1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TIN TỨC CHO KỸ SƯ (Tờ báo cho kỹ sư)

Chủ đề trong 'Câu lạc bộ kỹ sư' bởi small_porcupine, 18/05/2005.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 19:02 ngày 01/01/2010
  2. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 19:02 ngày 01/01/2010
  3. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 19:05 ngày 01/01/2010
  4. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 19:03 ngày 01/01/2010
  5. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 19:07 ngày 01/01/2010
  6. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 19:08 ngày 01/01/2010
  7. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Từ học lỏm thành dẫn đầu

    13:37:06 05/10/2007

    Định hướng và động lực thúc đẩy nền công nghệ của Hàn Quốc là từ việc làm chủ kỹ thuật lắp ráp các sản phẩm nhập ngoại của các tập đoàn công nghiệp. Chính phủ Hàn Quốc đã có những tác động hết sức khéo léo để hỗ trợ sự phát triển này.


    [​IMG]

    Ảnh: Lễ khai trương nhà máy của Samsung tại Texas

    Bài học Samsung
    Năm 1969, trong chuyến thăm tập đoàn HITACHI, ông chủ tịch tập đoàn Samsung Byung-Chul Lee đã nhận ra sức mạnh của những chiếc bán dẫn và con chip nhỏ bé và nhận định: trong tương lai, chip điện tử sẽ là "cơm của công nghiệp" (Industrial rice). Ngay sau đó, ông chủ tịch của hãng kinh doanh đường và bảo hiểm này quyết định mở thêm công ty con Samsung Electronics. Khi đó Hàn Quốc là một quốc gia đang phát triển, thị trường nội địa kém phát triển, không có những công nghệ nội địa có khả năng hỗ trợ kế hoạch của Samsung để sản xuất các hàng điện tử tiêu dùng. Chính các điều kiện này đã dẫn dắt Samsung Electronics định hình chiến lược phù hợp về phát triển công nghệ.

    Bắt đầu là với chiếc máy quay mà ông Byung-Chul Lee mang từ Nhật về. Các kỹ sư của Samsung đã tháo ra, thử thay thế một số chi tiết, kết quả là máy không hoạt động! Phải mất 2 năm làm việc vất vả họ mới thành công. Từ sau chiếc máy quay này, Samsung Electronics bắt đầu thành công với các sản phẩm radio cassette (1974), TV màu (1976), máy quay (1989) và hiện dẫn đầu thế giới với màn hình LCD và DRAM. Theo tờ Bussuness Week 8/2005, Samsung Electronics đã trở thành công ty điện tử dân dụng và IT số 1 thế giới.

    Sự phát triển công nghệ của Samsung Electronics gồm 5 giai đoạn:
    - Làm chủ kỹ thuật rắp ráp đơn giản (CKDs) nhập khẩu từ các đối tác liên doanh;
    - Thay đổi CKD nhập khẩu bằng cách tạo ra một số bộ phận và thành phần từ hãng thứ ba do Samsung chọn;
    - Thiết kế những sản phẩm mới qua kỹ thuật nghịch đảo (reverse oder) mà không dựa trực tiếp vào sự giúp đỡ của nước ngoài;
    - Thiết kế các sản phẩm tiên tiến thông qua kỹ thuật nghịch đảo cùng đổi mới công ty;
    - Đạt được cạnh tranh công nghệ.

    Có thể nói 5 giai đoạn trên là khuôn mẫu chung cho sự phát triển của mọi công ty công nghệ khác Hàn Quốc, tạo nên điều vẫn được các nước gọi là "kỳ tích sông Hàn".

    Từ thành công của Samsung Electronics có thể nhận thấy, một "quyết định chiến lược" định hướng cả một nền công nghệ đã xuất phát từ một cá nhân và những tham vọng lớn được thực hiện một cách kiên nhẫn, không hề có ngay ảo tưởng về "đột phá".

    Thực tế ở nhiều nước cho thấy, chính những người định ra các chiến lược KH&CN, R&D của chính phủ lại thiếu tầm nhìn rõ ràng và tính toán thực tế. Điển hình là thất bại của Indonesia trong việc phát triển ngành công nghiệp máy bay. Những năm 80, nước này đã xây dựng được một đội ngũ nghiên cứu và kỹ sư mạnh, song mọi kế hoạch đều "đổ bể" vì không chú trọng đào tạo các nhân viên kỹ thuật và thợ tay nghề cao.
    Đội ngũ kỹ sư của Samsung Electronics do hoạt động trong môi trường doanh nghiệp cũng đã tránh được "hội chứng PhD": đam mê những đề tài nghiên cứu ở tuyến đầu mà từ bỏ những nhu cầu quốc gia (nhiều khi những nhu cầu đó lại đơn giản và không đòi hỏi thử thách nhiều về trí tuệ).

    Vẫn cần kế hoạch KH&CN của nhà nước
    Song, không thể phủ nhận vai trò của chính phủ Hàn Quốc trong việc xây dựng chiến lược quốc gia về công nghệ. Để hợp nhất các mối quan tâm của ngành công nghiệp, chính phủ Hàn Quốc đã bổ nhiệm các vị lãnh đạo các tập đoàn làm thành viên Hội đồng chính sách KH&CN quốc gia, đồng thời khuyến khích các hãng công nghiệp tham gia vào các chương trình R&D quốc gia. Chính các kế hoạch KH&CN đã huy động nguồn lực KH&CN một cách hiệu quả, vừa dẫn dắt các hoạt động R&D của tư nhân vừa thiết lập các hướng ưu tiên trong đầu tư cho KH&CN.

    Khi sức sản xuất còn thấp, chính phủ Hàn Quốc không vội vã "đi tắt đón đầu" mà cực kì thành công khi xác định nhiệm vụ các kế hoạch KH&CN phù hợp với từng thời kỳ kinh tế. Những năm 60 - 70, Hàn Quốc chỉ xác định xây dựng tiềm lực KH&CN để thúc đẩy công nghiệp hóa, trọng tâm là có được một đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ và tuyên truyền quảng bá về KH&CN. Đến những năm 80, khi nền kinh tế đã khá phát triển, Hàn Quốc mới đặt mục tiêu có được "năng lực sáng tạo đích thực" trong các lĩnh vực công nghệ trọng điểm. Phải tận đến những năm 90, Hàn Quốc mới thiết lập được sự phối hợp giữa nhà nước với khối tư nhân để có được các công nghệ chiến lược nhằm đuổi kịp các nước phát triển.

    Quá trình phát triển nền kinh tế chính là quá trình "ra đề" cho phát triển công nghệ. Nói cách khác, chiến lược về công nghệ của Hàn Quốc chính là để đáp ứng nhu cầu công nghệ của nền kinh tế. Năm 1962, lần đầu tiên Hàn Quốc xây dựng kế hoạch phát triển công nghệ. Nhưng mãi đến1997, khi đã là một cường quốc kinh tế, Hàn Quốc mới lập kế hoạch KH&CN 5 năm như là một phần của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Cũng từ năm 1997, các kế hoạch KH&CN được xây dựng độc lập. Đến 2002, kế hoạch KH&CN cơ bản được xây dựng dựa trên Luật về KH&CN. Hiện kế hoạch KH&CN cơ bản lần thứ 2 (2008 -2012) mới đang trong quá trình xây dựng.

    Dù được đánh giá là thành công, trên thực tế các kế hoạch KH&CN của Hàn Quốc cũng gặp không ít vấn đề như các hoạt động chỉ mang tính hình thức, chính phủ can thiệp quá nhiều vào khối tư nhân, các cơ quan nghiên cứu công lập có hiệu quả thấp.

    Việt Anh
    ------------------------------------------------------
    @ Tạp chí Tia Sáng (Sẽ bổ sung url sau)

    Lan0303: Kính đề nghị Quí Bác đọc bài nầy một cách cẫn thận.

    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 17:28 ngày 23/03/2009
  8. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Nguyên lý toàn ảnh: Nguyên lý mới trong vật lý lượng tử

    16:43:20 21/02/2006
    Như chúng ta biết trong quang học có phương pháp ghi một vật thể 3 chiều bằng một ảnh 2 chiều (hologram). Kỹ thuật này gọi là holography (phương pháp toàn ảnh). Chữ holography có gốc từ tiếng Hy Lạp ¼êì holos - whole, toàn thể + íôz graphe - writing, ghi ảnh. Đây là một phương pháp chụp ảnh hiện đại. Holography được sáng chế năm 1948 bởi nhà vật lý người Hung Dennis Gabor (1900-1079), nhờ thành tích này ông được nhận giải Nobel năm 1971. Vì sao mà nguyên lý toàn ảnh trở nên quan trọng cho vật lý lượng tử? Vì bài toán lớn nhất hiện nay của vật lý lượng tử là thống nhất được hai lý thuyết lớn nhất của thời đại: lý thuyết lượng tử và lý thuyết tương đối rộng. Mà nguyên lý toàn ảnh nói trong bài này có hy vọng là một phương án để làm được điều đó!

    Nguyên lý này trước tiên do Gerard'' t Hooft đưa ra vào năm 1993, sau đó được thiết lập trong một trường hợp cụ thể bởi Maldacena (đại học Harvard) vào năm 1997. Công trình của Maldacena gây một tiếng vang lớn trong giới vật lý lý thuyết, trong vòng 5 năm công trình của Maldacena được trích dẫn trên 5000 lần và được xem như một bước đột phá về quan niệm, tạo nên một cách nhìn mới đối với hấp dẫn và lý thuyết trường lượng tử.
    Trước hết chúng ta hãy nhớ lại phương pháp chụp toàn ảnh (holography).
    Hologram là một ảnh 2 chiểu (2-D), song khi được nhìn dưới những điều kiện chiếu sáng nhất định thì tạo nên một hình ảnh 3 chiều (3-D) trọn vẹn. Mọi thông tin mô tả vật thể 3-D đều được mã hoá trong mặt biên 2-D. Như vậy chúng ta có hai thực tại 2 chiều và 3 chiều tương đương với nhau về mặt thông tin (xem hình 1).

    [​IMG]

    Hình 1 . Holography trong quang học

    Nguyên lý tương đối của Einstein dẫn đến công thức E = mc 2 và không-thời gian 4 chiều, nguyên lý bất định Heisenberg chi phối hành vi của thế giới vi mô, nguyên lý tương đương quán tính và trọng lượng dẫn đến lý thuyết tương đối rộng.
    Nguyên lý toàn ảnh có thể sẽ đi một lộ trình tương tự như lộ trình của các nguyên lý trên. Nguyên lý holographic mà chúng ta sẽ đề cập trong bài này sẽ góp phần mở đường cho việc xây dựng một lý thuyết hấp dẫn lượng tử.
    Vậy ý tưởng chính của nguyên lý này là gì? Có thể tóm tắt như sau: thông tin của một vùng không gian có hấp dẫn có thể mã hoá không có hấp dẫn trên mặt biên của vùng không gian đó, nói cách khác có thể thiết lập một mối tương quan giữa các đại lương trên mặt biên với các đại lượng trong vùng.
    Yếu tố quan trọng ở đây là thông tin.
    Từ kỹ thuật đến sinh học, vật lý, thông tin đóng vai trò quan trọng. Các protein không thể nào tổng hợp được nếu không có thông tin từ DNA. John A.Wheeler, đại học Princeton cho rằng thế giới vật lý được làm bằng thông tin, với năng lượng và vật chất là những yếu tố dẫn! Và đối tượng xuất phát ở đây là các lỗ đen.

    Hai loại entropy (thống kê & thông tin) [1] &[2]
    Khi nghiên cứu những tính chất kỳ lạ của lỗ đen [5&6], các nhà vật lý đã suy ra giới hạn giam giữ thông tin của một vùng không gian hoặc của một lượng vật chất và nănglượng. Những kết quả thu được chứng tỏ rằng các mô tả không gian 3 chiều có thể thực hiện trên một mặt 2 chiều , giống như một bức tranh toàn ảnh (hologram) trong không gian 2 chiều có thể chứa tất cả thông tin của một vật thể 3 chiều. Nhận thức của chúng ta về thế giới 3 chiều có thể chỉ là một ảo ảnh sâu đậm, hoặc đấy chỉ là một trong hai cách nhận thức thế giới khách quan.

    [​IMG]

    Entropy của một lỗ đen tỷ lệ với diện tích bề mặt của chân trời sự cố (tức ranh giới có vào mà không có ra đối với mọi vật, kể cả ánh sáng khi rơi vào lỗ đen). Một lỗ đen với diện tích chân trời là A (trong đơn vị diện tích Planck = 10 66 cm 2) sẽ có A /4 đơn vị entropy. Xét từ quan điểm thông tin diện tích chân trời được phủ bởi các bit 1 và 0, mỗi bit chiếm 4 đơn vị diện tích Planck.

    Năm 1948 nhà toán học người Mỹ Claude E. Shannon đã đưa vào thông tin khái niệm entropy. Entropy thông tin trong một thông điệp là số bit cần thiết để mã hoá thông điệp đó.Khái niệm entropy của Shannon làm xích gần vật lý thống kê với thông tin.
    Một đối tượng quan trọng trong việc nghiên cứu entropy là lỗ đen. Như chúng ta biết entropy không giảm (định luật 2 nhiệt động học).
    Jacob Bekenstein chứng minh rằng khi một lượng vật chất rơi vào lỗ đen thì entropy của lỗ đen tăng lên để bù trừ vào entropy do lượng vật chất mất đi. Nói cách khác entropy của lỗ đen và vật chất chung quanh không giảm, đó là định luật 2 nhiệt động học tổng quát
    (GSL- generalized second law). Năm 1970 Hawking & Demetrious Christodoulou (đại học Princeton) độc lập với nhau chứng minh rằng A - diện tích lỗ đen (ở chân trời [4]) không giảm theo thời gian: t2 > ,t1 A(t1), từ đó Jacob Bekenstein có cơ sở để đồng nhất entropy với A (với,A(t2) một hệ số là1/4), xem hình 2.
    Song lỗ đen có bức xạ Hawking, vậy khối lượng giảm do đó A giảm, vậy entropy giảm? Thực tế entropy của bức xạ sẽ bù trừ sự giảm của entropy của lỗ đen, vây GSL vẫn đúng!
    Susskind xét một hệ không phải là lỗ đen và có diện tích mặt ngoài là A?T, nếu hệ này co thành lỗ đen thì sẽ có AfzA?T < A?T, song theo GSL thì entropy không giảm vậy entropy của hệ (nếu không là lỗ đen) với mặt biên A?T nhất thiết phải nhỏ hơn A?T/4.
    Ta thu được một kết quả đáng kinh ngạc: thông tin của hệ chỉ phụ thuộc vào diện tích mặt biên (mà không phụ thuộc vào thể tích của hệ)!
    Năm1993 Gerard ?~t Hooft đề ra nguyên lý holographic: theo nguyên lý này tồn tại một vật lý n-D trên mặt biên (không gian n chiều) mô tả được hoàn toàn vật lý (n+1)-D của hệ nằm trong mặt biên (không gian n+1 chiều).
    Theo nguyên lý holographic các quy luật vật lý trên mặt biên (xem là hologram) mô tả tương tác giữa các hạt như quark, gluon trong khi các quy luật vật lý của không gian nằm trong mặt biên được mô tả bởi lý thuyết siêu dây như thế có chứa cả hấp dẫn!
    Năm 1997, tác giả Maldacena (đại học Harvard) đã thực hiện nguyên lý holography nhờ thiết lập mối quan hệ sau:
    Một vũ trụ mô tả bởi lý thuyết siêu dây (như vậy có hấp dẫn) trong một không-thời gian anti-de Sitter 5 chiều tương đương với một lý thuyết trường lượng tử (không chứa hấp dẫn) trên mặt biên 4 chiều của không-thời gian đó (xem hình 3).


    Một bài toán khó giải trong 5 chiều lại có thể trở nên dễ giải trong 4 chiều và ngược lại.
    Không gian anti-de Sitter là gì?
    Đó là lời giải có đối xứng cao của phương trình Einstein và với hằng số vũ trụ âm. Không gian anti-de Sitter là một không gian hyperbolic và có độ cong âm. Mặt cầu là một không gian có độ cong dương, mặt có hình yên ngựa là ví dụ của một không gian có độ cong âm.
    Giả thuyết về nguyên lý holographic bây giờ được phát biểu như sau: lý thuyết lượng tử hấp dẫn ở vùng trong của không gian anti-de Sitter là hoàn toàn tương đương với lý thuyết lượng tử của các hạt nằm trên vùng mặt biên. Như vậy từ mặt biên đi vào vùng trong của không gian anti-de Sitter ta thấy số chiều tăng lên ứng với sự xuất hiện của những tuơng tác khác như hấp dẫn,...
    Không gian anti-de Sitter dưới con mắt của hoạ sĩ M.C. Escher [2]
    Không gian anti-de Sitter mặc dầu là vô hạn song lại có một "biên" tại vô cực. Hoạ sĩ Escher [4] đã nén khoảng cách vô cực đó thành một biên hữu hạn đó là vòng tròn biên ( vòng tròn này sẽ là một mặt nểu ta xét không-thời gian 4 chiều). Sau đây là bức tranh của M.C.Escher mô tả một không gian với độ cong âm bị ép dẹt xuống một mặt phẳng (xem hình 4.1 và 4.2).

    [​IMG]

    Không gian hyperbolic mô tả bởi hoạ sĩ M.C. .Escher. Các con cá đều có kích thước bằng nhau song những con ở xa bị nén lại . Vòng tròn biên mô tả biên ở vô cực.
    Nếu các con cá không bị nén lại thì không gian không bị biến dạng và ta có hình một yên ngựa với nhiều nếp gấp như bức tranh ở phía dưới đây.


    Không gian đơn giản với độ cong âm là không gian anti-de Sitter. Khác với vũ trụ của chúng ta vốn đang giãn nở, không gian anti-de Sitter ứng với một vũ trụ không co không nở. Song không gian anti-de Sitter lại rất hữu ích cho việc xây dựng một lý thuyết luợng tử cho hấp dẫn.
    Vật lý trong không gian anti-de Sitter có những tính chất đặc biệt. Nếu chúng ta đang lơ lửng đâu đó trong không gian anti-de Sitter thì chúng ta cảm thấy như đang nằm dưới một đáy hấp dẫn. Một vật ném đi sẽ quay lại như một chiếc boomerang. Nếu chúng ta gửi một đi một chùm photon (chuyển động với tốc độ ánh sáng) thì chùm photon sẽ đến vô cực rồi quay trở lại trong một thời khoảng hữu hạn.
    Bây giờ chúng ta hãy xét thêm thời gian. Hình 5 mô tả một không -thời gian anti-de Sitter duới dạng một chồng đĩa, mỗi đĩa là hình tròn của Escher biểu diễn vũ trụ tại một thời điểm, chiều cao biểu diễn thời gian.
    Như chúng ta biết lỗ đen có bức xạ gọi là bức xạ Hawking xảy ra ở một nhiệt độ nào đó. Vậy nhiệt độ của lỗ đen là gì? Theo nhiệt động học ta phải biết các yếu tố vi mô của lỗ đen để có thể tính được nhiệt độ. Đối với một lỗ đen trong không gian anti-de Sitter, nhờ nguyên lý holographic thì lỗ đen sẽ ứng với cấu hình các hạt nằm trên biên. Do đó các nhà vật lý lý thuyết có thể áp dụng lý thuyết thống kê lượng tử để tính nhiệt độ và điều kỳ diệu là kết quả trùng với các kết quả tính toán của Hawking bằng những phương pháp khác.

    [​IMG]

    Hãy hình dung một chồng đĩa, mỗi đĩa là một không gian hyperbolic mô tả vũ trụ ở một thời điểm và là một vòng tròn theo tranh vẽ của Escher. Chiều cao của chồng đĩa mô tả thời gian.Trong không gian này một vật (như quả bóng màu xanh) ném đi sẽ rơi xuống trong một thời hạn nhất định. Song nếu một tia laser (màu đỏ) được phát đi thì nó sẽ đến đường biên ở vô cực và quay lại trong một thời hạn bằng thời hạn lúc đi đến biên.
    Trong không gian 4 chiều thì đường biên sẽ là một mặt cầu thay vì một đường tròn như trong hình vẽ.


    Đàm Sơn, đại học Washington nghiên cứu độ nhớt trong lỗ đen và kết quả cho thấy độ nhớt này là nhỏ! Có thể kiểm tra điều này chăng? Theo lý thuyết holographic thì trên biên ta sẽ có sự va chạm của các hạt, sự va chạm này tạo nên một loại chất lỏng với độ nhớt cũng rất nhỏ, phải chăng kết quả này (có thể kiểm nghiệm trên máy RHIC -Relativistic Heavy Ion Collider ?" Máy va chạm ion nặng tương đối tính ở Phòng thí nghiệm quốc gia Brookhaven) đã chứng tỏ sự tồn tại chiều thứ năm thuộc vùng trong của không gian anti-de Sitter?

    Kết luận

    "Nguyên lý toàn ảnh là một hệ mẫu (paradigm) mới, một con đường tư duy mới", nhà vật lý Willy Fischler (đại học Texas) đã phát biểu như vậy.

    Leonard Susskind (đại học Stanford) cho rằng nguyên lý toàn ảnh có liên quan mật thiết đến lý thuyết siêu dây, một lý thuyết ứng viên cho TOE (Theory Of Everything-lý thuyết của tất cả).
    Như chúng ta biết bài toán nghịch lý về thông tin trong lỗ đen có thể xem như được sáng tỏ phần nào.Nguyên lý toàn ảnh khẳng định rằng mọi thông tin trong lỗ đen giờ đây được mã hoá trên diện tích chân trời.

    Một vũ trụ đang nở như vũ trụ của chúng ta không có được một đa tạp biên xác định như trong không gian anti-de Sitter, nhưng nhiều tác giả đã đưa ra các giả thuyết để có thể áp dụng được nguyên lý toàn ảnh (Bousso, Susskind, Fischler cho rằng có thể hiểu nguyên lý toàn ảnh như điều kiện hạn chế thông tin chứa trong một vùng không gian không lớn hơn thông tin mã hoá trên mặt biên)[3].

    Nguyên lý holographic đã vén mở một góc khác của bức màn để lộ một con đường xây dựng lý thuyết hấp dẫn lượng tử nhằm thống nhất lý thuyết lượng tử và lý thuyết hấp dẫn.Nguyên lý toàn ảnh đã giúp chúng ta hiểu thêm các tính chất của không-thời gian, của bản chất hấp dẫn trong vật lý hiện đại (chúng có thể liên quan đến vấn đề triết học).

    Cao Chi lược thuật

    Tài liệu tham khảo

    [1] Jacob Bekenstein, Scientific American, tháng 8, 2003.
    [2] Juan Maldacena, Scientific American, tháng 11, 2005.
    [3] Andrei Linde (Stanford) cho rằng nguyên lý toàn ảnh không phải là phổ cập.
    [4] Cao Chi, Suy nghĩ về đối xứng, Einstein-Dấu ấn trăm năm, Tia Sáng, 2005.
    [5] Cao Chi, Tổng quan về lỗ đen trong vũ trụ, Vật lý ngày nay, tháng 10, 2004.
    [6] Cao Chi, Tia Sáng, số 2+3, 2006.


    Cao Chi
    ------------------------------------------------------
    @ Tạp chí Tia Sáng (Sẽ bổ sung url sau)


    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 17:34 ngày 23/03/2009
  9. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    "Nguyên khí" cho ngành hạt nhân

    10:16:21 02/01/2008

    Đào tạo nhân lực của ngành hạt nhân là nhiệm vụ rất lớn trước mắt. Nếu trong tay chúng ta có chừng 300-400 chuyên gia giỏi với trình độ cao thì sự thành công của chương trình hạt nhân sẽ được bảo đảm trong giai đoạn đầu. Vấn đề đào tạo nhân lực cho ngành hạt nhân phải là một vấn đề ở mức Chính phủ (government level) cũng có thể ở mức liên Bộ. Đây cũng là một khuyến cáo quan trọng của IAEA. Không ý thức được điều này khó lòng có được một đội ngũ cán bộ tối cần thiết cho ngành điện hạt nhân. Trong bài này chúng tôi xin chỉ bàn về đào tạo nhân lực nằm dưới Ban chỉ đạo quốc gia (hay Liên Bộ Chương trình hạt nhân).

    [​IMG]

    Tác giả tại Hội nghị khoa học thanh niên, Viện Năng lượng Nguyên tử

    Ba công đoạn đào tạo
    Ngày 3/1/2006, Th_ủ T_ướng Chính phủ Ph_an V_ăn Kh_ải đã ký quyết định số 01/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt "Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020". Để thực hiện chiến lược đó vấn đề đào tạo nhân lực khoa học công nghệ hạt nhân là vấn đề quan trọng số một. Nhân lực này sẽ quyết định thành công của chương trình hạt nhân, quyết định mặt an toàn và tính kinh tế của các dự án.
    Đào tạo nhân lực phải đi trước một bước bằng 10-15 năm. Với nhân lực non yếu chưa đủ sức nghiên cứu khoa học (NCKH) như hiện nay trong chương trình điện hạt nhân thì vấn đề đào tạo phải đặt trước vấn đề nghiên cứu khoa học. Thất bại trong công việc đào tạo có thể dẫn đến nguy cơ thất bại của điện hạt nhân!
    Việc đào tạo nhân lực cho chương trình hạt nhân phải gồm ba công đoạn lớn:
    -Công đoạn củng cố, đào tạo lại, nâng cấp đối với nhân lực hiện có (existing manpower).
    -Công đoạn hướng dự án (project-oriented) nhằm đào tạo trước mắt nhân lực cho nhà máy điện nguyên tử đầu tiên (và trong tương lai cho những nhà máy điện nguyên tử tiếp theo).
    -Công đoạn hướng chương trình (programme-oriented) nhằm đào tạo nhân lực lâu dài cho cả chương trình hạt nhân.
    Có thể biểu diễn ba công đoạn trên bằng đồ thị dưới đây.

    [​IMG]

    I: Nhân lực hiện có
    IIa,b,c: Nhân lực hướng dự án
    IIIa,b,c: Nhân lực hướng chương trình (đầu đàn +R&D+pháp quy)
    (Lộ trình IIIb có thể xem là lộ trình kéo dài bổ sung cán bộ R&D của lộ trình I)

    Trong trường hợp dự án nhà máy điện hạt nhân đầu tiên có chậm lại một vài năm thì các lộ trình đào tạo hướng nhân lực dự án (IIa, IIb và IIc) cũng sẽ được lùi lại tương ứng theo số năm như vậy. Tuy nhiên các lộ trình đào tạo nhân lực hiện có (I) và đào tạo nhân lực hướng chương trình (IIIa, IIIb và IIIc) vẫn phải giữ nguyên như cũ vì các lộ trình này liên quan đến chương trình điện hạt nhân nên cần tranh thủ thời gian - vốn còn rất ít - cho chương trình. Có nhiều quan điểm cho rằng trước tiên hãy tập trung vào đào tạo nhân lực cho dự án. Song điều này không đúng vì trong giai đoạn đầu của chương trình hạt nhân các công đoạn đào tạo nhân lực theo 2 công đoạn trên "gối đầu" nhau. Ngay từ đầu chúng, ta đã phải có những cán bộ chuyên gia công nghệ giỏi để am hiểu "thẩm kế", có trình độ làm việc với tư vấn ngoại quốc trong mọi ký kết, chúng ta cần phải có cán bộ pháp quy để giải quyết những vấn đề về an toàn, luật pháp. Cho nên nhiều cán bộ thuộc phạm trù hướng chương trình cũng thuộc phạm trù hướng dự án .

    [​IMG]

    Phòng chuẩn cấp II X-ray 2 của Viện Năng lượng Nguyên tử

    Nguồn nhân lực hiện có (existing man power) là một lực lượng quan trọng. Chính nguồn nhân lực này đang giúp Chính phủ vạch kế hoạch cho chương trình hạt nhân. Trong số họ, nhiều chuyên gia giỏi về kỹ thuật, công nghệ hạt nhân, tính toán lò phản ứng, nhiều người đã học tập, thực tập trên các lò phản ứng ở nước ngoài, nhiều người là chuyên gia của IAEA. Bộ phận nhân lực này đã có nhiều công trình khoa học công nghệ quan trọng đăng trong nước và nước ngoài, nhiều công trình rất có giá trị. Nhân lực hiện có này đã được đào tạo trong nhiều chục năm trong thời gian trước đây, và trong những kế hoạch ngắn hạn sau này. Biết củng cố, đào tạo thêm, nâng cấp thì đây là một vốn nhân lực rất mạnh, rất hữu ích cho công đoạn hướng dự án và cả cho công đoạn hướng chương trình trong giai đoạn đầu. Trong vòng 10 năm nữa lực lượng này đang và sẽ đóng vai trò quan trọng.
    Song phải nói rằng số nhân lực này không đủ và không thể đáp ứng được các nhiệm vụ nặng nề trước mắt.
    Với việc đào tạo những cán bộ đầu đàn, nhiều nước đã lo nghĩ đến cán bộ đầu đàn từ rất sớm, họ gửi ra nước ngoài hàng trăm cán bộ học tập trong 5 năm trong 10 năm. Nếu ngay bây giờ (2007) chúng ta gửi đi khoảng 10-30 người xuất sắc thì đến năm 2011-2012 chúng ta sẽ có khoảng 10-20 cán bộ thật giỏi, xứng đáng ở cương vị đầu đàn.Ngay trong thời bao cấp, Việt Nam đã tích lũy được một số kinh nghiệm trong đào tạo cán bộ đầu đàn, có thể đơn cử những nhà khoa học được Đ_ảng và Chính phủ gửi đến Viện nghiên cứu hạt nhân Đúp-na, hiện nay họ vẫn tiếp tục là những cán bộ đầu đàn trong lĩnh vực được đào tạo. GS Tạ Quang Bửu, lúc sinh thời có một cách nhìn rất sáng suốt trong việc đào tạo những cán bộ đầu đàn. Ông chọn người, mời đến nhà riêng giao nhiệm vụ và tìm mọi cách gửi họ ra nước ngoài trong vòng 5 đến 10 năm theo những thủ tục đặc biệt thoát khỏi thông lệ thời bao cấp. Nhờ phương thức này mà Việt Nam có được một số cán bộ đầu đàn hiện nay đang phát huy tác dụng, mặc dầu nhiều người đã lớn tuổi.

    Mô hình đào tạo trong nước

    [​IMG]

    Nguồn nhân lực hiện có (existing man power) là một lực lượng quan trọng

    Ngay ở trong nước, chúng ta cũng có thể đào tạo các cấp sau, từ trình độ đại học, (BS - Bachelor of Sciences), sau đại học, (MS - Master of Sciences) đến trên đại học (PhD - Doctor of Philosophy). Chúng ta có thể có 4 lộ trình đào tạo chuyên gia như sau :
    lộ trình xuất phát từ các trường Đại học Bách khoa; từ các trường Đại học KHTN (cũng dành cho cán bộ pháp quy); từ các trường đại học, sau đó tiếp tục tại các cơ sở đào tạo của các Viện nghiên cứu; từ Đại học điện lực (Bộ Công nghiệp).
    Cần chú ý, các lộ trình trên đào tạo từ cơ sở đến cấp học PhD, song ở một cấp nào (BS, MS hay PhD) ta đều có thể lấy tắt ngang các cán bộ hoặc từ các nhà máy, công ty hoặc từ các Viện đã có một trình độ tương đương (trong một chuyên môn có thể khác hạt nhân) với cấp đang xét để học tiếp những giáo trình nâng cao và chuyên sâu hơn về hạt nhân.
    Các cơ sở đào tạo của các Viện nghiên cứu sẽ cấu tạo thành một TRUNG TÂM đào tạo. Có thể nói đây là tiền thân của Trung tâm đào tạo quốc gia cho ngành hạt nhân. Trung tâm này được mô phỏng theo mô hình INSTN của Pháp và sẽ nằm dưới sự chỉ đạo của 3 Bộ gồm: Bộ Khoa học & Công nghệ, Bộ Giáo dục & Đào tạo và Bộ Công Thương.
    Ngoài các hình thức trên còn có những lớp ngắn hạn, tổ chức cùng với các cơ quan bên các nước khác: ví dụ những lớp học cho EVN và các cơ quan khác (phối hợp với Nhật/Toshiba năm 2005, 2006) hay lớp học về an toàn (phối hợp với IAEA/Argonne laboratory năm 2005).

    Đào tạo ở nước ngoài
    Chú ý trong hoàn cảnh giáo dục ở nước ta gặp nhiều khó khăn, cơ sở thiết bị hạn chế nên phải xác định rằng công đoạn đào tạo ở nước ngoài và ưu đãi, mời về nước làm việc các chuyên gia lớn đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhiều nước đi trước chúng ta như Hàn Quốc, Trung Quốc đã gửi đào tạo trong nhiều năm (10 15 năm) nhiều cán bộ đến các nước như Mỹ, Anh, Pháp... và sẵn sàng mời những chuyên gia lớn về nước làm việc với những chế độ đặc biệt .Nhiều người trong số đó đã đóng vai trò cán bộ đầu đàn, vai trò chỉ đạo. Chú ý, chỉ nên gửi đi nước ngoài những cán bộ có trình độ BS (tốt nghiệp Đại học).
    Ngoài ra, cần lưu ý những quan điểm cần tránh như tách rời đào tạo nhân lực hướng dự án và nhân lực hướng chương trình; Phương thức vừa học vừa làm chỉ có thể áp dụng cho một số công việc còn đối với chương trình hạt nhân cần đào tạo trước một bước (10 đến 15 năm) vì những kiến thức hạt nhân không thể học được ngay một sớm một chiều; Đào tạo tự phát trong từng cơ sở không theo một quy hoạch tổng thể ở mức quốc gia.

    Kết luận

    Đào tạo nhân lực cho hạt nhân là một vấn đề phức hợp và có tầm quan trọng vào bậc nhất đối với chương trình hạt nhân. Muốn có một nhân lực hạt nhân hùng hậu, và gìn giữ được nhân lực này cần có một chính sách thích hợp. Nhiều nước như Trung Quốc có chế độ ưu đãi đặc biệt đối với nhân lực hạt nhân. Đào tạo nhân lực hạt nhân phải đặt ở tầm quốc gia, với một mức độ cấp thiết cao và phải được tiến hành ngay từ bây giờ (2007) để đi được trước một bước so với các tiến độ khác của chương trình hạt nhân.Sự thành công của chương trình hạt nhân do yếu tố nhân lực quyết định một phần lớn.

    -----------------------
    Tài liệu tham khảo:

    1.Đề án đào tạo nhân lực (VNLNT VN-Bộ Khoa học & Công nghệ)
    2.Đề án đào tạo nhân lực cho NMĐHN đầu tiên (VNL- Bộ Công Thương)
    3.Hợp tác đào tạo nhân lực Hàn-Việt. Hàn Quốc đã góp ý kiến cho Việt Nam bằng cách đưa ra một khẩu hiệu quan trọng trong việc đào tạo nhân lực hạt nhân: (Giáo dục Bách niên chi đại kế = Giáo dục kế lớn 100 năm)
    4.Technical Reports Series No 200, IAEA

    ---------------------
    Một số khả năng chính trong vấn đề đào tạo nhân lực Việt Nam ở nước ngoài

    1. IAEA
    2. Pháp .Địa chỉ gửi đến có thể là INSTN và CNRS. Thời hạn đào tạo : 1-2 năm .
    3. Nga. Những địa chỉ quan trọng và đáng tin cậy là:MIFI, MPEI & Joint Institute for Nuclear Research (Viện nghiên cứu hạt nhân Đúp Na, đã từng đào tạo nhiều chuyên gia đầu ngành cho Việt Nam). Với Nga, chúng ta đã có hiệp định ở cấp Chính phủ.
    4. Nhật Bản. Địa chỉ gửi đến: IOT (Institute of technologies), văn bản khung đã ký kết năm 2003. RIKEN, chương trình hợp tác đã ký kết và thực hiện từ năm 2001.JAERI.
    5. Hàn Quốc. Địa chỉ gửi đến: KAERI, KAIST (Korea Advanced Institute of Science & Technology)
    Đã có hiệp định cấp Chính phủ về hợp tác sử dụng năng lượng nguyên tử .
    6. Ấn Độ. Đã có Hiệp định cấp Chính phủ về hợp tác sử dụng năng lượng nguyên tử . Có thể gửi cán bộ đi đào tạo trên một năm theo các chuyên môn: Công nghệ, Chu trình nhiên liệu, ...Các địa chỉ: BARC, Bhabha Atomic Research Centre, Bombay, HYDROBAT (tổ hợp chu trình nhiên liệu)
    7. Canada.Đã có thoả thuận hợp tác trong lĩnh vực hạt nhân. Địa chỉ: AECL
    8. Mỹ. Đã có hiệp định hợp tác khoa học và công nghệ.

    Cao Chi
    ---------------------
    @ Tạp chí Tia Sáng (Sẽ bổ sung url sau)

    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 17:42 ngày 23/03/2009
  10. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    KHCN cần chủ động gắn với cuộc sống sôi động của đất nước.

    10:38:09 02/01/2008

    Bà Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiện là Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển- người được các doanh nhân kính trọng, yêu mến không chỉ vì có những đóng góp vào sự đổi mới thể chế, môi trường kinh tế mà còn vì sự thẳng thắn, sâu sắc, khiêm tốn và cởi mở của bà.
    Tia Sáng đã có cuộc trao đổi với bà về chất lượng tăng trưởng kinh tế và những vấn đề đặt ra đối với KH&CN trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

    [​IMG]

    PV: Với cái tên "Viện nghiên cứu phát triển", hẳn Viện của bà sẽ quan tâm nghiên cứu tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, khoa học, giáo dục, văn hóa...?

    Bà Phạm Chi Lan: Không một Viện nào có thể nghiên cứu quá rộng như vậy. Chúng tôi đặt tên Viện chung chung như vậy là để tránh trùng lặp với tên một số Viện khác như: Viện Kinh tế, Viện Khoa học giáo dục, Viện Văn hóa... Trọng tâm của Viện chúng tôi là nghiên cứu những vấn đề phát triển, lấy kinh tế làm trọng tâm. Phát triển kinh tế phụ thuộc vào yếu tố con người. Do vậy không thể tách rời vấn đề nghiên cứu phát triển kinh tế với các vấn đề khác liên quan đến con người như giáo dục, khoa học, văn hóa, xã hội... Chính vì thế ngoài một số chuyên gia về kinh tế, Viện chúng tôi còn có sự tham gia của GS Hoàng Tụy, GS Phan Đình Diệu, GS Phan Huy Lê... và nhiều nhà nghiên cứu chuyên và không chuyên quan tâm đến những vấn đề phát triển của đất nước

    Ngày càng có nhiều người cho rằng GDP của chúng ta liên tục tăng nhưng chất lượng tăng trưởng ngày càng thấp. Ý kiến của bà?

    Đúng là có những dấu hiệu cho thấy chất lượng tăng trưởng của chúng ta ngày càng thấp: hệ số giữa đầu tư và tốc độ tăng trưởng ngày càng tăng (nghĩa là muốn tăng 1%GDP thì phải đổ thêm nhiều tiền của hơn. Nếu năm 1995-1996 GDP đạt 9% thì hệ số này là 2,2; hiện nay GDP cũng như vậy nhưng hệ số đó là 4,4); chỉ số năng suất lao động thấp so với các nước trong khu vực; ô nhiễm, tàn phá môi trường ngày càng nghiêm trọng hơn bao giờ hết; chỉ số giá cả tăng quá cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn; khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư ngày càng tăng nhất là giữa nông thôn và thành thị... Trên cơ sở những kinh nghiệm của nước ngoài và thực tiễn của nước ta, chúng tôi sẽ triển khai nghiên cứu vấn đề này một cách thấu đáo hơn.

    Nhưng theo bà, vì sao tại các kỳ họp Quốc hội, các hội nghị của Chính phủ hầu như chỉ thấy bàn đến các giải pháp tăng GDP, ít thấy đề cập đến biện pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng?

    Đây là điều đáng tiếc ở nước ta (nếu không muốn nói là đáng buồn). Khái niệm và ý thức quan tâm đến chất lượng phát triển đã được đề cập đến trong Nghị quyết Đại hội 8. Có nghĩa là cách đây 10 năm, chúng ta đã thấy chất lượng tăng trưởng có vấn đề, đã có định hướng không chỉ theo đuổi tốc độ mà phải lo đến cải thiện chất lượng tăng trưởng. Nhưng cho đến nay, chúng ta hầu như chưa làm được điều gì theo định hướng đó. Ngay tại Kỳ họp Quốc hội vừa qua, không ít đại biểu còn đòi đưa tốc độ tăng trưởng cao hơn chỉ tiêu Chính phủ đề ra (thậm chí có đại biểu muốn GDP của chúng ta đạt tới hai con số). Tuy vậy gần đây trong cuộc họp với các địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã nhấn mạnh đến các việc cần thực hiện các giải pháp để nâng cao hiệu quả, cải thiện môi trường, đời sống của nhân dân... Nhưng tôi e rằng vì bị sức ép, bị ám ảnh bới tốc độ tăng trưởng, nên trên thực tế những yếu tố liên quan đến chất lượng sẽ vẫn bị sao lãng.

    [​IMG]

    Tăng trưởng vẫn phụ thuộc nhiều vào tài nguyên và lượng lớn nhân công.

    Hẳn các nhà quản lý đều biết "nguy cơ" của tăng trưởng chất lượng thấp, nhưng tại sao họ chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng. Phải chăng đó cũng là biểu hiện của bệnh thành tích?

    Đúng vậy. Đó là căn bệnh chung của nhiều bộ phận xã hội chứ không phải của riêng ngành giáo dục. Nó phát sinh nhiều tiêu cực, lây lan nhanh nhưng ít được quan tâm khắc phục. Ngoài ra có thể một số chuyên gia giúp việc cho Chính phủ, Quốc hội cũng chưa có được nhận thức một cách đầy đủ về tư duy phát triển. Tôi cho rằng nếu trong điều hành của Chính phủ còn có những điều chưa ổn, thì không nên chỉ trách những người đứng đầu Chính phủ mà phải thấy trách nhiệm của bộ máy giúp việc.

    KHCN được coi là quốc sách hàng đầu, động lực của phát triển, nhưng tại các hội nghị về kinh tế của các cấp chỉ thấy bàn đến thể chế, chính sách. Tại nhiều Kỳ họp Quốc hội chẳng có mấy ý kiến yêu cầu chất vấn Bộ trưởng Bộ KH&CN. Đó là ví dụ điển hình về sự thiếu quan tâm đến sự phát triển KHCN. Theo bà vì sao?

    Đúng vậy. Đó là căn bệnh chung của nhiều bộ phận xã hội chứ không phải của riêng ngành giáo dục. Nó phát sinh nhiều tiêu cực, lây lan nhanh nhưng ít được quan tâm khắc phục. Ngoài ra có thể một số chuyên gia giúp việc cho Chính phủ, Quốc hội cũng chưa có được nhận thức một cách đầy đủ về tư duy phát triển. Tôi cho rằng nếu trong điều hành của Chính phủ còn có những điều chưa ổn, thì không nên chỉ trách những người đứng đầu Chính phủ mà phải thấy trách nhiệm của bộ máy giúp việc.

    KHCN được coi là quốc sách hàng đầu, động lực của phát triển, nhưng tại các hội nghị về kinh tế của các cấp chỉ thấy bàn đến thể chế, chính sách. Tại nhiều Kỳ họp Quốc hội chẳng có mấy ý kiến yêu cầu chất vấn Bộ trưởng Bộ KH&CN. Đó là ví dụ điển hình về sự thiếu quan tâm đến sự phát triển KHCN. Theo bà vì sao?
    Tôi nghĩ, thứ nhất, quá trình phát triển của nước ta là từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, phải vượt qua nhiều khó khăn to lớn do mới qua khỏi chiến tranh, do cơ chế quan liêu bao cấp... Vì vậy bước vào đổi mới mọi người cần phải lo nhiều đến hoàn thiện thể chế thì kinh tế mới có thể vượt qua khủng hoảng, vận hành và phát triển. Còn đối với doanh nghiệp thì mối quan tâm hàng đầu của họ là môi trường kinh doanh. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường, môi trường kinh doanh vẫn còn quá nhiều bất cập, tranh tối, tranh sáng. Do vậy, đó vẫn là mối quan tâm hàng đầu cần phải tháo gỡ của lãnh đạo và doanh nghiệp. Thứ hai, bản thân trình độ phát triển của chúng ta chủ yếu còn dựa vào tài nguyên, lao động giá rẻ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài... không có mấy yếu tố phát triển do tác động của KH&CN. Từ đó hoạt động KHCN bị đẩy xuống hàng thứ yếu.
    Hiện nay, chúng ta đã gia nhập WTO, đã bước vào giai đoạn phát triển mới với những thời cơ lớn cùng không ít thách thức, khó khăn, trong đó KHCN đóng vai trò là yếu tố có tính sống còn của phát triển. Vì vậy tôi tin rằng lãnh đạo và chính quyền các cấp tới đây sẽ quan tâm nhiều hơn đến việc thúc đẩy phát triển KHCN.

    Như vậy phải chăng những yếu kém trong hoạt động khoa học chủ yếu là do chưa được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp?

    Tôi nghĩ đó còn thuộc trách nhiệm của các nhà quản lý, các nhà khoa học. Được coi là động lực của phát triển, nhưng trong việc giúp các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh; khắc phục những sự cố về môi trường, dịch bệnh... còn mờ nhạt, chưa xứng với sự đầu tư của Nhà nước. Nếu chủ động gắn mọi hoạt động của mình vào cuộc sống sôi động của đất nước, đề ra các chương trình nghiên cứu có hiệu quả thiết thực chứ không phải nghiên cứu chỉ để thỏa mãn nhu cầu sáng tạo của bản thân, thì tôi tin là không cần nhà khoa học phải đòi hỏi, xã hội và nhà lãnh đạo cũng sẽ quan tâm đến phát triển KHCN.

    Ngoài những điều bà vừa nói ở trên, nhiều nhà khoa học còn cho rằng thực trạng yếu kém trong hoạt động khoa học chủ yếu là do chậm đổi mới cơ chế. Bà có đồng tình với ý kiến này không?

    Đúng là cơ chế, chính sách về KH&CN còn phải tiếp tục đổi mới nhất là cơ chế tài chính đang làm "khổ", thậm chí buộc các nhà khoa học phải "nói dối". Nhưng tôi cho rằng mấy năm gần đây, Bộ KH&CN đã trình Chính phủ ban hành được một số Luật và nhiều Nghị định, chính sách theo hướng tăng cường tự chủ, tự chịu trách nhiệm và ưu đãi cho các nhà khoa học. Trong đó Nghị định 115 được chính nhiều nhà khoa học cho là "khoán 10" trong khoa học. Nhưng việc tổ chức thực hiện Nghị định này đã diễn ra hết sức chậm chạp ở chính ngay các Trung tâm nghiên cứu lớn như: Viện KH&CN Việt Nam, Viện KHXH Việt Nam, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo... với lý do Nghị định còn nhiều điểm chưa hợp lý. Thực tế khi Luật Doanh nghiệp ra đời đã được các doanh nghiệp hết sức hưởng ứng và họ đã cùng các nhà quản lý tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình thực hiện, nên đã mang lại hiệu quả to lớn như chúng ta đã thấy. Nếu các tổ chức khoa học, các nhà khoa học cũng có tinh thần như vậy, dám từ bỏ bao cấp, dấn thân vào cuộc sống sôi động của đất nước thì tôi tin rằng Nghị định 115 sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển KHCN.

    Xin cảm ơn Bà!

    PV thực hiện
    -----------------------------------------
    @ Tạp chí Tia Sáng (Sẽ bổ sung url sau)

    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 17:48 ngày 23/03/2009

Chia sẻ trang này