1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổ chức quân đội PLA- TQ (chủ đề nghiêm túc)

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi Fion, 09/12/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dienthai

    dienthai Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    2.949
    Đã được thích:
    13
    Đài truyền hình cáp HCTV (sg) có 1 kênh tung của, tối nào cũng xem PLA tập trận.
  2. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593
    cảnh bọn nó luyện tập dưới đây
    http://www.sinodefenceforum.com/land-warfare-army/pla-infantry-training-photos-1091.html
  3. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593
    tập trận đây
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được macay3 sửa chữa / chuyển vào 11:58 ngày 11/12/2007
    Được macay3 sửa chữa / chuyển vào 11:58 ngày 11/12/2007
  4. hoabinh101

    hoabinh101 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/06/2007
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    0
    Bác post lên cho em xem với, em tìm mãi mà không thấy!
  5. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593
    Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Quân_Giải_phóng_Nhân_dân_Trung_Quốc
  6. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593
    Quân đội Nhân Dân Giải Phóng Trung Quốc
    Vương Văn Ðông
    Bài viết này dựa trên các nghiên cứu của nhiều cơ quan chuyên môn về tình hình Trung Quốc, các bài viết của báo chí liên quan đến quốc gia này về mặt quân sự. Ở đây tác giả chỉ nêu lên những nét đại cương về QÐNDGP, chứ không có tham vọng đi sâu vào những lãnh vực trang bị và hiệu năng của tất cả phương tiện vũ khí của QÐNDGP, sự quan hệ giữa Ðảng-Nhà nước với QÐNDGP, đặc biệt về vấn đề Ðài Loan mà một số cán bộ trong giới lãnh đạo quân sự có khuynh hướng muốn hy sinh sự tăng trưởng kinh tế, nếu cần, để có thể thống nhất với Ðài Loan bằng vũ lực.
    Sức mạnh của một quốc gia trên phương diện quốc tế là khả năng chế ngự hay có thể gây ảnh hưởng được đường lối chính trị của một quốc gia hay nhóm quốc gia khác cho phù hợp với quyền lợi của mình. Ðể ước lượng được ý đồ của một đối thủ tiềm ẩn thì trước hết phải tìm hiểu phương tiện và khả năng chiến lược của đối thủ nhằm thực hiện đường lối chính trị trên phương diện đối nội và đối ngoại. Phương tiện để thực hiện mục tiêu không gì khác hơn và trước hết là tổ chức lực lượng quân sự dựa trên một chủ thuyết quân sự. Bàn về trường hợp Trung Quốc, nếu chỉ nói quốc gia này có một tiềm lực quân sự lớn mạnh không giúp cho ta nhận diện một cách chính xác khả năng đó ảnh hưởng tới ta như thế nào. Ngược lại, nếu lấy giả thuyết là quốc gia này có khả năng hải, lục, không quân kiểm soát được khu vực Hoàng Sa và Trường Sa trong một cuộc xung đột với Việt Nam hoặc có khó khăn hay nhược điểm trên các vùng biên giới giữa Trung Quốc với Ấn Ðộ và Nga thì sẽ giúp ta có một nhận định rõ rệt hơn.
    Bài viết này sẽ đề cập đến chủ thuyết quân sự qua nhiều giai đoạn và quá trình hình thành của QÐNDGP, tổ chức và khả năng, tinh thần chủ nghĩa dân tộc và vai trò chính trị của nó. Sau cùng sẽ đề cập đến chính sách bá quyền của Trung Quốc đối với các quốc gia trong khu vực Ðông Nam Á.
    I-Chủ thuyết quân sự
    Chủ thuyết quân sự của một quân đội bắt nguồn từ nhiều yếu tố phức tạp vừa xã hội, kinh tế, chính trị, kỹ thuật và địa lý. Nó vừa là một sự suy diễn giữa những cấu trúc và thời cơ mà một quốc gia có thể hợp nhất được trong một trạng huống trong và ngoài nước. Như trường hợp Trung Quốc, chủ thuyết quân sự trong những thập niên 1960-80 là " dụ địch vào sâu trong nội địa, áp dụng chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại " (1) Chủ thuyết này có nguyên nhân là tình trạng tương quan lực lượng nghiêng về phía Liên Xô trong thời gian Trung Quốc và Liên Xô có tranh chấp về biên giới giữa hai nước, (China''s challenge to regional stability -Karl W. Eikenberry, Southeast Asia Security in the new millennium, Richard J. Elling?Ts and Seldon, E***ors, 1996). Chiến lược này chủ yếu là chiến lược phòng thủ tích cực (active defense) trong một cuộc chiến tranh kéo dài (protacted war ) mà Trung Quốc gọi là "trì cửu chiến". Thật ra, đó cũng chỉ là truyền thống chiến lược của QÐNDGP, trong chiến tranh kháng Nhật trong những thập niên 37-45 và trong cuộc nội chiến Quốc-Cộng. đi từ một tổ chức quân sự nhân dân cách mạng đến quân đội chính quy nhân dân để rồi hiện tại chuyển sang một quân đội chuyên nghiệp. ( Sau khi thành lập mặt trận đoàn kết Quốc Cộng dưới áp lực của Liên Xô, Hồng quân được tổ chức lại tháng 9 năm 1937, đặt dưới quyền chỉ huy của Uỷ ban quân sự Quốc Dân Ðảng, gồm Bát Lộ Quân hành quân trong vùng Tây Bắc Trung Quốc và Ðệ tứ Quân đoàn trách nhiệm miền Nam sông Dương Tử. Ðảng cs Trung Quốc trong thời gian đó dược phép phối hợp với Quốc Dân Ðảng mở hai khoá huấn luyện chiến tranh du kích ở miền Nam.)
    II-Tinh thần chủ nghĩa dân tộc
    Chủ nghĩa dân tộc với tinh thần bảo thủ là căn bản tư tưởng chỉ đạo hiện nay của giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc trong vấn đề an ninh quốc gia, trước hiện tình chính trị và kinh tế. Sau chiến tranh lạnh và sau thời gian bị chi phối bởi tư tưởng Mao Trạch Ðông trong quá trình tổ chức và hành động, QÐNDGP hiện tại trên thực tế đã rời bỏ đường lối chỉ đạo trên để đi vào phạm trù Nhà nước-Dân tộc ( Etat-Nation ) trong việc xây dựng tổ chức nội bộ quân đội và chiến lược đối phó với biến cố bên ngoài. Nguyên tắc chính của chủ nghĩa Mao-ít là vấn đề xã hội, kinh tế của giai cấp đưa tới nguyên tắc tổ chức và hành động của lực lượng cách mạng, đoàn kết nội bộ và đề phòng tình trạng đối kháng thất thường. Trên trên nguyên tắc đó, chủ nghĩa Mao-ít nhấn mạnh đến sự phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp liên tục để loại trừ các kẻ địch của giai cấp còn ẩn trốn trong Ðảng, trong chính quyền, trong quân đội, nói tóm lại là trong toàn xã hội. Chủ nghĩa Mao-ít quan niệm việc phân chia giai cấp xã hội và đấu tranh giai cấp vượt lên trên vấn đề biên giới quốc gia, đã giải thích phần nào đường lối đối ngoại "cách mạng thế giới " theo tinh thần quốc tế vô sản, qua sự truyền bá lý thuyết chính trị, giúp đỡ nhân lực và vật lực cho các phong trào cách mạng tại các nước láng giềng.
    Về cách mạng thế giới, Lưu Thiếu Kỳ trong chỉ thị phổ biến nội bộ đã viết "Sau cuộc cách mạng thắng lợi của ta, việc giúp đỡ bằng mọi phương tiện cho các đảng cs và nhân dân ở các nước Á châu bị áp bức được giải phóng là nhiệm vụ quốc tế mà đảng cs và nhân dân Trung Quốc bắt buộc phải làm".
    QÐNDGP như trên đã đề cập tới, đã rút khỏi cuộc đấu tranh quyết liệt của cuộc Cách Mạng Văn Hoá ( có tác dụng phân hoá thành phần dân tộc ) và chấm dứt việc ủng hộ các phong trào cách mạng kháng chiến ở ngoại quốc mà hậu quả là làm giảm tài nguyên và xói lở việc phát triển nền kinh tế quốc gia. QÐNDGP được tổ chức để đáp ứng chính sách của Bắc Kinh trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương hầu phòng thủ an ninh quốc nội và những đột xuất về an ninh quốc ngoại.
    An ninh là sự sống còn quan trọng hàng đầu của Trung Quốc trong một hoàn cảnh phải cạnh tranh ác liệt với thế giới. Giới lãnh đạo quan niệm rằng an ninh là cần thiết cho khả năng nâng cao được nền kinh tế và kỹ thuật nhằm làm giảm bớt sự chênh lệch đối với các quốc gia tiên tiến. Nhiệm vụ an ninh về bên ngoài đòi hỏi QÐNDGP phải đóng góp vào việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ qua việc thống nhất Ðài Loan với đại lục. Ðối với Trung Quốc, sự thống nhất này chặn đứng được khả năng phát triển trong tương lai những tham vọng đòi tự trị hay độc lập của những sắc dân ở vùng biên giới phía tây Trung Quốc. QÐNDGP còn có nhiệm vụ duy trì an ninh cho những nguồn tiếp liệu về năng lượng và nguyên liệu, hạ tầng cơ sở và trục giao thông chiến lược cần thiết cho sự phát triển kinh tế và công nghiệp. Ðể hoàn tất được nhiệm vụ trên, QÐNDGP thấy cần thiết phải có những vùng đệm ngoài biên giới, đảm bảo cho hệ thống phòng thủ để không bị chi phối bởi một đối thủ có những vũ khí tinh tiến chính xác có tầm bắn xa. Rút bài học của chiến tranh vùng Vịnh và Nam Tư, và để đáp ứng mọi kịch bản, QÐNDGP cố gắng phát triển đầy đủ và phù hợp hệ thống vũ khí để răn đe mọi đe doạ bên ngoài và có khả năng thắng đối thủ trong một cuộc đụng độ.
    II-Ảnh hưởng của QÐNDGP đối với đường lối chính trị.
    Tinh thần bảo thủ của chủ nghĩa dân tộc có ảnh hưởng đến 3 lãnh vực quan trọng của Trung Quốc:
    Hệ tư tưởng.
    Trong chế độ "Ðảng-Nhà nước", thay đổi quan trọng gần đây là đảng cs Trung Quốc chấp nhận tư tưởng " 3 đại biểu " của Giang Trạch Dân. Ngày 1-7-2001, ông Giang tuyên bố chủ trương "giới kinh doanh tư nhân được phép gia nhập đảng cs." Có những dấu hiệu là QÐNDGP có đóng vai trò trong diễn biến trên, vì nó phù hợp với tinh thần bảo thủ chủ nghĩa dân tộc của QÐNDGP. Khi chủ trương đoàn kết, dân giàu nước mạnh qua việc mở rộng một số thiết chế nhà nước cho những lực lượng sản xuất tiên tiến, QÐNDGP tin tưởng sẽ tránh được những bất mãn của lực lượng sản xuất (?) và tất nhiên tạo được ổn định chính trị.
    Nhân sự.
    Sau những biến động chính trị quan trọng như cuộc cách mạng văn hoá làm gần sụp đổ thể chế "Ðảng-Nhà nước" và sự kiện Thiên An Môn đã chia rẽ trầm trọng giới lãnh đạo Ðảng, QÐNDGP với tinh thần dân tộc bảo thủ đã can thiệp để tái lập sự ổn định chính trị và tác động đến vấn đề thay đổi nhân sự lãnh đạo ở chóp bu. Nhưng ảnh hưởng đến vấn đề thay đổi nhân sự ở chóp bu của quân đội trong hiện tại không còn tầm quan trọng của hai thế hệ lãnh đạo quân sự như trước, vừa có cương vị chính trị trong hệ thống "Ðảng-Nhà nước" vừa có mặt ở Quân uỷ Trung ương . Qua tình trạng chuyên nghiệp hoá quân đội, giới lãnh đạo quân sự đã có xu hướng dần dần bớt quan tâm nhiều đến vấn đề chính trị của "Ðảng-Nhà nước", để đặt trọng tâm vào vấn đề chuyên môn quân sự, vấn đề nâng cao đời sống của quân nhân hơn là chính trị dân sự. Nhưng giới lãnh đạo quân sự đồng thời cũng chủ trương cấp lãnh đạo cao cấp mới "Ðảng-Nhà nước" phải có khả năng xúc tiến sự nhất quán trong lãnh đạo, một yếu tố cần thiết cho sự ổn định chính trị và đoàn kết quốc gia, chấp hành một chính sách cân bằng giữa phát triển kinh tế và quốc phòng. Giới quân sự coi mọi thay đổi quá khích đều có hại hơn có lợi cho sự phát triển kinh tế và kỹ thuật, nên dè dặt và phê phán nếu tầng lớp lãnh đạo mới quá thiên tả ( neoleftist Mao ít ) hay thiên hữu ( neoliberal )
  7. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593
    Ðường lối chính trị
    Ảnh hưởng của quân đội về đường lối chính trị thu gọn vào địa hạt quốc phòng và an ninh trong chính sách đối nội và đối ngoại. Qua cơ chế đảng và chính phủ, QÐNDGP tác động được ảnh hưởng vào đường lối chính trị của Ðảng và Nhà nước Về mặt Ðảng, giới lãnh đạo quân sự có hai Phó chủ tịch trong Quân uỷ Trung ương (Quách Bá Hùng và Tào Cương Xuyên), đồng thời là thành viên trong số 25 người ở Bộ Chính Trị. Một nhân vật thứ ba (Từ Tài Hậu) còn có chức vụ trong ban Bí thư Ðảng. Vị tướng này vừa được thăng nhiệm phó chủ tịch thứ ba cùng 4 thượng tướng khác ở cương vị thành viên sau Hội nghị lần thứ 4 khoá XVI ngày 19-9 vừa qua. Ở Ban Chấp hành Trung ương Ðảng, 18% thành viên là quân nhân. Về phía Nhà nước, một số lớn nhân sự quân đội có mặt ở Quốc Hội. Phó chủ tịch Quân uỷ Trung ương Ðảng giữ chức vụ Bộ trưởng bộ Quốc Phòng (Tào Cương Xuyên) trong chính phủ. Nhân vật này còn là đại diện cao nhất của quân đội, cố vấn cho những buổi họp thường xuyên của Chính phủ và Quân uỷ Trung ương để phối hợp hoạt động. Ngoài ra, Bộ trưởng bộ Quốc Phòng cùng với phó Thủ tướng chính phủ chủ trì Uỷ Ban Ðộng Viên Quốc Phòng.(State National Defense Mobilisation Commission ) gồm 4 ban : động viên vũ trang dân chúng, động viên kinh tế, phòng không, giao thông và chuẩn bị chiến tranh. Tham mưu phó quân đội được chỉ định làm Tổng bí thư cho Uỷ ban (2) (PLA Conservative Nationalism, Nan Li in The People''s Liberation Army and China in Transition, Institute for National Strategic Studies, National Defense University)
    Về mặt đối ngoại, QÐNDGP có thái độ cứng rắn hơn giới chính tri dân sự trên những vấn đề Ðài Loan, biển Ðông, hệ thống phòng thủ hoả tiễn ( missile defense ) và đường lối chống khủng bố của Mỹ. Vì vậy, đầu năm 2001, giới lãnh đạo quân sự đã thuyết phục được Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ đồng ý mở cuộc thao diễn quân sự phối hợp các quân chủng kéo dài trong một tháng ở vùng biển đảo Ðông Sơn không ngoài mục đích phô trương lực lượng để đe doạ ngăn chặn đảng Dân Chủ Cấp Tiến của Trần Thuỷ Biển vừa thắng cử trong cuộc bầu cử vào mùa thu có xu hướng đưa Ðài Loan đến độc lập trong lúc quan hệ Mỹ Trung Quốc đang căng thẳng vì Mỹ tăng cường bán vũ khí cho Ðài Loan và vụ phi cơ thám thính Mỹ đụng phi cơ tuần phòng Trung Quốc ở ngoài khơi biển Ðông. Giới lãnh đạo quân sự Trung Quốc lo ngại đường lối ủng hộ Mỹ trong việc chống khủng bố, tuy dè dặt nhưng có hậu quả làm xói lở ảnh hưởng của Trung Quốc trong vùng Trung Á nếu sự hiện diện của quân đội Mỹ kéo dài trong vùng này. Như vậy, trong tương lai biên giới phía tây Trung Quốc có thể trở nên bất ổn định và dễ bị đe doạ. Qua sách báo và truyền thông tập trung vào khái niệm an ninh và tầm quan trọng quân sự, QÐNDGP gây được ảnh hưởng lớn vào xã hội Trung Quốc qua tinh thần bảo thủ của chủ nghĩa dân tộc.
    Nhưng yếu tố tinh thần chủ nghĩa dân tộc của quân đội có thể đưa đến những tình trạng chiến lược sai lầm. Tuy QÐNDGP đã từ bỏ chủ thuyết Mao-ít nhưng tàn dư của tư tưởng Mao Trạch Ðông còn sót lại như yếu tố duy ý chí nhấn mạnh đến sức mạnh tinh thần có thể vượt qua được những chướng ngại của những điều kiện vật chất. Do đó các chiến lược gia có thể thẩm định sai lầm về tương quan lực lượng giữa hai đối thủ. Cũng trong chiều hướng chủ nghĩa quốc gia, QÐNDGP đặt trọng tâm vào khả năng giải quyết vấn đề Ðài Loan trong điều kiện Mỹ quyết tâm bảo vệ đảo này.
    IV-Tổ chức QÐNDGP.
    Lực lượng QĐNDGP của TQ hiện nay có độ 2,3 triệu người không kể 1,5 triệu quân thuộc lực lượng cảnh sát vũ trang. Ngân sách quốc phòng của TQ chính thức công bố là 22 tỷ USD, nhưng theo các chuyên gia quân sự thì ngân sách này lên đến 60-65 tỷ USD chiếm 5% GDP.
    Lục quân
    Hồng Quân trước khi đi tới tình trạng tổ chức hiện nay là những bộ đội bộ vũ trang được huấn luyện theo lý thuyết chiến tranh nhân dân của Mao Trạch Ðông. Chỉ sau khi bộ đội cách mạng tiền phong này chiến thắng được quân đội Nhật và quân đội Quốc Dân Ðảng, đảng Cs Trung Quốc mới tính đến chuyện thành lập một quân đội chính quy hiện đại. Nhưng chiến tranh 30 năm của Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc chủ yếu là chiến tranh trận địa do bộ binh của lục quân giữ vai chính như tại Triều Tiên, Ấn Ðộ và Việt Nam. Trong suốt thời gian kéo dài từ 1920 đến 1970, chủ thuyết chiến tranh nhân dân đặt trọng tâm vào bộ binh của lục quân chiến đấu trong địa bàn nội địa. Chiến lược này nhầm chấp nhận lực lượng can thiệp từ xa (forces de projection) kể cả phương tiện hải và không quân biên phòng chỉ có khả năng giới hạn đối với cuộc xâm lăng cục bộ bên rìa nội địa, của một địch thủ như Mỹ (trong những năm 1949-1960) hoặc Liên Xô (1960-1980) với phương tiện tiên tiến. Các đơn vị chủ lực bộ binh được tổ chức thành các lộ quân cộng với các đơn vị địa phương dân quân tự vệ, có nhiệm vụ triển khai mặt trận chủ lực.
    Từ 1970-1980 là thời kỳ chuyển tiếp của lực lượng bộ binh để phù hợp với chủ thuyết "chiến tranh nhân dân trong những điều kiện hiện đại " Chiến lược này chủ trương dùng quân lực trên tuyến biên phòng để bảo vệ lãnh thổ với những lực lượng lưu động phối hợp các binh chủng và quân chủng trong trường hợp chiến tranh với Liên Xô. Phần lớn các quân đoàn bố trí dọc những tuyến mà Liên Xô và Mông Cổ có thể tấn công. Phân nửa các quân đoàn bố trí để bảo vệ Bắc Kinh, còn hai quân đoàn khác ở quân khu Lan Châu có nhiệm vụ chận đứng hướng tấn công qua sa mạc của Hồng Quân Liên Xô. Tuy nhiên, mặc dầu có những cố gắng, việc hiện đại hoá quân lực không đạt được mục tiêu vì thời gian quá ngắn.
    Cho tới giữa thập niên 80 , Ðặng Tiểu Bình bắt đầu định lại toàn bộ phương hướng chiến lược, ước lượng lại tình hình an ninh toàn quốc trong hoàn cảnh mới của thế giới, coi nguy cơ chiến tranh nguyên tử ít có khả năng xảy ra và Trung Quốc có thể sẽ phải đụng đầu với những cuộc chiến cục bộ mãnh liệt có mục tiêu chính trị ngắn hạn, nhưng không kéo dài ở khu vực ngoại vi. Hậu quả của đường lối này đưa đến việc xét lại tổ chức của quân đội Trung Quốc. Từ 17 quân khu rút xuống còn có 7 (Lan Châu, Bắc Kinh, Nam Kinh, Tế Nam, Thẩm Dương, Quảng Châu, Thành Ðô) và 37 lộ quân thu lại còn 28 trong những năm 1985-88. Những đơn vị này được biên chế thêm thiết giáp, pháo, phòng không và công binh cộng thêm vài đơn vị phòng thủ tác dụng của vũ khí nguyên tử, sinh học và hoá hóc ( NBC) để trở thành các đại đơn vị cấp quân đoàn. Cũng trong chiều hướng giảm quân số bộ binh, một số đơn vị cấp trung đoàn bị giải thể. Thời gian này là thời gian cải tổ lại toàn diện tổ chức, thí nghiệm và thử nghiệm lý thuyết. Nhưng cuộc chiến ở biên giới Bắc Việt đầu năm 1979 cho thấy nhược điểm hãy còn lại trong quân lực Trung Quốc. Hiện nay thì quan tâm của QÐNDGP nhằm vào đối tượng Ðài Loan và luôn luôn lo ngại về việc Mỹ tiếp tục bán võ khí trong hệ thống phòng thủ của Ðài Loan. Theo Luật Quốc Phòng năm 1997 : "Những đơn vị chính quy của QÐNDGP là quân đội chuyên nghiệp, có nhiệm vụ chiến đấu phòng ngự. Khi cấn thiết, quân đội chính quy cũng như các đơn vị trừ bị được huấn luyện theo quy định trong thời bình, có thể trợ giúp việc giữ trật tự công cộng theo tinh thần luật pháp. Lực lượng trừ bị theo lệnh động viên sẽ chuyển sang thành chính quy trong thời chiến. Dưới sự lãnh đạo của Chính Phủ và Quân uỷ Trung ương, lực lượng Công An vũ trang nhân dân được giao phó nhiệm vụ bảo toàn nền an ninh và gìn giữ trật tự. Dưới sự chỉ huy của cơ quan quân sự, các đơn vị dân quân tự vệ cũng sẽ tham gia nhiệm vụ phòng thủ và trợ giúp cho nhiệm vụ giữ gìn trật tự.?T?T(4) Theo David Finkelstein trong cuốn sách (China''s National Military Strategy The PLA in the Information Age, ed James C.Mulvenon and Andrew N.D. Yang ( Santa Monica, CA :Rand 1999), ba mục tiêu liên quan đến quân đội là:
    - bảo vệ Ðảng và đảm bảo ổn định
    - bảo vệ chủ quyền và đánh bại mọi cuộc xâm lược
    -hiện đại hoá quân đội và xây dựng quốc gia
    Qua chỉ thị trên, vai trò và nhiệm vụ chính yếu của lục quân là phòng thủ lục địa và an ninh quốc nội. Lục quân Trung Quốc được cải tổ để có khả năng đáp ứng đòi hỏi của chiến tranh cục bộ có thể xảy ra ở biên khu. Trong trường hợp này, lục quân cần thiết sự trợ chiến tích cực của hải và không quân. Và các đơn vị phản ứng tốc chiến (forces de réaction rapide) từ các quân khu chung quanh sẽ được nhanh chóng điều động để tiếp viện cho chiến trường.
    Cấu trúc ban đầu của lục quân gồm có chủ lực quân, địa phương quân và phụ lực quân. Nhưng từ sau 1985, chủ lực là lộ quân với quân số 60,000 người gồm 3 sư đoàn hay lữ đoàn bộ binh, 1 sư đoàn pháo, 1 lữ đoàn pháo phòng không, 1 trung đoàn truyền tin, 1 trung đoàn công binh và 1 tiểu đoàn thám báo. Các lộ quân được bố trí tuỳ theo nhiệm vụ. Vùng đồn trú lực lượng quan trọng nằm trong quân khu Lan Châu, Bắc Kinh và Thẩm Dương để bảo vệ những đe doạ đến từ miền Bắc. Quân khu Lan Châu được trang bị để ngăn chận các hoạt động ly khai ở Tây Tạng và Tân Cương trong khi quân khu Thẩm Dương thì chuẩn bị cho mọi đột xuất ở Triều Tiên. Còn những quân khu khác thì hướng sự chuẩn bị về kịch bản Ấn Ðộ hay những đe doạ từ Ðông Nam Á. Cải tổ quan trọng nhất của lục quân là sự thiết lập các đại đơn vị phản ứng tốc chiến (unités de réaction rapide ) có thể động viên trong 24 đến 48 tiếng đồng hồ, với nhiệm vụ là một lực lượng đầu tiên của QÐNDGP phản ứng kịp thời trong thời gian xảy ra biến động. Ngoài quân đoàn nhảy dù của không quân, QÐNDGP chỉ định quân đoàn 38, 39, 54 và 23 làm lực lượng phản ứng tốc chiến. Một hoặc hai sư đoàn trong mỗi quân khu trang bị với quân khí hiện đại được chỉ định là đơn vị của lực lượng phản ứng tốc chiến.
    Sau Ðại hội đảng thứ XV, quân đội lại bị giảm quân số một lần nữa. Theo Bạch thư Quốc phòng tháng 7-1998, lục quân sẽ bị cắt giảm 18%, hải quân 11,6 % và không quân 11 % ( Blasko, A New PLA Force Structure). Do việc giảm quân số, quân đoàn 28 thuộc quân khu Bắc Kinh, quân đoàn 67 quân khu Tế Nam và quân đoàn 64 ở quân khu Thẩm Dương bị giải tán. Quân số nhiều quân đoàn khác bị giải ngũ cả sư đoàn hoặc hoán chuyển sang đơn vị khác hoặc giảm xuống cấp lữ đoàn. 14 sư đoàn được chuyển sang quân số của công an vũ trang nhân dân. Cũng năm 1998, Quân uỷ trung ương nhấn mạnh đến việc phát triển lực lượng trừ bị. Các quân khu được huấn thị thiết lập kế hoạch xây dựng đơn vị trừ bị với những trang bị không cần thiết của lực lượng công an vũ trang nhân dân chuyển sang. Lục quân đã mất nhiều uy tín do sự cắt giảm quân số để tăng cường hải, không quân và binh chủng hoả tiễn, nhất là sau thành tích thảm bại trong cuộc chiến ở biên thuỳ Việt Nam năm 1979 và sau vụ tàn sát sinh viên ở Thiên An Môn năm 1989. QÐNDGP chưa hoàn bị được hệ thống liên quan đến khả năng phối hợp các lực lượng, sự yểm trợ hậu cần và kỹ thuật truyền thông mà các quân đội tiên tiến gọi là C3I và C4I (command, control, communications and intelligence &command, control, communi- cations, computer and intelligence) tức là chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc và tình báo. (Andrew N.D.Yang and Milton Wen Chungliao, "PLA Rapid Reaction Force: Concept, Training and Preliminary Assessment " in the PLA in the Information Age. Nhưng theo một bài báo trong tờ Nhật báo Quân Ðội Nhân Dân thì mạng lưới số liệu tin tức đã khởi đầu từ năm 1987, trách nhiệm việc truyền tin tự động và trao đổi tin tức về dữ liệu, hình ảnh, biểu đồ và trao đổi thư từ cho toàn thể quân đội. Hệ thống truyền tin này bao gồm mạng lưới dây cáp bằng sợi quang (fiber optic), vệ tinh truyền thông, các đài vô tuyến qua làn sóng vi ba và làn sóng ngắn.
  8. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593

    Hải Quân.
    Như mọi hải quân các quốc gia khác, hải quân Trung Quốc cũng gồm ba lực lượng: các hạm đội trên biển, không quân và hạm đội tiềm thủy đĩnh. Hải quân Trung Quốc vẫn từng bước hiện đại hóa cả 3 binh chủng trên. Ðây là quân chủng hải quân lớn nhất trong khu vực Châu Á và cũng là một lực lượng hải quân quan trọng trên thế giới. Ðứng đầu là 2 khu trục hạm Sovremenny được trang bị hỏa tiễn điều khiển, mua lại của Nga mà Liên Xô đã không sử dụng từ 15 năm nay và được thiết bị lại để bán cho Trung Quốc vào năm 1999. Hai khu trục hạm này sau thời gian lâu dài không sử dụng nên thân tàu không được bảo quản và máy tàu về chuyên môn kỹ thuật chưa hoàn bị. Hệ thống vũ khí của khu trục hạm này gồm một đài hai pháo cỡ 100 ly, ống phóng ngư lôi và súng cối chống tàu ngầm, bốn vũ khí phòng không tầm ngắn và hệ thống hỏa tiễn phòng không với tầm xa 25 cây số. Chiến hạm này cũng có khả năng chuyển vận trực thăng. Khu trục hạm Sovremenny được trang bị 8 hỏa tiễn du hành SS-N-22 (missiles de croisière ) chống tàu trên biển rất hữu hiệu do tốc độ và khả năng bay sát mặt biển. Trung Quốc cũng có ý định mua thêm 2 khu trục hạm loại này với điều kiện là tàu đóng theo nhu cầu của Trung Quốc.
    Hải quân Trung Quốc còn triển khai một khu trục hạm loại Luhai và hai khu trục hạm loại Luhu do Trung Quốc đóng, trang bị hỏa tiễn có điều khiển. Khu trục hạm Luhai với sức di chuyển 6,600 tấn với trọng tải 4,800 tấn . Cả 3 đều được trang bị hỏa tiễn du hành, 2 pháo 100 ly chống tàu trên biển, ống phóng ngư lôi và súng cối chống tàu ngầm, pháo và hỏa tiễn chống phi cơ. Ðơn vị chiến hạm hiện đại nữa của hải quân gồm 8 hộ tống hạm Jiangwei, di chuyển 2,100 tấn và cũng trang bị vũ khí như khu trục hạm Luhu. Phần còn lại về mặt tàu trên biển đều là những tàu thuộc vào loại đã triển khai từ năm 1950. Hạm đội trên biển ngoài 17 khu trục hạm Luda hiện đại hóa và trang bị hỏa tiễn có điều khiển, còn 21 hộ tống hạm loại Jianghu cũng được vũ trang hỏa tiễn và một số lớn tuần dương hạm nhỏ, tàu vớt mìn và các tàu yểm trợ. Không lực của hải quân, ngoài số 28 trực thăng hiện đại, có độ 500 phi cơ gồm khu trục cơ, phi cơ chiến đấu và phi cơ tuần thám. Lực lượng mạnh nhất của hải quân Trung Quốc là các đơn vị tiềm thủy đĩnh tấn công như loại Kilo mua của Nga, 20 tàu loại Minh cùng khả năng với loại Romeo của Nga năm 1950 và 3 tàu loại Tống do Trung Quốc tự đóng lấy. Hạm đội tiềm thủy đĩnh trang bị hỏa tiễn tầm xa (balistic missile ) và 5 tầu tấn công chạy bằng nguyên tử lực đã lỗi thời nên hải quân Trung Quốc với sự giúp đỡ của Nga sẽ thay thế bằng loại tàu tấn công Type ?"093 và tàu loại Type ?"094 bắn hỏa tiễn. Ngoài ra, hải quân còn giữ một số tiềm thủy đĩnh loại Romeo từ 35 đến 40 đơn vị.
    Khái niệm sử dụng hải quân Trung Quốc chủ yếu là phòng ngự tích cực (active defense) dựa trên một dây chuyền các đảo như một đường chiến lược, với hạm đội biển khơi (flotte de haute mer), nhằm bảo vệ các khu vực kỹ nghệ dọc bờ biển, an toàn của tuyến giao thông trên biển và sẵn sàng cho những cuộc tranh chấp lãnh thổ trên biển giữa các quốc gia. Ðô đốc Lưu Hoa Thanh, tư lệnh hải quân từ 1982 đến 1987 và phó chủ tịch Quân ủy Trung ương từ 1988 đến 1997 đã đề ra một chiến lược lâu dài, quá nhiều tham vọng, thể hiện tinh thần chủ nghĩa dân tộc bá quyền. Những điểm chính của chiến lược này là nới rộng chiến tuyến của hải quân từ nhiệm vụ phòng ngự bờ biển ra tới nhiệm vụ phòng ngự ỏ ngoài khơi trong hai khu vực chiến lược. Khu vực thứ nhất bao quanh một dãy đảo chạy dài từ quần đảo Kourile, Nhật, Ryukyu, Ðài Loan, Phi Luật Tân và Bornéo tới Natuna Besar ( Nam Dương ). Thống nhất Ðài Loan với lục địa, nằm trong khu vực này, được coi là quan trọng hàng đầu cho nền an ninh của Trung Quốc. Tuyến này cách xa bờ biển Trung Quốc trên vĩ tuyên chay qua Ðài Loan vào khoảng 200 hải lý,( 200x1,852cs= 370cs ) bao trùm từ biển Hoàng hải tới biển Ðông xuyên tới lãnh hải Ðông Nam Á cách xa Trung Quốc từ 200 đến 700 hải lý. Khu vực chiến lược thứ hai chạy dài theo đường Bắc Nam từ quần đảo Kourile qua Nhật, Marianas, Caro- lines và Nam Dương. Tuyến này cách xa bờ biển Trung Quốc khoảng 1800 hải lý, bao gồm khu vực đang tranh chấp Hoàng Sa và Trường Sa, thềm lục địa, khu vực đặc quyền kinh tế và kiểm soát gần như tất cả đường giao thông ở Biển Ðông và Châu Á . Ðô đốc Lưu Hoa Thanh đưa ra kế hoạch xây dựng một hạm đội mà chủ lực là hàng không mẫu hạm, triển khai trong vài thập niên tới để thực hiện nhiệm vụ này.
    Tăng trưởng cần thiết cho hải quân để đáp ứng chiến lược trên đòi hỏi rất nhiều phương tiện tài chánh, kỹ thuật liệu khả năng của Trung Quốc có đáp ứng được không. Tuy nhiên, hiện tại hải quân Trung Quốc có khả năng dàn ra một hạm đội tiềm thủy đĩnh phóng hoả tiễn liên lục địa và hỏa tiễn du hành (missiles de croisière) tấn công mục tiêu trên đất liền. Hiện nay, hải quân mới chỉ có 1 thủy đĩnh loại Xia. Loại này sẽ được thay thế bởi loại Type -094 với sự giúp đỡ kỹ thuật của Nga. Có thể quan niệm về biển khơi của QÐNDGP dựa trên hệ thống hỏa tiễn đặt dọc bờ biển như loại HY-2 có tầm bắn xa 52 hải lý, loại HY-4 tầm bắn 84 hải lý và loại C-601 đạt 55 hải lý và khả năng của không lực hải quân và không quân với những phi cơ SU-27 và SU-30 có tầm bay tới 800 và 1600 hải lý. Tuy nhiên, những phi cơ này không triển khai lâu được ở trên không.
    Bài toán quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện chương trình hiện đại hóa của hải quân Trung Quốc là việc thống nhất Ðài Loan với lục địa. Tuy đặt vấn đề như trên, nhưng không thấy QÐNDGP thực hiện một chương trình đóng tàu đổ bộ khả dĩ dùng được trong một chiến dịch đổ bộ để thực hiện thống nhất bằng giải pháp quân sự. Có thể Quân ủy Trung ương dè dặt trong ý định vì tin rằng hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ sẽ can thiệp để bảo vệ khu vực này. Hoặc tin rằng lực lượng hỏa tiễn và không quân của QÐNDGP đủ để làm áp lực khi thấy tình hình chính trị của Ðài Loan có thể biến chuyển bất lợi cho Ðại lục. Dù sao, hải quân Trung Quốc vẫn có khả năng chống đối hữu hiệu mọi lực lượng của các quốc gia ở Ðông Nam Á Châu tìm cách ngăn cản Trung Quốc thực hiện mục tiêu chính trị của họ trong khu vực.
    Không Quân
    Quân chủng không quân (QCKQ) tiếp tục hiện đại hóa phương tiện trên một quy mô rộng lớn để có khả năng triển khai hoạt động tấn công cũng như phòng thủ trong mọi điều kiện thời tiết của một hoàn cảnh mà đối tượng xử dụng những phương tiện rất tối tân. Hiện đại hóa phương tiện nhằm đáp ứng yêu cầu của học thuyết " tác chiến trong các chiến dịch cục bộ có những điều kiện kỹ thuật cao " nên QCKQ tìm kiếm cách nâng cao khả năng tấn công của không lực theo huấn thị gần đây của chủ tịch Quân ủy Trung ương Giang Trạch Dân. Trong thập niên vừa qua, QCKQ đã tiến nhanh việc trang bị vũ khí tiên tiến sử dụng trên không như tên lửa không đối không và bom có điều khiển ( guided bombs ) phần lớn mua của Nga. Quân lực không quân để khỏi lệ thuộc nhiều vào vũ khí mua của nước ngoài, đã nỗ lực tự phát triển lấy các vũ khí đó. Ước lượng số phi cơ đa chức năng (multirole) trong năm 2005:
    - Sukhoi SU-30MKK = 80 hay hơn
    - Chengdu J-10 = 30
    - Xian JH-7 = 40
    - Shenyang J-811C/H = 50-70
    - Sukhoi Su 27/J-11 = 158
    - XXJ, J-12 = ?
    - 358 - 378
    (Nguồn tin: Fighter Figures point to Chinese air supremacy, Flight International, Sept 26-2000; John A.Tipak Air Force Magazine, Oct 2001 ; John Lake, ?~?TSukhoi''s Super Flankers?T?T, Air Combat, March April 2001.)
    Phi cơ loại XXJ, J-12 do Trung Quốc sản xuất là loại chiến đấu cơ đa chức năng chỉ bắt đầu có khả năng tác chiến vào năm 2015, theo dự tính của cơ quan tình báo Hải Quân Mỹ. Loại phi cơ Su-30MKK trang bị 12 hỏa tiễn: 10 hỏa tiễn có điều khiển Kh-59 với tầm bắn xa 1dặm ; hỏa tiễn chống radar Kh-31P với tầm xa 125 dặm và hỏa tiễn do truyền hình điều khiển Kh-29T. Phi cơ Su-30 MKK còn được trang bị hỏa tiễn chống phi cơ Vympel R-73 hoặc hỏa tiễn chống chiến hạm Kh-59MK điều khiển bởi truyền hình với tầm xa 285 dặm.
    Như tất cả mọi không lực trên thế giới, không lực QÐNDGP còn trang bị những loại chiến đấu cơ như Sukhoi Su-27K/UBK, phi cơ ném bom H-6, H-6s. Trung Quốc cũng ngả theo chiều hướng nhờ sự giúp đỡ của Nga trong việc phát triển phi cơ ném bom có tầm hoạt động xa hơn hoặc mua của Nga loại Su-32 trang bị hỏa tiễn siêu tốc độ SS-N-22 Sunburn chống chiến hạm. Về phương diện vận tải, không lực QÐNDGP sử dụng 20 phi cơ IL -76MDs; 25 loại Y-8/an-12 và 42 loại Y-7/An-28s, 2 phi cơ C- L130, vừa mua vào tháng 8, 2001, 30 vận tải cơ hạng nhỡ 74TK-300 có sức trọng tải 10 tấn. Cùng trong năm này, không lực QÐNDGP mua của Nga khoảng 20 vận tải cơ IL-76s. Với sức trọng tải 40 tấn, phi cơ này có thể chuyên chở thiết vận xa thiết bị cho Quân đoàn nhảy dù. QÐNDGP trù liệu mua thêm khoảng từ 10 đế 4 loại vận tải cơ này.
    Quân đoàn nhảy dù 15 bình thường thuộc quyền kiểm soát của không lực QÐNDGP. Trong trường hợp khẩn cấp thì đại đơn vị này trực thuộc quyền sử dụng của Quân ủy Trung ương. Quân số của Quân đoàn 15 nhảy dù vào khoảng 30 000. Theo tin tức của tập san Défense Internationale (Pháp) thì QÐNDGP đang bí mât thành lập một lữ đoàn nhảy dù và bổ túc 2 sư đoàn 16 và 17 để nâng Quân đoàn 15 lên thành 5 sư đoàn với quân số ước lượng khoảng 70 000 người. Ðại đơn vị này cũng mới được trang bi vũ khí hiện đại gồm thiết vận xa 1,950kg, 5 loại thiết vận xa trang bị pháo 122 ly, 120 ly, 105 ly và súng cối 120 ly. Ngoài những loại xe trên, Quân đoàn nhảy dù còn được trang bị loại xe nhỏ chở hoả tiễn HJ-8 chống chiến xa. Có ý kiến trong giới lãnh đạo QÐNDGP là với lực lượng nhảy dù nói trên phối hợp với các cuộc tấn công của hỏa tiễn, không quân và điện tử thì có thể làm Ðài Loan phải đầu hàng. Tuy nhiên, nếu xét về phương tiện không vận thì QÐNDGP chưa đủ trang bị để có thể chuyên chở quân đoàn nhảy dù, ngoại trừ trường hợp trưng dụng phương tiện hàng không dân sư.
    Bất cứ một chiến dịch nào trong điều kiện hiện đại, (QÐNDGP rút kinh nghiệm chiến tranh vùng Vịnh và Kosovo ) nhất là một cuộc hành quân nhảy dù, điều kiện cần thiết là phải làm chủ được không phận, qua việc phối hợp phòng không, ( pháo hỏa tiễn hiện đại ) không quân và các phương tiện báo động và kiểm soát không phận từ xa ( phi cơ AWAC ) hoạt động của không quân và hỏa tiễn địch. QÐNDGP đã xây dựng 68 đài rađa gần khu vực Ðài Loan, ( loại YLC-4 tầm xa 410cs; JY-14n tầm xa 320cs; YLC-2 tầm xa 300cs và loại JY-11 tầm xa 180cs ). Tất cả những loại rada này đều có khả năng chống lại sự quấy nhiễu điện tử của địch. Sau cùng, để chiến đấu và khu trục cơ đủ khả năng triển khai hoạt động xa, QÐNDGP đã sửa loại phi cơ thả bom H-6 thành phi cơ tiếp liệu trên không. QÐNDGP còn mua thêm của Nga IL-78M MIDAS có thể chuyên chở 60 tới 65 tôn nhiên liệu, trên khoảng 1,800cs hoặc 32 tới 34 tôn nhiên liệu trên 4,000 cs.
  9. macay3

    macay3 LSVH - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    26/10/2007
    Bài viết:
    2.961
    Đã được thích:
    1.593

    V-Chính sách bá quyền của Trung Quốc ở Ðông Nam Á
    Quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc thường có những thay đổi nhất thời tùy theo ước lượng về an ninh từng giai đoạn giữa Mỹ và Nga, giữa Nga và Trung Quốc, nhưng căn bản là hai quốc gia này vẫn giữ một quan hệ mâu thuẫn đối kháng, vẫn coi nhau là đối thủ chính sau sự sụp đổ của Liên Xô. Giới lãnh đạo Trung Quốc tin rằng Mỹ vẫn còn tiếp tục chiến tranh lạnh ở Á Châu, không bỏ chính sách bao vây, ngăn cản Trung Quốc trở thành một cường quốc ở Châu Á-Thái Bình Dương, đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ và an ninh Trung Quốc và tìm cách lật đổ nền chuyên chính cộng sản. Ngược lại, Mỹ lo ngại Trung Quốc nếu trở nên một cường quốc cả về quân sự và kinh tế ở Châu Á-Thái Bình Dương sẽ làm giảm đi ưu thế của Mỹ ở vùng này và sẽ chi phối tuyến giao thông hàng hải, huyết quản của sự chuyển vận năng lượng cần thiết cho nền kỹ nghệ. Tuy Mỹ là một đại siêu cường trên thế giới nhưng không là bá chủ khu vực Ðông Á. Khu vực này trở nên lưỡng cực. Mỹ giữ ưu thế trên mặt biển trong khu vực và Trung Quốc chi phối lục địa Á Châu. Quan hệ Mỹ-Trung Quốc về an ninh trong vùng Ðông Á Châu là quan hệ mâu thuẫn giữa một cường quốc lục địa đối với một đối thủ có lực lượng hải quân mạnh nhất thế giới.
    Vào giữa năm 1985, chủ tịch Quân ủy Trung ương Ðặng Tiểu Bình ước tính lại tình trạng an ninh chung của thế giới đã đi đến kết luận là khả năng xảy ra chiến tranh lớn hay chiến tranh hạt nhân rất thấp. Dựa trên ước tính chiến lược đó, Ðặng Tiểu Bình quan niệm là nếu có chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc vì vấn đề Ðài Loan thì sẽ chỉ là chiến tranh cục bộ nhưng mãnh liệt ở các vùng biên giới lãnh thổ Trung Quốc, nơi tập trung những khu vực kinh tế và những nơi bố trí hệ thống quân sự phòng thủ. Ðể sẵn sàng đáp ứng cho mọi tình huống có thể xảy ra nên Quân ủy Trung ương đã quyết định một định hướng cải tổ triệt để quân đội với mô hình như trên đã viết. Hiện nay không có một quốc gia nào đe dọa nền an ninh Trung Quốc về mặt biên giới đất liền. Sự đe dọa biên giới trước đây của Liên Xô nay đã chuyển thành gần như liên minh với Liên Bang các quốc gia độc lập Nga. Hơn nữa, Nga bây giờ là nguồn cung cấp công nghệ và vũ khí cho Trung Quốc. Biên giới mà Trung Quốc hướng nỗ lực phòng thủ vào là biên giới về mặt biển trong đó yếu tố Ðài Loan giữ vị trí hàng đầu của QÐNDGP trong nhiệm vụ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, sau là vùng Hoàng Sa và Trường Sa.
    Tuy nhiên, QÐNDGP Trung Quốc hãy còn đang trong thời kỳ cải tổ toàn diện về tổ chức, về chính sách trang bị kỹ thuật quân sự hiện đại cho quân đội. Theo định hướng trên,QÐNDGP phải sẵn sàng đáp ứng cho 3 kịch bản:
    Khả năng trả đũa chiến tranh nguyên tử với Mỹ nếu có.
    Khả năng thống nhất Ðài Loan bằng vũ lực, chấp nhận đối kháng với Mỹ.
    Khả năng tạo vùng đệm cho biên giới phiá nam của Trung Quốc và kiểm soát hoặc chiếm giữ khu vực Hoàng Sa và Trường Sa.

    Dù sao Trung Quốc cũng không loại trừ giả thuyết có chiến tranh nguyên tử cục bộ với Mỹ. Trong trường hợp này, chính sách chính của Trung Quốc trong chiến lược răn đe (stratégie de dissuasion) dựa trên nguyên tắc là một quốc gia với một lực lượng nguyên tử trội hẳn đối phương chưa chắc đã dám sử dụng vũ khí này, nếu tin là có thể bị đe dọa bởi một trả đũa lần thứ hai ( deuxième frappe ). Ðể có thể phản ứng lại sau lần tấn công nguyên tử thứ nhất, Trung Quốc tin rằng chỉ cần một số lực lượng chiến lược còn sót lại sau lần tấn công đầu tiên của đối thủ là đủ khả năng để phản ứng.( Theo tờ Bulletin of Atomic Scientist và SIPRI Yearbook 1999, Trung Quốc có độ 400 đầu đạn nguyên tử trong số đó, 20 hoả tiễn liên lục địa trang bị đầu đạn nguyên tử và 230 vũ khí nguyên tử khác trang bị cho hỏa tiễn, phi cơ và tiềm thủy đĩnh. 150 số còn lại được giữ làm trừ bị cho các hỏa tiễn tầm ngắn, phi cơ và đạn pháo nguyên tử, Frank W. Moore, Iðs Research Analyst, June 2000, Cambridge MA 02139 ) Cũng cần nói là lực lượng võ khí nguyên tử không nằm trong hệ thống chỉ huy của QÐNDGP mà trực thuộc Quân ủy Trung ương về vấn đề sử dụng. Nhằm mục đích bảo tồn được một phần lực lượng nguyên tủ sau trận tấn công đầu tiên, Quân ủy Trung ương đặt nặng vấn đề phân tán và ngụy trang các cơ sở quân sự, lừa địch, xây cất các xilo chứa hỏa tiễn đủ sức chịu đựng các vụ tấn công nguyên tử hay chất nổ không nguyên tử của hỏa tiễn hoặc phi cơ địch.
    Trung Quốc từ năm 1981 đã bắt đầu dàn ra khoảng 20 hỏa tiễn liên lục địa DF-5 với tầm xa 8060 dặm, 20 hỏa tiễn DF-4 tầm xa 2950 dặm, và một tiềm thủy đĩnh phóng hỏa tiễn có 12 hỏa tiễn JL-12 với tầm bắn 1054 dặm. Nhưng tiềm thủy đĩnh này chưa triển khai được hoàn toàn khả năng tác chiến. Ðể đối phó một phần nào với chiến lược hỏa tiễn chống hỏa tiễn (strategic defense initiative ) của Reagan, làm giảm bớt chiến lược ngăn đe của Trung Quốc, quốc gia này từ năm 1980 đã triển khai một số đơn vị hỏa tiễn dùng nhiên liệu đặc lưu động DF-31 để tránh bị oanh tạc như loại vũ khi chứa trong các xilo bất động. Dù sao thì vẫn có một khoảng cách lớn về phương tiện nếu chiến tranh nguyên tử xẩy ra giữa Mỹ và Trung Quốc. Hỏa tiễn của Trung Quốc hãy còn thiếu chính xác và còn cần một lực lượng lớn hơn để có thể trả đũa sau đợt tấn công đầu của địch thủ. Ngoài ra, những hệ thống tiền báo động và tình báo trên không trung chưa đủ để đề phòng mọi cuốc tấn công bởi hỏa tiễn.
  10. dongadoan

    dongadoan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/05/2004
    Bài viết:
    2.508
    Đã được thích:
    3
    Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Quân_G...n sửa chữa / chuyển vào 14:01 ngày 11/12/2007

Chia sẻ trang này