1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tin tức quân sự Việt Nam (phần 3)

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi Su35Fk, 24/07/2009.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Ánh, người lên ngai vàng của một nước VN thống nhất, trong thực tế là công trình của các đối thủ của ông ta, đã trị vì với vương hiệu Hoàng Đế Gia Long của triều đại mới nhà Nguyễn. Các tổ tiên của ông đã là các vị chúa miền nam, ông đích thân dựng Huế làm kinh đô của mình, và bỏ rơi Hà Nội. Gia Long đã lập ra chính sách của mình để tăng cường tính chất TQ trong sự cai trị của ông trong mọi phương cách khả dĩ. Tước hiệu mới của ông là Hoàng Đế, điều có thể hơi tự phụ trong mắt nhìn của TQ, đã không gây ra sự giận dữ tích cực của các kẻ kế ngôi bị quấy nhiễu của vua Càn Long, cũng không ngăn cản một sự thừa nhận chính thức quyền chủ tể của TQ. Chính quyền được tập trung hóa một cách cứng ngắc; Nguyễn Ánh, hậu duệ của các vị chúa miền nam, đã không chủ định rằng các kẻ khác nên tranh dành lịch sử với gia tộc của chính ông. Hệ thống khảo thí TQ tuyển chọn quan lại trong Công Quyền được tái củng cố và tái dập khuôn theo các đường nét gần gủi với cách thức của TQ. Việc học tập Khổng học được nhấn mạnh, Phật giáo bị hạn chế và thường bị ngược đãi, chế độ, bất kể đến món nợ của nó với các kẻ đánh thuê người Pháp, trở nên chống lại Công giáo một cách rõ rệt. Tại miền nam, chính sách thực dân vùng châu thổ được gia tăng bởi việc thành lập các khu khẩn hoang với binh sĩ là nông dân dọc theo biên giới Căm Bốt và tại các vùng đất mới thưa dân dọc theo hạ lưu sông Cửu Long. Sự kháng cự tích cực chống lại cuộc chinh phục của Pháp mà các khu đồn điền đã chứng tỏ sau này cho thấy rằng Hoàng Đế Gia Long có thể đã sẵn hay biết là các tỉnh miền nam của ông bị mở ngỏ nhiều nhất trước hiểm họa ngoại bang, chứ không phải biên cương miền bắc với TQ dưới triều Mãn Châu.
    Bốn hoàng đế kế tiếp nhau của VN đã trị vì và cai trị từ 1802 đến 1883, năm mà trong đó cuộc chinh phục của người Pháp hay chế độ bảo hộ cưỡng đặt, đã chấm dứt nền độc lập thực sự của VN. Vua Gia Long (1802-20) đã không liên hệ trực tiếp vào sự tranh chấp với Pháp, và theo đuổi chính sách độc đoán và cổ truyền nghiêm ngặt của mình, kể cả các biện pháp chống lại Công giáo, đã không bị quấy nhiễu. Hai người kế ngôi ngay sau ông, Minh Mạng, băng hà năm 1841, và Thiệu Trị, băng hà năm 1847, đã có thể kiềm chế các áp lực gia tăng một phần được phóng ra bởi các giáo sỉ và các kẻ cải đạo theo họ, phần khác phát sinh từ trạng thái lớn mạnh của chủ nghĩa đế quốc Âu Châu trong thế kỷ thứ mười chin, đang dâng cao quanh hai ông. Cho đến khi chấm dứt sự trị vì của vua Gia Long các cuộc Chiến Tranh Napoleon và sự kiệt quệ của nước Pháp bởi sự giao tranh lâu dài này khiến cho sự xâm lăng nước ngoài từ vùng đất đó [Pháp] trở nên bất khả thi. Cho đến khi Anh Quốc phát lộ nhược điểm nội tại của triều đình Mãn Châu tại TQ qua các chiến thắng dễ dàng của Anh trong Cuộc Chiến Tranh Nha Phiến (1840-2), các dân tộc Âu Châu hãy còn có sự kính trọng đối với sức mạnh của các đế quốc phương đông vốn có thể được chứng minh trong thế kỷ thứ mười tám, nhưng giờ đây đã trở nên lỗi thời. Điều quan trọng là sự khởi động quân sự đầu tiên của Pháp, một cuộc tấn công vào thành phố hải cảng Đà Nẵng, xảy ra trong năm 1847, chỉ năm năm sau sự bại trận của TQ trong cuộc Chiến Tranh Nha Phiến. Đó là một biến cố biệt lập, không có các hậu quả lâu dài, nhưng nó đã diễn ra vào năm mà Hoàng Đế Thiệu Tri bị mất, người kế ngôi ông, vua Tự Đức, vị quân vương độc lập cuối cùng của VN, sắp phải chiến đấu suốt cuộc đời mình chống lại sự xâm lấn gia tăng.
    Trong năm 1858, Đô Đốc Rigault de Genouilly lại tấn công Đà Nẵng lần nữa, và trong năm kế tiếp chiếm giữ Sàigòn. Từ biến cố đó đã khởi sự một chuỗi các sự xâm lấn và sáp nhập mang vài nét tương đồng với sự nghiệp của Pigneau de behaine và chính vua Gia Long trong cuộc chiến của họ chống lại quân Tây Sơn mới sáu mươi ông. Năm 1864 sứ giả Pháp tại chỗ đã bị khuyến dụ để đồng ý một sự hoàn trả các năm trước đó. Sàigòn trên nên căn cứ địa; khu vực chinh phục được mở rộng chung quanh nó, và các vùng nội địa bị cắt rời khỏi quyền cai trị của chính quyền ở Huế. Năm 1862, miền đông của phần được gọi là Nam Kỳ, Sàigòn, Mỹ Tho và Biên Hòa, đã bị nhường cho Pháp bởi Hoàng Đế Tự Đức, người e sợ các sự xâm chiếm hơn nữa nếu ông kháng cự, và các hậu quả của chúng trên sự ổn định nội bộ của chế độ của khu vực này, và đã ký kết một văn kiện như thế. Hành vi của ông ta bị bác bỏ tại Paris, nơi mà một cuộc vận động chính trị của phe thực dân nhiều quyền thế đang thành hình. Ba năm sau đó, 1867 thống đốc Pháp tại Sàigòn với đề xuất của mình đã xâm lăng và chiếm đóng, sau đó, sáp nhập phần còn lại của vung châu thổ của Nam VN đến tận biến giới Căm Bốt. Cùng lúc một chế độ bảo hộ đã được áp đặt lên trên vương quốc yếu kém Căm Bốt, xứ trong thực tế gần như chào đón sự bảo hộ này, thoát ra khỏi các cuộc xâm lăng của VN và Thái Lan.
    Điều có thể nhận thấy rằng các sự tiến bước quan trọng này của người Pháp đã diễn ra đồng thời với sự suy giảm của quyền lực chính trị của TQ bởi trước tiên cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc trong thập niên 50 và những năm đầu của thập niên 60 của thế kỷ và sau đó bởi Cuộc Chiến Tranh Anh - Pháp chống lại TQ từ 1858 đến 1860, đã áp đặt các hạn chế mới và rộng rãi hơn trên đế quốc đang suy yếu này. Vua Tự Đức không thể hy vọng sự trợ giúp của TQ trong thời kỳ khó klhăn này. Mặt khác, thảm họa chủa chính nước Pháp trong năm 1870 [thất trận trước Đức, chú của người dịch] chỉ đòi hỏi một sự đình chỉ rất tạm thời tiến trình chinh phục và thống trị tại VN. Vào năm 1873 chính quyền tại Sàigòn đã đủ mạnh để loại bỏ mọi tàn tích của chính quyền VN và mang lại chế độ cai trị thực dân trực tiếp của người Pháp. Các viên chức (?ocác quan lại?) của Tự Đức đã từ chối hợp tác, và trong nhiều trường hợp, đã rút lui khỏi khu vực; vì thế người Pháp tuyên bố rằng sự kiện này đã tạo ra một khoảng trống chính quyền mà họ phải tự đảm nhận việc lấp đầy. Họ đã làm; thuế khóa đã tăng gấp mười lần trong hai mươi năm kế đó. Kỷ nguyên bóc lột của thực dân đã khởi đầu.
    Trong cùng năm, 1873, người Pháp lần đầu tiên đã tiến hành chống lại miền bắc VN, nơi mà một sĩ quan hành động gần như độc lập với chính phủ quê nhà, nhưng không phải là không có sự hậu thuẫn chính trị tại Pháp, đã chiếm đóng Hà Nội. Anh ta đã bị hạ sát ở đó trong năm sau, và người Pháp đã di tản khỏi thành phố để đổi lấy một hiệp ước mới được ký kết bởi vua Tự Đức chấp thuận mậu dịch mở ngỏ và sư lưu hành tự do trên sông Hồng. Trong khi đó tại TQ đã có điều mà các sử gia TQ mệnh danh là Cuộc Phục Hồi vua Đồng Trị (Phục Hưng là một danh từ đúng hơn) theo sau sự trấn áp cuộc nổi dậy của Thái Bình Thiên Quốc năm 1862 và sự trấn áp kế tiếp các cuộc nổi loạn nhỏ hơn của người Niệm (Nien Fei) tại miền trung TQ và của người Hồi Giáo tại các tỉnh phía tây và tại Vân Nam. Triều đình một lần nữa đã nắm được sự kiểm soát tình hình, và các phó vương kinh lược phục hồi chế độ đã thực hiện các nỗ lực thận trọng để hiện đại hóa quân đội và thiết lập ở mức tối thiểu công nghiệp tân tiến, chính yếu cho các sự trang bị vũ khí. Vua Tự Đức bị khuyến dụ để tin rằng TQ có thể, sau hết, một lần nữa đưa ra một đối lực trước các sự xâm lược của Pháp. Trong năm 1880, ông đã phái đi một sứ bộ triều cống, không phải chỉ đến biên giới, như tập quán lâu nay, mà còn đến tận Bắc Kinh. Điều này hiển nhiên là một sự biểu lộ về mặt chính trị lòng tin tưởng nơi TQ và một sự thỉnh cầu gián tiếp cho sự bảo hộ của TQ. Sự việc này làm tức giận phe thực dân chủ nghĩa của Pháp.
    Trong vòng hai năm người Pháp, tố cáo chính quyền VN đã vi phạm Hiệp Ước (một duyên cớ tiêu chuẩn cho hành động vũ lực tại khắp vùng Viễn Đông trong thời kỳ này), đã chiếm giữ Hà Nội (1882), lần này với ý định ở lại đó; và mặc dù viên chỉ huy cuộc viễn chinh, Rivière, đã bị hạ sát trong năm kế tiếp, người Pháp đã không triệt thoái. Chiến tranh tại châu thổ Sông Hồng đã tiếp diễn trong gần hai mươi năm, người Pháp đã đụng độ với cuộc kháng chiến du kích được mô tả bởi các người đương thời bằng các từ ngữ có thể được dùng bởi người Hoa Kỳ ngày nay. Kẻ địch vô hình, biến dạng khi có sự xuất hiện của các lực lượng hùng mạnh, nhưng tái hiện khi các lực lượng này ra đi, những kẻ không thể bị phân biệt khỏi giới nông dân trên các cánh đồng, bởi vì chính anh ta là một người trong họ. Vua Tự Đức mất năm 1883 và các khó khăn của triều đại trong sự kế vị ông đã mở đường cho người Pháp chiếm đóng Huế và dựng lên một vị hoàng đế bù nhìn. Một vị tuyên nhận ngôi vị khác đã chạy trốn để lãnh đạo cuộc kháng chiến du kích cho đến khi từ trần [sic, để chỉ vua Hàm Nghi, sau bị bắt và bị đày sang Phi Châu, ND]. Trong khi đó, TQ đã can thiệp, bằng cả hoạt động của quân du kích phi chính quy được gọi là quân Cờ Đen (tự họ là thối thân của các nhóm Thái Bình Thiên Quốc tỵ nạn chạy trốn vào các vùng đồi núi ở biên giới) lẫn các lực lượng chính quy. Các lực lượng này đạt được một chiến thắng trên người Pháp tại Lạng Sơn, nhưng bộ chỉ huy của Pháp ở ngoài biển, giúp cho họ có thể pháo kích hải cảng TQ tại Phúc Châu và tấn công các khu vực duyên hải khác, cộng với các sự bận tâm của TQ tại Hàn Quốc để đối phó với Nhật Bản, khiến cho Triều Đình TQ sẵn lòng hòa giải, từ bỏ sự tuyên nhận của nó, kéo dài hàng nghìn năm, về quyền chủ tể trên VN. Biến cố này đã chính thức chấm dứt bất kỳ loại thẩm quyền nào tại xứ sở; sự áp đặt chế độ thống trị thực dân trực tiếp của người Pháp tại Bắc Kỳ năm 1887 và quyền lực bảo hộ gia tăng trên đế quốc An Nam thu nhỏ đặt tại Huế đã kết liễu, trong hơn năm mươi năm, nền độc lập của chính VN.
    Nguồn: C.P. FitzGerald, Chapter Two: Chinese Expansion By Land: Vietnam, các trang 19-38, The Southern Expansion of Chinese People, New York, Washington: Praeger Publishers, 1972
    Phụ chú của Ngô Bắc:
    Trên đây là bản dịch của một công trình nghiên cứu quan trọng, trình bày một cách xúc tích tiến trình hình thành của VN với các ý nghĩa lịch sử then chốt theo nhịp biến thiên trong tác động của áp lực bành trướng thường trực xuống phía nam của TQ. Tác giả, C.P. FitzGerald là một giáo sư người Anh, được nhìn nhận như học giả hàng đầu và đã xuất bản nhiều tác phẩm kinh điển về văn hóa và địa lịch sử TQ trong thế kỷ thứ 20. Với sự hiểu biết uyên bác, tác giả đã ghi lại một cái nhìn thấu triệt khi đối chiếu các sự tương tác, các điểm tương đồng và dị biệt trong văn hóa và lịch sử tư tưởng của TQ và VN, nước thụ nhận gần như trọn vẹn văn hóa mà người TQ đã áp đặt lên họ. Bản dịch hai Chương khác trong cùng tác phẩm của tác giả có liên hệ nhiều đến VN, Sự Bành Trướng Của TQ Trên Đất Liền: Trường Hợp Vân Nam và Các Viễn Ảnh Về Sự Bành Trướng Xuống Phía Nam Của TQ, sẽ lần lượt được đăng tải nơi đây.
    Về bản địa nguyên thủy, đặc biệt về biên giới phía bắc của chủng tộc Việt, người dịch xin ghi lại các nhận xét và khám phá mới của khoa học hiện đại, đặc biệt trong nhân chủng học, đã được công bố gần đây như sau:
    1. Tác giả Trần Đai Sỹ, trong bài Thử Tìm Lại Biên Giới Cổ Của VN: Bằng Cổ Sử, Bằng Triết Học Và Hệ Thống ADN (hay DNA trong Anh ngữ) (đã phổ biến và có thể truy cập dễ dàng trên mạng internet), cho rằng:
    [bắt đầu trích] ?o? Còn trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường Giang, Đông tới biển, Tây tới Tứ Xuyên, Nam tới vịnh Thái Lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam. Người Mân Việt đi xuống Giao Chỉ. Người Việt di cư từ nam sông Trường Giang tránh lạnh xuông Bắc Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh thổ của họ, như cuộc di cư từ bắc vào nam năm 1954; chứ không phải họ là người TQ di cư xuông Nam, lập ra nước Việt.? [hết trích]
    Tác giả cũng có trưng dẫn các di tích còn lại đến ngày nay như đền có các câu đối thờ Hai bà Trưng tại Bồ Lăng (Fuling) thuộc thành phố Trùng Khánh, tỉnh Tứ Xuyên, ở Trường sa, ở Động Đình Hồ, tỉnh Hồ Nam, TQ ngày nay, v.v? Chúng ta cũng còn các bài thơ của Lê Quý Đôn, Phan Huy Ích viết về các đên thờ Hai bà Trưng ở nam TQ khi các vị này biết đến trong dịp đi sứ sang TQ. Các bằng chứng này cho thấy nhiều phần địa bàn tranh đấu của Hai Bà Trưng nằm ở vùng Hoa Nam ngày nay hơn là ở vùng châu thổ sông Hồng như được lưu truyền.
    Tác giả đã đề cập đến các cuộc nghiên cứu hệ thông DNA và đã đưa ra các kết luận như sau:
    - [bắt đầu trích] ?oTheo sự nghiên cứu bằng hệ thống AND, từ cổ, giống người TQ, do giống người từ Đông Nam Á đi lên. Những người Đông nam Á lại đến từ châu Phi qua ngả nam Á vào thời gian hơn 20,000 năm trước.
    - Người châu Phi đến Bắc TQ do ngả Âu Châu rồi vào Trung Á, khoảng 15,000 năm. Rồi hai giống người này tạo thành tộc Hoa.? [hết trích]
    Rất tiếc là các kết quả nghiên cứu hệ thống DNA đã không được trinh bày giống như trong các cuộc nghiên cưu khoa học khác, vì đây là những bằng chứng khả tỉn nhất, có sức thuyết phục vũng chắc nhất.
  2. anhoanp

    anhoanp Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/12/2007
    Bài viết:
    456
    Đã được thích:
    0
    2. Tác giả W. W. Howells, trong bài Origins of the Chinese People: Interpretations of the Recent Evidence, đăng tải trong quyển The Origins of Chinese Civilizations, University of California Press: Berkeley, California & London, 1983, đã áp dụng các phương pháp nhân chủng học như đo sọ người thu thập được từ nhiều nơi trên đất TQ, để lấy số đo của chiều dài, chiều ngang và chiều cao của vòm sọ, chiều dài từ xương chẩm đên đầu mũi; chiều dài từ xương chẩm đến kẽ giữa răng cửa; chiều ngang và chiều dọc của khuôn mặt; chiều dài và chiều ngang của mũi, ổ mắt) (Xem Bảng 11.1 và 11.2 dưới đây).
    Bảng 11.1: Các Số Đo Trung Bình Của Các Loạt Sọ Người TQ

    Bảng 11.2: Các Độ Sai Trệch Tiêu Chuẩn của Chuỗi Số Đo Sọ Người Tại Đảo Hải Nam và An Dương, TQ, So Sánh Với Các Độ Sai Trệch Tiêu Chuẩn Trung Bình Trên Thế Giới Đã Được Tổng Quát Hóa

    Tác giả cũng đã áp dụng các sự phân tích phân biệt của các hàm số biện biệt trên các số đo các sọ người từ các vùng quan trọng trên thế giới để đối chiêu với sọ người tại vùng An Dương (đời nhà Thương) và đảo Hải Nam, TQ, cũng như so sánh với các chi số của các người đang sống từ nhiều nơi tại Á Châu, dựa vào công trình nghiên cứu của tác giả Bowles (1977), nhằm tính các khoảng cách tổng quát hóa và áp dụng các kỹ thuật quy tụ, hầu xác định tính khả tín và ổn định của cuộc thí nghiệm.
    Tác giả Howells đã tóm tắt như sau:
    [bắt đầu trích] ?Theo các kết quả, được đơn giản hóa ở đây, các dân sống ở vùng Đông Á Châu thuộc vào một loạt các khu vực theo trục bắc nam tổng quát sau đây:
    1. Siberia (Tây Bá Lợi Á) và miền đất rừng phía đông (thí dụ, người Ainu; Ostyak, Yakut, Tungus,và v.v?; Koryak, Chukchi, Eskimo)
    2. Biển Caspian Sea đến Mãn Châu (thí dụ, người Kalmuks, Uyghurs, Kazakhs, Mongols, Buriats)
    3. Bắc TQ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Được gọi là ?oCác Dân Vùng Ở Giữa, Trung Gian: Intermediate Populations?)
    4. Miền đông, tây, và nam TQ (giáp ranh với các dân thuộc vùng 3, nằm giữa các lưu vực của các con sông Hoàng Hà và Dương Tử
    5. Vân Nam, Quý Châu, VN (kẻ cả 3 phân chủng khác nhau trong các thổ dân Đài Loan) [in đậm để làm nổi bật bởi người dịch]
    6. Đông Dương (trừ VN), Thái Lan, Mã Lai.
    ? Và tác giả Bowles nhìn nhận người Bắc TQ như ?odân trung gian, ở giữa?: da họ trắng hơn các người phương nam, với mắt sáng hơn; về các số đo, ông nhận thấy số đo tương đương gần nhất là với người Uyghurs và Tây Tạng. Người Hàn quốc, ông nhận thấy, là trung gian giữa người Bắc TQ và dân Tungus. Mặt khác, người Nam TQ gần cận với các láng giềng không thuộc chủng TQ của họ (người Mèo và Thái-Shan) hơn là với người phương bắc.? [hết trích]
    Điểm quan tâm chính yếu của chúng ta là theo các kết quả nghiên cứu trên, chủng tộc TQ được phân biệt thành hai nhánh, Bắc TQ và Nam TQ, và khác biệt với chủng tộc Việt cùng các người bản xứ ở Vân Nam và Quý Châu. Trong khôi dân thuộc tộc Việt ở miền số 5 này, phải cộng thêm các sắc dân bản địa thuộc phần lớn tỉnh Tứ Xuyên, các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây và Quảng Đông mà chính người TQ ngày nay vẫn còn xem là Việt nhân, khi gọi là Việt Tây và Việt Đông, như nhiều cuộc khảo sát đã nêu ra nhiều bằng chứng khả tín. Tuy nhiên, cần phải có các cuộc nghiên cứu khoa học sâu xa hơn nữa để có được một kết luận quyết đoán.
    3. Sách giáo khoa về lịch sử văn minh thế giới tại Hoa Kỳ trong các thập niên gân đây cũng đã chấp nhận các khám phá mới này, và có ấn hành bản đồ cổ xưa của TQ với sắc dân Hán hay Hoa (TQ) ở phía bắc sông Hoàng Hà, còn từ phía nam sông Dương Tử là lãnh địa của sắc dân Việt. Xin tham khảo, thí dụ, quyển World Civilizations của Peter Sterns, Chapter 13, The Spread of Chinese Civilization: Japan, Korea, and Vietnam, các trang 286-309.
    Bản đồ Nam Việt cổ thời dưới đây được trích từ quyển Shadow of the Dragon: Vietnam?~s Continuing Struggle with China and the Implications for U.S. Foreign Policy của Henry J. Kenny, Washington: Brassey?~s, 2002 là một thí dụ khác
    Bản Đồ 1: Bản Đồ Nam Việt Cổ Xưa, 111 trước Công Nguyên, trước khi bị chinh phục bởi TQ
  3. bachdang07

    bachdang07 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/12/2007
    Bài viết:
    87
    Đã được thích:
    0
    nhầm chuồng rồi bác gì ơi!!!!!!!!! sang bên lịch sử văn hoá thì hợp hơn đấy, mõ chắc sẽ cho bài của bác đi bụi thôi
  4. TechNip

    TechNip Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    09/05/2009
    Bài viết:
    266
    Đã được thích:
    382
    Diễn tập chống đổ bộ đường biển tại Hải hậu, Nam định
    [​IMG]
    "Bọn địch" rất đông và hung hãn
    [​IMG]
    Lực lượng phòng không bắn trả mãnh liệt
    [​IMG]
    Máy bay địch bị hạ, giặc lái không kịp nhảy dù
    [​IMG]
  5. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    PK này ăn gian, vỏ 12.7, ruột chơi 7.6
  6. mogas95

    mogas95 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/03/2008
    Bài viết:
    57
    Đã được thích:
    0
    Bắn kẹp nòng như này cũng đâu tiết kiệm được nhiều nhỉ. Chơi luôn 12.7 đi cho máu, cảm giác đã hơn
  7. anhvao

    anhvao Thành viên rất tích cực Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/03/2009
    Bài viết:
    442
    Đã được thích:
    75
    Thôi nhà ngèo thì chơi như vậy để lấy cái tiếng là vna cũng có tập trận.
  8. Lasonphutu83

    Lasonphutu83 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/08/2009
    Bài viết:
    1.225
    Đã được thích:
    3
    Máy bay trong diễn tập chỉ là mô hình, có kích thước nhỏ và tốc độ chậm hơn nhiều lần so với khí tài thật. Diễn tập thực binh kiểu này không biết giả lập chính xác được bao nhiêu % so với thực tế.
    Thứ 2: Các máy bay thế hệ 4+ và 5 hiện nay không bay ở trần thấp đến mức súng phòng không 12,7 bắn tới được cho dù ngay cả khi cắt bom. Trong chiến tranh hiện đại, 12,7 chỉ đóng vai trò chống địch đổ bộ đường không.
  9. Excocet

    Excocet Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    05/01/2005
    Bài viết:
    4.450
    Đã được thích:
    79
    Thì đúng vậy mà bro. Nếu máy bay 4, 5+ đã có S-300, SA-6, SA-2. SA-3, 100mm...
    Thấp hươn, chậm hơn thì đã có SA-7, Zsu 57-2, 23-4, 57mm, 37mm
    Thấp hơn nữa, chậm hơn nữa, đổ bộ thì đã có 12.7. Mà bắn mấy cái máy bay mô hình bằng 7.6 còn khó hơn là dùng 12.7 bắn mấy con đổ bộ đường không.
    Vậy là đủ rồi
  10. thuduc123

    thuduc123 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/06/2009
    Bài viết:
    373
    Đã được thích:
    1
    Đà nẵng vừa diễn tập phòng thủ PT09 có cả trưc thăng tham gia sao ko thấy mấy Bác nhà mình đưa tin nhỉ. VTV đưa tin nhanh quá chỉ thấy sơ.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này