN. ''Nhiệm vụ của chúng tôi là nghiên cứu, tiến tới làm chủ công nghệ và chuyển giao những công nghệ này cho các nhà máy'', ông Bảo nói. Hướng đi của SEEN thực ra cũng khá đơn giản. Đối với những công nghệ khó, công ty sẵn sàng đầu tư lớn để mua các bí quyết công nghệ ở đoạn công nghệ khó nhất mà Việt Nam chưa thể hoặc không thể nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu và chuyên viên kỹ thuật của công ty làm nhiệm vụ tích hợp công nghệ. Từ đó tạo ra các giá trị gia tăng hoặc sản phẩm mới từ công nghệ hoặc đoạn công nghệ cũ.
    Xử lý nước thải là một thành công của SEEN trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai và chuyển giao công nghệ. Đầu năm 2006, SEEN đã cùng Công ty Môi trường Đô thị Hà Nội (Urenco) tổ chức lễ khánh thành Trạm xử lý nước rác Nam Sơn. Trạm có tổng mức đầu tư khoảng hơn 20 tỉ đồng (1,3 triệu USD), do SEEN là nhà thầu EPC. Ông Bảo cho biết: ''Giá thành của trạm xử lý nước thải này chỉ bằng 1/10 so với giá trị dự án xử lý nước thải sinh hoạt công suất 3.500m3/ngày ở Trúc Bạch (Hà Nội) mà một công ty của Nhật xây dưng bằng vốn ODA .Trong khi công suất trạm xử lý nước thải của chúng tôi nếu quy chiếu theo chỉ số ô nhiễm BOD, COD của nước thải sinh hoạt thì công suất tương đương 75.000m3 / ngày, còn lớn hơn nhiều lần''. Các cán bộ, công nhân kỹ thuật của SEEN hiện đang bận rộn với các dự án xử lý nước thải khác ở Khu Công nghiệp Biên Hoà II., Khu Công nghiệp Long thành - Đồng Nai, Khu Công nghiệp Tân Đông Hiệp?"Bình Dương, Khu Công nghệ cao-TP. HCM và hàng chục các nhà máy công nghiệp khác.
    Tuy nhiên, không phải sản phẩm nào của công ty cũng ngay lập tức thành công. Sản phẩm công tơ điện tử vừa hoàn thiện thì xảy ra vụ xì căng đan ''điện kế điện tử chất lượng kém'' tại TP HCM. Khách hàng dường như mất lòng tin đối với các loại công tơ điện tử sản xuất tại Việt Nam. Khoản đầu tư khoảng 1 triệu đô la như vậy bị ''đóng băng''. Mặc dù vậy, lãnh đạo của công ty vẫn khá lạc quan: ''Với chất lượng và uy tín đã có được, chúng tôi tin tưởng sẽ vượt qua các khó khăn trong năm 2006 này'', ông Bảo nói.
    Con đường không bằng phẳng
    Tốc độ tăng trưởng của SEEN trong những năm gần đây khá ấn tượng. Doanh số năm 2004 của công ty đạt khoảng 100 tỉ đồng thì doanh số ước tính 2005 đã tăng lên gần gấp đôi: khoảng 180 tỉ đồng. Tốc độ tăng trưởng trung bình vài năm vừa qua của SEEN, theo ông Bảo là khoảng 30%/năm. Thành công có được ấy đã phải dựa trên rất nhiều gian truân, khó khăn từ những ngày đầu khởi sự.
    [​IMG]
    Ông Bảo kể: trước, khi còn làm trong viện nghiên cứu của nhà nước, mình cũng có 1 bằng sáng chế (thiết bị đo từ xa đối với các bể dầu). Nhưng khổ nỗi lúc đó nghiên cứu cũng chỉ là để ''khẳng định mình'', chứ không đi tới được sản phẩm cuối cùng. Tới năm 1994 thì mình theo bạn bè ra làm ngoài. Lúc đầu cũng tưởng ''ngon ăn'', ai ngờ khó khăn chồng chất. Vài trăm triệu tiền của gia đình giành dụm được, lúc đó cũng khá lớn nhưng đổ vào nghiên cứu ''vèo cái là hết''. Khó khăn lớn tới mức ảnh hưởng cả tới sức khỏe, có tuần 7 ngày thì ốm tới 4 ngày. Những sản phẩm đầu tiên làm ra mình phải tự đem đi chào bán. Đến năm 1997, Liên hiệp Khoa học Kỹ thuật Công trình SEEN chính thức ra đời. SEEN là từ viết tắt tiếng Anh của ''Science for Electronicand and ENvironment''. Ngoài ra, theo ẩn ý của một thành viên sáng lập lớn tuổi, SEEN - phân từ quá khứ 2 của động từ See (nhìn - tiếng Anh) còn mang hàm nghĩa ''biết nhìn trước, nhìn sau''. Thành công của sản phẩm đầu tiên là cột bơm xăng điện tử đã dẫn tới việc SEEN tiếp tục đi vào sản xuất các sản phẩm tự động hóa như thiết bị đo và điều khiển công nghiệp, bộ điều khiển hệ số công suất, thiết bị xử lý nước thải công nghiệp, Trạm quan trắc môi trường tự động và công tơ điện tử ba pha...
    Sự phát triển của thị trường đã buộc SEEN phải có một tổ chức hợp lý hơn. Năm 1999 đánh dấu sự ra đời của Công ty Cổ phần Kỹ thuật SEEN trong đó cổ đông lớn nhất vẫn là Liên hiệp kỹ thuật công trình SEEN. Cái tên SEEN được giữ lại cho công ty mới thành lập vì giờ nó đã trở thành một ''thương hiệu'' nhiều người biết đến. Chỉ có sự phân vai là khác đi: Liên hiệp kỹ thuật công trình vẫn tiếp tục giữ vai trò nghiên cứu và phát triển công nghệ, còn công ty đảm nhiệm việc sản xuất và khâu thị trường. Ông Bảo giải thích: ''Vai trò của quản lý ngày càng thay đổi, sau khi có sản phẩm, thị trường thì điều quan trọng nhất là phải vận hành toàn bộ hệ thống ra sao cho hiệu quả. Chính vì vậy chúng tôi đã áp dụng mô hình mới như trên''.
    Thành công của SEEN dựa vào nhiều yếu tố, trong đó, chủ lực nhất vẫn là một công ty đi lên từ sản xuất sẽ có một cơ sở bền vững nhiều hơn so với các công ty thương mại. Trong nội bộ, công ty đã xây dựng được một ''văn hóa'' riêng cho mình dựa trên chính sách đãi ngộ sòng phẳng, tạo điều kiện phát triển đối với những người tài và động viên, khích lệ đúng lúc, đúng chỗ với các cán bộ, công nhân viên trong công ty. Ông Bảo cho biết: ''Không trả lương cao thì khó mà có thể giữ được người giỏi. Vì vậy, riêng quĩ lương thưởng của công ty hàng năm đã lên tới gần 1 triệu đô la.
    Trong điều kiện mô hình doanh nghiệp khoa học công nghệ vẫn còn nằm trên giấy tờ thì thực tế trên cả nước đã có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả trong lĩnh vực nghiên cứu, triển khai công nghệ. Tuy phải mày mò, vận lộn với thị trường nhưng do tiên phong trên những mảnh đất ít người khai thác nên khả năng thành công của những công ty này khá lớn. SEEN thực ra cũng chỉ là một trong số đó. Vấn đề chính của những người tiên phong là ''phải biết dũng cảm để rút chân ra khỏi cơ chế nhà nước vốn khá trơ ì, ít năng động để ra ngoài tìm hướng đi mới cho chính mình'', TGĐ Bảo kết luận.
    Thanh Hà
    ---------------------------------------------------
    Nguồn Tạp chí Tia Sáng http://huynh.thegioiblog.com/news?id=290

    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 20:42 ngày 23/10/2008

Chia sẻ trang này