1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tình hình Ukraine và bóng ma của nội chiến

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi canhsatbienvietnam, 19/02/2014.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chessgenius

    chessgenius Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    21/06/2013
    Bài viết:
    286
    Đã được thích:
    511
    [​IMG]
    hai miền Đông, Tây chia rẽ sâu sắc về nhân khẩu học, chính trị và kinh tế. 80% GDP đến từ miền Đông. Ủng hộ tách ra cho miền Tây bạo động tự đi một mình
    bunny121, tekute1976, suhomang1 người khác thích bài này.
  2. Malogs

    Malogs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/10/2008
    Bài viết:
    9.910
    Đã được thích:
    3.063
    hồi chiến tranh Moldova vs Transnistria, Nga cũng đâu có nhảy vô, toàn lính tình nguyện đâu đâu không à, ai dám chửi Nga can thiệp
  3. arsenalgooner

    arsenalgooner Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/06/2012
    Bài viết:
    1.801
    Đã được thích:
    5.900
    em nhớ hình như có quân Nga thuộc đơn vị thời Soviet đồn trú tại đó tham chiến mà, có cả tụi UNA-UNSO nữa
    Malogs thích bài này.
  4. Malogs

    Malogs Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    24/10/2008
    Bài viết:
    9.910
    Đã được thích:
    3.063
    bọn nó chỉ tuồn vũ khi cho quân kháng chiến thôi, còn lính chiến cạnh quân kháng chiến toàn lính tình nguyện Cossack.
  5. 3M-14E

    3M-14E Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/07/2012
    Bài viết:
    995
    Đã được thích:
    265
    Cần quái j phải đưa quân sang cho nó rách việc các bác.
    Thứ nhất là Nga đã có vài tỷ USD trái phiếu của Ukraina.Nếu họ bán tháo trái phiếu trên thị trường thế giới chấp nhận chịu thiệt 1 tí thì giá trái phiếu của Ukraina giảm mạnh=>Khó khăn về kinh tế càng thêm khó khăn
    Thứ 2 dân Ukraina đang được mua khí đốt giá rẻ của Nga.Nó bán rẻ vài bữa rùi đùng 1 cái leo thang giá khí đốt làm cho lạm phát tăng vọt,chính phủ Ukraina vốn đã sắp vỡ nợ lấy gì ra để bình ổn lạm phát đây=>Nếu để lạm phát và thất nghiệp tăng cao thì chính phủ mới có lẽ cũng sụp luôn
    Thứ 3 qua các cuộc biểu tình mới ở khu vực phía Đông cho thấy Nga dư sức làm cho Ukraina bất ổn kể cả khi chính phủ thân phương Tây nắm quyền thì cũng chả có cách nào để cứu vãn nền kinh tế của Ukraina cả.Mà EU và Mỹ liệu sẵn sàng chi bao nhiêu tiền để bảo vệ 1 chính phủ thân thiện ở Ukraina đây?
    tekute1976, suhomangMalogs thích bài này.
  6. matkinhbu

    matkinhbu Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    31/07/2002
    Bài viết:
    1.602
    Đã được thích:
    716
    EU sẵn sàng viện trợ cho U 20 tỷ USD.

    Ngon rồi đây.
  7. Boyluudan85

    Boyluudan85 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    22/06/2013
    Bài viết:
    602
    Đã được thích:
    436
    Thì hồi CM Cam lật đổ CP Yanu để đưa người đàn bà quyền lực Tymoshenko lên thì cũng đã phải ăn đòn "dầu mỏ" của Nga rồi. Sau những ngày hồng CM niềm vui chưa dứt đã phải bị nếm mùi về kinh tế. EU chỉ cổ động là chính, còn Nga thì cắt dầu buộc CP mới phải mua dầu với giá cắt cổ và chính điều này bà Tymos mới bị truy tố và ở tù. Lịch sử tái diễn không biết CPCM có bài nào "phá" được chiêu của người Nga chưa hay là vẫn phải đi vào lối mòn cũ. Xem ra để đối phó với UK Nga không cần phải sử dụng súng đạn làm gì cho mang tiếng !
    OnlySilverMoonhiraly thích bài này.
  8. VTNVTA

    VTNVTA Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/02/2014
    Bài viết:
    157
    Đã được thích:
    61
    Nuôi dậy nó từ tấm bé, đến lúc khôn lớn nó nhận thằng to ở đâu đâu làm thầy, bỏ quên - chổng mông vào ông giáo làng xưa. Thôi thì phải "dậy cho nó 1 bài học" thôi. Nhưng kết quả thằng đi dậy lại phải học những bài học đắt giá, thằng được dậy thì cũng móm hết cả răng.

    Bài học nhãn tiền còn đó, liệu ông "thầy" và ông "học trò" này có dám dậy nhau không :)
    Chỉ khổ mấy thằng dân đen, chết là xanh cỏ hết.
  9. hpfc.vn

    hpfc.vn Thành viên gắn bó với ttvnol.com Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    06/08/2012
    Bài viết:
    642
    Đã được thích:
    362
    bên lề 1 tý, các bác đang hăng vụ đưa quân quá

    Kịch bản của các nhà dân chủ :

    + Bầu cử thất bại: đại diện bên thất bại tỏ ra cao thượng, chấp nhận, kêu gọi đoàn kết dân tộc

    + Cử 1 thằng máu me cầm đầu biểu tình, thằng vừa thất bại kia không ra mặt

    + Hỗn loạn sau biểu tình, thằng thất bại đứng lên gánh vác vai trò điều hành đất nước :cool:

    UKR vs Thái, tiếp tới chẳng lẽ là anh Vê ?
    suhomangTo_lai_nd thích bài này.
  10. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.959
    Đã được thích:
    1.590
    SƠ LƯỢC LỊCH SỬ VÙNG ĐẤT VÀ DÂN TỘC UKRAINE

    I. Lịch sử hình thành nhà nước Kievan Rus

    Kievan Rus , Hoặc Kyivan Rus là cái tên được đặt ra bởi Nikolai Karamzin cho Đại Công quốc Rus thời Trung Cổ. Đại Công quốc này tồn tại từ khoảng 880 đến giữa thế kỷ 13 khi nó tan rã. Người ta cho rằng cuộc xâm lược của người Mông Cổ năm 1237-1240 đã góp phần lớn cho sự sụp đổ của Công quốc này.

    Được thành lập bởi các bộ lạc Đông Slav và thương nhân Scandinavia (Varangians) được gọi là " Rus " và tập trung ở Novgorod, Công quốc này sau đó bao gồm vùng lãnh thổ về phía nam tới Biển Đen, phía đông tới Volga và phía tây đến Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Litva. Trong thế kỷ thứ 9, Kiev, một bộ lạc Slav định cư mà trong đầu thế kỷ thứ 9 đã phải trả tiền cống nộp cho người Khazar, nhưng đã bị người Varangians chiếm vào năm 864 và trở thành thủ đô của Rus '. Công quốc Rus 'được nhiều người coi là tiền thân đầu tiên của ba quốc gia Đông Slav hiện đại: Belarus, Nga và Ukraina.

    Triều đại Vladimir Vĩ đại (năm 980-1015) và con trai ông -Yaroslav I Wise (năm 1019-1054) đã tạo nên kỷ nguyên vàng - Golden Age của Kiev, thời này cũng là thời người Rus chấp nhận Kitô giáo và tạo ra bộ luật đầu tiên của người Đông Slav bằng văn bản, đó là bộ Russkaya Pravda. Những thủ lĩnh đầu tiên của người Rus ' nhiều khả năng là tầng lớp chiến binh người Scandinavia cai trị một phần lớn người Slav đã quy phục. Người Scandinavia dần dần kết hôn và hòa nhập với dân Slavic - vị vua thứ ba được biết đến như là Sviatoslav I của Rus ', là cháu trai của Rurik và ông đã có một tên Slav. Quyền lực của Công quốc dần dần bị yếu đi vào thế kỷ 13 và Kievan Rus 'tan rã do các cuộc nội chiến của các thành viên hoàng tộc, sự sụp đổ của các mối quan hệ thương mại Rus '- Byzantine do sự xuống dốc của Constantinople, sự cạn kiệt của các tuyến đường thương mại và tiếp theo là việc người Mông Cổ xâm lược nước Nga (Kievan Rus ' ).


    Buổi đầu lịch sử


    Theo truyền thuyết cuả người Norman ở đầu thế kỷ thứ 9, các bộ lạc người Rus phía bắc được tổ chức một cách lỏng lẻo thành Rus ‘Khaganate, đây là đề xuất bởi một số nhà sử học không là người Nga và nó có thể được coi như là một nhà nước tiền thân của Kievan Rus. Các nhà lãnh đạo đầu tiên của người Rus ‘ nhiều khả năng là một tầng lớp chiến binh Scandinavia cai trị một phần lớn người dân Slav’.

    Theo quấn Primary Chronicle, cuốn biên niên đầu tiên của Kievan Rus, lãnh thổ của nhà nước Kievan tương lai được phân chia giữa quốc gia của người Varangian và Khazaria. Laurentian Codex nói rằng kể từ năm 859 ( các bộ lạc Đông Slav) Chud, Slovene, Merya và Krivichi phải trả tiền cống nộp cho người Varangian, trong khi người Khazar lại đánh thuế ( các bộ lạc Đông Slav) Polians, Sieverians và Vyatichs. Trong năm 862 có một cuộc nổi dậy lớn khi ( các bộ lạc ) Chud, Ilmen Slavs, Merya và Krivichi đuổi người Varangian ngoài biển mà không cống nộp cho họ. Sau đó họ bắt đầu đường ai nấy đi. Một số các bộ lạc (không chính xác bộ lạc nào) đã quyết định mời Rus Varangians để cai trị họ. Sau đó ba anh em người Varangian ( Viking Thụy Điển ) tên là Rurik, Sineus, và Truvor đã lập nên Novgorod, Beloozero và Izborsk. Sau đó hai năm, hai người em qua đời chỉ còn lại Riurik và chỉ còn lại Riurik-người cai trị duy nhất. Ông lần lượt lập nên các chức danh nakhodniks để giúp ông ta quản lý đất đai. Thành phố quan trọng nhất trở thành thủ đô Novgorod để cai quản các bộ lạc Ilmen Slavs, thành phố Polotsk – Krivichi, thành phố Rostov – Merya, thành phố Beloozero – Veps và thành phố Murom - Muroma. Cuốn biên niên lấy tên ông làm xuất phát của Triều đại Rurik. Cuốn biên niên sử viết:

    Trong năm 6367 (năm 859): người Varangians từ ngoài biển vào đã thu cống nộp từ các bộ lạc Chuds, Slavs, Merias, Veses, Krivichs…

    Trong năm 6370 (năm 862): [Họ] đẩy người Varangians quay trở lại biển khơi và từ chối trả tiền cống nộp và họ cố gắng để cai quản lẫn nhau. Nhưng giữa họ không có luật pháp tồn tại và bộ lạc này thì chống lại bộ lạc kia. Do đó bất hòa xảy giữa bọn họ và họ bắt đầu một cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc. Họ nói với nhau: ” chúng ta hãy tìm kiếm một vị hoàng tử, người có thể cai trị chúng ta và phán xử chúng ta theo tập quán” Do đó, họ ra nước ngoài để tìm người Varangians và người Rus. Đặc biệt là người Varangian được gọi là người Rus từ Thụy Điển, cũng giống như một số khác được gọi là người Thụy Điển, và những người khác là Norman và Angles, rồi vẫn còn những người khác như người Goth [Gotlanders], vì họ đã được đặt tên như vậy. Người Chud, người Slav, người Krivich và người Ves sau đó nói với người Rus, “đất của chúng tôi là rất rộng lớn và giàu có, nhưng không có luật pháp, hãy đến và cai quản chúng tôi như những vị hoàng tử, hãy cai quản chúng tôi bằng luật pháp.”. Ba người anh em đã tình nguyện đi với họ. Họ mang theo tất cả những người Rus.

    Hai trong số các boyar của Riurik, Haskold và Dyr là những người không có chung dòng máu với Riurik, họ hỏi ông ta rằng liệu họ có thể mang gia đình của họ đến Tsargrad. Đi dọc xuống hạ lưu sông Dnepr họ thấy một khu định cư tên là Kiev và họ đã giải phóng người dân ở nơi này khỏi phải cống nộp người Khazar và định cư luôn ở đó, cuối cùng họ đã chinh phục được phần còn lại của vùng đất Polian.

    Thành lập Kievian Rus

    Rus Kiev đã chính thức được thành lập bởi Hoàng tử Oleg (Helgu theo ghi chép cuả người Khazar) vào năm 880. Lãnh thổ của quốc gia của ông nhỏ hơn nhiều, so với lãnh thổ của Yaroslav Thông thái. Trong 35 năm tiếp theo, Oleg và chiến binh của ông chinh phục hàng loạt các bộ lạc Đông Slav (Smolensk và Liubech) và bộ lạc Finnic. Năm 882, Oleg truất ngôi Haskold và Dyr và đặt Kiev trực tiếp dưới sự quản lý của chính mình và chọn nó làm thành phố thủ đô. Năm 883, Oleg chinh phục người Drevlians và áp đặt vào họ các khoản cống nạp bằng lông thú. Vào năm 884 ông đã chinh phục được người Polians, Drevlians, Severians, VyatichsRadimichs trong khi tiếp tục chiến tranh với người Tivertsi và Ulichs. Những bộ lạc sau ( người Tivertsi và Ulichs ) sống ở trong khu vực được biết đến bởi các nhà sử học Hy Lạp như là Great Scythia (vùng hạ lưu của sông Dniester và sông Dnepr). Năm 907, Oleg dẫn đầu một cuộc tấn công vào thành phố Constantinople với 80.000 chiến binh được vận chuyển bằng 2.000 tàu, để lại Igor ở Kiev. Oleg cố gắng áp đặt một khoản cống nộp vào người Byzantine không ít hơn một triệu grivna. Năm 912, ông đã ký một hiệp ước thương mại với Đế quốc Byzantine như là một đối tác bình đẳng. Sau này sau cái chết của Oleg trong năm 912, người Drevlian cố gắng để tách ra, nhưng đã chinh phục một lần nữa bởi Igor. Năm 914, Igor ký kết một hiệp ước hòa bình với người Pechenegs, một bộ tộc du mục đi qua Rus Kiev về phía Sông Danube để tấn công vào đế quốc Byzantine.

    Nhà nước Kievan mới rất thịnh vượng vì nó có một nguồn cung cấp dồi dào lông thú, sáp ong và mật ong xuất khẩu, và cũng vì nó kiểm soát ba tuyến đường thương mại chính của Đông Âu: tuyến đường thương mại Volga từ Biển Baltic đến Phương đông, tuyến đường thương mại Dnepr từ biển Baltic đến Biển Đen và tuyến đường thương mại từ người Khazar đến người Germanic.

    Không có tài liệu rõ ràng khi nào danh hiệu Đại công tước-Grand Duke lần đầu tiên được sử dụng đại chúng, nhưng tầm quan trọng của công quốc Kiev đã được công nhận sau cái chết của Sviatoslav I (Sviatoslav dũng cảm; cai trị từ năm 945-972) và cuộc chiến tranh giữa Vladimir Vĩ đại và Yaropolk I. Khu vực Kiev chi phôí nhà nước Kievan Rus trong hai thế kỷ tiếp theo. Đại Hoàng tử-Grand Prince của Kiev kiểm soát các vùng đất xung quanh thành phố, và người thân của ông ta chính thức cai trị các thành phố trực thuộc khác và cống nộp cho ông ta. Thời đỉnh cao của quyền lực nhà nước là vào thời điểm triều đại của Prince Vladimir (Vladimir Đại đế, r. 980-1015) và Prince Yaroslav (Yaroslav khôn ngoan; r. 1019-1054). Cả hai nhà cầm quyền tiếp tục mở rộng Kievan Rus một cách vững chắc mà bắt đầu từ thời đại của Oleg.

    Vladimir lên nắm quyền lực ở Kiev sau cái chết của cha ông-Sviatoslav I tại năm 972 và sau khi đánh bại Yaropolk- người anh cùng cha khác mẹ của ông trong năm 980. Khi là Hoàng tử của Kiev, thành tích đáng chú ý nhất là của Vladimir là Kitô giáo hóa Kievan Rus , một quá trình bắt đầu vào năm 988. Cuốn biên niên sử nói rằng khi Vladimir quyết định chấp nhận đức tin mới thay vì tôn thờ tượng thần truyền thống (tà giáo) của người Slav, ông đã gửi ra một số cố vấn uyên bác nhất và những chiến binh giỏi nhất của ông như là sứ giả đến các phần khác nhau của châu Âu. Các sứ giả đến thăm các tín hữu của nhà thờ Latin, người Do Thái và Hồi giáo, cuối cùng họ cũng đã đến Constantinople. Họ bác bỏ Hồi giáo bởi vì, ngoài những thứ khác nó cấm uống rượu và Do Thái giáo, vì thần của người Do Thái đã phép người mình chọn để tước đoạt đất nước của họ. Họ phát hiện các nghi lễ tại nhà thờ La Mã là ngu si và đần độn. Tuy nhiên, tại Constantinople, họ đã quá kinh ngạc bởi vẻ đẹp của nhà thờ Hagia Sophia ( nhà thờ cụ bà Sophia ) và sự phụng sự được tổ chức ở đó đã ảnh hưởng lên tâm trí của họ và sau đó họ muốn theo đức tin này. Sau khi về đến nhà, họ thuyết phục Vladimir rằng đức tin của Byzantine là sự lựa chọn tốt nhất, rồi Vladimir đã thực hiện một chuyến hành trình đến Constantinople và bố trí để kết hôn với Công chúa Anna, em gái của hoàng đế Byzantine, Basil II.

    Việc Vladimir lựa chọn Kitô giáo phương Đông cũng có thể phản ánh quan hệ cá nhân gần gũi của ông với Constantinople, lúc trong đang thống trị vùng Biển Đen và tầm quan trọng của nó trên tuyến đường thương mại quan trọng nhất của Kiev – truyến đường sông Dnepr. Tuân thủ Giáo Hội phương Đông là tầm nhìn xa có hiệu quả về các mặt chính trị, văn hóa và tôn giáo. Nhà thờ phương Đông có các nghi thức tế lễ được viết bằng chữ Cyrillic, được sao lục từ các bản dịch tiếng Hy Lạp đã được xuất bản cho Người Slav. Sự tồn tại của các ấn phẩm này đã tạo điều kiện cho việc chuyển đổi sang Thiên Chúa giáo của người Đông Slav và cho họ làm quen với Triết học Hy Lạp cơ bản, các môn khoa học và biên soạn lịch sử mà không cần thiết phải đến học tập tận Byzantine. Ngược lại, nền giáo dục của nhân dân trong thời trung cổ ở Tây Âu và Trung Âu thì lại ảnh hưởng từ văn hóa Latin. Họ muốn độc lập và thoát khỏi văn minh La Mã và tự do học tập các nguyên lý của Latin, người Đông Slav phát triển văn học và nghệ thuật của mình, khá khác biệt với những người dân ở quốc gia Chính thống giáo phương Đông khác. Sau Sự ly khai lớn năm 1054 ( Giáo hội phương Tây ly khai khỏi chính thống giáo ), nhà thờ Nga vẫn duy trì sự hiệp thông với cả Rome và Constantinople trong một thời gian, nhưng cũng như hầu hết các nhà thờ phương Đông cuối cùng đã tách để đi với Chính thống giáo phương Đông.

    Triều đại của Yaroslav

    Yaroslav, được gọi là “khôn ngoan”, cũng phải tham gia cuộc tranh giành quyền lực với anh em của mình. Mặc dù ông lên cầm quyền ở Kiev vào năm 1019, ông đã không đưa ra các thể chế luật pháp vào tất cả các vùng của Kievan Rus cho đến 1036 cùng với Mstislav Vladimirovich ( cũng là hoàng tử và cai trị một phần Kievan Rus ) từ năm 1024. Giống như Vladimir, Yaroslav mong muốn cải thiện quan hệ của Kiev với phần còn lại của châu Âu, đặc biệt là Đế chế Byzantine. Cháu gái của Yaroslav, Eupraxia, con gái của con trai ông ta-Vsevolod I, Hoàng tử của Kiev, đã kết hôn với Henry III-Hoàng đế La Mã Thần thánh. Yaroslav cũng sắp xếp cuộc hôn nhân của em gái và ba người con gái cho các vị vua của Ba Lan, Pháp, Hungary và Na Uy. Yaroslav cũng là người đã ban hành đạo luật Đông Slav đầu tiên, Russkaya Pravda; cho xây dựng các tòa thánh Sophia ở Kiev và ở Novgorod; bảo trợ các giáo sĩ địa phương và tu viện, và ông được cho là đã có công thành lập một hệ thống trường học. Con trai của Yaroslav đã phát triển Kiev Pechersk uLavra (tu viện), chức năng của nó trong Kievan Rus như là một trường học của giáo hội.

    Trong những thế kỷ tạo nền tảng quốc gia tiếp theo, các hậu duệ của Rurik chia sẻ quyền lực trong việc cai trị Kievan Rus. Quyền thừa kế được chuyển từ người anh đến các em trai và từ người chú cho người cháu trai, cũng như từ người cha cho con trai. các thành viên trẻ tuổi của hoàng gia thường bắt đầu sự nghiệp chính thức của họ như là người cai trị của một huyện nhỏ, tiến đến là một tỉnh có nhiều sinh lợi và sau đó đấu đá với nhau về ngôi thèm muốn ở Kiev. Trong thế kỷ 11 và thế kỷ 12, các hoàng tử và các tùy tùng của họ là một tập hợp của các quý tộc Slavic và Scandinavia thống trị xã hội Kievan Rus. Các dũng sĩ hàng đầu và các quan lại nhận được thu nhập và đất của các hoàng tử và cung cấp cho họ sự phục vụ về chính trị và quân sự. Xã hội Kievan thiếu hệ thống các thành phố tự trị rất tiêu biểu trong chế độ phong kiến Tây Âu ( ví dụ như TP La Rosen của Pháp chẳng hạn). Tuy nhiên, các thương gia ở đô thị, nghệ nhân và người lao động đôi khi cũng có ảnh hưởng vào nền chính trị thông qua một hội đồng thành phố - veche , trong đó bao gồm tất cả các đàn ông đã trưởng thành trong thành phố. Trong một số trường hợp, các veche hoặc tiến hành đàn phán với các nhà cai trị hoặc trục xuất họ và mời những người khác để thay thế. Ở dưới cùng của xã hội là một tầng nô lệ. Ở cấp cao hơn là một tầng lớp nông dân phải cống nộp, những người lao động còn nợ tiền thuế của các hoàng tử. Tầng lớp nông nô ( Serfdom ) rất đặc trưng ở Tây Âu thời kỳ này thì lại không tồn tại trong Kievan Rus ( nhưng ở nước Nga sau này thì có ).

    Sự nổi lên của các khu vực trung tâm

    Rus Kiev đã không thể duy trì vị trí của nó như là một nhà nước mạnh mẽ và thịnh vượng, một phần vì sự hợp nhất của những vùng đất khác nhau dưới sự kiểm soát của một gia tộc cầm quyền. Vì các thành viên của gia tộc ngày càng trở thành nhiều hơn, họ xác định là gắn quyền lợi của bản thân với quyền lợi của khu vực ( mà họ cai trị ) hơn là với quyền lợi của Công quốc. Do đó, các hoàng tử đã gây chiến với nhau và thường xuyên tạo liên minh với người nước ngoài như Cumans, Ba Lan và Hungary. Trong những năm 1054-1224 không ít hơn 64 công quốc đã được dựng lên rồi lại sụp đổ, có đến 293 hoàng tử đưa ra đòi hỏi về thừa kế ngôi vị và tranh chấp của họ đã dẫn đến 83 cuộc nội chiến. Cuộc tranh giành quyền lực nổi bật nhất là cuộc xung đột nổ ra sau cái chết của Yaroslav Thông thái. Công quốc Polotsk đã tranh giành quyền lực của Đại Hoàng tử bằng cách chiếm Novgorod, trong khi Rostislav Vladimirovich đang bận chiến đấu để chiếm cảng Tmutarakan thuộc Chernigov ở Biển Đen. Ba trong số các con trai của Yaroslav đầu tiên liên minh là với nhau sau đó lại quay ra đánh lẫn nhau đặc biệt là sau thất bại của họ trước người Cuman tại Trận sông Alta năm 1068. Đồng thời một cuộc nổi dậy nổ ra tại Kiev, mang lại quyền lực cho Vseslav của Công quốc Polotsk – người ủng hộ dị giáo truyền thống Slavic. Đại Hoàng tử Iziaslav phải trốn sang Ba Lan để yêu cầu hỗ trợ và trong vài năm sau đã quay trở lại để thiết lập trật tự. Vấn đề trở nên phức tạp hơn vào cuối thế kỷ 11 và đưa Công quốc vào hỗn loạn và chiến tranh liên tục xảy ra. Theo sáng kiến của Vladimir Monomakh II trong năm 1097 Hội đồng liên bang đầu tiên của Kievan Rus được họp ở thành phố Liubech gần Chernigov với mục đích chính để các bên tham chiến thương thảo với nhau. Tuy nhiên ngay cả việc này cũng đã không thực sự làm ngừng cuộc chiến mà chỉ tạo một khoảng thời gian cần thiết để nghỉ ngơi mà thôi.

    [​IMG]
    Bản đồ Đại công quốc Kievan Rus ở thế kỷ 10 -> 11 và các khu vực trung tâm

    Các cuộc Thập tự chinh cũng đem lại một sự thay đổi trong các tuyến đường thương mại của châu Âu và làm tăng tốc sự đi xuống của Kievan Rus. Năm 1204 binh lính của Thập tự chinh lần thứ tư đã cướp phá Constantinople, làm tuyến đường thương mại qua sông Dnepr trở nên khó khăn. Đồng thời các hiệp sỹ Teutonic Knight của cuộc Thập tự chinh phía Bắc đã chinh phục được khu vực Baltic và đe dọa Vùng đất của Novgorod. Cùng với việc Liên minh Ruthenia của Kievan Rus bắt đầu tan rã thành các Công quốc nhỏ hơn vì thành viên Hoàng tộc của Triều đại Rurik ngày càng nhiều lên. Nhà thờ Cơ đốc giáo chính thống của Kievan Rus, trong khi phải đấu tranh với người dị giáo để tồn tại và mất căn cứ chính vì Constantinopol đang trên bờ sụp đổ. Một số trong những khu vực trung tâm chính sau này đã phát triển thành Novgorod, Chernihiv, Halych, Kiev, Ryazan, Vladimir của Klyazma, Vladimir của Volyn, Polotsk và những vùng khác.

    Cộng hòa Novgorod

    Ở phía bắc, Cộng hòa Novgorod rất thịnh vượng vì nó kiểm soát tuyến đường thương mại từ Sông Volga đến Biển Baltic. Khi Kievan Rus bị xuống dốc, Novgorod lại trở nên độc lập hơn. Một chính thể địa phương cai quản Novgorod; các quyết định lớn của chính phủ được biểu quyết bởi một hội đồng thành phố, một hoàng tử cũng được bầu như là lãnh đạo quân sự của thành phố. Trong thế kỷ 12, Novgorod mua lại cho chính mình chức Tổng-giám-mục, Một dấu hiệu cho thấy nó trở lên quan trọng hơn và ngày càng độc lập về chính trị.
    ( Cộng hòa Novgorod sẽ được đề cập kỹ hơn ở phần các chiến dịch của Hoàng tử Alexander Nevsky)

    Phía Đông Bắc, công quốc Vladimir-Suzdal

    Ở phía đông bắc, người Slav liên tục mở rộng lãnh thổ mà cuối cùng vùng này đã trở thành Đại công quốc Moskva bởi việc chinh phục và sáp nhập với các bộ lạc Finnic ở đây từ trước đó. Thành phố Rostov là trung tâm lâu đời nhất của phía đông bắc, sau đó được thay thế đầu tiên là Suzdal và sau đó là bởi thành phố Vladimir, mà sau này nó trở thành thủ đô của công quốc Vladimir-Suzdal. Một làn sóng di cư lớn từ khu vực phía bắc Kiev đã được ghi lại, để tránh những cuộc đột kích của người du mục Turk ( Thổ ) từ ” Thảo nguyên hoang dã”. Vì vậy các vùng đất phía Nam đã bị bỏ hoang và ngày càng nhiều các boyar, quý tộc, nghệ nhân … đã đến vùng đất của công quốc Vladimir, công quốc Vladimir-Suzdal ngày càng khẳng định mình như là một thế lực lớn trong Kievan Rus. Năm 1169 Hoàng tử Andrey Bogolyubskiy của công quốc Vladimir-Suzdal giáng một đòn nặng vào sức mạnh của Kievan Rus khi quân đội của ông ta chiếm lấy thành phố Kiev. Hoàng tử Andrey sau đó đưa em trai của ông lên làm người cai trị Kiev trong một thời gian ngắn, trong khi Andrey tiếp tục trị vì vương quốc của mình ở Suzdal. Như vậy, quyền lực chính trị bắt đầu tuột khỏi Kiev từ nửa sau của thế kỷ 12. Năm 1299 cũng vì các đợt xâm lược của quân Mông Cổ, vùng thủ phủ đã được chuyển từ Kiev tới thành phố Vladimir và Vladimir-Suzdal đã thay thế Kiev chở thành một trung tâm tôn giáo của các vùng phía Bắc.

    Phía Tây nam, công quốc Galicia-Volhynia

    Về phía tây nam, công quốc Halych/ Galicia-Volhynia đã phát triển quan hệ thương mại với các hàng xóm như Ba Lan, Hungary và Lithuania và nổi lên như là sự kế thừa của Kievan Rus. Ở đầu thế kỷ 13, Hoàng tử Roman Mstislavich chinh phục Kiev, thống nhất hai vương quốc riêng biệt trước đó và đảm nhiệm chức vụ Đại công tước Kievan Rus. Con trai ông, Hoàng tử Daniil (R. 1238-1264) là vị vua đầu tiên của Kievan Rus nhận một vương miện từ Giáo-hoàng La Mã mà không phá vỡ mối quan hệ với Constantinople. Tuy nhiên, sau một cuộc chiến tranh kéo dài và không thành công chống lại quân Mông Cổ kết hợp với lục đục nội bộ trong số các hoàng tử và sự can thiệp của nước ngoài đã làm suy yếu công quốc Galicia-Volhynia. Với sự kết thúc của dòng họ Mstislavich-chi nhánh của Rurik ở giữa thế kỷ 14, công quốc Galicia-Volhynia không còn tồn tại; Ba Lan chinh phục vùng Galich; Gediminas-Đại công tước Lithuania chiếm Volhynia, bao gồm cả Kiev trong năm 1321, kết thúc sự cai trị của triều đại Rurik trong thành phố. Nhà cầm quyền Lithuania sau đó đảm nhiệm cai trị luôn cả vùng Ruthenia.

    Lý do của sự xuống dốc và sụp đổ

    Một sự kết hợp của một loạt các sự kiện đã dẫn đến sự suy sụp của Kievan Rus. Sự nổi lên của các trung tâm khu vực đóng một vai trò rất lớn. Hệ thống thừa kế độc đáo, quyền lực được chuyển giao không phải từ cha sang con trai, mà đến các thành viên lớn tuổi nhất của triều đại cầm quyền, tức là trong nhiều trường hợp cho người anh trai cả của người cai trị, dẫn đến nuôi hận thù liên tục và sự cạnh tranh trong gia đình hoàng gia. Giết người để đoạt ngai vị là một cách khá phổ biến để có được quyền lực.

    Sự xuống dốc của Constantinople – một đối tác thương mại chính của Kievan Rus, đóng một vai trò to lớn. Các tuyến đường thương mại từ người Varangians đến người Hy Lạp, theo con đường này hàng hoá được chuyển từ Biển Đen (Chủ yếu là từ Byzantine) Thông qua Đông Âu đến Baltic, là nền tảng cho sự giàu có và thịnh vượng cho Kiev. Kiev là quyền lực chính và khởi xướng trong mối quan hệ này, một khi Đế quốc Byzantine rơi vào tình trạng hỗn loạn và trở thành nguồn cung cấp thất thường, lợi nhuận bị cạn kiệt và Kiev mất đi sự hấp dẫn của nó. Các tuyến đường khác đi qua Kiev lại không phải là tuyến đường chính. Một tuyến đường chính khác, tuyến đường Thương mại Volga nằm xa về phía đông và phía bắc của Kiev và sau này đóng góp vào sự phát triển của Đại công quốc Moscow.

    [​IMG]
    Tuyến đường thương mại từ Byzantine qua Kiev tới Bắc Âu- màu xanh

    Cuộc chiến Rus’-Byzantine 860

    Cuộc chiến Rus-Byzantine năm 860 là chiến dịch quân sự lớn duy nhất của quân viễn chinh Rus ‘Khaganate được ghi chép lại trong các nguồn tài liệu của Byzantine và Tây Âu nguồn. Các tài liệu khác nhau liên quan đến các sự kiện diễn ra và có sự khác biệt với các nguồn tài liệu hiện đại và hoặc sau đó,còn kết quả chính xác là như thế nào thì chưa biết. Theo tài liệu của Byzantine thì người Rus định chiếm Constantinople một cách bất ngờ, khi đế quốc đang sa lầy vào các cuộc chiến liên tục Byzantine-Arab và không thể đối phó với mối đe dọa từ người Rus. Sau khi cướp bóc các vùng ngoại ô của thủ đô Byzantine, người Rus rút lui, mặc dù bản chất của việc rút quân này và thực sự thì bên nào chiến thắng cuộc chiến này đang là chủ đề tranh cãi. Sự kiện sau đó này đã dẫn đến một truyền thuyết của Chính Thống giáo, đó là gán sự giải thoát của thành phố Constantinople cho một sự can thiệp kỳ diệu của Theotokos ( Đức mẹ Maria ).

    Cuộc chiến Rus-Byzantine năm 907

    Cuộc chiến Rus-Byzantinenăm 907 được đề cập trong cuốn Biên niên sử-Primary Chronicle với cái tên Oleg của Novgorod. Quấn biên niên sử này ngụ ý rằng đó là hoạt động quân sự thành công nhất của người Rus để chống lại Đế quốc Byzantine. Ngược lại, rất đáng buồn là các nguồn tài liệu Byzantine-Hy Lạp đã không đề cập gì đến nó cả.
    Theo quấn biên niên

    Cuốn biên niên mô tả cuộc đột kích năm 907 chi tiết một cách đáng kể. Ký ức về chiến dịch này dường như đã được truyền miệng trong nhiều thế hệ người Rus. Như vậy thì có thể các ghi chép sẽ phong phú về các sự kiện mang màu sắc về văn hóa dân gian hơn là ý nghĩa lịch sử.

    Theo cuốn sách này thì các phái viên Byzantine đã cố gắng đầu độc chúa Oleg trước khi ông này có thể đến gần thành phố Constantinople. Vị thủ lãnh người Rus nổi tiếng về khả năng tiên tri của mình, đã từ chối không uống chén rược có thuốc độc. Khi lực lượng hải quân của ông đã tiến vào trong tầm nhìn của Constantinople, ông đã tìm thấy các cửa chính cửa thành phố bị đóng chặt và lối vào vịnh Bosporus bị chặn bởi dây xích sắt.

    Tại thời điểm này, viện binh của Oleg đã đến nơi: ông cho tiến hành một cuộc đổ bộ lên bờ của khoảng 2.000 chiếc thuyền monoxylae ( tựa như thuyền canoeing ngày nay) được lắp các bánh xe. Sau khi các con thuyền của ông cập bến, chúng được chuyển đổi để di chuyển bằng bánh xe ( có thể là các con thuyền của người Rus được lắp các bánh xe bằng gỗ và khi lên bờ họ biến con thuyền thành những chiếc xe – điều này chỉ mang tính truyền thuyết ), ông đã chỉ huy họ đến trước bức tường của Tsargrad và dựng các tấm lá chắn của họ trước các cánh cổng của thủ đô đế quốc.

    Sự đe dọa tới thành phố Constantinople lúc này được gỡ bỏ bởi các cuộc đàm phán hòa bình mà thành quả là Hiệp ước Nga-Byzantine năm 907. Căn cứ vào hiệp ước, người Byzantine trả một khoản cống mười hai grivnas cho mỗi chiếc thuyền cuả người Rus.

    Chiến dịch của chúa Oleg không phải là điều tưởng tượng mà là rõ ràng từ các văn bản xác thực của hiệp ước hòa bình, đã được ghi chép lại trong quấn biên niên sử. Các học giả ở thời hiện tại có xu hướng giải thích sự im lặng của các nguồn Hy Lạp đối với chiến dịch của Oleg của niên đại chính xác của Chronicle Chính. Một số giả định cho rằng cuộc tấn công thực sự diễn ra vào năm 904, khi người Byzantine đang có chiến tranh với Leo xứ Tripoli. Một giả thuyết hợp lý hơn được đưa ra bởi Boris Rybakov và Lev Gumilev: Các tài liệu đề cập đến chiến dịch Rus-Byzantine năm 860 trong thực tế đã được mô tả nhầm trong nguồn của người Slavonic như là một thất bại của Kievan.

    Mặc dù thường xuyên có sự xung đột về quân sự, quan hệ giữa Rus và Byzantine dường như chủ yếu lại là hòa bình. Người Rus đầu tiên được Kitô hóa trong năm 860 theo ghi chép của Giáo trưởng Photius. Trong một bức thư của ông, Giáo trưởng Nicholas Mysticus nói về mối đe dọa rằng là người Rus sẽ tiến hành một cuộc xâm lược vào Bulgaria. Các sử gia suy ra từ tài liệu của mình rằng Byzantine đã có thể kiểm soát được người Rus trong thời gian trị vì của chúa Oleg cho kết thúc triều đại của ông.

    Hơn nữa, có một đội ngũ đáng kể người Rus tham gia vào đội ngũ của đế chế và đã tham gia vào các cuộc viễn chinh của hải quân Byzantine trong suốt thế kỷ thứ 10. Một hải đội lính đánh thuê gồm 700 lính Rus tham gia chinh phạt đảo Crete năm 902. Một đơn vị gồm 415 lính người Rus khác gia nhập đội vệ binh Varangian.

    http://nghiencuulichsu.com/2012/12/11/lich-su-buoi-dau-nuoc-nga/

    II. Lịch sử cận đại Ukraine

    Thế giới chiến tranh lần thứ II chấm dứt ngày 8/5/1945 sau 2,076 ngày mịt mù khói lửa. Trong khi Liên Sô tổ chức những buổi lễ mừng chiến thắng trong cuộc chiến mà họ gọi là “Cuộc Chiến Tranh Vệ Quốc Vĩ Ðại” hết sức tưng bừng và náo nhiệt vào ngày 9/5/1945, thì ngay bên cạnh họ, những người Ukraine lại không vui mừng chút nào về chiến thắng này. Ukraine là nạn nhân bi đát nhất trong thế giới chiến tranh lần thứ hai tại Âu Châu. Họ chịu nhiều thống khổ vì số người chết và thiệt hại vật chất lớn lao sau hai cuộc triệt thoái “đồng không nhà trống” của cộng sản và quốc xã. Nhà báo Mỹ Edgar Snow, đã kinh ngạc trước nổi thống khổ và sự tàn phá kinh hoàng do chiến tranh mang lại. Ông đã viết trên tờ Saturday Evening Post bài báo “Ukraine Pays The Bill” – Ðồng Minh thắng trận nhưng người Ukraine phải trả giá.

    Trước thế chiến thứ nhất

    Trên vùng đất Ukraine ngày nay và một phần rộng lớn của nước Nga, vào thế kỷ thứ 9 sử sách đã ghi lại sự tồn tại của vương quốc Kyivan-Rus với thủ đô là Kiev. Năm 988, Ðại Ðế Volodymyr đã ra sắc lệnh công nhận Kitô Giáo là quốc giáo của vương quốc Kyivan-Rus.

    Kiev được coi là thành phố Mẹ của tất cả các thành phố của Nga trong thế kỷ 11 và thế kỷ 12. Vào thế kỷ 12, người Nga dần tách khỏi Ukraine và hình thành một quốc gia riêng. Ðến thế kỷ thứ 13, phần phía Ðông của vương quốc bị xâm lược bởi quân Mông Cổ và bị tàn phá rất nặng nề. Phần phía Tây của vương quốc, mà quan trọng nhất là khu vực Galicia – được hình thành vào thế kỷ thứ 12, may mắn không bị tàn phá. Tuy nhiên, trong thế kỷ 14, Ukraine suy yếu đi rất nhiều. Do đó, phần phía Tây Ukraine bị Ba Lan xâm chiếm và sáp nhập vào Ba Lan.

    Thấy Ba Lan xâm chiếm Ukraine dễ dàng, các nước khác cũng nhào vào xâu xé Ukraine. Lithuanie xâm chiếm miền Volhynia và Nga xâm chiếm nhiều vùng phía Bắc và phía Ðông của Ukraine. Người Lithuanie, sau đó, lại bị Ba Lan đánh bại và sáp nhập vào Ba Lan. Năm 1667, phần phía Ðông của sông Dnepr bị cắt nhường cho Nga và đến năm 1793 thì toàn bộ Ukraine (trừ ra miền Galicia thuộc về Ðế Quốc Áo từ năm 1772) bị sáp nhập vào Ðế Quốc Nga.

    Trong thế kỷ thứ 19, một số cuộc chiến khác lại xảy ra để chia lại Ukraine. Ðến trước cuộc thế chiến thứ nhất, Ukraine bị chia làm 3 phần: Miền Galicia và Bukovyna thuộc Ðế Quốc Áo, miền Carpatho-Ukraine thuộc về Hung và các miền còn lại thuộc Nga. Trong các miền thuộc Áo Hung, người Ukraine được giữ bản sắc, phong tục, tập quán của riêng mình. Các phong trào quốc gia đòi độc lập hoạt động rất sôi nổi. Còn trong các phần thuộc Nga, người Nga luôn cố gắng đồng hóa người Ukraine để duy trì sự chiếm đóng lâu dài.

    Trong cuộc thế chiến thứ nhất

    Khi cuộc thế chiến thứ nhất nổ ra, người Ukraine lãnh đủ trước hết. Trong các miền thuộc Nga, quân Nga bắt rất nhiều người Ukraine để diệt trừ mối lo người Ukraine nổi dậy dành độc lập. Những người bị bắt lớp bị hành quyết, lớp bị đầy sang Siberia. Trong khi đó, quân Áo đang thua trận cũng xử tử hàng loạt người Ukraine vì nghi họ có cảm tình và giúp đỡ người Nga. Khi quân Nga chiếm được miền Tây Ukraine vào tháng 9/1914, họ lập tức bắt đầu ngay một cuộc lùng bắt quy mô tất cả những nhân vật có ảnh hưởng trong dân chúng: chính trị gia, luật sư, nhà văn, giáo viên và tất cả những ai bị nghi ngờ dính líu vào các tổ chức quốc gia Ukraine đều bị bắt và bị lưu đày sang Siberia.

    Tháng 1/1915, quân Áo phản công và đánh bật quân Nga khỏi miền Tây Ukraine. Ðể mua chuộc lòng dân, người Áo cho người Ukraine được hưởng nhiều quyền lợi hơn trước. Tuy nhiên, các phong trào du kích Ukraine vẫn hoạt động mạnh vì họ muốn hoàn toàn độc lập.

    Tại Nga, tháng 3 năm 1917, chính phủ lâm thời của Alexander Kerensky được thành lập. Chính phủ này đưa ra nhiều cải cách dân chủ và cởi bỏ một số hạn chế cho người Ukraine. Các tù nhân Ukraine lưu đầy tại Siberia được trở về nguyên quán. Tháng 4/1917, người Ukraine được hưởng quy chế tự trị thông qua ủy ban lãnh đạo trung ương Roda.

    Chẳng may, ngày 7/11/1917, chính quyền lâm thời bị lật đổ bởi những người cộng sản Nga. Ngày 20/11/1917, ủy ban lãnh đạo trung ương Roda tuyên bố không công nhận chính quyền cộng sản Nga và tuyên bố thành lập quốc gia Ukraine cộng hòa. Tuy nhiên, những người cộng sản Ukraine đã hợp tác với cộng sản Nga tiến quân đánh Kiev. Ngày 22/1/1918, chính phủ Roda tuyên bố Ukraine hoàn toàn độc lập khỏi Nga nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài được vài ngày thì Kiev thất thủ trước sức tấn công của hồng quân Nga và Ukraine.

    Tháng 3/1918, chính phủ Roda được sự giúp đỡ của quân Ðức Áo phản công chiếm lại được Kiev. Chỉ hơn một thánh sau, ngày 29/4/1918, chính phủ dân chủ non trẻ Roda lại bị tướng Pavlo Skoropadskyi lật đổ trong một cuộc chính biến được người Ðức ủng hộ. Tháng 11, tướng Pavlo Skoropadskyi lại bị áp lực tuyên bố từ chức và quyền hành rơi vào tay Volodymyr Vynnychenko.

    Ở phần phía Tây, tháng 10/1918, các nhà chính trị theo xu hướng quốc gia cũng tuyên bố thành lập Nước Cộng Hòa Tây Ukraine gồm miền Ðông Galicia, phía Tây Wolhynia và phía Bắc Bukovyna. Ngày 1/11/1918, quân Tây Ukraine tấn công Lviv gây ra chiến tranh với Ba Lan vì Ba Lan vẫn coi miền Tây Galicia là thuộc Ba Lan. Ngày 21/11/1918, quân Ba Lan chiếm lại được Lviv, trong khi đó Rumani cũng nhào vào chiếm vùng Bukovyna phía Nam. Trước tình thế đó, để gây sức mạnh đoàn kết toàn dân, ngày 22/1/1919, chính phủ Tây Ukraine do Evhen Petrushevych lãnh đạo tại Stanyslaviv và chính phủ Ðông Ukraine của Volodymyr Vynnychenko tuyên bố hợp nhất hai phần. Tuy nhiên, việc hợp nhất chưa thành công thì Ba Lan đã tấn công và chiếm trọn miền Galicia vào tháng 7/1919.

    Ở phần phía Ðông, đầu tháng 2/1919, Symeon Petlura trở thành chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương, kiêm tham mưu trưởng quân đội. Ông phải bảo vệ nước Cộng Hoà Ukraine non trẻ khỏi đủ loại kẻ thù từ cộng sản Ukraine, Hoàng Gia Nga đến các sư đoàn Bạch Nga được Anh, Pháp và Hoa Kỳ yểm trợ. Cuối tháng 2/1919, Kiev lại rơi vào tay hồng quân Nga và cộng sản Ukraine. Ngày 31/8/1919, quân Bạch Nga của tướng Denkin lại tái chiếm Kiev và giữ được cho đến ngày 16/12 thì bị hồng quân Nga đánh bật ra. Petlura chạy sang Ba Lan cầu cứu và ký hiệp định thư với Ba Lan không đòi lại đất miền Galicia và Wolhynia để đổi lấy trợ giúp quân sự của Ba Lan.

    Quân Ba Lan chiếm Kiev ngày 6/5/1920. Tuy nhiên, Nga tổng động viên và phản công đánh bật quân Ba Lan ra khỏi Kiev. Thừa thắng, quân Nga tấn công tràn vào Ba Lan đến tận ngoại ô thủ đô Warsaw. Ba Lan phải ký hiệp ước với Nga (hiệp ước Riga). Hậu quả, Ukraine bị chia thành 4 miền: Bukovyna dành cho Rumani, Transcarpatia dành cho Tiệp, Ðông Galicia và Tây Volhynia dành cho Ba Lan, phần còn lại dành tất cả cho Nga. Trong vùng chiếm đóng của Nga, cộng sản Nga dựng lên nước Ukraine Sô Viết và trao cho đảng cộng sản Ukraine – gọi tắt là CPU – lãnh đạo để thưởng công cho họ.

    Bắt đầu sáng mắt ra

    Ban đầu cộng sản Nga dành cho CPU nhiều quyền hành và có vẻ như họ đang điều hành chính quyền của một quốc gia độc lập. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau, năm 1921, quyền hành của CPU thu hẹp trong phạm vi đối nội mà thôi: Tất cả các vấn đề đối ngoại đều do Mạc Tư Khoa quyết định. Nham hiểm hơn, CPU bị biến dần thành một xứ bộ trong đảng cộng sản Nga. Tất cả đảng viên đảng cộng sản Ukraine cũng đồng thời là đảng viên đảng cộng sản Nga và phải thi hành những mệnh lệnh do Mạc Tư Khoa ban xuống. Nhiều đảng viên cộng sản nhưng có đầu óc quốc gia như Mykola Skrypnyk bị “đình chỉ công tác”, “kiểm thảo”, “hạ tầng công tác”,”cho đi mò tôm” hoặc đưa đi đầy sang Siberia.

    Trong con mắt người Nga, người Ukraine là những người ngây thơ dễ bị lừa. Lênin thường phong tặng cho các cá nhân trong CPU những danh hiệu “anh hùng” và đặt vào tay họ nhiều chính sách mà cộng sản Nga muốn thăm dò thực nghiệm trên đất Ukraine trước khi áp dụng đại trà ở Nga.

    Thí nghiệm thứ nhất xảy ra cuối năm 1920: Trong một sớm, một chiều tất cả xí nghiệp tại Ukraine bị quốc hữu hóa và tất cả sản phẩm nông nghiệp đều bị thu mua với giá ăn cướp của dân. Chỉ với hai chính sách này thôi đã gây ra nạn đói 1921-1922 cướp đi hơn một triệu sinh mạng dân Ukraine. Nga lại lật đật sửa sai bằng cách trả lại cho tư nhân các xí nghiệp và cho nông dân buôn bán sản phẩm do họ làm ra.

    Ngày 30/12/1922, Liên Bang Sô Viết ra đời bao gồm Nga, Ukraine, Belarus, Georgia, Armenia, Azerbaidzhan. Các nước khác dần dần được sáp nhập vào sau đó. Trong thời kỳ đầu của Liên Bang Sô Viết, để người dân không bị “sốc” và để đánh lừa những người theo chủ nghĩa quốc gia, Nga đã để cho các nước tương đối dễ thở về vấn đề văn hóa. Trong giai đoạn này, đâu đâu cũng nghe nói “Ukraine hóa” như Ukraine hóa giáo dục, Ukraine hóa kiến trúc, văn hóa… và cả Giáo Hội Chính Thống Giáo Tự Trị (khỏi Mạc Tư Khoa) cũng được thành lập.

    Tuy nhiên, “ngày vui ngắn chẳng đầy gang”, năm 1925, Nga cử Lazar Kaganovich làm bí thư CPU để uốn dân Ukraine quay trở lại con đường đồng hóa với Nga. Bộ trưởng giáo dục Oleksander Shumskyi, “tên theo chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi – mất lập trường quốc tế vô sản” bị cho đi học tập cải tạo mút mùa ở Siberia. Khwylovyi, nhân vật số 2 trong guồng máy lãnh đạo đảng, văn hào, tác giả cuốn “Away from Moscow – Thoát khỏi Mạc Tư Khoa” bị “nghiêm khắc cảnh cáo”.

    Năm 1928, Stalin lên nắm quyền. Kaganovich bị gọi về Mạc Tư Khoa và Stanislav Kosior được cử làm tổng bí thư CPU. Stalin lại thí nghiệm chính sách kinh tế ngũ niên tại Ukraine với việc đấu tố “kuklaks” (địa chủ), trí thức và các nhà tu hành, đặc biệt những giáo sĩ tham gia Giáo Hội Chính Thống Giáo Ukraine tự trị. Hàng triệu gia đình bị giết hoặc đày đi Siberia. Văn hào cộng sản Khwylovyi từng một thời ca tụng chế độ, sáng mắt ra, uống thuốc độc tự tử chết. Nông thôn trở thành nơi tang tóc với hàng loạt những vụ xử tử những kuklaks. Trong bối cảnh đó, lòng dân không yên tâm sản xuất cộng với hàng loạt những chỉ thị ngu xuẩn và vô lý đã dẫn đến mất mùa ở một số nơi. Tuy nhiên nạn đói 1932-1933 cướp đi sinh mạng 7 triệu người Ukraine không phải do thiếu lương thực nhưng chính vì cộng sản đã thu gom tất cả nông sản và chứa vào những kho lớn do quân đội canh gác. Dân chúng bị bỏ cho chết đói như một phần của cuộc thanh trừng và diệt chủng kinh hoàng nhất trong lịch sử nhân loại. Sau nạn đói, Stalin lập tức lùa dân Nga sang để tái phối trí lại dân số trên các ruộng vườn hoang tàn của Ukraine. Ðây cũng là một phần trong kế sách thống trị Ukraine về lâu về dài. Năm 1933, Mykola Skrypnyk, lãnh tụ tiền phong của cộng sản Ukraine, sáng mắt ra, tự tử chết.

    Sau cái chết của Mykola Skrypnyk, nhiều đảng viên cộng sản Ukraine bắt đầu bừng tỉnh và tỏ ý chống lại việc thí nghiệm các chính sách cộng sản trên đất Ukraine. Tuy nhiên, Stalin không để họ có thời cơ. Theo Vasyl Hryshko, trong cuộc thanh trừng từ 1936 đến 1938, 99 trong số 102 thành viên ủy ban trung ương đảng cộng sản Ukraine lần lượt bị hành quyết. Năm 1938, Nikita Krushchev với đa số đảng viên người Nga chính cống lên nắm quyền lãnh đạo CPU.

    Thế chiến thứ hai

    Ngày 23/8/1939, Hitler và Stalin thông qua đại diện là Ribbentrop và Molotov ký hiệp định bất tương xâm. Theo hiệp định này, Nga bảo đảm cho Hitler tấn công Ba Lan mà không gây ra chiến tranh với Nga. Trong thực tế, Stalin cũng nắm lấy cơ hội này để ký thảo hiệp mật với Ðức để cho Nga tấn công lãnh thổ Galicia và một phần phía Ðông Ba Lan. Ngược lại, Stalin ngầm tiếp viện khí tài chiến tranh cho Ðức. Stalin đã thực hiện đúng những cam kết tiếp viện cho Ðức mãi cho đến ngày bị Ðức tấn công.

    Ngày 1/9/1939, Ðức xâm lược Ba Lan và khởi đầu chiến tranh thế giới thứ hai. Từ ngày đầu tiên của chiến tranh, người Ukraine đã lãnh đủ vì nhiều người Ukraine bị động viên đi lính Ba Lan và bom đạn thi nhau rơi trên đầu người Ukraine và người Ba Lan. Stalin chụp lấy cơ hội tấn công và chiếm miền Bukovyna từ tay người Rumani và những phần lãnh thổ dưới quyền Ba Lan. Sau khi chiếm được những miền này, Stalin lập tức cải tạo miền này và “giải phóng” cho 750,000 người Ukraine đi mò tôm hay đi hóng gió ở Siberia (Vasyl Hryshko – During the Bolshevik rule in Western Ukraine – p 117). Tại Ba Lan, nay do Ðức chiếm đóng, Toàn quyền Ba Lan được thành lập và theo chính sách chia để trị, khoảng nửa triệu người Ukraine đang sống tại Ba Lan được dễ thở hơn người Ba Lan và được hoạt động chính trị trong tổ chức Những Người Ukraine Quốc Gia (OUN). Chẳng may, vào tháng 2/1940, tổ chức này bị những mâu thuẫn nội bộ nên chia thành 2 nhóm, một nhóm theo Adriy Melnyk và một nhóm theo Stepan Bandera.

    Ngày 22/6/1941 Hitler phát động chiến dịch Drang nach Osten (Ðông Tiến) bằng cuộc oanh kích dữ dội biên giới Ukraine và Belarus. Trong ngày đầu tiên, tất cả các thành phố lớn của Ukraine như Kiev, Lviv đều bị bỏ bom. Quân Ðức trong tập đoàn quân Wehrmacht, lên đến 3,000, 000 binh lính và sĩ quan tràn vào lãnh thổ Ukraine như thác lũ dưới sự chống đỡ yếu ớt của hồng quân Liên Sô. Các sĩ quan và binh lính Ðức rất ngạc nhiên vì đi đến đâu họ cũng được người dân Ukraine cầm hoa hay bánh mì và muối theo truyền thống hoan hô nhiệt liệt như những vị anh hùng giải phóng cho họ. Có lẽ họ đã quá đau khổ dưới ách thống trị của cộng sản nên sẵn sàng chào đón bất cứ ai không cần biết tốt xấu. Ðối với họ cộng sản là tột đỉnh của đau khổ rồi. Sự chán ghét chế độ cộng sản còn được minh chứng qua hành động đầu hàng tự nguyện của một tập đoàn quân đông đảo. Trong chiến sử thế giới có lẽ chưa bao giờ chứng kiến việc ra đầu hàng của một tập đoàn quân lên đến gần 665,000 quân tại mặt trận Kiev. Trong số 667,085 quân nhân trú đóng tại Kiev, chỉ có khoảng 2000 quân chạy theo hồng quân Liên Sô, số còn lại tự nguyện ở lại đầu hàng quân Ðức. Rủi thay, theo chính sách kỳ thị của quân Ðức, những binh sĩ Ukraine ra đầu hàng đã bị bỏ đói hoặc cố tình để cho chết vì sương gió trong các trại tù binh dưới cái lạnh của mùa Ðông 1941-1942. Lúc này, quân Ðức không thiếu quân nhu.

    Chính sách đồng hoang nhà trống của Stalin

    Theo sử gia Andrew Gregorovich P.6, Stalin quá hốt hoảng trước sức tấn công của quân Ðức đến nỗi trong 11 ngày đầu tiên của chiến tranh, y không nói một lời nào. Ngày 3/7/1941, trên đài truyền thanh Stalin mới lên án tình bạn của y với Hitler và Ribbentrop, đồng thời ra lệnh thực hiện chính sách đồng hoang nhà trống trên đường rút chạy. Sự thật của chính sách này là gì?

    6 triệu trâu bò được đưa lên tàu chở về Nga, 550 xí nghiệp lớn và hàng ngàn xí nghiệp nhỏ và trung bình bị rỡ máy móc và thiết bị đưa về Nga cùng với 300,000 xe máy cầy. 3.5 triệu chuyên viên các ngành bị di tản dưới họng súng của NKVD (KGB). Tất cả nhân viên và ban giảng huấn của các trường đại học tại Kiev và Khrakiv cũng bị cưỡng bách di tản sang Nga.

    Mặt khác, 5,000 toa xe lửa, 607 cầu xe lửa chạy qua được, 915 nhà kho bị phá hủy. Nghiêm trọng hơn là đập thủy điện lớn nhất châu Âu bấy giờ là đập Dniprohes, nơi cung cấp nguồn điện cho hàng ngàn mỏ, các xí nghiệp và thủ đô Kiev bị đánh xập không phát điện được nữa. Vương Cung Thánh Ðường Ðức Mẹ An Nghỉ ( Dormition Cathedral) được xây từ năm 1073 tại Kiev đã bị KGB đặt bom nhằm giết người Ðức. Trong nhiều năm, Mạc Tư Khoa luôn ráo riết đổ tội ác này cho Ðức. Sau khi cộng sản sụp đổ, người ta tìm được các bằng chứng cho thấy chính mật vụ Liên Sô đã đặt bom nổ chậm để tiêu diệt người Ðức.

    Trên đường tháo chạy, hồng quân Liên Sô phá hoại tất cả những gì có thể phá theo lệnh của Stalin. Tất cả trâu, bò gia súc không mang đi được đều bị bắn bỏ, nhiều cánh rừng bị đốt trụi và rất nhiều nhà cửa của dân cũng bị đốt cháy.

    Ảo tưởng về người Ðức

    Quá đau khổ với chế độ cộng sản, người Ukraine dễ có cảm tình với người Ðức và coi họ là những người đến để giải phóng mình. Họ ảo tưởng đến độ ngày 30/6/1941, Stepan Bandera làm ngạc nhiên người Ðức bằng cách trịnh trọng tuyên bố thành lập nước Ukraine Ðộc Lập với Yaroslav Stetsko làm thủ tướng. Chỉ một tuần sau, người Ðức giải tán chính phủ này và bắt tất cả các thành viên, trong đó có Bandera và Stetsko đưa sang Ðức giam giữ.

    Trong thâm tâm người Ðức, người Ukraine là dân hạ đẳng và chính sách của Ðức là biến “kho bánh mì của châu Âu” này thành ra kho bánh mì của Ðức. Chủ trương của Hitler là diệt chủng người Ukranine và đưa người Ðức sang lập nghiệp. Trong những tháng đầu, người Ðức thực hiện chính sách giết người Ukraine. Họ ra thông báo hễ cứ 1 lính Ðức chết thì lập tức đem ra xử bắn 100 người Ukraine vô tội. Tuy nhiên, càng gần về cuối, Hitler đổi chính sách thay vì giết, y đưa những người Ukraine sang Ðức lao động phục vụ cho chiến tranh. Khoảng 2.5 triệu người Ukraine đã bị bắt đưa sang Ðức lao động cho đến chết.

    Quân kháng chiến Ukraine

    Ðứng trước chính sách diệt chủng của người Ðức, quân kháng chiến Ukraine (Ukrainska Povstanska Armiya –gọi tắt là UPA) được thành lập. với quân số lên đến 200,000 người và được chỉ đạo bởi tổ chức Những Người Ukraine Quốc Gia (OUN) theo hệ phái Bandera. UPA phải chiến đấu với cả quân Ðức lẫn hồng quân Liên Sô. Cuộc chiến đấu của UPA dưới quyền tướng Roman Shukhevich kéo dài mãi đến năm 1950 khi ông này bị tử thương trong một trận đánh ác liệt với hồng quân Liên Sô. Một số tàn binh may mắn chạy thoát được đã xin định cư tại các nước phương Tây.

    Sư đoàn Galicia

    Mặc dù có đến 4.5 triệu binh lính và sĩ quan người Ukraine trong hồng quân Liên Sô, người Nga không tổ chức họ thành một đơn vị biệt lập mà luôn phân họ vào chung với các đơn vị Nga để dễ kiểm soát.

    Trong vùng Galicia, người Ðức để cho người Ukraine nhiều quyền hành hơn thông qua Ủy Ban Trung Ương Ukraine do giáo sư V. Kubijovych lãnh đạo. Tháng 4/1943, với ý đồ tuyên truyền, lôi kéo người Ukraine về phe mình, Hitler cho thành lập sư đoàn quân Galicia gồm toàn người Ukraine. Các thanh niên Ukraine được các tổ chức quốc gia Ukraine khuyến khích gia nhập đạo quân này không phải để đánh nhau và chết thay cho người Ðức nhưng vì họ mong muốn có những người được huấn luyện tinh nhuệ hầu sau này có thể bảo vệ nền độc lập của Ukraine. Éo le thay, người Ukraine đã phải trả một giá đắt về toan tính này.

    Sư đoàn Galicia sau thời gian huấn luyện đã có quân số lên đến 40,000 người. Từ ngày 13 đến 22/7/1944, họ được đưa vào mặt trận Brody đánh nhau với hồng quân Liên Sô để cầm chân quân Nga cho quân Ðức đang tìm đường tháo chạy. Họ bị vây tại đây và bị quân Nga tiêu diệt gần hết. 37,000 binh lính và sĩ quan Ukraine tử thương trong trận này, chỉ còn khoảng 3000 người thoát được vòng vây. Tuy nhiên, trước nguy cơ bị hồng quân Liên Sô thôn tính, người dân miền Tây Ukraine vẫn động viên con cái tham gia vào sư đoàn Galicia. Chỉ một tháng sau đó, đã có 20,000 tân binh tình nguyện gia nhập sư đoàn.

    Mặc dù vậy, trước sức tấn công mạnh mẽ và khí giới dồi dào của hồng quân, sư đoàn đã phải triệt thoái theo quân Ðức. Tháng 4/1945, sư đoàn được đổi tên là Sư Ðoàn 1 Ukraine và gia nhập vào Quân Ðội Ukraine Quốc Gia. Quân Ðội Ukraine Quốc Gia dưới quyền điều động của tướng Pavlo Shandruk đã khôn khéo tránh được đường tiến công của hồng quân Liên Sô và ra trình diện quân đội Ðồng Minh tại Áo. Họ được quân Ðồng Minh đưa về trú đóng tại Rimini, Ý.

    Sau khi chấm dứt chiến tranh, Liên Sô kiên quyết đòi buộc Ðồng Minh giao sư đoàn này cho họ. Tuy nhiên, các nước Ðồng Minh thừa biết số phận của những người này sẽ ra sao một khi họ bị giao cho phía Liên Sô. Vì thế, các giới chức thẩm quyền Anh, Gia Nã Ðại và Úc Ðại Lợi đã nhanh chóng điều tra xem họ có phạm tội ác chiến tranh không và nhận họ vào định cư tại các nước này.

    Chính sách đồng hoang nhà trống của Ðức

    Quân Ðức trên đường tháo chạy cũng làm tương tự như hồng quân Liên Sô nhưng chúng có nhiều thời giờ hơn. Chúng phá hoại có hệ thống hơn. Do đó, cấu trúc hạ tầng của Ukraine như hệ thống đường xá, đường xe lửa, cầu cống… hoàn toàn bị tê liệt để ngăn cản đường tiến quân của hồng quân Liên Sô.

    Chấm dứt chiến tranh

    Tháng 2/1945, tại hội nghị Yalta ở Crimea, các siêu cường Anh, Mỹ và Liên Sô đã chia lại bản đồ Âu Châu theo đó, Ukraine bao gồm phần phía Ðông Galicia, Wolhynia và Bắc Bukhovyna. Ukraine cũng được coi là một thành viên của Liên Hiệp Quốc. Theo hội nghị này, những người Ukraine đã được đưa sang Ðức làm nô lệ, nếu còn sống đều bị trả về cho Liên Sô. Ða số, nếu không muốn nói là tất cả đều chết rũ tù sau đó tại Siberia.

    Cuối năm 1991, Liên Sô sụp đổ và Ukraine trở thành một quốc gia độc lập như ngày nay. Tuy vậy, ngày nay người Nga (chiếm ¼ dân số) vẫn tiếp tục nắm giữ những chức vụ quan trọng trong guồng máy công quyền và trong các hoạt động xã hội. Cả về mặt tôn giáo, Ukraine cũng còn chịu nhiều ảnh hưởng của Nga.

    http://nghiencuulichsu.com/2014/02/24/lich-su-can-dai-cua-ukraine/

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này