1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

TIN TỨC CHO KỸ SƯ (Tờ báo cho kỹ sư)

Chủ đề trong 'Câu lạc bộ kỹ sư' bởi small_porcupine, 18/05/2005.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. familypearl

    familypearl Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    10/03/2003
    Bài viết:
    958
    Đã được thích:
    0
    Hoa và sức khỏe đây
    Mỹ phẩm từ hoa xuân

    [​IMG]

    (vuontre.com)
    Hãy cải thiện làn da nám và tàn nhang bằng trà hoa đào. Lấy 10g hoa đào và 15 g hoa sen đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày.
    Thẩm mỹ học cổ truyền phương Đông cho rằng, có thể lấy cái tươi tắn và đẹp đẽ, cái sinh khí tràn trề và mãnh liệt của cỏ cây hoa lá mùa xuân để làm đẹp cho làn da và cơ thể con người. Bởi vậy, trong nghệ thuật làm đẹp, rất nhiều loại hoa xuân đã được cổ nhân trọng dụng với nhiều phương thức chế biến khác nhau.
    Hoa đào
    Rượu hoa đào: Lấy 150 g hoa đào khô (thu hái hoa đào mới nở rồi phơi khô trong bóng râm) đem ngâm với 1.500 ml rượu trắng, bịt kín miệng, sau 15 ngày có thể dùng được, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml, đồng thời lấy một chút rượu thoa đều lên da mặt. Công dụng: Hoạt huyết, nhuận da và làm đẹp; dùng trong trường hợp da dẻ nhiều nếp nhăn và kém tươi sáng.
    Bột thuốc hoa đào: Hoa đào, bạch dương bì mỗi thứ 30 g; đông qua nhân (nhân hạt bí đao) 40 g; tất cả sấy khô, tán mịn, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 3 g với rượu nhạt. Công dụng: Làm nhuận và sáng da, phòng chống vết nhăn trên da mặt
    Hoặc: Hoa đào 300 g hái vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, phơi khô trong bóng râm rồi tán thành bột mịn, đựng trong bình kín, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 3 g. Công dụng: Giảm béo, làm cho da mặt hồng hào, tươi tắn.
    Hoặc: Hái hoa đào tươi vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch, đem phơi khô trong bóng râm rồi tán thành bột mịn. Sau đó, vào ngày mùng 7 tháng 7, lấy lượng máu gà ác vừa phải hòa đều với bột hoa đào thành thuốc, thoa một lớp mỏng lên da mặt. Công dụng: Làm cho da dẻ mịn màng tươi sáng. Đây là phương thuốc làm đẹp bí truyền của cung đình đời Đường (Trung Quốc).
    Món ăn hoa đào: Hoa đào 20 bông; tôm nõn 30 g; củ cải 150 g; hành tây 75 g; tương cà chua 50 g, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Hoa đào lấy cánh rửa sạch, củ cải và hành tây rửa sạch thái mỏng, đổ dầu vào chảo, phi hành cho thơm rồi cho tôm, củ cải và hành tây vào xào to lửa, khi chín cho tương cà chua và gia vị vừa đủ, đổ ra đĩa, rắc cánh hoa đào lên trên, ăn nóng. Công dụng: tư âm bổ thận, nhuận da và dưỡng nhan sắc.Hoa cam
    Hoa cam (hoặc hoa chanh, hoa quất, hoa quýt) 10 bông, củ ấu (trapa bicornis L.) 500 g, phù trúc 150 g, hành tây 30 g, măng củ 150 g, cà rốt 20 g, tương cà chua, dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Hoa cam rửa sạch lấy cánh hoa, măng, cà rốt và hành tây thái chỉ, xào qua; củ ấu rửa sạch, bỏ vỏ và áo trong, thái miếng, đem xào qua với dầu thực vật rồi chế nước nấu chín. Khi gần được, cho măng, cà rốt, hành tây và hủ trúc vào, nêm đủ gia vị, múc ra bát và rắc những cánh hoa cam lên trên, ăn nóng. Công dụng: Tiêu tích hóa đàm, làm giảm mỡ máu, phòng chống béo phì, nhuận da và dưỡng da.Hoa hồng
    Hoa hồng 5 g; hoa sen 10 g, trà búp 15 g; 3 thứ đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15-20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: Phòng chống nám da và tàn nhang.Hoa đinh hương
    Thuốc rửa mặt đinh hương: Bạch đinh hương, bạch cương tàm, bạch khiên ngưu, bạch tật lê, bạch cập mỗi thứ 110 g; bạch chỉ 75 g; bạch phụ tử 18 g; bạch phục linh 18 g; tạo giác 50 g; đậu xanh một ít. Tất cả sấy khô rồi nghiền thành bột mịn, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày lấy một ít bột thuốc hòa với nước sạch để rửa mặt. Công dụng: Làm sạch da mặt, dưỡng da, trừ các vết nám da và tàn nhang.
    Đinh hương đậu phụ: Bột đinh hương 1 g; đậu phụ 200 g; giá đỗ 100 g; tôm rảo 10 g; dầu thực vật và gia vị vừa đủ. Đậu phụ xắt miếng nhỏ, rán vàng; giá đỗ và tôm rửa sạch; cho dầu vào chảo, phi hành tỏi cho thơm rồi bỏ giá đỗ và tôm vào xào to lửa, khi gần được cho tiếp đậu phụ, bột đinh hương và gia vị vừa đủ, ăn nóng. Công dụng: Thanh nhiệt giải độc, lợi thủy tiêu thũng, giảm béo và phòng chống nám da, tàn nhang.
    Đinh hương chân giò: Đinh hương 3 g, thịt chân giò lợn 1.000 g; hành, gừng tươi, hạt tiêu, rượu vang và gia vị vừa đủ. Thịt chân giò rửa sạch, thái miếng, ướp nước gừng, bột đinh hương và gia vị; cho dầu ăn vào chảo, phi hành tỏi cho thơm rồi bỏ thịt chân giò vào đảo qua, sau đó đổ nước vừa đủ, hầm thật nhừ, chế thêm một chút rượu vang là được. Công dụng: Khai vị bổ hư, nhuận da và dưỡng da.Hoa mận
    Hoa mận, hoa lê; hoa sen trắng, hoa sen đỏ mỗi thứ 18 g; hoa đào, hoa đu đủ, đinh hương, trầm hương, mộc hương, hoạt thạch, mỗi thứ 9 g, bột trân châu 6 g; bột đậu nành 35 g. Tất cả sấy khô, tán thành bột mịn, đựng trong lọ kín dùng dần. Hằng ngày lấy một ít bột thuốc hòa vào nước để rửa mặt. Công dụng: Nhuận da và dưỡng da, phòng chống nám da, tàn nhang và các nếp nhăn.
    ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khỏe & Đời Sống
  2. khanhve1981

    khanhve1981 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    10/02/2006
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
  3. small_porcupine

    small_porcupine Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/06/2004
    Bài viết:
    1.807
    Đã được thích:
    0
    http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/story/2006/03/060302_nguyentientrungletter.shtml <--cái tin này hay đó chứ
  4. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    TÀI LIỆU THAM KHẢO TỪ Y2K
    Tổng quan về Các Hệ thống nhúng
    I
    - Thế nào là hệ thống nhúng (Embedded system)

    1. Định nghĩa chung về hệ thống nhúng: Đó là những thiết bị dùng để điều khiển, giám sát hoặc hỗ trợ sự hoạt động của máy móc, chế tạo máy hoặc nhà máy.
    Từ "nhúng" phản ánh thực tế là chúng là một phần được tích hợp trong hệ thống. Trong nhiều trường hợp , tính "nhúng" của chúng có thể làm cho người thường rất khó phát hiện ra sự hiện diện của chúng và thậm chí những người có kỹ năng kỹ thuật hơn cũng cần phải có thời gian kiểm tra hoạt động của từng phần thiết bị trước khi có thể kết luận rằng trong đó có hệ thống nhúng điều khiển không.
    Trong nhiều trường hợp khác, một máy tính thông dụng có thể được sử dụng để điều khiển hoạt động của một nhà máy lớn, và sự hiện diện của nó là hiển nhiên.
    2. Tất cả mọi hệ thống nhúng đều là hoặc có chứa máy tính. Một số máy tính đó, tuy vậy có thể là những hệ thống rất đơn giản so với máy PC. Thiết bị đơn giản nhất là một con vi mạch (còn gọi là "chip") ,vi mạch này lại có thể được lắp ráp cùng các vi mạch khác trong một hệ thống kết hợp hoặc trong mạch tích hợp ứng dụng đặc biệt.
    Đầu vào của chúng là từ những bộ thu nhận hoặc cảm ứng và đầu ra của chúng chuyển đến những bộ chuyển mạch hoặc khởi động những thiết bị có thể làm bắt đầu hoặc dừng hoạt động của máy hoặc bằng việc điều chỉnh các van, có thể điều khiển luồng nhiên liệu trong động cơ thiết bi.
    3. Hệ thống nhúng đơn giản nhất có khả năng thực hiện chỉ một chức năng đơn hoặc một tập hợp các chức năng để đạt được mục đích đã định trước. Trong các hệ thống phức tạp hơn , hoạt động của hệ thống nhúng được xác định bằng chương trình ứng dụng làm cho hệ thống nhúng được sử dụng cho những mục đích riêng trong ứng dụng đặc thù . Khả năng có chương trình có nghĩa là cùng một hệ thống nhúng ta có thể dùng cho các mục đích khác nhau . Trong một số trường hợp một vi mạch sử lý có thể được thiết kế theo cách mà phần mềm ứng dụng dành cho mục đích riêng có thể được thêm vào phần mềm chính trong qui trình khác và sau đó không thể sửa đổi lại được nữa : phần mềm ứng dụng trong các bộ xử lý như vậy đôi khi còn được gọi là phần mềm của hãng sản xuất.
    II- So sánh Hệ thống nhúng với các hệ thống thương mại
    Vấn đề năm 2000 trong hệ thống nhúng khác với vấn đề trong các hệ thống thương mại / cơ sở dữ liệu / xử lý giao dịch (thường được gọi là các hệ thống công nghệ thông tin) trong một số điểm : Trước tiên vấn đề của người dùng có thể nằm rất sâu hơn là các gói phần mềm ứng dụng. Nó có thể nằm trong hoặc không tách rời khỏi hệ thống hoặc phần mềm điều hành và cả phần cứng , tức nằm trong hệ thống nền mà trên đó ứng dụng phần mềm được cài vào . Khi người dùng hệ thống công nghệ thông tin có vấn đề về phần cứng , phần mềm hệ điều hành họ có thể và cần liên hệ với nhà cung cấp máy tính, nhưng đối với các trường hợp các vi mạch xử lý và các thiết bị dựa trên đó thì hoàn toàn không phải như vậy.
    Thứ hai , trong các hệ thống nhúng , vấn đề liên quan thường là các khoảng thời gian chứ không phải là những ngày tháng cụ thể : nhu cầu có thể là cần cho một sự kiện xảy ra trong khoảng thời gian 100 ngày chứ không phải là ngày thứ 5 của mỗi tháng . Từ đây suy ra rằng các vấn đề năm 2000 có thể tự bộc lộ cả trước và sau ngày 1/1/2000 và hoàn toàn không phải là trên ngày tháng. Mặt khác có thể có những thiết bị mà vòng đếm của nó tính theo giờ, phút hoặc thậm chí theo giây - có thể bị ảnh hưởng vì số ghi năm dựa vào việc tính thời gian. Trong các hệ thống đó ảnh hưởng có thể xảy ra không phải vào thời điểm chuyển giao năm 2000 mà trong vòng 24 tiếng sau đó.
    III- Phân loại các hệ thống nhúng
    1. Các vi mạch đơn lẻ:
    Có thể tìm thấy trong các thiết bị nhỏ như nhiệt kế, bộ phát hiện khói và khí , các ngắt mạch. Mặc dù ít khả năng bị ảnh hưởng tuy nhiên cũng vẫn có thể bị ảnh hưởng. Nếu bị : i) nó sẽ không bộc lộ cho đến sau ngày 1/1/2000; ii) động tác duy nhất có thể làm là thay cả thiết bị bằng thiết bị khác tương thích và thoả đáng. Nếu nghi ngờ, ta cần phải liên hệ với nhà cung cấp.
    2. Các thiết bị lắp ráp nhỏ từ vi mạch xử lý nhưng không có chức năng thời gian.
    Các loại này có thể tìm trong các bộ điều khiển dòng chảy , tăng tín hiệu , bộ định vị và các bộ van . Các thiết bị này cũng không bị ảnh hưởng . Tuy nhiên chúng có thể phụ thuộc vào các hoạt động bên trong của chúng trên một đồng hồ có thể bị ảnh hưởng vấn đề năm 2000. Nếu nghi ngờ, ta cần phải liên hệ với nhà cung cấp.
    3. Hệ thống lắp ráp nhỏ có chức năng thời gian
    Các thiết bị như bánh răng cưa, bộ điều khiển (ví dụ cho giao thông), bộ trao đổi qua điện thoại, thang máy, hệ thống thu thập dữ liệu và giám sát, chẩn đoán và các hệ thống điều khiển thời gian thực có thể thuộc vào lớp này. Các hệ thống này có thể là các phần tử cục bộ trong hệ thống lớn hơn, nơi mà các dữ liệu được chuyển tới từ những bộ cảm ứng của các hệ thống nhúng này. Chúng có thể phối hợp với máy tính PC (màn hình, bàn phím, và các họp chứa phần cứng khác có thể không dùng đến), và có thể dùng cả đến cơ sở dữ liệu (ví dụ các sự kiện). Trong các thiết bị này, vấn đề năm 2000 có thể tác động đến hệ thống hoặc phần mềm ứng dụng, cơ sở dữ liệu và mạng và hệ thống truyền dữ liệu mà chúng dùng để trao đổi với hệ thống lớn hơn. Lỗi có thể bắt gặp trước năm 2000 (vì hệ thống có thể thử ghi lại thòi gian mà hành động tiếp theo sẽ được thực hiện), vào ngày 1/1/2000 và cả sau đó. Ta cần phải liên hệ với nhà cung cấp của từng hệ thống và với những người có trách nhiệm tích hợp các hệ thống lớn hơn. Những người đó lại có thể phải hỏi tới các nhà cung cấp của họ. Cần chú ý trong những trường hợp này là tới (i) từng cấu thành của hệ thống; (ii) tới cả hệ thống như một tổng thể (iii) tới hệ thống lớn hơn mà nó là một phần. Vì từng phần có thể làm việc tốt, nhưng đó không phải là đảm bảo để toàn bộ hệ thống có thể làm việc tốt.
    4. Hệ thống máy tính dùng trong điều khiển sản xuất và xử lý
    Điều này liên quan đến trường hợp khi máy tính được nối vào nhà máy hoặc thiết bị máy móc để điều khiển nó. Bao gồm các hệ thống lưu trữ, chuyển nhận tự động. Các hệ thống này bị ảnh hưởng cũng như hệ các hệ thống xử lý dữ liệu thương mại, vì tất nhiên phần cứng và phần mềm hệ thống cũng như vậy, và vì các phần mềm ứng dụng có thể đựơc xây dựng theo kiểu tương tự như vậy.
    Có xu hướng phát triển là liên kết việc điều khiển qui trình với các hệ thống kinh doanh (ví dụ để cho phép những nơi bán hàng và nhà kho tự động việc xác định số lượng sản phẩm, của sản phẩm nào cần được sản xuất). Điều này làm tăng khả năng ảnh hưởng dây chuyền từ chỗ này đến chỗ khác. Trong trường hợp này có thể làm việc trong nội bộ với các kỹ sư và bộ phận CNTT, và nếu cần phải thì người lãnh đạo cơ quan. Những phần mềm phần cứng để bán cũng nằm trong loại này. Ta cần phải liên hệ với nhà cung cấp.
    IV- Phân loại theo việc kiểm tra và sửa đổi
    Theo các hành động có thể thực hiện, có hai loại hệ thống nhúng khác nhau:

    các hệ thống nhúng mà phần mềm của chúng không thể truy nhập hoặc sửa đổi được. Bao gồm (i) các thiết bị mà phần mềm được nhúng như phần mềm hãng (cứng) và (ii) các thiết bị mà về mặt vật lý có thể truy nhập tới phần mềm nhưng không thực thể thực hiện được việc sửa đổi vì cách mà các phần mềm được viết ra. Trong mọi trường hợp đều hầu như có vấn đề là phần cứng được sử dụng không phải là phần cứng đã được xác định hoặc phần mềm nhúng khác với phần mềm gốc xác định ban đầu.
    Những thiết bị dựa trên máy tính "bình thường" nơi mà ta có thể kiểm tra hoặc sửa đổi phần mềm. Trong một số trường hợp chỉ các nhà cung cấp phần cứng hoặc hệ thống chứ không phải là công ty sử dụng có thể sửa đổi.
    Đối với phần mềm có thể cần xem xét 3 loại như sau :
    hệ thống phần mềm do nhà sản xuất máy tính cung cấp, những sự thay đổi phần mềm đó do chính bạn thực hiện có thể là không đúng về mặt hợp đồng với nhà cung cấp.
    Phần mềm do bên thứ ba cung cấp. Việc sửa đổi mã lệnh trong gói phần mềm bao gói có thể là không đúng về mặt các điều kiện mua bán thoả thuận. Ngược lại, nếu bạn chấp nhận phần mềm "may đo" từ nhà cung cấp, mà họ lại không còn có trách nhiệm duy trì nữa, thì bạn có thể sửa đổi chúng. Tuy nhiên, nếu đã sửa đổi rồi, thì lại rất khó thuyết phục nhà cung cấp chấp nhận một hợp đồng mới để sửa đổi.
    Các phần mềm tự phát triển là thuộc trách nhiệm của bạn.
    V - Các hệ thống nhúng: các loại ứng dụng trong công nghiệp:
    Điều khiển lặp và giám sát:
    DCS, SCADA, đo từ xa
    Thiết bị lắp đặt panel
    điều khiển, hiển thị, ghi chép và vận hành
    An toàn và an ninh
    Hệ thống báo động và du lịch, hệ thống lửa và khí, an ninh cho các khu nhà ở và hạ tầng cơ sở
    Field device
    Đo đạc, định vị
    Hệ thống phân tích
    Hệ thống phòng thí nghiệm; hệ thông trực tuyến/tổ hợp thiết bị
    Cung cấp điện
    Cung cấp, đo, kiểm tra, bảo vệ
    Công cụ
    Thiết kế, tư liệu hoá, thử nghiệm, duy trì

  5. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    TÀI LIỆU THAM KHẢO TỪ Y2K
    Hệ thống nhúng và vấn đề năm 2000
    Ngô Trung Việt - Viện Công nghệ Thông tin
    Email: vietnt@itnet.gov.vn
    1. Hệ thống nhúng là gì
    2. Vấn đề năm 2000 với hệ thống nhúng
    3. Khắc phục sự cố năm 2000 với hệ thống nhúng

  6. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Hệ thống nhúng và vấn đề năm 2000
    Ngô Trung Việt - Viện Công nghệ Thông tin (tiếp theo)
    1. Hệ thống nhúng là gì
    Trước khi đi vào tìm hiều các vấn đề có tính chất kĩ thuật nhiều hơn liên quan tới sự cố năm 2000, chúng ta hãy xem xét lại khái niệm tổng quát về hệ thống, một khái niệm rất cơ bản và nền tảng cho mọi phong cách, phương pháp làm việc và nghiên cứu hiện đại của thời đại. Trên cơ sở đó chúng ta sẽ xem xét tác động lớn lao của tiến bộ khoa học kĩ thuật vào mọi mặt cuộc sống và xã hội để thấy nhân tố khoa học kĩ thuật sẽ ngày càng trở nên quan trọng và chủ chốt hơn trong mọi lĩnh vực quản lí và điều khiển. Điều này mang một hệ quả tất yêu là trách nhiệm của chúng ta cho mọi hệ thống kinh tế-kĩ thuật, xã hội-kĩ thuật càng phải cao hơn. Từ đó nhìn lại tác động của vấn đề năm 2000, 'con rận thế kỉ' đối với hiện trạng của chúng ta và có những hành động cụ thể để phòng chống hữu hiệu cho sự cố kĩ thuật lớn lao nhất của loài người trong những tháng ngày cuối cùng của thế kỉ 20.
    1.1 Hệ thống
    Nếu có tồn tại một số ý định để định nghĩa từ hệ thống, thì phần lớn các ý định đó đều mô tả hệ thống như một tập hợp các phần tử, có liên hệ với nhau theo cách để đạt tới một mục đích chung. Chúng ta xem xét sau đây về các thành phần của hệ thống
    Phần tử
    Các phần tử, dù thuộc loại gì, cũng đều tạo nên chất liệu cơ bản của hệ thống. Các phần tử được định tính bởi: các vật, các bộ phận, đơn vị, các thành viên, các thành phần, v.v.. Một biến toán học, một quá trình, một thủ tục, một phương pháp, một thể thức, một kĩ thuật, một biến cố, thậm chí có thể còn là một nguyên tử, một bóng bán dẫn, một máy tính điện tử, một trung tâm nhiệt năng, một ngôi sao, tất cả đều có thể coi là phần tử của một hệ thống.
    Thuộc tính của các phần tử
    Tất cả các phần tử, dù bản chất gì : đồ vật, con người, quá trình v.v... đều có các tính chất hoặc các đặc trưng, gọi là thuộc tính. Mọi thuộc tính đều là biểu hiện bề ngoài cho sự tồn tại của một phần tử, để người ta có thể quan sát và biết được nó. Phần tử gây ảnh hưởng ít nhiều lên sự vận hành của hệ thống dưới các khía cạnh khác nhau : cách phản ứng, tốc độ, độ chính xác, độ chắc chắn, khả năng, tiến hoá... Sự vận hành của hệ thống gần như bao giờ cũng tạo ra việc thay đổi các đặc trưng của các phần tử của nó. Chọn lựa phần tử là một việc quan trọng. Trong hệ thống xí nghiệp, việc lựa chọn phần tử là lựa chọn giữa việc sử dụng nhân công hoặc sử dụng máy móc, hoặc còn giữa các loại máy khác nhau và việc chọn lựa này dựa trên cơ sở các thuộc tính và giá.
    Quan hệ giữa các phần tử
    Hiện tại ta sẽ không biết là có một hệ thống thực nếu như các phần tử chỉ được đặt cạnh nhau và rời nhau, không có mối liên hệ gì với nhau cả. Liên kết giữa các phần tử có tầm quan trọng sống còn và tạo ra cho hệ thống các đặc trưng và các điều kiện vận hành. Các quan hệ giữa những phần tử này có thể có bản chất vật lí, bản chất thông tin (truyền tin, lệnh v.v...) hoặc mọi bản chất khác (lực hấp dẫn vũ trụ, sự tương đồng về văn hoá v.v...) Vị trí hoặc chức năng của một phần tử trong hệ thống tùy thuộc vào cả chất lượng riêng của nó (thuộc tính) lẫn quan hệ của nó với các phần tử khác. Việc đưa một phần tử bổ sung vào một hệ thống không chỉ làm xuất hiên các quan hệ mới với các phần tử cũ mà còn làm thay đổi cả các quan hệ tương hỗ giữa các phần tử đã có sẵn. Gốc rễ của việc phân tích hệ thống phần lớn nằm ở sự kiện là nó tập trung sự chú ý vào các quan hệ giữa các phần tử.
    Thực thể
    Thừa nhận sự tồn tại của những liên hệ giữa các phần tử dẫn tới suy nghĩ rằng một hệ thống có cấu trúc thì cấu trúc đó sẽ làm cho nó trở thành một đơn vị hoàn chỉnh.
    Theo một số tác giả, hệ thống được tạo nên từ các đơn vị được phối hợp qua bản chất hoặc nghệ thuật. Một số khác ưa sử dụng các thuật ngữ : hợp nhất, tập hợp, tổ hợp kết hợp hoặc các cụm từ : rất phức tạp, rất hòa hợp, hợp các bộ phận, thực thể khái niệm và cụ thể. Để được coi là một hệ thống, một tổ hợp phải có liên hệ với môi trường bên ngoài qua các lối vào ra có ý nghĩa đối với các phần tử của nó. Chẳng hạn, con vật không thể tách rời khỏi nguồn thức ăn, cây không thể tách rời khỏi đất và các tia nắng mặt trời, xí nghiệp không thể tách rời thị trường và nguồn lao động.
    Mục tiêu của hệ thống
    Không thể hình dung được một thực thể mà lại không có một mục đích gắn với hoạt động hoặc sự tồn tại của nó. Để diễn đạt tư tưởng này, nhiều tác giả đã không sử dụng từ cấu trúc (quá chung chung so với những gì liên quan tới khái niệm về tính mục đích) để sử dụng các cách diễn đạt rõ ý hơn như : "vận động đi tới sự thống nhất", "đạt mục tiêu", "chức năng sống cơ bản", "tuân theo kế hoạch khi phục vụ mục đích chung", hoặc các thuật ngữ : đích, mục tiêu, đề án. Do vậy đơn vị được chọn, gắn liền cố hữu với khái niệm hệ thống, không chỉ đơn thuần là một đơn vị tích tụ. Tổng thể phải hướng về một mục đích chung cho tất cả các phần tử. Chính vì hệ thống có mục đích chung nên nó khác biệt với một tập hợp các phần tử hoặc các quan hệ. Chẳng hạn, với mọi hệ thống sống, cây cỏ, con vật, con người, cơ cấu hoặc tổ chức, mục đích (cuối cùng) là thích nghi với môi trường, với hoàn cảnh.
    Kiểm soát
    Để đảm bảo tính thống nhất và để theo đuổi mục tiêu của mình, hệ thống phải có các liên hệ đặc biệt về liên lạc. Mỗi khi một phần của đầu ra được sử dụng làm đầu vào thì tức là đã thiết lập được sự kiểm soát. Dù sơ khai hay phức tạp, kiểu kiểm soát này đều cho phép hệ thống tiến hoá trong những giới hạn khá rộng rãi. Thuật ngữ "kiểm soát", hiểu theo nghĩa của tự động hoá, chỉ ra một cách vận hành thuộc về hệ máy nội cân bằng và tự điều chỉnh.
    Giới hạn của một hệ thống Để phân biệt hệ thống với môi trường, rõ ràng cần phải xác định giới hạn (hoặc biên giới) của hệ thống đó về phương diện vật lí hoặc khái niệm. Không phải bao giờ cũng dể dàng làm được việc đó mỗi khi phải phân biệt chẳng hạn như bức tranh về chiếc lọ cắm hoa hay khuôn mặt hai người đang nhìn nhau. Cách thức hiện thực hơn cả để phân giới hạn hệ thống là : thiết lập ra danh sách tất cả các phần tử của hệ thống và chính xác hoá các điểm nối hệ thống với môi trường. Một cách định biên hợp lí sẽ làm dễ dàng cho việc xác định các vấn đề cần khảo cứu. Nhưng giới hạn một hệ thống, đó là tự nguyện chấp nhận việc bỏ qua một số phần tử và một số quan hệ nào đó, bởi vì chúng dường như không có ảnh hưởng gì tới mục đích cuối cùng. Do vậy, trong thực tế, tất cả mọi sự giới hạn đều phụ thuộc chặt chẽ vào các mục tiêu. Muốn phủ nhận hoặc bỏ qua mối quan hệ này, đó chính là biểu hiện của cách xem xét hệ thống phiến diện.
    Môi trường
    Cho tới nay, ta vẫn cố gắng định nghĩa hệ thống từ bên trong, tức là làm chính xác hoá khái niệm hệ thống. Cũng có thể đạt được cùng mục đích đó nếu xuất phát từ bên ngoài. Do vậy, cần phải tạo ra khái niệm về môi trường. Khái niệm về hệ thống và về môi trường giống như hai mặt của một tấm huân chương, giống như mặt trên và mặt dưới của một tờ giấy, theo nghĩa là chúng không thể tách rời và không thể đặt riêng biệt nhau được.
    Môi trường của một hệ thống là tập hợp các phần tử không thuộc vào hệ thống nhưng có thể tác động vào hệ thống hoặc bị tác động bởi hệ thống. Cần phải làm chính xác hoá thêm hai điểm cho định nghĩa này. Thứ nhất, đó là việc các phần tử (của môi trường) phải ở bên ngoài hệ thống vì hệ thống chỉ có thể có được một ảnh hưởng hạn chế lên sự tồn tại, các thuộc tính hoặc quan hệ của chúng. Thứ hai là việc môi trường tập hợp các vật và người làm nên "dữ liệu", khuôn khổ, ràng buộc cho hệ thống hoạt động. Do vậy, đối với một xí nghiệp công nghiệp hoặc nghiệp vụ, khách hàng thuộc vào môi trường của hệ thống bởi vì họ được xác định một cách bất kì, theo một cách thức bên ngoài đối với hệ thống. Xí nghiệp cũng có thể ảnh hưởng tới nhu cầu (theo một cách thức rất hạn chế) qua việc xuất bản, qua phương thức bán hàng v.v...
    Độc lập với độ phức tạp của hệ thống đã cho, các phần tử cơ sở là giống nhau về mặt hoạt động trong mọi hệ thống. Theo cách nhìn này, một hệ thống, hiểu một cách đơn giản, là nơi diễn ra sự biến đổi từ cái vào của môi trường thành cái ra của hệ thống.
    [​IMG]
    Khái niệm vận hành tổng quát của hệ thống
    Mỗi hệ thống cũng có thể được phân tích thành các hệ con biểu diễn được qua cùng sơ đồ trên. Vậy một hệ thống phức tạp sẽ được phân rã dần ra thành từng phần ngày một sơ cấp hơn. Phương pháp đơn giản này đôi khi cho phép mô tả mọi thứ mà ta không thể giải thích ngay vào một lúc. Vậy nó có ưu điểm giải phóng được cách suy nghĩ và mở ra những viễn cảnh mới.
  7. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Hệ thống nhúng và vấn đề năm 2000
    Ngô Trung Việt - Viện Công nghệ Thông tin (tiếp theo)

    1.2 Hệ thống nhúng
    Áp dụng khái niệm hệ thống vào xã hội hiện đại, chúng ta có thể thấy được nhiều tầng hệ thống đã được thiết lập. Với xã hội chúng ta có các hệ thống kinh tế, hệ thống quản lí, hệ thống hành chính, hệ thống chính trị...
    Nhưng một đặc điểm nổi bật trong thời đại ngày nay là việc yếu tố kĩ thuật đang được đưa vào trong tất cả các hệ thống hiện hành và làm biến đổi toàn bộ xã hội, biến đổi hệ thống cũ không chỉ ở góc độ có thêm máy móc tự động vận hành, mà còn tạo ra biến đổi chính trong mối quan hệ giữa con người với công việc, con người với con người. Xã hội thông tin mới đang nổi lên với yếu tố kĩ thuật về xử lí thông tin tràn ngập khắp mọi mặt hoạt động của xã hội. Nói riêng các hệ thống nhúng đang trở thành ngày một phổ biến và phổ cập, bắt buộc chúng ta cần có những hiểu biết và nhận biết nâng cao hơn về chúng trong tư cách là một thành phần của hệ thống tổng thể.
    Định nghĩa tổng quát về hệ thống nhúng là ở chỗ chúng là các thiết bị được dùng để điều khiển, điều phối hay trợ giúp cho sự vận hành của trang thiết bị, máy móc hay cả nhà máy. "Nhúng" phản ánh sự kiện rằng chúng là phần tích hợp của hệ thống. Trong nhiều trường hợp tính nhúng của chúng có thể là ở sự hiện diện của chúng không hiển nhiên với người quan sát, thậm chí với cả chuyên viên kĩ thuật. Một cực đoan khác là máy tính có thể được dùng để điều khiển sự vận hành của nhà máy xử lí phức tạp, và sự hiện diện của chúng là hiển nhiên.
    Tất cả các hệ thống nhúng đều là hoặc có bao hàm máy tính hay bộ vi xử lí.
    Tuy nhiên một số máy tính là các hệ thống rất đơn giản nếu so với máy tính cá nhân.
    Hệ thống nhúng đơn giản nhất có khả năng thực hiện chỉ một hay một tập hợp các chức năng để đáp ứng các mục tiêu đã định sẵn. Trong các hệ thống phức tạp hơn việc vận hành của hệ thống nhúng được xác định bởi chương trình ứng dụng, làm cho hệ thống nhúng được dùng cho một mục đích đặc biệt trong một ứng dụng đặc biệt. Khả năng có chương trình có nghĩa là cùng hệ thống nhúng đó có thể được dùng cho nhiều mục đích khác nhau. Trong một số trường hợp bộ vi xử lí có thể được thiết kế theo cách mà có thể bổ sung thêm phần mềm ứng dụng cho một mục đích cụ thể vào tiến trình thứ hai, khi không thể thực hiện cải tiến gì thêm cho tiến trình thứ nhất. Những phần mềm ứng dụng trên các bộ xử lí như vậy được gọi là phần sụn (firmware )
    1.3 Phân loại hệ thống nhúng
    Bộ vi xử lí đơn lẻ
    Các bộ xử lí này có thể thấy trong các thiết bị nhỏ như bộ cảm biến nhiệt, bộ phát hiện khói và ga, cầu chì vân vân. Cũng rất có khả năng chúng bị ảnh hưởng bởi các vấn đề ngày tháng. Nếu chúng bị ảnh hưởng thì
    (i) sự việc không hiển nhiên cho tới một ngày tháng nào đó và (ii) hành động duy nhất là thay thế toàn bộ thiết bị bằng một thành phần đã biết có tuân thủ ngày tháng.
    Các bộ xử lí lắp ráp với nhau không có chức năng thời gian
    Các hệ thống này có thể thấy trong các bộ điều khiển luồng chẩy, bộ khuếch đại tín hiệu, cảm biến định vị và nhiều bộ khởi động van. Nói chung chúng không bị ảnh hưởng bởi thời gian. Tuy nhiên chúng có thể bị phụ thuộc vào vận hành bên trong theo đồng hồ, và đồng hồ này có thể bị ảnh hưởng bởi vấn đề năm 2000.
    Các bộ lắp ráp có chức năng thời gian
    Các thiết bị như bộ chuyển mạch, bộ điều khiển (chẳng hạn cho giao thông), tổng đài điện thoại, thang máy, hệ thống thu thập và điều phối dữ liệu, hệ thống chẩn đoán và kiểm soát thời gian thực có thể rơi vào phạm trù này.
    Các hệ thống này có thể là các phần tử cục bộ trong hệ thống lớn mà chúng truyền dữ liệu do các cảm biến thu thập được. Chúng có thể tích hợp các máy tính PC, có thể bao gồm một số loại cơ sở dữ liệu (như về các sự kiện). Trong các hệ thống này vấn đề năm 2000 có thể ảnh hưởng tới phần mềm hệ thống và ứng dụng, cơ sở dữ liệu, hệ thống mạng và hệ thống truyền dữ liệu mà chúng dùng để trao đổi với hệ thống lớn hơn.
    Hệ thống máy tính được dùng trong chế tạo và điều khiển tiến trình
    Điều này có liên quan tới máy tính được nối với nhà máy hay máy móc để điều khiển nó. Trong các hệ thống như vậy máy tính được dùng cho việc điều khiển toàn bộ và điều phối, hơn là cho việc điều khiển trực tiếp các thiết bị riêng lẻ trong nó, mà hầu hết chắc chắn có chứa các loại hệ thống nhúng khác. Các hệ thống này bị tin là sẽ bị ảnh hưởng theo cùng cách như các hệ thống xử lí dữ liệu thương mại, bởi vì tất nhiên phần cứng và phần mềm là như nhau, và bởi vì các phần mềm ứng dụng có thể được xây dựng theo cùng một đường tương tự.
    Có khuynh hướng đang phát triển để móc nối việc kiểm soát tiến trình với hệ thống nghiệp vụ (chẳng hạn để tự động xác định số bán và lượng hàng trong kho theo những đại lượng để xác định việc sản xuất tiếp).
    Sự phân biệt và thuật ngữ sau đây được dự định để trợ giúp cho việc điều tra và ghi chép bảo quản về các hệ thống nhúng.
    Nhà máy và trang bị nói tới các khoản mục được ông ti sử dụng trong tiến trình chế tạo, sản xuất hay dịch vụ. Trang bị nói tới các khoản mục được dùng cho một thao tác rời rạc và không trực tiếp được nối với các khoản mục khác. Nhà máy nói tới các trường hợp mà có một luồng vật tư hay lắp ráp chạy liên tục giữa các bộ phận khác nhau của tiến trình. Nếu chúng ta là nhà cung cấp các hệ thống nhúng thì cái chúng ta cung cấp là nhà máy hoặc trang bị. Trách nhiệm vận hành nhà máy và thiết bị của cơ quan là trách nhiệm của cơ quan đó. Nhà cung cấp hệ thống nhúng chịu trách nhiệm thiết kế và sự làm việc được của các sản phẩm của mình.

    Thiết bị là các phần tử rời rạc của nhà máy và trang bị do nhà cung cấp trao (hay trong vài trườn hợp từ bộ phận khác của cơ quan). Nhà cung cấp thiết bị về nguyên tắc có trách nhiệm về sự vận hành của nó, với giả thiết rằng thiết bị đó được dùng đúng theo mục đích mà nó được cung cấp.
    Thành phần là yếu tố nhỏ nhất trong hệ thống và là phần (hay các phần) của thiết bị trong đó có tiềm ẩn vấn đề nhậy cảm ngày tháng.
    1.4 Hệ thống nhúng trong tổng thể các hệ thống kinh tế xã hội
    Như định nghĩa ở trên, chúng ta thấy hệ thống nhúng nói chung là những hệ thống kĩ thuật có sử dụng các thiết bị vi xử lí dùng trong điều khiển và điều phối các máy móc, tiến trình sản xuất và kĩ thuật. Với sự phát triển của xã hội hiện đại, càng ngày hệ thống nhúng càng phổ cập trong mọi mặt hoạt động của đời sống con người và xã hội, nhiều lúc chúng ta không để ý tới chúng nữa. Đặc điểm lớn nhất của xã hội hiện đại là ngày càng có thêm nhiều hệ thống điều khiển cho mọi tiến trình xử lí thông tin trong mọi hoạt động xã hội, sinh hoạt và đời sống con người. Các hệ thống điều khiển này tất cả đều dựa trên thành tựu của tiến bộ khoa học kĩ thuật trong việc chế tạo các bộ vi xử lí và phát triển dường truyền tin viễn thông. Kết quả là sự xâm nhập ngày càng lớn của các thiết bị điện tử, vi xử lí vào tất cả các hoạt động quản lí và điều khiển. Nó đòi hỏi con người hiện đại phải biết và nắm được cách sử dụng các công cụ xử lí thông tin tự động này trong hoạt động nghiệp vụ của mình và phải bảo đảm sự hoạt động hài hoà của của hệ thống xã hội - kĩ thuật đó.
    Chúng ta có thể không biết rõ về chi tiết của các hệ thống nhúng trong các hoạt động cụ thể, nhưng chúng ta cần biết và nắm vững về việc sử dụng chúng trong công việc cũng như cuộc sống hàng ngày. Khi mà trình độ tự động hoá của một cơ quan, của xã hội tăng lên, thì nhất thiết những hiểu biết và tri thức về làm chủ các hệ thống này càng phải được phổ cập nhiều hơn. Việc tích hợp hệ thống nhúng vào một công việc nào đó là thành công khi hệ thống nhúng đó đảm nhiệm hữu hiệu một chức trách, một nhiệm vụ nào đó. Điều này đưa tới việc chúng ta phải có trách nhiệm để đảm bảo cho các hệ thống đó vận hành được bình thường. Điều này cũng có nghĩa là chúng ta phải để ý tới mọi tác động có thể làm cho chúng bị hoạt động trục trặc hay không hoạt động được. Do đó chúng ta phải có kế hoạch bảo đảm ngăn ngừa mọi sự cố có thể phát sinh do những thiếu sót kĩ thuật. Vấn đề năm 2000 chính là một trong những vấn đề quan trọng đó, đòi hỏi chúng ta cần phải được trang bị tri thức và hiểu biết cần thiết để làm chủ tình hình.
    Cho nên vấn đề chính nẩy sinh khi cần giải quyết đối với sự cố năm 2000, ngoài các yếu tố kĩ thuật, chính là yếu tố trách nhiệm của con người hiện đại với hệ thống xã hội - kĩ thuật do mình tạo ra. Đi kèm với điều này là việc tất yếu phải nâng cao trình độ và hiểu biết của đội ngũ các chuyên viên kĩ thuật cùng đội ngũ quản lí trong các vấn đề kĩ thuật. Việc triển khai khắc phục sự cố năm 2000 chính là một sự tập dượt và nâng cao trách nhiệm cũng như tri thức về kĩ thuật cho tất cả các cán bộ ở mọi cấp.
  8. small_porcupine

    small_porcupine Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/06/2004
    Bài viết:
    1.807
    Đã được thích:
    0
    Cái này nghe hay nhỉ?
    Trích từ:
    "Lỗ hổng thời gian" và những vụ dịch chuyển kỳ lạ
    VnExpress
    07:45'' PM - Chủ nhật, 19/03/2006

    Thông tin liên quan:
    Mun-Đa-Sép, chiếc cầu nối giữa khoa học và huyền học [12/10/2005]

    Những năm gần đây, giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ xôn xao bàn tán về các hiện tượng có liên quan đến ?olỗ hổng thời gian? và sự mất tích - tái hiện một cách thần bí. Người ta cố gắng vận dụng mọi kiến thức để giải thích được những hiện tượng này.
    Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.
    Sự trở về của Wenni Kate
    Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập. Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: ?oTôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp?. Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm.
    Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn.
    Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi. Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: chẳng lẽ Kate từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate đang nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.
    Sự trở về của thuyền trưởng Smith
    Ngày 9/8/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía tây nam cách một núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Lúc đó người đàn ông này đang ngồi bình thản bên rìa nước. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc và rút điếu thứ hai, mắt nhìn về phía biển khơi, mặt lộ vẻ dạn dày sương gió. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.
    Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng cùng với con tàu chìm xuống biển. Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912.
    Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.
    Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu - Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Kate đã bị rơi vào "hiện tượng mất tích - tái hiện xuyên thời gian?. Theo đó, một số chuyên gia phán đoán có khả năng trên biển vẫn còn một số hành khách Titanic sống sót đang chờ được cứu giúp, vì trong lịch sử cũng đã có không ít trường hợp mất tích - tái hiện một cách thần bí.
    Sự mất tích của 25 lính hải quân Mỹ
    Theo hồ sơ của Bộ Hải quân Mỹ, trong chiến dịch Thái Bình Dương thời kỳ chiến tranh thế giới thứ 2, chiến hạm Indiana Bolis của Mỹ bị tàu ngầm của Nhật đánh chìm. Lúc đó, hải quân Mỹ đã thu được tín hiệu cấp cứu của 25 binh lính và sĩ quan rời khỏi chiến hạm bằng thuyền cứu hộ. Nhưng sau nhiều lần tìm kiếm, 25 quân nhân kia vẫn bặt vô âm tín. Cuối cùng, nhà chức trách đành phải tuyên bố họ đã mất tích. Nhưng một ngày tháng 7/1991, một đội thuyền đánh cá của Philippines trên hải phận Sibis, phía nam quần đảo Philippines, đột nhiên phát hiện một chiếc thuyền cứu sinh, trên thuyền có 25 binh lính đang trong tâm trạng hoảng loạn, dù cơ thể vẫn còn cường tráng.
    Phát hiện này làm cho các nhà chức trách Mỹ vô cùng kinh ngạc. Điều khó hiểu hơn cả là chiến hạm Indiana Bolis bị đánh chìm từ năm 1945, và mãi 46 năm sau đó, người ta mới thấy họ, nhưng họ không hề thay đổi so với trước kia, thậm chí cả râu, tóc? cũng không dài thêm chút nào. 25 người một mực khẳng định họ chỉ lênh đênh trên biển một ngày đêm. 46 năm tương đương với một ngày, điều gì đã xảy ra? Nhà thiên văn học, tiến sĩ Semesijians cho rằng, có khả năng họ đã bị rơi vào ?olỗ hổng của thời gian?, mấy chục năm sau mới xuất hiện trở lại và hoàn toàn không biết mình đang ở thời điểm nào.
    Quan điểm của các học giả
    Một số người cho rằng ?olỗ hổng thời gian? thực chất là ?othế giới phản vật chất? đang tồn tại trong vũ trụ. Họ dựa vào công thức tổng năng lượng vật chất của Einstein, theo đó tổng năng lượng vật chất có hai trị là chính và phụ. Vậy khi trị phụ xuất hiện, chúng ta cần phải làm thế nào? Nhận thức nó ra sao? Một số học giả liền đưa nó vào mối liên hệ với ?othế giới phản vật chất?. Trước mắt, chúng ta mới hiểu biết được chưa đầy một nửa vũ trụ chúng ta đang sống, là phạm vi thế giới vật chất, còn nửa kia là một hệ thống tạo thành từ phản vật chất.
    Hai bộ phận này tiếp cận với nhau dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn. Khi tiếp cận đến một mức độ nhất định, tác dụng ?ođổ vỡ? do thế giới vật chất và phản vật chất sinh ra sẽ tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng lớn, tạo thành một áp lực tách đôi hai hệ thống. Theo đó, có thể thấy rằng mất tích chính là hiện tượng phát sinh khi hai hệ thống vật chất và phản vật chất tiếp cận ở mức độ cao nhất, sinh ra năng lượng tạo nên áp lực phân tách. Khi hiện tượng ?ođổ vỡ? kết thúc, trường lực hấp dẫn trở lại trạng thái ban đầu, hiện tượng tái hiện xảy ra.
    Trong cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhiều giả thuyết khác cũng được đưa ra. Một trong số đó là thuyết Thời gian đứng lại. Thế giới vật chất sau khi tiến vào ?olỗ hổng thời gian? đồng nghĩa với việc mất tích, và từ đó đi ra cũng có nghĩa là được tái hiện. Như vậy, ?olỗ hổng thời gian? và trái đất không cùng một hệ thống, và thời gian trong "lỗ hổng" là tương đối tĩnh. Do đó dù có mất tích 3-5 hay vài chục năm đi nữa, người ta sẽ không có gì thay đổi so với lúc ban đầu.
    Giả thuyết thứ hai được đưa ra là thuyết Thời gian ngược, cho rằng thời gian trong "lỗ hổng thời gian" là quay ngược so với bình thường. Người mất tích sau khi rơi vào đó có khả năng sẽ quay ngược về quá khứ. Tuy nhiên, khi thời gian quay ngược một lần nữa, người này lại được đưa trở về thời điểm họ bị mất tích, kết quả là xảy ra hiện tượng tái hiện thần bí.
    Trong thuyết thứ ba Đóng cửa thời gian, ?olỗ hổng thời gian? là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, không nhìn thấy và cũng không thể sờ thấy. Đối với thế giới vật chất mà con người đang tồn tại, nó vừa đóng lại vừa mở. Thỉnh thoảng khi nó mở ra một lần, kết quả là xuất hiện hiện tượng mất tích. Mở thêm một lần nữa, người mất tích tái hiện.
    Trước mắt, quanh vấn đề ?olỗ hổng thời gian? vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa có một học thuyết nào có sức thuyết phục vì chưa đưa ra được những chứng cứ xác thực. Hiện tượng ?omất tích - tái hiện? vẫn còn là bí ẩn đang chờ con người khám phá.

    Theo VnExpress
  9. levant57

    levant57 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/10/2003
    Bài viết:
    1.520
    Đã được thích:
    1
    Tính chân thực của các câu chuyện Nhím kể trên có thể cần được kiểm tra. Tuy nhiên, trong khoa học vũ trụ đã tồn tại một số giả thuyết mà có thể dùng các giả thuyết ấy để giải thích những câu chuyện ấy.
    Trong cuốn sách HỖN ĐỘN & HÀI HÒA của Nhà vật lý thiên văn gốc Việt Trịnh Xuân Thuận có đề cập tới các lỗ sâu đục trong vũ trụ. Vật lý lượng tử có khái niệm điểm kỳ dị tức là điểm mà tại đó thời gian không tồn tại. Và chúng ta cũng được học để biết hiệu ứng đường hầm là gì nhằm giải thích cho sự tồn tại của một hạt hạ nguyên tử nhưng ĐỒNG THỜI có mặt tại hai vị trí khác nhau...Theo Ông, lỗ sâu đục là là một đường hầm không nằm trong không gian thông thường, nối hai điểm kỳ dị khác nhau. Nó giống như lối đi của một con sâu đất lối hai lỗ trên mặt đất. Qua lỗ đó, người ta có thể du hành tương lai trong nháy mắt và đi ngược vào quá khứ theo chiều ngược lại. Cái lỗ này cho phép bạn DU HÀNH QUA THỜI GIAN mà không cần phương tiện đi lại.
    Về khái niệm phản vật chất thì theo anh được biết, người ta đã chứng minh được sự tồn tại của phản hạt và từ đó họ phát triển thành các khái niệm phản nguyên tử, phản một cá thể, phản thế giới và phản vũ trụ. Tuy nhiên về sau này các lý lẽ về phản thế giới hay phản vũ trụ không thuyết phục lắm nên khoa học có xu hướng bỏ rơi các khái niệm này.
    Được levant57 sửa chữa / chuyển vào 16:14 ngày 25/03/2006
    Được levant57 sửa chữa / chuyển vào 16:16 ngày 25/03/2006
  10. small_porcupine

    small_porcupine Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    18/06/2004
    Bài viết:
    1.807
    Đã được thích:
    0
    Đề án 112: Lãng phí và bất ổn?

    TT - Một nguồn tin của Tuổi Trẻ cho biết lãnh đạo Sở Bưu chính - viễn thông TP.HCM vừa có một văn bản gửi UBND TP.HCM đề cập khá chi tiết đến những biểu hiện lãng phí và những bất ổn trong việc triển khai đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước (gọi tắt là đề án 112).
    Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông LÊ MẠNH HÀ,giám đốc Sở Bưu chính - viễn thông TP.HCM, xác nhận:
    - Tôi có ký một văn bản gửi UBND TP.HCM vào ngày 21-3. Một trong những nội dung của văn bản này mà Sở Bưu chính - viễn thông đề cập đến là kết quả thực hiện đề án 112 từ cấp Văn phòng Chính phủ đến Văn phòng HĐND và UBND các tỉnh, thành cho thấy không đạt hiệu quả, không đạt được mục tiêu đề ra và có nhiều biểu hiện lãng phí.
    Ngoài ra, chúng tôi cũng kiến nghị thường trực UBND TP tổ chức kiểm tra, đánh giá lại toàn bộ hoạt động của Văn phòng HĐND và UBND, Trung tâm Tin học thành phố trong việc thực hiện đề án 112 thời gian qua. Đồng thời kiến nghị Chính phủ rà soát và đánh giá hoạt động của Ban điều hành đề án 112 quốc gia.
    * Ông có thể nói cụ thể hơn những biểu hiện lãng phí?
    - Các trung tâm tích hợp dữ liệu khắp các tỉnh, thành mua sắm trang thiết bị rồi đắp chiếu để đó chứ hoàn toàn không có dữ liệu hoặc có cũng rất ít ỏi để lưu trữ và chuyển tải trên đó. Việc này chẳng khác nào xây kho nhưng không có cái gì để chứa trong kho. Điều đáng nói cái kho này chính là những thiết bị máy móc sẽ bị hư hỏng, lạc hậu theo thời gian và yêu cầu công việc.
    Trong khi đó mỗi nơi được đầu tư nhiều tỉ đồng. Theo tôi biết, hầu hết các tỉnh, thành đều được xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu nhưng đều bị rơi vào tình trạng như tôi vừa nói. Như vậy là quá lãng phí ngân sách.
    Cụ thể là những phần mềm dùng chung được đề án 112 triển khai còn kém hơn những phần mềm đã triển khai ở một số đơn vị của TP.HCM. Đã gọi là phần mềm dùng chung nhưng lại do các công ty phần mềm khác nhau xây dựng và triển khai tại các tỉnh. Hiện nay các phần mềm dùng chung đã chỉnh sửa nhiều lần nhưng vẫn chưa dùng được.
    Một điều nữa mà tôi muốn nói chi phí đào tạo cán bộ sử dụng phần mềm trong quản lý. Theo đánh giá của sở chúng tôi, chương trình đào tạo chỉ tương đương chương trình A tin học mà thôi. Chi phí đào tạo theo chương trình này, theo tôi biết, khoảng 2-2,5 triệu đồng cho mỗi cán bộ. Trong khi đó chi phí để học chương trình A tin học chỉ khoảng vài trăm nghìn đồng.
    Riêng TP.HCM năm 2005 đã đào tạo từ nguồn kinh phí của Ban 112 Chính phủ cho trên 3.000 cán bộ công chức, cử nhân với số tiền như tôi vừa nêu thì thấy ngay chi phí đào tạo tốn kém đến cỡ nào tại TP.HCM và trên toàn quốc.
    * Những điều nói trên có bao giờ ông báo cáo với thường trực UBND TP.HCM?
    - Chúng tôi đã nhiều lần báo cáo, phát biểu vấn đề này, kể cả với Bộ Bưu chính - viễn thông. UBND TP có chỉ đạo chỉ triển khai thí điểm ba phần mềm dùng chung một vài vị trí. Nhưng Văn phòng HĐND và UBND TP vẫn triển khai các phần mềm này ở mấy chục điểm.
    * Và ông vẫn giữ quan điểm cho rằng đề án 112 có sự lãng phí lớn?
    - Tôi cho rằng điều này diễn ra trên toàn quốc. Ở TP.HCM đã ngăn được một số công việc của đề án nhằm tránh lãng phí nhưng không ngăn được hết. Chỉ riêng việc triển khai các phần mềm thôi đã có sự lãng phí. Khi các phần mềm chưa hoàn chỉnh mà đã triển khai trên diện rộng rồi sau đó lại chỉnh sửa.
    Chi phí triển khai cho mỗi phần mềm trên địa bàn TP.HCM bước đầu là 2,1 tỉ đồng. Như vậy việc triển khai phần mềm dùng chung này rất tốn kém trong khi hiệu quả rất thấp. Trong điều kiện quản lý nhà nước ở VN mỗi nơi mỗi kiểu mà triển khai những phần mềm dùng chung là không tưởng.
    * Ông có cho rằng lại thêm một thất bại nữa trong triển khai tin học hóa quản lý hành chính nhà nước?
    - Đề án 112 chắc chắn là thất bại. Tất nhiên có một số công việc làm được, kết quả đề án đến thời điểm này tôi nghĩ chỉ mới dừng lại mức tác động đến ý thức của các cơ quan quản lý đối với ứng dụng công nghệ thông tin.
    * Theo ông, đã đến lúc cần tiến hành kiểm tra, thanh tra toàn diện các hoạt động của đề án 112?
    - Trong văn bản tôi chỉ đề nghị rà soát và đánh giá lại toàn bộ hoạt động của đề án 112. Nhưng tôi cho rằng đã đến lúc các cơ quan bảo vệ pháp luật phải vào cuộc.
    QUỐC THANH thực hiện
    (báo Tuổi trẻ)

Chia sẻ trang này