1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tính cách người Nam bộ

Chủ đề trong '7X - Chi hội Sài Gòn' bởi arien, 08/10/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. arien

    arien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/01/2002
    Bài viết:
    763
    Đã được thích:
    0
    Tính cách người Nam bộ

    Do nguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và tác động của môi trường thiên nhiên đã hình thành nên tính cách người Nam Bộ. Ngoài tính hiếu khách, tính bộc trực, mạnh mẽ , hào phóng và đôn hậu, người Nam Bộ còn biết bao nét đẹp truyền thống đáng trân trọng như tính nghĩa khí hào hiệp, tấm lòng nhân hậu, bao dung, tư chất thông minh và giàu nghị lực. Đặc biệt phụ nữ miền Nam rất đỗi vị tha, dịu dàng lại khéo tay, chiều chồng nhưng đáng quý nhất là sự hy sinh cho chồng con, cho quê hương, đất nước. Điều đó đã được minh chứng suốt quá trình hơn 300 năm lịch sử của Nam Bộ.
    Miền Nam đã trải qua chiến tranh, bom đạn ác liệt nhưng miền Nam kiên cường, bất khuất và miền Nam xứng đáng với danh hiệu "Thành đồng của Tổ quốc". Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội IX **********************, chúng ta đang phát huy nội lực nhằm làm dân giàu, nước mạnh, miền Nam sẽ cùng cả nước tiến lên tạo cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

    Tính bộc trực

    Trong dân gian còn lưu truyền câu "Ăn mặn nói ngay" để nói lên tính cách người miền Nam. Lý giải cho câu thành ngữ này phải dựa trên cơ sở lịch sử và đời sống thực tế Nam Bộ. Như đã nói, họ là những lưu dân đến đây chủ yếu bằng đường biển, suốt hành trình lênh đênh giữa sóng to gió lớn để chống lại giá rét, chống lại những cơn cuồng nộ của biển cả... buộc họ phải tìm cách đảm bảo mạng sống và sinh tồn. Để lặn sâu dưới nước, thường người ta hay uống nước muối; giữ cá được lâu thì muối hoặc làm mắm... Dần dần mà khẩu vị của người đi biển trở nên mặn mà hơn so với người ở đất liền. Trong bữa ăn truyền thống của người miền Nam không bao giờ thiếu được món kho như: thịt kho, cá kho, mắm kho hoặc cá muối chiên hay khô mặn, ba khía... Đặc biệt bất kỳ nhà giàu có hay nghèo hèn, dù bữa ăn bình dân hay tiệc tùng lễ lạt giữa nhà hàng sang trọng đều có chén nước mắm trong mâm thức ăn dùng làm nước chấm.

    Tính mạnh mẽ

    Người miền Nam trong lịch sử khẩn hoang Nam Kỳ là những người luôn luôn đương đầu với nghịch cảnh, bởi thế họ không có thì giờ để con cà con kê, nếu cần diễn đạt thì nói một cách dứt khoát, ngắn gọn, trực tiếp và rõ ràng. Vì lênh đênh giữa biển, sóng vỗ ì ầm, trời nước mênh mông nên tiếng nói của con người bị át đi. Cho đến khi lên bờ khai khẩn thì đất rộng người thưa, cây cối um tùm, phương thức lao động không phải tập đoàn hay hợp quần mà thủ công - riêng lẻ, khi cần gọi nhau để trao đổi thì phải hét to hoặc dùng tiếng động lớn làm ám hiệu cho nhau, bởi vậy mà người miền Nam cho tới sau này vẫn còn ăn to nói lớn.

    Tính đôn hậu

    Người miền Nam luôn chân tình, cởi mở và dễ hòa mình. Xét trên góc độ khoa học, đó là sự hội nhập giao lưu và hòa đồng giữa cộng đồng các dân tộc. Khi người Kinh đặt chân đến Nam Kỳ thì ở đây đã có người Khmer, người Hoa sinh sống. Tuy phong tục mỗi dân tộc mỗi khác nhưng tất cả như có một mẫu số chung là tinh thần nhân ái. Trong ngôn ngữ miền Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những tiếng có nguồn gốc Khmer và Hoa như: mình ên, cà tha, xiêm lo, xích xái, lì xì, thèo lèo, xí muội, thò lò... Còn địa danh ở Nam Bộ có những tên đi vào lịch sử như: Sa Đéc, Sóc Trăng, Bãi Xáu, Chắc Cà Đao...
    Thông thường mỗi khi giỗ chạp, Tết nhất hay mỗi khi bày cỗ cúng kiến, người miền Nam ngoài việc dọn cỗ trên bàn thờ ông bà, cha mẹ... còn có một mâm riêng được bày lên trước cửa nhà để cúng gọi là "mâm đất đai". Mâm thức ăn này để cúng các bậc tiền hiền đã có công khai phá vùng đất hiện tại cùng những người khuất mặt khuất mày đã bỏ mạng nơi đây mà không nơi nương tựa. Trước khi khấn vái ở bàn thờ gia tiên thì gia chủ phải thành tâm trước "mâm đất đai", xem như một thủ tục trình báo với "sở tại". Điều này nói lên tấm lòng người miền Nam nhân ái, vị tha, giàu tình người mà bà con ta gói gọn trong hai tiếng "biết điều".

    Những người dân hiếu khách

    Những cư dân Đàng Ngoài từ chỗ có làng xã, sinh hoạt lề thói nhiều đời đến nơi ở mới tứ cố vô thân lại thêm phong thổ khắc nghiệt... đã làm cho họ trở nên bản lĩnh và đặc biệt là rất hiếu khách. Hiếu khách có lẽ là nét đặc trưng, là cá tính độc đáo của người miền Nam, bởi họ rất cần người để tâm sự, để giãi bày những nỗi niềm sâu kín hoặc để uống với nhau ly rượu giải sầu - cái sầu ly hương - hay để hàn huyên chuyện xứ sở Đàng Ngoài, nơi quê cha đất tổ. Trong sinh hoạt láng giềng Nam Bộ hiện tại, ta thấy có nhiều tiệc tùng, nhậu nhẹt, đám cưới, đám giỗ, thôi nôi, đầy tháng, tân gia... mà người được mời ít khi từ chối, mặc dù hiểu rằng "ăn bữa giỗ lỗ bữa cày". Họ đến đó không phải vì rượu thịt, vì miếng ngon vật lạ mà vì "phải quấy" - nói theo tiếng bà con miền Nam hay nói. Ai không đi, không dự được thì gởi bao thư, lễ vật và xin cáo lỗi; còn nếu như làm thinh, không có "phản hồi" gì hết là "có vấn đề"! Từ những bàn tiệc này mà đôi khi nảy sinh những quan hệ tình cảm mới như: kết nghĩa thông gia, kết nghĩa tri âm tri kỷ hoặc kết nghĩa anh em...

    (Sưu tầm)
  2. arien

    arien Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    22/01/2002
    Bài viết:
    763
    Đã được thích:
    0
    Biểu trưng nói một cách đơn giản là dùng cái A để nói cái B. Chẳng hạn, cặp biểu trưng "cá chậu - chim ***g" biểu trưng cho cảnh tù túng của một ai đó, trong ca dao thường có biểu trưng cho người con gái có chồng (mà không hạnh phúc). Biểu trưng bao giờ cũng gắn với văn hóa tộc người và vùng đất bởi quá trình biểu trưng hóa (quá trình liên tưởng so sánh giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt) bị sự chi phối của môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội. Xuất phát từ luận điểm này, chúng tôi tìm hiểu tính cách người Việt Nam bộ qua các biểu trưng ca dao.
    1/ Biểu trưng với tinh thần trọng nghĩa khinh tài
    Trọng nghĩa là tinh thần của những con người nghĩa khí, những con người sẵn sàng xả thân mình để cứu người, để làm những việc mà họ cho là hợp với đạo lý và lòng trung thành. Lục Vân Tiên, Hớn Minh của Nguyễn Đình Chiểu cũng là những nhân vật được xây dựng trên tinh thần "Nhớ câu kiến nghĩa bất vi, làm người thế ấy cũng phi anh hùng". Tác giả ca dao Nam bộ thường xuyên nói về chữ nghĩa cũng trên tinh thần đó. Trọng nghĩa là thái độ ứng xử của người Việt Nam nói chung chứ không riêng của người Việt Nam bộ. Có điều, đây là một nét trội trong tính cách của người dân vùng đất mới. Họ vốn là những lưu dân đi tìm sự sống trong muôn ngàn cái chết. Qua nhiều lần thoát hiểm nhờ sự liên kết, nhờ tinh thần hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly, họ càng thấm thía thế nào là tình huynh đệ hào hiệp. Trọng nghĩa gắn với khinh tài. Nếu người xưa đã từng cay đắng nhận rằng "nén bạc đâm toạc tờ giấy" hoặc chua chát "có tiền mua tiên cũng được" thì tác giả ca dao Nam bộ khẳng định:
    Tiền tài như phấn thổ,
    Nghĩa trọng tợ thiên kim
    Con le le mấy thuở chết chìm
    Người bạc tình bạc nghĩa kiếm tìm làm chi.
    Phấn thổ (bụi đất) và thiên kim (ngàn vàng) trong bài ca dao mang ý nghĩa biểu trưng. Sự đối lập của hai hình ảnh nầy chính là sự đối lập giữa cái tầm thường và cái cao quí. Nếu có cái gọi là bên trọng bên khinh thì nghĩa là bên trọng, tiền tài là bên khinh. Bài ca trên còn một dị bản như là bằng chứng về sự phổ biến của thái độ trọng nghĩa khinh tài:
    Tiền tài như phấn thổ,
    Nhân nghĩa tựa thiên kim
    Đứt dây nên gỗ mới chìm
    Người bất nhân bất nghĩa kiếm tìm làm chi.
    Biểu trưng vàng trong bài ca trên đã từng được tác giả ca dao Nam bộ sử dụng. Nghĩa khái quát nhất, tập trung nhất của vàng là biểu trưng cho cái quý giá. Đó là cái quý giá về vật chất, quý giá về tinh thần và con người quý giá. Vàng trong lòng vàng biểu trưng cho lòng chung thủy trong tình yêu:
    **** ong bay lượn rộn ràng,
    Em nguyền giữ tấm lòng vàng với anh.
    Trong ca dao Nam bộ, vàng thường xuất hiện với đá cùng với cách nói nghĩa đá vàng. Ở đây tác giả dân gian không nhầm so sánh giá trị hơn kém giữa chúng mà hướng tới đặc điểm chung của hai loại chất. Đá và vàng đều có khả năng tồn tại lâu dài, bền vững cho nên chúng biểu trưng cho nghĩa sắt son:
    Ví dầu nước chảy đá mòn,
    Xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương.
    Người nghĩa khí một mặt sẵn sàng xả thân vì nghĩa xem tiền tài như cỏ rác, một mặt chấp nhận cảnh sống bần hàn để giữ tròn đạo nghĩa qua hình ảnh biểu trưng của hai đại đệ tử Khổng giáo, Tăng Sâm và Tử Lộ:
    Anh tỉ phận anh
    Thà ở lều tranh
    Như thầy Tăng, thầy Lộ,
    Chớ không ham mộ
    Của Vương Khải, Thạch Sùng,
    Đạo người anh giữ vẹn, bần cùng sá bao.
    Ca dao Bắc bộ (ca dao các vùng khác nói chung) không thiếu những bài nói về tình nghĩa, nghĩa bạn bè, nghĩa đồng bào, tình nghĩa lứa đôi... với những hình ảnh biểu trưng như bầu bí, nhiễu điều - giá gương... bằng một giọng điệu nhẹ nhàng:
    Bầu ơi, thương lấy bí cùng,
    Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
    (Ca dao Bắc bộ)
    Ca dao Nam bộ cũng với tinh thần trọng nghĩa ấy nhưng được thể hiện bằng tình huống và thái độ mạnh mẽ với biểu trưng sống qua hình ảnh ruột thắt gan bào:
    Ngó lên trời mây bay vần vũ,
    Ngó xuống âm phủ đủ mặt bá quan,
    Ngó lên Nam Vang thấy cây trăm thước,
    Nhìn sông Trước thấy sóng bủa lao xao,
    Anh thương em ruột thắt gan bào,
    Biết em có thương lại chút nào hay không?
    Đạo nghĩa hay điệu nghệ là luật lệ riêng của lưu dân thời kỳ khai hoang, những người bị giai cấp cầm quyền coi là kẻ tiểu nhân dốt nát. Lưu dân thú nhận sự dốt nát của họ bằng thái độ tự tôn. Họ bất cần bọn quan lại và luật lệ của chúng, để rồi hướng tới tinh thần điệu nghệ. Điệu (đạo), là lòng từ bi bác ái, tình nghĩa giữa con người, Nghệ (nghĩa) là nghĩa khí, không lợi dụng quyền thế lấn áp kẻ yếu, không hại kẻ thất thế, ăn ở thủy chung, kết giao không tính toán thiệt hơn, dám liều thân giúp người... Quan niệm điệu nghệ tạo nên một kiểu anh hùng, một kiểu quân tử bình dân. Biểu trưng chim quyên, một biểu trưng riêng của ca dao phương Nam, là hình ảnh của kiểu quân tử bình dân đó:
    Chim quyên xuống đất ăn trùn
    Anh hùng lỡ vận lên rừng đốt than.
    Chính quan niệm điệu nghệ đề cao con người không phải ở tiền bạc, địa vị, dòng dõi mà ở thái độ sống tích cực, sống có nghĩa khí, sống với tinh thần: "bần tiện chi giao mạc khả vong, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng". Quan niệm điệu nghệ cho người ta luôn luôn mở rộng cửa đón tiếp mọi người không phân biệt tốt xấu giàu nghèo trong quá khứ. Nếu biết điệu nghệ thì mọi việc có thể giải quyết trong tình anh em không cần đến pháp luật và quan lại: Đấng trượng phu đừng thù mới đáng, đấng anh hùng đừng oán mới hay.
    Cuối cùng, người nghĩa vẫn là những con người bình dị qua hình ảnh "con chim nho nhỏ" trong ca dao Nam bộ. Công thức "con chim nho nhỏ" thường mở đầu cho lời khuyên nhủ, mong ước. Lời khuyên nhủ thường phải là lời của một ai đó cho nên hình ảnh trên biểu trưng cho con người biết trân trọng, giữ gìn đạo lý:
    Con chim nho nhỏ,
    Cái lông nó đỏ,
    Cái mỏ nó vàng,
    Nó kêu người ở trong làng,
    Đừng ham lãnh lụa phụ phàng vải bô.
    2/ Biểu trưng với tính cách ngang tàng
    Lối sống ngang tàng là hệ quả của tinh thần nghĩa khí hào hiệp trong con người Nam bộ. Những con người tứ chiếng từ những huyện phủ khác nhau về vùng đất mới mang trong mình nhiều chất phản kháng, ít chịu sự ràng buộc của lễ giáo, không bao giờ bị khuất phục. Họ chấp nhận mọi hiểm nguy, mọi thử thách (nắng mai - mưa chiều) thậm chí trong những hoàn cảnh nhất định, họ đã phải liều:
    Ra đi là sự đánh liều,
    Nắng mai không biết, mưa chiều không hay.
    Cho dù phải luôn luôn đối mặt với tình huống khó khăn kiểu nắng mai- mưa chiều, người Nam bộ vẫn muốn khám phá cuộc sống bất chấp non cao sông sâu:
    Lên non mới biết non cao,
    Xuống sông mới biết chỗ nào cạn sâu.
    Con người Nam bộ ngang tàng được thể hiện qua các biểu trưng chim, cây là con người cứng cỏi giữa cuộc đời. Chim biểu trưng cho con người sống giữa cuộc đời rộng lớn, đầy biến động. Đó là con người đi xa, người có chí khí thường là người đàn ông. Đó là chim trong các hình ảnh cánh chim hồng, chim khôn, chim kia sớt cá, chim trên rừng, chim bay về rừng, chim bay, chim trời, cánh chim...
    Bể sâu con cá vẫy vùng,
    Trời cao muôn trượng, cánh chim hồng cao bay.
    Cây cứng lá dai là khí phách của người không biết luồn cúi, không sợ uy quyền:
    Trời sinh cây cứng lá dai,
    Gió lay mặc gió chiều ai không chiều.
    Ngang tàng có nghĩa là dám sống, sống hết mình đúng với chính mình, dám tin vào chân lý cuộc sống, tin vào tình yêu như hình ảnh cây khô chết đứng:
    Cây khô chết đứng giữa trời,
    Chết thời chịu chết không quên lời anh than.
    Chấp nhận tất cả rủi ro trên con đường phiêu bạt, người Nam bộ coi nhẹ tính mạng nên sống ngang tàng. Mặt khác, việc khai thác vùng đất mới đầy gian khổ hiểm nguy cũng góp phần tôi luyện tính cách trên. Nhưng cần phải thấy rằng, ngang tàng ở đây không phải là phá phách, là làm loạn. Ngang tàng là một nét nhân cách Nam bộ, đó là những con người không chấp nhận sống mà phải cầu xin, phải khuất phục trước bạo lực. Đó là những con người vươn tới những điều to tát, không quan tâm đến những cái vụn vặt. Có thể trong cuộc sống hiện đại, đây đó vẫn có những con người Nam bộ tầm thường. Điều này không có gì lạ. Nhưng trong ca dao, người Nam bộ hướng tới một nhạn bay cao quí mà không thèm để ý đến chim sâu tầm thường. Và nếu chàng trai nào chỉ muốn bắt chim sâu thì sẽ bị chê cười:
    Bình tích thủy đựng bông hoa lý,
    Chén chung vàng đựng nhụy bông ngâu,
    Trách ai làm trai hưu nhãn vô châu,
    Chim oanh không bắn, bắn con chim sâu đậu nhành tùng.
    Lối sống ngang tàng gắn với một thái độ dứt khoát kiểu đã tròn cho ra tròn, vuông cho ra vuông. Một số không ít ca dao Nam bộ biểu lộ thái độ quyết liệt bằng các phân biệt rạch ròi giữa đỏ và đen, giữa tốt với xấu giữa Nguyệt Nga - Vân Tiên với cha con Bùi Kiệm:
    Con rắn hổ nó mổ con rắn rồng,
    Tiền kẽm xỉa với tiền kẽm tiền đồng xỉa riêng.
    Nguyệt Nga kết với Vân Tiên,
    Cha con Bùi Kiệm ngồi riêng một mình.
    Tóm lại, tính cách Nam bộ vẫn là tính cách Việt Nam, vẫn là những con người yêu nước có tinh thần dân tộc đã từng dũng cảm chiến đấu chống ngoại xâm... Ở đây chúng tôi chỉ nêu ra hai nét nổi trội của tính cách người Việt Nam bộ được khắc họa trong ca dao.

Chia sẻ trang này