1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Toàn cầu hoá va đơi sống tinh thần người Việt

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi phuong_le, 03/08/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Toàn cầu hoá va đơi sống tinh thần người Việt

    Tác động của toàn cầu hóa đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam

    Mai Thị Quý
    Tạp chí Triết học

    Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã xây dựng cho mình một hệ thống các giá trị truyền thông, trong đó có đức tính cần cù và tiết kiệm. Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá kinh tế, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các giá trị đó theo những chiều hướng khác nhau, cả tích cực lẫn tiêu cực. Khi đất nước còn nghèo, hơn nữa, còn phải vượt qua muôn vàn thách thức mà quá trình toàn cầu hoá đặt ra, chúng.ta cần tiếp tục phát huy đặc tính cần cù và tiết kiệm, gắn cần cù với tiết kiệm. Đó vừa là cách đê chúng ta khẳng đinh và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa là phương thức tăng cường nội lực nhằm tạo đà cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.

    Có vẻ sẽ thật là ngớ ngẩn nếu như mỗi một người trong chúng ta lại không tự trả lời được những câu hỏi, như chúng ta là ai? chúng ta sinh ra từ cội nguồn nào? chúng ta thuộc về dân tộc nào và chúng ta có gì giống cũng như có gì khác với những con người ở các dân tộc khác?... Thế nhưng, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, những câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản như vậy lại khó có thể trả lời một cách dễ dàng, chính xác.

    Trước tiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng, mỗi một dân tộc trên thế giới đều sinh sống trong những điều kiện tự nhiên và xã hội không hoàn toàn giống nhau, thậm chí còn trái ngược nhau. Cũng chính vì vậy, ở mỗi dân tộc sẽ hình thành một nền văn hoá khác nhau với những phong tục, tập quán, tâm lý, thói quen, truyền thống, chuẩn mực đạo đức, lối sống, tư tưởng... (tức là những ý thức xã hội) khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội của chính dân tộc đó.

    Trước toàn cầu hoá, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc cũng đã diễn ra nhưng chủ yếu còn mang tính cá biệt và tự phát. Giờ đây, tình hình đã thay đổi khi toàn cầu hoá xuất hiện, đặc biệt là toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thông tin, đặc biệt là với sự xuất hiện của mạng thông tin toàn cầu (Internet), thế giới dường như được thu nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia cũng trở nên mỏng manh và chỉ mang tính tương đối. Toàn cầu hoá đã tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi, hiểu biết nhau hơn. Qua đó, mọi dân tộc đều có thể "cho" và "nhận", nghĩa là họ có thể họe tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn hoá của chính dân tộc mình.

    Tuy nhiên, giá trị bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ thể, vì vậy, một hiện tượng nào đó có thể có giá trị đối với cộng đồng người này mà không có giá trị, thậm chí là phản giá trị đối với cộng đồng người khác. Nhưng, trong toàn cầu hoá, các giá trị riêng của "thế giới người giàu vẫn được áp đặt lên "thế giới người nghèo", buộc họ phải chấp nhận một cách không tự giác mà lối sống thực dụng, hưởng thụ xa hoa là một điển hình. Chính nó đã tác động mạnh mẽ đến những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, trong đó có đức tính cần cù tiết kiệm.

    Cần cù là một trong những đức tính nổi bật của người Đông Á, trong đó có Việt Nam. Từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã phải chống chọi lại những điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt cùng với nạn ngoại xâm giày xéo liên miên. Quá trình đó đã rèn luyện cho người lao động đức tính cần cù "một nắng, hai sương" và tiết kiệm trong sinh hoạt để duy trì cuộc sống và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh "ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng", "cày đồng đang buổi ban trưa", hay "tát nước đêm trăng" đã trở nên quá đỗi quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Đó không chỉ là những hình ảnh đẹp, mà còn thể hiện đức tính cần cù, yêu lao động của nhân dân ta.

    Với tính cách một giá trị, cần cù có thể được hiểu là sự nhiệt tình với nghề nghiệp, lòng yêu lao động, yêu công việc, là tinh thần trách nhiệm đối với công việc, là đức tính kiên nhẫn, chịu khó trong lao động... nhằm đạt được kết quả lao động tất nhất. Trên bình diện xã hội, giá trị cần cù được hiểu là sự đề cao tinh thần yêu lao động đề cao tính năng động, sáng tạo trong lao động, đề cao hiệu quả của lao động? của cả cộng đồng.

    Trong thời kỳ trước đổi mới, những sai lầm trong việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và sự nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới đã ảnh hưởng tiêu cực đến đức tính cần cù truyền thống của người lao động. Tình trạng "cha chung không ai khóc", ?olắm vãi không ai đóng cửa chùa", đi làm theo kiểu "tối ngày đầy công"... trở nên phổ biến. Cơ chế phân phối bình quân, cào bằng đã khiến cho người lao động thờ ơ, không thiết tha với công việc và không quan tâm đến kết quả lao động của mình, hiện tượng lãng phí của công, lãng phí thời gian diễn ra khắp nơi dẫn đến sức lao động bị giảm sút, năng suất lao động thấp kém, nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng.

    Khi chuyển sang kinh tế thị trường, với việc giải quyết đúng đắn một loạt các vấn đề về sở hữu, tổ chức, quản lý, phân phối và cùng với đó là việc tăng cường tính tự chủ của các chủ thể kinh tế, chăm lo đến lợi ích thiết thân của người lao động... tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi người dân đã được kích thích mạnh mẽ. Qua đó, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó cũng được phát huy ở mức độ cao. Với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mọi người dân đã chủ động, tích cực, tự giác hăng say lao động với tinh thần trách nhiệm và hiệu quả lao động cao.

    Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém, năng suất lao động chưa cao. Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhưng về cơ bản, nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ công chiếm phần lớn, đời sống của đại đa số người dân còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, một thách thức lớn mà toàn cầu hoá kinh tế đặt ra là sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ. Hiện nay, ngay cả ở những nước phát triển những nước có năng lực cạnh tranh tốt, sự tích cực, khẩn trương trong lao động nhằm đạt năng suất và hiệu quả lao động cao vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, phẩm chất cần cù của người lao động Việt Nam là một yếu tố thực sự cần thiết để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

    Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến truyền thống cần cù của dân tộc ta theo những chiều hướng khác nhau, vừa tích cực, vừa tiêu cực. Trước hết, toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu và tạo điều kiện để phát huy đức tính cần cù, yêu lao động của đa số người dân. Điều này thể hiện ở chỗ:

    Thứ nhất, trong toàn cầu hoá, các quốc gia, các chủ thể kinh tế phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh gay gắt mà muốn thắng lợi, trước hết cần phải nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, lao động với cường độ cao. Đây thực sự là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam, nhất là trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn như hiện nay. Nhưng, nếu không đáp được yêu cầu đó cũng có nghĩa là chúng ta đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi toàn cầu hoá.

    Thứ hai, trong toàn cầu hoá, các chi nhánh của các Công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ngày càng nhiều ở Việt Nam và sử dụng một lực lượng lao động không nhỏ. Phải thừa nhận rằng, các Công ty, xí nghiệp này có cơ chế quản lý lao động và phân phối hợp lý theo kiểu tư bản nên luôn tạo ra được sự khẩn trương, tích cực, năng động và tự giác của người lao động. Đây là một đòi hỏi không chỉ của các chủ thể sử dụng lao động, mà còn là yêu cầu bên trong của mỗi người lao động nhằm đảm bảo lợi ích của chính họ.

    Thứ ba, toàn cầu hoá cũng đem đến cho người lao động nhiều cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao ở trong nước, cũng như nước ngoài tuỳ vào khả năng của mỗi người. Khi đã có việc làm và thu nhập ổn định, người lao động sẽ tích cực lao động hơn, hạn chế cảnh "nhàn cư vi bất thiện" vẫn thường xảy ra khi họ không có hoặc thiếu việc làm.

    Thứ tư, trong quá trình toàn cầu hoá, điều kiện lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn được cải thiện tất hơn trước rất nhiều, những thành tựu của khoa học công nghệ được ứng đụng vào sản xuất làm cho lao động nặng nhọc giảm dần, trong khi năng suất lao động lại tăng lên. Người lao động có điều kiện để yêu thích và say mê đối với công việc của mình và do vậy, nhịp sống cũng như không khí lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn đã trở nên sôi động hơn nhiều. Theo Tổng cục thống kê, năm 2001, ở nông thôn, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 21,02 giờ, lúc cao điểm lên tới 54,92 giờ. Đối với những lao động phi nông nghiệp, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 44,77 giờ. Ngay cả những người trên 60 tuổi cũng làm việc tới 26 - 38 giờ/tuần. Số giờ lao động trung bình như vậy là khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo chúng tôi, đó là một trong những dấu hiệu tích cực, chỉ báo giá trị cần cù của người dân Việt Nam hiện nay.
  2. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Tác động của toàn cầu hóa đến truyền thống cần cù, tiết kiệm của dân tộc Việt Nam
    Mai Thị Quý
    Tạp chí Triết học
    Với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc Việt Nam đã xây dựng cho mình một hệ thống các giá trị truyền thông, trong đó có đức tính cần cù và tiết kiệm. Trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hoá, trước hết là toàn cầu hoá kinh tế, đã và đang tác động mạnh mẽ đến các giá trị đó theo những chiều hướng khác nhau, cả tích cực lẫn tiêu cực. Khi đất nước còn nghèo, hơn nữa, còn phải vượt qua muôn vàn thách thức mà quá trình toàn cầu hoá đặt ra, chúng.ta cần tiếp tục phát huy đặc tính cần cù và tiết kiệm, gắn cần cù với tiết kiệm. Đó vừa là cách đê chúng ta khẳng đinh và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, vừa là phương thức tăng cường nội lực nhằm tạo đà cho sự phát triển ổn định và bền vững của đất nước.
    Có vẻ sẽ thật là ngớ ngẩn nếu như mỗi một người trong chúng ta lại không tự trả lời được những câu hỏi, như chúng ta là ai? chúng ta sinh ra từ cội nguồn nào? chúng ta thuộc về dân tộc nào và chúng ta có gì giống cũng như có gì khác với những con người ở các dân tộc khác?... Thế nhưng, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, những câu hỏi tưởng chừng rất đơn giản như vậy lại khó có thể trả lời một cách dễ dàng, chính xác.
    Trước tiên, chúng ta cần phải thừa nhận rằng, mỗi một dân tộc trên thế giới đều sinh sống trong những điều kiện tự nhiên và xã hội không hoàn toàn giống nhau, thậm chí còn trái ngược nhau. Cũng chính vì vậy, ở mỗi dân tộc sẽ hình thành một nền văn hoá khác nhau với những phong tục, tập quán, tâm lý, thói quen, truyền thống, chuẩn mực đạo đức, lối sống, tư tưởng... (tức là những ý thức xã hội) khác nhau, phản ánh tồn tại xã hội của chính dân tộc đó.
    Trước toàn cầu hoá, sự giao lưu văn hoá giữa các dân tộc cũng đã diễn ra nhưng chủ yếu còn mang tính cá biệt và tự phát. Giờ đây, tình hình đã thay đổi khi toàn cầu hoá xuất hiện, đặc biệt là toàn cầu hoá đang phát triển mạnh mẽ như trong giai đoạn hiện nay. Với sự phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ thông tin, đặc biệt là với sự xuất hiện của mạng thông tin toàn cầu (Internet), thế giới dường như được thu nhỏ lại, ranh giới giữa các quốc gia cũng trở nên mỏng manh và chỉ mang tính tương đối. Toàn cầu hoá đã tạo cơ hội để các dân tộc có thể gần gũi, hiểu biết nhau hơn. Qua đó, mọi dân tộc đều có thể "cho" và "nhận", nghĩa là họ có thể họe tập, tiếp thu những giá trị, tinh hoa của nhau để làm phong phú cho nền văn hoá của chính dân tộc mình.
    Tuy nhiên, giá trị bao giờ cũng mang tính lịch sử - cụ thể, vì vậy, một hiện tượng nào đó có thể có giá trị đối với cộng đồng người này mà không có giá trị, thậm chí là phản giá trị đối với cộng đồng người khác. Nhưng, trong toàn cầu hoá, các giá trị riêng của "thế giới người giàu vẫn được áp đặt lên "thế giới người nghèo", buộc họ phải chấp nhận một cách không tự giác mà lối sống thực dụng, hưởng thụ xa hoa là một điển hình. Chính nó đã tác động mạnh mẽ đến những giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam, trong đó có đức tính cần cù tiết kiệm.
    Cần cù là một trong những đức tính nổi bật của người Đông Á, trong đó có Việt Nam. Từ rất sớm, dân tộc Việt Nam đã phải chống chọi lại những điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt cùng với nạn ngoại xâm giày xéo liên miên. Quá trình đó đã rèn luyện cho người lao động đức tính cần cù "một nắng, hai sương" và tiết kiệm trong sinh hoạt để duy trì cuộc sống và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Hình ảnh "ăn cơm bằng đèn, đi cấy sáng trăng", "cày đồng đang buổi ban trưa", hay "tát nước đêm trăng" đã trở nên quá đỗi quen thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Đó không chỉ là những hình ảnh đẹp, mà còn thể hiện đức tính cần cù, yêu lao động của nhân dân ta.
    Với tính cách một giá trị, cần cù có thể được hiểu là sự nhiệt tình với nghề nghiệp, lòng yêu lao động, yêu công việc, là tinh thần trách nhiệm đối với công việc, là đức tính kiên nhẫn, chịu khó trong lao động... nhằm đạt được kết quả lao động tất nhất. Trên bình diện xã hội, giá trị cần cù được hiểu là sự đề cao tinh thần yêu lao động đề cao tính năng động, sáng tạo trong lao động, đề cao hiệu quả của lao động? của cả cộng đồng.
    Trong thời kỳ trước đổi mới, những sai lầm trong việc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và sự nóng vội trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới đã ảnh hưởng tiêu cực đến đức tính cần cù truyền thống của người lao động. Tình trạng "cha chung không ai khóc", ?olắm vãi không ai đóng cửa chùa", đi làm theo kiểu "tối ngày đầy công"... trở nên phổ biến. Cơ chế phân phối bình quân, cào bằng đã khiến cho người lao động thờ ơ, không thiết tha với công việc và không quan tâm đến kết quả lao động của mình, hiện tượng lãng phí của công, lãng phí thời gian diễn ra khắp nơi dẫn đến sức lao động bị giảm sút, năng suất lao động thấp kém, nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng.
    Khi chuyển sang kinh tế thị trường, với việc giải quyết đúng đắn một loạt các vấn đề về sở hữu, tổ chức, quản lý, phân phối và cùng với đó là việc tăng cường tính tự chủ của các chủ thể kinh tế, chăm lo đến lợi ích thiết thân của người lao động... tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mọi người dân đã được kích thích mạnh mẽ. Qua đó, đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó cũng được phát huy ở mức độ cao. Với chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta, mọi người dân đã chủ động, tích cực, tự giác hăng say lao động với tinh thần trách nhiệm và hiệu quả lao động cao.
    Việt Nam bước vào hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém, năng suất lao động chưa cao. Chúng ta đang tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhưng về cơ bản, nước ta vẫn còn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lao động thủ công chiếm phần lớn, đời sống của đại đa số người dân còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, một thách thức lớn mà toàn cầu hoá kinh tế đặt ra là sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ. Hiện nay, ngay cả ở những nước phát triển những nước có năng lực cạnh tranh tốt, sự tích cực, khẩn trương trong lao động nhằm đạt năng suất và hiệu quả lao động cao vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Vì vậy, phẩm chất cần cù của người lao động Việt Nam là một yếu tố thực sự cần thiết để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
    Tuy nhiên, toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến truyền thống cần cù của dân tộc ta theo những chiều hướng khác nhau, vừa tích cực, vừa tiêu cực. Trước hết, toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu và tạo điều kiện để phát huy đức tính cần cù, yêu lao động của đa số người dân. Điều này thể hiện ở chỗ:
    Thứ nhất, trong toàn cầu hoá, các quốc gia, các chủ thể kinh tế phải tham gia vào một cuộc cạnh tranh gay gắt mà muốn thắng lợi, trước hết cần phải nâng cao năng suất lao động, hiệu quả sản xuất, lao động với cường độ cao. Đây thực sự là một thách thức không nhỏ đối với Việt Nam, nhất là trong điều kiện nền kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn như hiện nay. Nhưng, nếu không đáp được yêu cầu đó cũng có nghĩa là chúng ta đã tự loại mình ra khỏi cuộc chơi toàn cầu hoá.
    Thứ hai, trong toàn cầu hoá, các chi nhánh của các Công ty xuyên quốc gia, các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài hoặc có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động ngày càng nhiều ở Việt Nam và sử dụng một lực lượng lao động không nhỏ. Phải thừa nhận rằng, các Công ty, xí nghiệp này có cơ chế quản lý lao động và phân phối hợp lý theo kiểu tư bản nên luôn tạo ra được sự khẩn trương, tích cực, năng động và tự giác của người lao động. Đây là một đòi hỏi không chỉ của các chủ thể sử dụng lao động, mà còn là yêu cầu bên trong của mỗi người lao động nhằm đảm bảo lợi ích của chính họ.
    Thứ ba, toàn cầu hoá cũng đem đến cho người lao động nhiều cơ hội tìm việc làm có thu nhập cao ở trong nước, cũng như nước ngoài tuỳ vào khả năng của mỗi người. Khi đã có việc làm và thu nhập ổn định, người lao động sẽ tích cực lao động hơn, hạn chế cảnh "nhàn cư vi bất thiện" vẫn thường xảy ra khi họ không có hoặc thiếu việc làm.
    Thứ tư, trong quá trình toàn cầu hoá, điều kiện lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn được cải thiện tất hơn trước rất nhiều, những thành tựu của khoa học công nghệ được ứng đụng vào sản xuất làm cho lao động nặng nhọc giảm dần, trong khi năng suất lao động lại tăng lên. Người lao động có điều kiện để yêu thích và say mê đối với công việc của mình và do vậy, nhịp sống cũng như không khí lao động ở cả thành thị lẫn nông thôn đã trở nên sôi động hơn nhiều. Theo Tổng cục thống kê, năm 2001, ở nông thôn, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 21,02 giờ, lúc cao điểm lên tới 54,92 giờ. Đối với những lao động phi nông nghiệp, số giờ lao động trung bình của một lao động trong một tuần là 44,77 giờ. Ngay cả những người trên 60 tuổi cũng làm việc tới 26 - 38 giờ/tuần. Số giờ lao động trung bình như vậy là khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Theo chúng tôi, đó là một trong những dấu hiệu tích cực, chỉ báo giá trị cần cù của người dân Việt Nam hiện nay.
  3. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Mặt khác, toàn cầu hóa cũng đem đến nguy cơ xem nhẹ, hay chí ít là chưa phát huy đúng mức truyền thống cần cù của dân tộc. Có thể thấy rằng, mặc dù tạo cơ hội có việc làm cho không ít người, nhưng toàn cầu hoá cũng có thể khiến nhiều người không có hoặc mất việc làm do hạn chế về trình độ, không đáp ứng được yêu cầu của công việc hay do Công ty bị phá sản, thua lỗ, khủng hoảng trong quá trình cạnh tranh toàn cầu. Trong điều kiện như vậy, người lao động nếu có muốn cần cù e rằng cũng khó, bởi lẽ, họ đã bị mất việc làm, hoặc khó tìm được việc làm.
    Thêm nữa, do ảnh hưởng của lối sống thực dụng, hưởng thụ từ bên ngoài tràn vào, một bộ phận lớp trẻ ngày nay quay lưng lại với giá trị truyền thống của dân tộc, thích ăn chơi hưởng thụ xa hoa, lười lao động, hay đòi hỏi mà quên đi nghĩa vụ, trách nhiệm của bản thân mình với gia đình, với xã hội, chỉ muốn ?olàm chơi" nhưng "ăn thật", thậm chí không làm mà vẫn có thật nhiều tiền để tiêu xài những thứ tiện nghi sang trọng, đắt tiền.
    Một bộ phận sinh viện thời nay rất lười học, học chỉ mang tính chất đối phó, không ít sinh việc đã đua đòi mà dẫn đến hư hỏng. Một số thanh, thiếu niên không lo học tập, lao động mà thích sống buông thả với ma tuý, với thuốc lắc... Gần đây, tình trạng này đang ở mức báo động. Thậm chí, ngay cả ở các công sở, trong giờ làm việc, nhân viên vẫn có thể "nhởn nhơ" ngoài đường, ở các quán trà hoặc ngồi chơi game trên máy tính. Nhiều thanh thiếu niên có thể ngồi hàng giờ trên mạng, nhưng cũng phải để học tập hay cập nhật những thông tin cần thiết, mà là để "chat" những chuyện không đâu với những người "quen ảo? một cách vô bổ. Hiện tượng lãng phí thời gian diễn ra khá phổ biến. Đã xuất hiện những suy nghĩ lệch lạc cho rằng, cuộc sống thật là ngắn ngủi, vì vậy cần phải sống gấp, phải hưởng thụ để sau này khỏi phải hối tiếc, không việc gì phải "nai lưng làm quần quật" cho khổ. Suy nghĩ đó, lối sống đó đã thực sự trở thành nỗi lo ngại đối với tương lai của dân tộc.
    Tất nhiên, bản thân việc sử đụng những hàng hoá chất lượng cao hay nhu cầu được sử dụng những hàng hoá đó là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với sự phát triển của xã hội cùng với nhu cầu ngày càng cao của con người. Nhưng, không phải lúc nào và ở đâu, tư tưởng tiêu thụ cũng mang ý nghĩa tích cực. Với những quốc gia mà ở đó, người dân có thu nhập cho thì nhu cầu tiêu thụ vừa nâng cao mức sống của người dân, vừa là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất phát triển và trong điều kiện như vậy, nó là một giá trị. Ngược lại, đối với những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người thấp như các nước đang phát triển và kém phát triển hiện nay, việc ?obắt chước" lối sống của một xã hội tiêu thụ lại là không phù hợp. Sẽ có không ít vấn đề tiêu cực về kinh tế, xã hội, tâm lý, tư tưởng... xảy ra khi người dân có nhu cầu tiêu dùng rất cao, thậm chí là quá cao vượt lên gấp nhiều khả năng thanh toán của họ.
    Chính vì vậy, cần phải làm sao cho mọi người dân hiểu rằng, giữa nước ta với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới còn có một khoảng cách rất xa. Bởi thế, để rút ngắn khoảng cách lạc hậu này, chỉ có cách là trong khi thế giới "đi" được một bước thì chúng ta "phải" chạy được hai hoặc ba bước, nếu không chúng ta sẽ lâm vào tình trạng "đi lên trong một cầu thang chạy xuống" mà thôi. Trong điều kiện đó, trước tiên cần phát huy đức tính cần cù vốn có của mỗi người dân Việt Nam. Tất cả chúng ta cần phải chăm chỉ hơn, tích cực hơn, sáng tạo hơn trong lao động, học tập, công tác để làm giàu cho bản thân và cho đất nước. Theo chúng tôi, bài học của trong Malaixia là rất có giá trị đối với Việt Nam sinh trong quá trình hội nhập. M.Mohamed như từng nhấn mạnh: "Thế giới đã không hạ cố đến chúng tôi. Chúng tôi đã phải nắm cổ thế giới và đưa thế giới đến với mình. Chúng tôi đã phải làm việc không mệt mỏi. Việc chúng tôi có một nền kinh tế thông thoáng đến như vậy và một xã hội mở cửa dẫn đến như vậy là kết quả của những chính sách thận trọng, của sự quyết tâm bền bỉ và của cả một đại dương mồ hôi nước cả mắt".
    Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, chỉ cần cù thôi thì chưa đủ, nó cần phải gắn với sáng tạo và nắm bắt được những công nghệ tiên tiến để áp dụng vào sản xuất.
    Nếu trước đây cha ông ta nói "năng nhặt, chặt bị", thì bây giờ chúng ta cần bổ sung rằng: không chỉ "năng nhặt?, mà còn phải "biết nhặt? nữa mới có thể ?ochặt bị" được. Trong truyền thống của dân tộc ta, cần cù luôn gắn liền với tiết kiệm. Lối sống tiết kiệm xuất phát từ triết lý sống của người việt Nam rằng, mỗi người phải có trách nhiệm với mình, với gia đình, xã hội và các thế hệ mai sau. Hơn nữa, do cuộc sống quá khó khăn lại không ổn định, nên người Việt Nam thường có tâm lý đành dụm đề phòng những trường hợp bất trắc xảy ra theo kiểu "tích cốc phòng cơ, tích y phong hàn" và ghét thói xa hoa phù phiếm "vung tay quá trán", "ném tiền qua cửa sổ", "bóc ngắn, cắn dài" hay "kiếm củi ba năm thiêu một giờ??
    Trong những năm gần đây, do đời sống của đại đa số người dân đã được cái thiện cộng với ảnh hưởng của lối sống phương Tây, nên đã xuất hiện xu hướng lao vào hưởng thụ, tiêu xài lãng phí, xa hoa cả trong sinh hoạt cá nhân cũng như trong sinh hoạt tập thể. Các nhà hàng mọc lên như nấm với đủ loại "đặc sản". Người ta kéo đến các nhà hàng ngày càng đông. Có người đến để thưởng thức, nhưng cũng không ít người đến đó chỉ vì muốn chơi sang và thể hiện "đẳng cấp" của mình. Ăn uống không hết thì đổ đi, thậm chí không dùng vẫn gọi chơi cho oai. Cưới xin, ma chay, sinh nhật, giỗ chạp... thì tổ chức linh đình, tốn kém, lãng phí và vì vậy, làm mất cả ý nghĩa tất đẹp của nó. Nhiều người thấy sợ mỗi khi cầm trong tay một tấm thiệp mời, thay vì thấy mừng cho đôi bạn trẻ. Đó là một thực tế đã và đang xảy ra ở nước ta hiện nay. Thực tế này không những có ảnh hưởng không tốt đến lối sống tiết kiệm vốn có của nhân dân ta, mà còn là một trong những nguyên nhân thúc đẩy con người phải kiếm tiền bằng mọi cách để hưởng thụ, kể cả vi phạm pháp luật hay vi phạm đạo đức.
    Đặc biệt, hiện tượng lãng phí của công, tham nhũng để ăn chơi phè phỡn, tiêu "tiền chùa" đang nổi lên như một quốc nạn. Về vấn đề này, Đảng ta đã nhận định: "Nước ta còn nghèo và kém phát triển. Chúng ta lại chưa thực hiện tất cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, đồn vốn cho đầu tư phát triển". Ông LL Houng Lee, Trưởng đại điện Quỹ tiền tệ quốc tế IMF tại Việt Nam, đã nhận định rằng, Việt Nam có thể phải mất 197 năm để đuổi kịp Singapo nếu như hai nước cùng giữ mức độ tăng trưởng như hiện nay, rằng, Việt Nam cần phải tiết kiệm hơn nữa để có thể hỗ trợ thêm cho các khoản đầu tư nếu không muốn lệ thuộc hoàn toàn vào vốn nước ngoài. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nhất thiết phải cần kiệm để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phải khắc phục xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa lãng phí. Đó là một trong những nhân tố quyết định thành công trong sự nghiệp đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta.
    Cần phải nhận thức rằng, tiết kiệm không có nghĩa là bủn xỉn. Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ: ?oViệc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn chứ không phải là tiết kiệm" và nhắc nhở chúng ta rằng: "Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng".
    Trong những năm gần đây, mặc dù nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể, nhưng Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người ở mức thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là ở các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Chúng ta không thể bắt chước lối sống tiêu xài phung phí khi điều kiện chưa cho phép. Vì vậy, cần phải tích cực động viên người tiết kiệm hơn nữa trong tiêu dùng, cũng như trong sản xuất. Để tăng hiệu quả sản xuất, cần tránh hiện tượng lãng phí thời gian và tiền của đang diễn ra tràn lan ở các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc thành phần kinh tế Nhà nước thành phần kinh tế được coi là đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Nhà nước cần phải có kế hoạch, biện pháp tích cực nhằm tạo ra nhiều việc làm mới hơn nữa, đồng thời, phải có cơ chế thuận lợi để người dân tự tạo được việc làm nhằm giảm tới mức thấp nhất lực lượng lao động đã thừa trong xã hội. Các dự án đầu tư cần phải được lựa chọn kỹ càng, đúng hướng, tránh đầu tư tràn lan làm giảm hiệu quả sử đụng vấn.
    Tuy vậy, vẫn phải mạnh dạn đầu tư vốn vào những đề án thực sự cần thiết đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, cần phải tiếp tục tăng cường chống tham nhũng, chống lãng phí của công hoặc làm thất thoát tiền của của Nhà nước. Thực hiện tất tiết kiệm trong sản xuất sẽ làm giảm chi phí đầu vào của hàng hoá, tức là sẽ hạ được giá thành sản phẩm và như vậy, cũng có nghĩa là làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở thị trường trong nước cũng như thị trường quốc tế, góp phần khẳng định và nâng cao vị thế của nước ta trong quá trình hội nhập.
    Cần phải nhấn mạnh rằng, trong điều kiện đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, mỗi người Việt Nam không được phép quên đi truyền thống cần cù, tiết kiệm đã có từ bao đời nay của dân tộc để chạy theo lối sống hưởng thụ, xa hoa. Điều đó không chỉ khẳng định bản sắc văn hoá riêng của dân tộc, mà quan trọng hơn, còn tăng thêm nội lực cho sự phát triển đất nước trong kỷ nguyên toàn cầu hoá.
    Theo Tạp chí Triết học
  4. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế hiện nay
    Nguyễn Tuấn Dũng
    Tạp chí Triết học
    Chủ quyền quốc gia là thuật ngữ dùng để chỉ quyền làm chủ thiêng liêng, bất khả xâm phạm của một quốc gia độc lập nhất định, được thể hiện trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao và được đảm bảo toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt, cả lập pháp, hiến pháp lẫn tư pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó.
    Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lý thiết yếu của một quốc gia độc lập, được thể hiện trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất được Hiến chương Liên hiệp quốc khẳng định là tôn trọng và bảo đảm sự bình đẳng về chủ quyền quốc gia, không một quốc gia nào được can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ quyền của một quốc gia độc lập khác.
    Việc bảo đảm chủ quyền của mỗi quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, chịu sự tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, quân sự? Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin được nêu lên một vài suy nghĩ về chủ quyền quốc gia Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay.
    Toàn cầu hoá kinh tế hiện nay có tính hai mặt vừa là kết quả tất yếu và là yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người, vừa là sản phẩm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Với tư cách là lực lượng sản xuất của xã hội loài người phát triển đến giai đoạn hiện nay, nó có tính tiến bộ lịch sứ và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Với tư cách là quan hệ sán xuất chiếm vị trí chủ đạo trên thế giới hiện nay (quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang mở rộng trên toàn cầu), nó tất yếu có lợi cho quyền lực kinh tế, chính trị của các nước phát triển phương Tây.
    Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay không chỉ là vấn đề kinh tế thuần tuý. Nó tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước ta, cho phép chúng ta tiếp cận với nền văn minh công nghiệp của thế giới, đồng thời cũng đặt ra rất nhiều thách thức đối với chúng ta về chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh...
    Xem xét từ góc độ chủ quyền quốc gia, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay vừa có nhưng tác động thuận lợi, vừa đặt ra những thách thức nhất định. Trên một ý nghĩa nào đó, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, là một cơ hội để chúng ta phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ra cơ sở vật chất cho CHXH và do đó mà có điều kiện và khả năng thực tế để bảo đảm vững chắc chủ quyền quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, chúng ta có nhiều cơ hội để tiếp cận nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, học hỏi những kinh nghiệm quản lý xã hội, tiếp thu nhưng tinh hoa của nền văn minh công nghiệp và sử dụng tất cả những cái đó đề tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia của mình.
    Tuy nhiên, điều đáng quan tâm hơn là, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, chủ quyền quốc gia đang phải đối đầu với nhiều thách thức. Những thách thức đó khó nhận biết hơn, mang sắc thái mới hơn trước đây (trong điều kiện có chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc). Đó là những thách thức được che dấu dưới những chiếc áo khoác nhiều màu sắc hấp dẫn của lợi ích kinh tế, của sự cám dỗ về vật chất, được nhìn nhận qua những lăng kính ảo của tham vọng cá nhân, của những chuẩn mực giá trị đạo đức, lối sống sai lệch.
    Báo chí phương Tây ra sức tuyên truyền rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, chủ quyền dần dần mất đi, khái niệm chủ quyền đã lỗi thời? Sự thật hoàn toàn không phải như vậy! Đó chỉ là những luận điệu mở đường cho việc tiến hành xâm phạm chủ quyền, can thiệp chủ quyền đối với các nước đang phát triển. Cần thấy rằng, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là một xu thế phát triển trong điều kiện thế giới vẫn ở vào thời đại quốc gia dân tộc, quan niệm "chủ quyền quốc gia" vẫn là chuẩn tắc hành động cao nhất của các bên tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
    Nước ta tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là một tất yêu khách quan, nhưng trong điều kiện bất lợi là nền kinh tế của chúng ta còn kém phát triển. Trong điều kiện đó, việc đảm bảo xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gặp rất nhiều khó khăn, chủ quyền về kinh tế luôn bị đe dọa bởi hàng trăm, hàng ngàn mánh khoé mưu mô hết sức tinh vi và xảo quyệt của các đối tác bên ngoài. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng ta một lần nữa khẳng định chủ trương ?oĐẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đồng thời tăng cường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là một quyết sách chiến lược, phản ánh ý chí và lợi ích của nhân dân ta, dân tộc ta trong bảo đảm chủ quyền quốc gia về kinh tế. Để biến ý chí đó thành hiện thực, chúng ta phải luôn cảnh giác và phải có những biện pháp hữu hiệu, phải vượt qua nhiều thách thức, nhiều cạm bẫy không dễ nhận thấy.
    Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta tất yếu phải hội nhập với các thông lệ quốc tế, nhưng điều đó không có nghĩa là từ bỏ chủ quyền quốc gia để tuân theo chúng một cách vô điều kiện và bằng mọi giá. Các thông lệ, quy tắc và định chế quốc tế phổ biến hiện nay đều do các nước tư bản phát triển chi phối và áp đặt, đều xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của họ, có mặt bất công bằng, bất hợp lý. Tuy thế, hiện nay các nước đang phát triển đang tiến hành cuộc đấu tranh kiên trì quyết liệt có hiệu quả để ngăn cản việc ban hành những quy tắc, định chế quốc tế bất bình đẳng, bất lợi. Vì vậy, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là nguyên tắc không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà cao hơn, lớn hơn là ý nghĩa bảo vệ chủ quyền quốc gia.
    Để bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:
    Một là, cần có chiến lược tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế một cách chủ động tích cực với một ?olộ trình " phù hợp. Không nên cho rằng vì toàn cầu hoá kinh tế mang dấu ấn "tư bản chủ nghĩa", có ảnh hưởng xấu nên không đám hoặc không tự nguyện tham gia. Để không bỏ lỡ các cơ hội phát triển mà toàn cầu hoá kinh tế đưa lại, chúng ta cần có thái độ tích cực, chủ động. Hiện nay, đối mặt với những vấn đề những ảnh hưởng xấu của toàn cầu hoá kinh tế đưa lại, chúng ta cần nghiên cứu hết sức nghiêm túc, hết sức cẩn thận và có đối sách hữu hiệu tương ứng. Nhưng đối với xu thế phát triển mang ý nghĩa tiến bộ, về tống thể, chúng ta phải có thái độ khẳng định và tích cực, đồng thời phải lợi dụng triệt để nhưng cơ hội do nó đem lại để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo ra nền tảng vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền quốc gia.
    Hai là, cần thực hiện tốt phương châm tranh chủ và lơi dụng mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, trong quá trình tham gia toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là ?ocon dao hai lưới", mặt tích cực và tiêu cực mà nó mang lại cho từng quốc gia sẽ không giống nhau. Do vậy, bước đi của chúng ta tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế cần phải hết sức thận trọng để có thể tranh thủ và lợi đụng triệt để mặt tích cực trên cơ sở phát huy thế mạnh của chính mình, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những mặt tiêu cực do nó đem lại. Đó cũng chính là phương thức để chúng ta từng bước khẳng định chủ quyền quốc gia thực sự của mình, không để các nước khác chèn ép và áp đặt quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội của họ đối với chúng ta. Trên thực tế, những bất công, bất bình đẳng vẫn bị che đậy dưới những hình thức "công bằng" bên ngoài. Báo chí phương Tây thường hay rêu rao rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế "trong tôi có bạn, trong bạn có tôi", mức độ phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng lên, các nước cùng ở trên một con thuyền, "vinh cùng vinh, nhục cùng nhục"... Điều đó hoàn toàn trái ngược với thực tế. Bởi vì, khỉ một số nền kinh tế nào đó gặp khó khăn (nhất là đối với những nước như nước ta thường rất dễ bị tổn thương) thì một nền kinh tế khác (thường là tư bản phương Tây) được hưởng lợi. Sự rủi ro của một hoặc một số quốc gia có thể thúc đẩy sự thành công của một quốc gia khác. Do vậy, trong tiến trình tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế, không thể coi nhẹ nhưng bất bình đẳng, không công bằng trên thực tế mà nguyên tắc tự do, bình đẳng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang che đậy, không thể chỉ có hô hào "hội nhập" mà không tính đến chủ quyền quốc gia. Vấn đề có tính nguyên tắc và đặt lên hàng đầu mà chúng ta phải luôn luôn quán triệt và thực toàn nhất quán khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, vì độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
    Ba là, cần phát huy và nghiên cứu năng lực nội sính, khả năng cạnh tranh và khả năng "tự miễn dịch " trước các tác động tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế phát triển khách quan mà các nước tham gia phải tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế nhất định. Nếu chúng ta không tự "lớn lên", không tự "trưởng thành" thì sớm muộn cũng bị mất chủ quyền quốc gia một cách rất "êm dịu?. Mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay còn là ý muốn chủ quan của thế giới phương Tây, của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là một ?ocuộc chiến" không cân sức đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như nước ta. Do đó, nếu chúng ta không tự tìm ra và phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, không tìm ra được những phương thức "tác chiến" phù hợp, có hiệu quả thì trước sau cũng bị các thế lực "cá lớn" nuốt trôi.
    Bốn là, việc hoạch định và thực thi mọi chủ trương, chính sách ở tất cả các cấp, các ngành trong quá trình tham gia toàn cầu hóa kinh tế cần được đặt trong mối tương quan giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Cần thấy rằng, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế không chỉ thuần tuý vì lợi ích kinh tế, vì lợi nhuận, bất chấp mọi lợi ích khác của quốc gia, của dân tộc. Thế giới ngày nay đang xuất hiện một quá trình "thực dân hoá" kiểu mới thông qua quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Trên một ý nghĩa nào đó, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là sự bành trướng của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đi liền với nó là các giá trị chính trị, tinh thần, đạo đức tư sản. Các công cụ tài chính, vốn, mậu dịch, thương mại đang được các nước tư bản phát triển sứ dụng như những "vũ khí" lợi hại nhất để "thôn tính", "quy phục" những quốc gia không cùng lợi ích, không cùng ý thức hệ với họ. Đó là một thực tế nghiệt ngã mà chúng ta không thể coi thường trong quá trình tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế. Đặc biệt, trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế đang đặt ra nhiều bài toán hết sức hóc búa cần có lời giải chính xác. Hiện nay, một hoạt động nào đó tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, trước mắt có thể đưa lại những lợi ích kinh tế lớn, tưởng chừng như vô hại về quốc phòng - an ninh, nhưng sẽ là một nấc thang cực kỳ nguy hiểm trong ý đồ chiến lược "thôn tính" của chủ nghĩa tư bản mà ta không dễ thấy ngay. Đó hoàn toàn không phải là sự "tự huyễn hoặc mình" như một số luận điệu đang rêu rao, mà là một thực tế đã và đang gây hậu quả nghiêm trọng cho việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia.
    Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế và bảo vệ chủ quyền quốc gia là hai mặt, hai quá trình vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là chúng ta cần xác định đúng những quyết sách chiến lược, những bước đi cụ thể, phù hợp, hết sức tỉnh táo để đảm bảo cho cả hai quá trình đó đều phát triển theo chiều thuận.
    Theo Tạp chí Triết học
  5. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam trước những đòi hỏi của thực tiễn
    Mai Hải Oanh
    Tạp chí Cộng sản
    1. Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, thậm chí có những doanh nghiệp không hề tiếc tiền mời công ty nước ngoài vào hoạch định văn hóa doanh nghiệp cho công ty mình. Học tập văn hóa doanh nghiệp tiên tiến nước ngoài đã trở thành tư duy mới của các nhà doanh nghiệp Việt Nam.
    Văn hóa doanh nghiệp khởi nguồn từ nước Mỹ, sau đó được Nhật Bản xây dựng và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, văn hóa doanh nghiệp phải bám sâu vào nền văn hóa dân tộc mới phát huy được tối đa hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa văn hóa doanh nghiệp với bản sắc văn hóa dân tộc, người ta đã hình thành khái niệm văn hóa giao thoa, theo đó, các công ty đa quốc gia luôn biết kết hợp lợi ích của mình với văn hóa doanh nghiệp của nước chủ nhà.
    Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự chuyển đổi cơ chế kinh doanh, các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước phải trở thành đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ. Doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh thị trường gay gắt nhất thiết phải tiến hành xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
    Văn hóa doanh nghiệp là sự tổng hòa của quan niệm giá trị, tiêu chuẩn đạo đức, triết lý kinh doanh, quy phạm hành vi, ý tưởng kinh doanh, phương thức quản lý và quy tắc chế độ được toàn thể thành viên trong doanh nghiệp chấp nhận, tuân theo. Văn hóa doanh nghiệp lấy việc phát triển toàn diện con người làm mục tiêu cuối cùng. Cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp là tinh thần doanh nghiệp và quan điểm giá trị của doanh nghiệp.
    Trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp đều nỗ lực xây dựng một hệ thống quan điểm giá trị để công nhân viên chức chấp nhận, tạo ra sự hài hòa trong nội bộ doanh nghiệp, một không khí văn hóa tích cực để phát huy thế mạnh văn hóa của tập thể, tăng cường nội lực và sức mạnh của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp là một giai đoạn phát triển của tư tưởng quản lý doanh nghiệp hiện đại, thể hiện sự chuyển dịch chiến lược phát triển kỹ thuật nhằm tạo nên những sản phẩm hàm chứa hàm lượng văn hóa cao. Bởi thế, có thể coi văn hóa doanh nghiệp là yếu tố tối quan trọng của thực tiễn doanh nghiệp đương đại.
    Văn hóa của quốc gia này nếu muốn bén rễ vào một quốc gia khác, một dân tộc khác mà không ăn khớp với bản sắc văn hóa dân tộc nước đó tất sẽ bị văn hóa bản địa bài xích, gạt bỏ. Vì thế, văn hóa doanh nghiệp của xí nghiệp dứt khoát phải coi bản sắc văn hóa dân tộc bản địa là cơ sở để phát triển. Bản chất của văn hóa doanh nghiệp là đối nội phải tăng cường tiềm lực, quy tụ được sức sáng tạo của công nhân viên chức, khích lệ họ sáng tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp; đối ngoại phải được xã hội bản địa chấp nhận. Cả hai mặt này đều liên quan tới văn hóa dân tộc sở tại, liên quan tới quan niệm giá trị, đặc trưng hành vi của dân tộc đó. Nếu doanh nghiệp biết xây dựng văn hóa doanh nghiệp trên cơ sở bản sắc văn hóa dân tộc mà họ đang sống thì họ sẽ thành công, còn nếu chỉ biết du nhập nguyên xi mô hình văn hóa doanh nghiệp nước ngoài, không gắn kết với văn hóa bản địa, họ sẽ thất bại.
    2. Mỹ, Nhật là các quốc gia quản lý hiệu quả các doanh nghiệp của mình vì họ biết xây dựng văn hóa doanh nghiệp hợp lý, kích thích được hứng thú lao động và niềm say mê sáng tạo của công nhân. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào việc các nhà quản lý doanh nghiệp biết gắn kết văn hóa doanh nghiệp với văn hóa của nơi sở tại.
    Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, mỗi nước phải biết lựa chọn một hướng đi đúng đắn để phát triển và quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp mình. Điều đó có thể thấy rõ khi chúng ta quan sát mô hình quản lý doanh nghiệp Nhật Bản. Một mặt, người Nhật tiếp thu cách quản lý doanh nghiệp và kỹ thuật tiên tiến của Mỹ; mặt khác, các doanh nghiệp Nhật đã chú trọng thích đáng đến việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, làm cho bản sắc văn hóa dân tộc hòa quyện trong văn hóa doanh nghiệp.
    Ai cũng biết sau thế chiến thứ hai, trong khi tiếp thu ở quy mô lớn hệ thống lý luận quản lý tiên tiến của Mỹ và châu Âu, Nhật Bản đã biết gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do vốn là cơ sở của lý luận quản lý Âu, Mỹ để giữ lại văn hóa quản lý kiểu gia tộc. Vì sao vậy? Vì chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá nhân xung đột với văn hóa truyền thống của Nhật Bản. Văn hóa Nhật Bản suy cho cùng hòa đồng gắn bó mật thiết với tinh thần ?otrung thành hiếu đễ? của Khổng Tử. Với sự lựa chọn khôn ngoan đó, các doanh nghiệp Nhật Bản đã làm cho văn hóa doanh nghiệp hòa nhập với bản sắc văn hóa dân tộc, sáng tạo ra hệ thống quản lý độc đáo kiểu Nhật Bản. Cốt lõi của quản lý Nhật Bản là chế độ làm việc suốt đời, trật tự công lao hằng năm, công đoàn nằm trong nội bộ doanh nghiệp. Đây thực sự là ba bí quyết lớn của quản lý Nhật Bản. Rõ ràng, một trong những nguyên nhân làm cho các công ty lớn của Nhật phát triển mạnh mẽ chính là họ biết gắn công nghệ, kỹ thuật, cách thức quản lý doanh nghiệp hiện đại với văn hóa Nhật vốn lấy trung hiếu làm gốc.
    So với châu Âu, văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ cũng có những điểm khác biệt. Mặc dù đa số người Mỹ là người Anh và người châu Âu di cư, nhưng khi sang lục địa mới, họ nuôi dưỡng trong mình chí tiến thủ mạnh mẽ, tinh thần chú trọng thực tế cộng với tinh thần trách nhiệm nghiêm túc. Tất cả những điều đó đã tạo nên một bản sắc văn hóa mới ?" bản sắc văn hóa Mỹ. Người Mỹ cho rằng, ai cũng có quyền lợi hưởng cuộc sống hạnh phúc tự do bằng sức lao động chính đáng của họ. Bản sắc văn hóa Mỹ làm cho người ta học được chữ tín trong khế ước và tất cả mọi người đều bình đẳng về cơ hội phát triển: ai nhanh hơn, thức thời hơn, giỏi cạnh tranh hơn thì người đó giành thắng lợi. Có thể nói, ý thức suy tôn tự do, chú trọng hiệu quả thực tế, phóng khoáng, khuyến khích phấn đấu cá nhân đã trở thành nhịp điệu chung của văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ. Đây là những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu cho các nước phát triển trong quá trình tạo dựng văn hóa doanh nghiệp nhằm phát triển đất nước.
    3. Việt Nam là quốc gia có hàng nghìn năm văn hiến. Qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, dân tộc Việt Nam đã xây dựng nên hệ quan điểm giá trị, nguyên tắc hành vi và tinh thần cộng đồng mang bản sắc Việt Nam đậm nét. Sự ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ và văn hóa phương Tây đã khiến cho văn hóa Việt Nam đa dạng, nhiều màu sắc. Hơn nữa, 54 dân tộc trên đất nước ta là 54 nền văn hóa khác nhau, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, một mặt, chúng ta phải tích cực tiếp thu kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp của các nước phát triển. Mặt khác, cần nỗ lực xây dựng văn hóa doanh nghiệp tiên tiến, hài hòa với bản sắc văn hóa dân tộc, với văn hóa từng vùng, miền khác nhau thúc đẩy sự sáng tạo của tất cả các thành viên trong các doanh nghiệp khác nhau.
    Đặc điểm nổi bật của văn hóa dân tộc là coi trọng tư tưởng nhân bản, chuộng sự hài hoà, tinh thần cầu thực, ý chí phấn đấu tự lực, tự cường? đây là những ưu thế để xây dựng văn hóa doanh nghiệp mang bản sắc Việt Nam trong thời hiện đại. Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam cũng có những điểm hạn chế: người Việt Nam phấn đấu cốt để ?ovinh thân phì gia?, yêu thích trung dung, yên vui với cảnh nghèo, dễ dàng thoả mãn với những lợi ích trước mắt, ngại cạnh tranh; tư tưởng ?otrọng nông khinh thương? ăn sâu vào tâm lý người Việt đã cản trở không nhỏ đến việc mở rộng kinh tế thị trường, làm ăn; tập quán sinh hoạt tản mạn của nền kinh tế tiểu nông không ăn nhập với lối sống hiện đại; thói quen thủ cựu và tôn sùng kinh nghiệm, không dám đổi mới, đột phá gây trở ngại cho sự phát triển của các doanh nghiệp hiện đại?
    Tuy nhiên, trong xã hội tri thức ngày nay, những mặt hạn chế dần được khắc phục bởi trình độ giáo dục của mọi người ngày càng được nâng cao, quan điểm về giá trị cũng có những chuyển biến quan trọng. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế thế giới, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, quản lý kinh doanh doanh nghiệp cần phải được tổ chức lại trên các phương diện và giải quyết hài hòa các mối quan hệ: quan hệ thiên nhiên với con người, quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa dân tộc và nhân loại?
    Ngày nay, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải có những bước tính khôn ngoan, lựa chọn sáng suốt. Không thể để xảy ra tình trạng quốc tế hóa văn hóa doanh nghiệp, mà phải trên cơ sở văn hóa Việt Nam để thu hút lấy tinh hoa của nhân loại, sáng tạo ra văn hóa doanh nghiệp tiên tiến nhưng phù hợp với tình hình và bản sắc văn hóa Việt Nam.
    Từ cái nhìn vĩ mô, có thể thấy quá trình xác lập và xây dựng văn hóa doanh nghiệp không ngừng thay đổi theo sự phát triển của thời đại và của dân tộc. Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay có 4 xu hướng chủ yếu phát triển của văn hóa doanh nghiệp: 1- Tôn trọng con người với tư cách là chủ thể hành vi, coi trọng tính tích cực và tính năng động của con người trong kinh doanh, coi việc nâng cao tố chất của con người là điều kiện quan trọng đầu tiên của phát triển doanh nghiệp; 2- Coi trọng chiến lược phát triển và mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp để bồi dưỡng ý thức văn hóa doanh nghiệp cho toàn thể công nhân viên chức; 3- Coi trọng việc quản lý môi trường vật chất và tinh thần của doanh nghiệp, tạo ra một không gian văn hóa tốt đẹp, bồi dưỡng ý thức tập thể và tinh thần đoàn kết nhằm cống hiến sức lực và trí tuệ cho doanh nghiệp; 4- Coi trọng vai trò tham gia quản lý của công nhân viên chức, khích lệ tinh thần trách nhiệm của tất cả các thành viên trong doanh ngiệp.
    Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, văn hóa doanh nghiệp Việt Nam có 4 đặc điểm nổi bật:
  6. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    1. Những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm đến việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, thậm chí có những doanh nghiệp không hề tiếc tiền mời công ty nước ngoài vào hoạch định văn hóa doanh nghiệp cho công ty mình. Học tập văn hóa doanh nghiệp tiên tiến nước ngoài đã trở thành tư duy mới của các nhà doanh nghiệp Việt Nam.
    Văn hóa doanh nghiệp khởi nguồn từ nước Mỹ, sau đó được Nhật Bản xây dựng và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, văn hóa doanh nghiệp phải bám sâu vào nền văn hóa dân tộc mới phát huy được tối đa hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa văn hóa doanh nghiệp với bản sắc văn hóa dân tộc, người ta đã hình thành khái niệm văn hóa giao thoa, theo đó, các công ty đa quốc gia luôn biết kết hợp lợi ích của mình với văn hóa doanh nghiệp của nước chủ nhà.
    Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự chuyển đổi cơ chế kinh doanh, các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp nhà nước phải trở thành đơn vị sản xuất kinh doanh tự chủ. Doanh nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh thị trường gay gắt nhất thiết phải tiến hành xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
    Văn hóa doanh nghiệp là sự tổng hòa của quan niệm giá trị, tiêu chuẩn đạo đức, triết lý kinh doanh, quy phạm hành vi, ý tưởng kinh doanh, phương thức quản lý và quy tắc chế độ được toàn thể thành viên trong doanh nghiệp chấp nhận, tuân theo. Văn hóa doanh nghiệp lấy việc phát triển toàn diện con người làm mục tiêu cuối cùng. Cốt lõi của văn hóa doanh nghiệp là tinh thần doanh nghiệp và quan điểm giá trị của doanh nghiệp.
    Trong quá trình phát triển, mỗi doanh nghiệp đều nỗ lực xây dựng một hệ thống quan điểm giá trị để công nhân viên chức chấp nhận, tạo ra sự hài hòa trong nội bộ doanh nghiệp, một không khí văn hóa tích cực để phát huy thế mạnh văn hóa của tập thể, tăng cường nội lực và sức mạnh của doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp là một giai đoạn phát triển của tư tưởng quản lý doanh nghiệp hiện đại, thể hiện sự chuyển dịch chiến lược phát triển kỹ thuật nhằm tạo nên những sản phẩm hàm chứa hàm lượng văn hóa cao. Bởi thế, có thể coi văn hóa doanh nghiệp là yếu tố tối quan trọng của thực tiễn doanh nghiệp đương đại.
    Văn hóa của quốc gia này nếu muốn bén rễ vào một quốc gia khác, một dân tộc khác mà không ăn khớp với bản sắc văn hóa dân tộc nước đó tất sẽ bị văn hóa bản địa bài xích, gạt bỏ. Vì thế, văn hóa doanh nghiệp của xí nghiệp dứt khoát phải coi bản sắc văn hóa dân tộc bản địa là cơ sở để phát triển. Bản chất của văn hóa doanh nghiệp là đối nội phải tăng cường tiềm lực, quy tụ được sức sáng tạo của công nhân viên chức, khích lệ họ sáng tạo ra nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp; đối ngoại phải được xã hội bản địa chấp nhận. Cả hai mặt này đều liên quan tới văn hóa dân tộc sở tại, liên quan tới quan niệm giá trị, đặc trưng hành vi của dân tộc đó. Nếu doanh nghiệp biết xây dựng văn hóa doanh nghiệp trên cơ sở bản sắc văn hóa dân tộc mà họ đang sống thì họ sẽ thành công, còn nếu chỉ biết du nhập nguyên xi mô hình văn hóa doanh nghiệp nước ngoài, không gắn kết với văn hóa bản địa, họ sẽ thất bại.
    2. Mỹ, Nhật là các quốc gia quản lý hiệu quả các doanh nghiệp của mình vì họ biết xây dựng văn hóa doanh nghiệp hợp lý, kích thích được hứng thú lao động và niềm say mê sáng tạo của công nhân. Điều đó phụ thuộc rất lớn vào việc các nhà quản lý doanh nghiệp biết gắn kết văn hóa doanh nghiệp với văn hóa của nơi sở tại.
    Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, mỗi nước phải biết lựa chọn một hướng đi đúng đắn để phát triển và quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp mình. Điều đó có thể thấy rõ khi chúng ta quan sát mô hình quản lý doanh nghiệp Nhật Bản. Một mặt, người Nhật tiếp thu cách quản lý doanh nghiệp và kỹ thuật tiên tiến của Mỹ; mặt khác, các doanh nghiệp Nhật đã chú trọng thích đáng đến việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp, làm cho bản sắc văn hóa dân tộc hòa quyện trong văn hóa doanh nghiệp.
    Ai cũng biết sau thế chiến thứ hai, trong khi tiếp thu ở quy mô lớn hệ thống lý luận quản lý tiên tiến của Mỹ và châu Âu, Nhật Bản đã biết gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tự do vốn là cơ sở của lý luận quản lý Âu, Mỹ để giữ lại văn hóa quản lý kiểu gia tộc. Vì sao vậy? Vì chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cá nhân xung đột với văn hóa truyền thống của Nhật Bản. Văn hóa Nhật Bản suy cho cùng hòa đồng gắn bó mật thiết với tinh thần ?otrung thành hiếu đễ? của Khổng Tử. Với sự lựa chọn khôn ngoan đó, các doanh nghiệp Nhật Bản đã làm cho văn hóa doanh nghiệp hòa nhập với bản sắc văn hóa dân tộc, sáng tạo ra hệ thống quản lý độc đáo kiểu Nhật Bản. Cốt lõi của quản lý Nhật Bản là chế độ làm việc suốt đời, trật tự công lao hằng năm, công đoàn nằm trong nội bộ doanh nghiệp. Đây thực sự là ba bí quyết lớn của quản lý Nhật Bản. Rõ ràng, một trong những nguyên nhân làm cho các công ty lớn của Nhật phát triển mạnh mẽ chính là họ biết gắn công nghệ, kỹ thuật, cách thức quản lý doanh nghiệp hiện đại với văn hóa Nhật vốn lấy trung hiếu làm gốc.
    So với châu Âu, văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ cũng có những điểm khác biệt. Mặc dù đa số người Mỹ là người Anh và người châu Âu di cư, nhưng khi sang lục địa mới, họ nuôi dưỡng trong mình chí tiến thủ mạnh mẽ, tinh thần chú trọng thực tế cộng với tinh thần trách nhiệm nghiêm túc. Tất cả những điều đó đã tạo nên một bản sắc văn hóa mới ?" bản sắc văn hóa Mỹ. Người Mỹ cho rằng, ai cũng có quyền lợi hưởng cuộc sống hạnh phúc tự do bằng sức lao động chính đáng của họ. Bản sắc văn hóa Mỹ làm cho người ta học được chữ tín trong khế ước và tất cả mọi người đều bình đẳng về cơ hội phát triển: ai nhanh hơn, thức thời hơn, giỏi cạnh tranh hơn thì người đó giành thắng lợi. Có thể nói, ý thức suy tôn tự do, chú trọng hiệu quả thực tế, phóng khoáng, khuyến khích phấn đấu cá nhân đã trở thành nhịp điệu chung của văn hóa doanh nghiệp nước Mỹ. Đây là những bài học kinh nghiệm hết sức quý báu cho các nước phát triển trong quá trình tạo dựng văn hóa doanh nghiệp nhằm phát triển đất nước.
    3. Việt Nam là quốc gia có hàng nghìn năm văn hiến. Qua các thời kỳ lịch sử khác nhau, dân tộc Việt Nam đã xây dựng nên hệ quan điểm giá trị, nguyên tắc hành vi và tinh thần cộng đồng mang bản sắc Việt Nam đậm nét. Sự ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, văn hóa Ấn Độ và văn hóa phương Tây đã khiến cho văn hóa Việt Nam đa dạng, nhiều màu sắc. Hơn nữa, 54 dân tộc trên đất nước ta là 54 nền văn hóa khác nhau, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, một mặt, chúng ta phải tích cực tiếp thu kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp của các nước phát triển. Mặt khác, cần nỗ lực xây dựng văn hóa doanh nghiệp tiên tiến, hài hòa với bản sắc văn hóa dân tộc, với văn hóa từng vùng, miền khác nhau thúc đẩy sự sáng tạo của tất cả các thành viên trong các doanh nghiệp khác nhau.
    Đặc điểm nổi bật của văn hóa dân tộc là coi trọng tư tưởng nhân bản, chuộng sự hài hoà, tinh thần cầu thực, ý chí phấn đấu tự lực, tự cường? đây là những ưu thế để xây dựng văn hóa doanh nghiệp mang bản sắc Việt Nam trong thời hiện đại. Tuy nhiên, văn hóa Việt Nam cũng có những điểm hạn chế: người Việt Nam phấn đấu cốt để ?ovinh thân phì gia?, yêu thích trung dung, yên vui với cảnh nghèo, dễ dàng thoả mãn với những lợi ích trước mắt, ngại cạnh tranh; tư tưởng ?otrọng nông khinh thương? ăn sâu vào tâm lý người Việt đã cản trở không nhỏ đến việc mở rộng kinh tế thị trường, làm ăn; tập quán sinh hoạt tản mạn của nền kinh tế tiểu nông không ăn nhập với lối sống hiện đại; thói quen thủ cựu và tôn sùng kinh nghiệm, không dám đổi mới, đột phá gây trở ngại cho sự phát triển của các doanh nghiệp hiện đại?
    Tuy nhiên, trong xã hội tri thức ngày nay, những mặt hạn chế dần được khắc phục bởi trình độ giáo dục của mọi người ngày càng được nâng cao, quan điểm về giá trị cũng có những chuyển biến quan trọng. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của kinh tế thế giới, nhất là khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của WTO, quản lý kinh doanh doanh nghiệp cần phải được tổ chức lại trên các phương diện và giải quyết hài hòa các mối quan hệ: quan hệ thiên nhiên với con người, quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa dân tộc và nhân loại?
    Ngày nay, doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới. Toàn cầu hóa kinh tế đòi hỏi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp phải có những bước tính khôn ngoan, lựa chọn sáng suốt. Không thể để xảy ra tình trạng quốc tế hóa văn hóa doanh nghiệp, mà phải trên cơ sở văn hóa Việt Nam để thu hút lấy tinh hoa của nhân loại, sáng tạo ra văn hóa doanh nghiệp tiên tiến nhưng phù hợp với tình hình và bản sắc văn hóa Việt Nam.
    Từ cái nhìn vĩ mô, có thể thấy quá trình xác lập và xây dựng văn hóa doanh nghiệp không ngừng thay đổi theo sự phát triển của thời đại và của dân tộc. Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay có 4 xu hướng chủ yếu phát triển của văn hóa doanh nghiệp: 1- Tôn trọng con người với tư cách là chủ thể hành vi, coi trọng tính tích cực và tính năng động của con người trong kinh doanh, coi việc nâng cao tố chất của con người là điều kiện quan trọng đầu tiên của phát triển doanh nghiệp; 2- Coi trọng chiến lược phát triển và mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp để bồi dưỡng ý thức văn hóa doanh nghiệp cho toàn thể công nhân viên chức; 3- Coi trọng việc quản lý môi trường vật chất và tinh thần của doanh nghiệp, tạo ra một không gian văn hóa tốt đẹp, bồi dưỡng ý thức tập thể và tinh thần đoàn kết nhằm cống hiến sức lực và trí tuệ cho doanh nghiệp; 4- Coi trọng vai trò tham gia quản lý của công nhân viên chức, khích lệ tinh thần trách nhiệm của tất cả các thành viên trong doanh ngiệp.
    Trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, văn hóa doanh nghiệp Việt Nam có 4 đặc điểm nổi bật:
    Thứ nhất, tính tập thể: Quan niệm tiêu chuẩn đạo đức của doanh nghiệp là do toàn thể thành viên doanh nghiệp tích luỹ lâu dài cùng nhau hoàn thành, có tính tập thể.
    Thứ hai, tính quy phạm: Văn hóa doanh nghiệp có công năng điều chỉnh kết hợp: trong trường hợp lợi ích cá nhân và doanh nghiệp xảy ra xung đột thì công nhân viên chức phải phục tùng các quy phạm, quy định của văn hóa mà doanh nghịêp đã đề ra, đồng thời doanh nghiệp cũng phải biết lắng nghe và cố gắng giải quyết hài hòa để xóa bỏ xung đột.
    Thứ ba, tính độc đáo: Doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau, doanh nghiệp khác nhau ở cùng một quốc gia đều cố gắng xây dựng văn hóa doanh nghiệp độc đáo trên cơ sở văn hóa của vùng đất mà doanh nghiệp đang tồn tại. Văn hóa doanh nghiệp phải bảo đảm tính thống nhất trong nội bộ từng doanh nghiệp, nhưng giữa các doanh nghiệp khác nhau cần phải tạo nên tính độc đáo của mình.
    Thứ tư, tính thực tiễn: Chỉ có thông qua thực tiễn, các quy định của văn hóa doanh nghiệp mới được kiểm chứng để hoàn thiện hơn nữa. Chỉ khi nào văn hóa doanh nghiệp phát huy được vai trò của nó trong thực tiễn thì lúc đó mới thực sự có ý nghĩa.
    Để phát huy ưu thế của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế toàn cầu, khi đối mặt với các doanh nghiệp nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải xem xét và kiện toàn hơn nữa vấn đề văn hóa doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp khi được xây dựng hoàn thiện không những kích thích sức phát triển sản xuất mà còn có ý nghĩa quan trọng để xây dựng uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp. Hiện nay, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp ở nước ta cần chú ý đồng bộ 5 phương diện sau:
    Một là, xây dựng quan niệm lấy con người làm gốc. Văn hóa doanh nghiệp lấy việc nâng cao tố chất toàn diện của con người làm trung tâm để nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp, làm cho quan niệm giá trị của doanh nghiệp thấm sâu vào các tầng chế độ chính sách, từng bước chấn hưng, phát triển doanh nghiệp. Điều đó bao gồm các nội dung cơ bản: 1- Bồi dưỡng tinh thần trách nhiệm của công nhân viên chức để phát huy tính tích cực, tính chủ động của họ; 2- Bồi dưỡng quan điểm giá trị doanh nghiệp và tinh thần doanh nghiệp để nó trở thành nhận thức chung của đông đảo công nhân viên chức và trở thành động lực nội tại khích lệ tất cả mọi người phấn đấu; 3- Tăng cường đào tạo và phát triển tài nguyên văn hóa trong doanh nghiệp nhằm tạo ra không khí văn hóa tốt đẹp để nâng cao tố chất văn hóa và trình độ nghiệp vụ của công nhân viên chức; 4- Có chế độ thưởng, phạt hợp lý, có cơ chế quản lý dân chủ khiến cho những người có cống hiến cho sự phát triển của doanh nghiệp đều được tôn trọng và được hưởng lợi ích vật chất xứng đáng với công sức mà họ đã bỏ ra.
    Hai là, xây dựng quan niệm hướng tới thị trường. Việc các doanh nghiệp phải trở thành doanh nghiệp tự chủ để phù hợp với kinh tế thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải nhanh chóng hình thành quan niệm thị trường linh động, sát với thực tiễn. Quan niệm thị trường bao gồm nhiều mặt như giá thành, khả năng tiêu thụ, chất lượng đóng gói và chất lượng sản phẩm, các dịch vụ sau bán hàng, các kỳ khuyến mãi nhằm thu hút khách hàng? Tất cả phải hướng tới việc tăng cường sức cạnh tranh, giành thị phần cho doanh nghiệp của mình. Cần phải coi nhu cầu thị trường là điểm sản sinh và điểm xuất phát của văn hóa doanh nghiệp.
  7. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Ba là, xây dựng quan niệm khách hàng là trên hết. Doanh nghiệp hướng ra thị trường nói cho cùng hướng tới khách hàng. Phải lấy khách hàng làm trung tâm, cụ thể: 1- Căn cứ vào yêu cầu và ý kiến của khách hàng để khai thác sản phẩm mới và cung cấp dịch vụ chất lượng cao; 2- Xây dựng hệ thống tư vấn cho người tiêu dùng, cố gắng ở mức cao nhất để thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng cùng với việc nâng cao chất lượng phục vụ để tăng cường sức mua của khách hàng; 3- Xây dựng quan niệm phục vụ là thứ nhất, doanh lợi là thứ hai. Tiến hành khai thác văn hóa đối với môi trường sinh tồn của doanh nghiệp, xây dựng hình ảnh doanh nghiệp tốt đẹp.
    Bốn là, xí nghiệp trong quá trình phát triển phải tăng cường ý thức đạo đức chung, quan tâm đến an sinh xã hội. Từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX vấn đề bảo vệ môi trường, vấn đề sản xuất các loại hàng hóa tiêu dùng không độc hại đã thành định hướng giá trị mới của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đó là một thách thức lớn đối với tất cả các doanh nghiệp. Ở nước ta hiện nay, các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng nhưng hậu quả của sự phát triển ấy cũng hết sức nặng nề mà biểu hiện rõ nhất là ô nhiễm môi trường và lãng phí tài nguyên. Để khắc phục tình trạng đó, cần thông qua văn hóa doanh nghiệp hướng tới mục tiêu phát triển lâu dài, bền vững tránh được tình trạng phát triển vì lợi ích trước mắt mà bỏ quên lợi ích con người. Định hướng của phát triển là phải kết hợp một cách hữu cơ sự phát triển của doanh nghiệp với tiến bộ của loài người nhằm bảo đảm sự phát triển doanh nghiệp một cách liên tục, ổn định, hài hòa.
    Năm là, xây dựng tinh thần trách nhiệm xã hội. Một doanh nghiệp không những phải coi sản phẩm của mình là một bộ phận làm nên quá trình phát triển nhân loại mà còn phải coi việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp mình là một bộ phận của văn hóa nhân loại. Doanh nghiệp đóng góp cho xã hội không chỉ ở số lượng của cải mà còn phải thỏa mãn được nhu cầu văn hóa nhiều mặt của xã hội hiện đại như tích cực ủng hộ, tài trợ cho sự nghiệp giáo dục, văn hóa, xã hội, thúc đẩy khoa học - kỹ thuật phát triển và tiến bộ. Thông qua các hoạt động nhân đạo và văn hóa này hình ảnh doanh nghiệp sẽ trở nên tốt đẹp hơn, uy tín của doanh nghiệp được nâng lên đáng kể. Đó cũng là hướng phát triển lành mạnh, thiết thực để các doanh nghiệp đóng góp ngày càng nhiều hơn vào công cuộc đổi mới, vì mục đích: ?odân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh? mà Đảng ta đã đề ra và được toàn dân ủng hộ.
    Theo Tạp chí Cộng sản
  8. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Toàn cầu hóa có giảm được đói nghèo?
    Quan điểm chủ yếu của những người chống toàn cầu hóa là: toàn cầu hóa làm các nước giàu càng giàu hơn và các nước nghèo càng nghèo hơn. Còn những người ủng hộ thì cho rằng toàn cầu hóa sẽ đem lại lợi ích cho các nước nghèo. Nhưng nếu nhìn vào những bằng chứng thực tế, chúng ta sẽ thấy rằng vấn đề này phức tạp hơn khá nhiều.
    Nói chung, trong các cuộc tranh cãi, những người khác nhau vẫn thường gọi những thứ khác nhau bởi cùng một từ. Một số người hiểu "toàn cầu hóa" nghĩa là công nghệ viễn thông và sự huy động vốn đầu tư vươn ra toàn cầu, số khác nghĩ rằng đó là sự mở rộng chi nhánh của các Công ty lớn ở các nước giàu nhằm khai thác nguồn lực giá rẻ từ các nước đang phát triển. Và những người khác thì lại xem toàn cầu hóa là từ dùng để chỉ chủ nghĩa tư bản liên kết hay sự thống lĩnh về kinh tế và văn hóa của Mỹ.
    Toàn cầu hóa rõ ràng là bao hàm rất nhiều vấn đề, cho nên tôi phải nói rõ ngay từ đầu là bài viết này chủ yếu nói về sự toàn cầu hóa kinh tế - cụ thể là sự mở rộng buôn bán và đầu tư quốc tế. Quá trình đó ảnh hưởng đến cuộc sống của những người nghèo nhất trên thế giới như thế nào? Câu hỏi này là một trong những vấn đề quan trọng nhất của khoa học xã hội hiện nay.
    Dựa trên các số liệu điều tra được tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau, Ngân hàng Thế giới ước đoán rằng, chỉ còn một phần không lớn dân số ở các nước đang phát triển nằm ở dưới mức nghèo đói 1USD/ngày. Đánh giá này cho thấy, sự nghèo đói cùng cực nhìn chung là đang giảm. Mặc dù về toàn thể, những người nghèo nhất không trở nên nghèo hơn nhưng cũng chưa ai chứng tỏ được một cách thuyết phục rằng đời sống của họ được cải thiện chủ yếu dựa trên kết quả của sự toàn cầu hóa. Ở Trung Quốc, nạn nghèo đói có thể được đổ lỗi cho những nguyên nhân nội tại như sự bành trướng cơ sở hạ tầng, cải cách đất đai quy mô lớn, thay đổi giá thu mua ngũ cốc và sự nới lỏng những hạn chế đối với việc di cư từ nông thôn ra thành thị. Trên thực tế thì, từ giữa những năm 1980, tức là trước khi có sự bùng nổ đầu tư và buôn bán quốc tế, Trung Quốc đã bắt đầu giảm được đói nghèo. Trong giai đoạn 1981 - 2001, có hơn 400 triệu người Trung Quốc vượt trên được mức nghèo đói mà quốc tế đặt ra. Tương tự như thế, Ấn Độ cũng đã giảm được đói nghèo vào thập kỷ 1990 dựa trên Cách mạng Xanh trong nông nghiệp, các chương trình xóa đói giảm nghèo của chính phủ và những chính sách xã hội chứ không phải dựa vào sự tự do hóa thương mại. Tất nhiên là việc toàn cầu hóa cũng đã đem lại thêm những việc làm trong nền sản xuất chuyên môn hóa cũng như giúp nhiều người Ấn Độ và Trung Quốc thoát nghèo. Nhưng cách đây 25 năm, toàn cầu hóa đã không phải là nhân tố nổi bật giúp phát triển kinh tế, bởi vì còn rất nhiều nhân tố quan trọng khác. Người ta có thể nghi ngờ về lợi ích của toàn cầu hóa trước thực tế là nghèo đói vẫn còn đeo bám dai dẳng các nước vùng sa mạc Sahara ở châu Phi. Trong giai đoạn 1981 - 2001, tỷ lệ người châu Phi ở dưới chuẩn nghèo đói quốc tế đã tăng từ 42% lên 47%. Thực ra thì việc toàn cầu hóa khó mà có hiệu quả gì được đối với các nước bất ổn về chính trị. Chính trị bất ổn làm trầm trọng thêm sự cô lập về địa lý, bệnh tật, xung đột quân sự và kết quả là các nước này rất khó thu hút đầu tư quốc tế.
    Ở các nước châu Á nghèo như Bangladesh, Việt Nam và Campuchia, có một số lớn phụ nữ làm việc trong các nhà máy dệt may xuất khẩu. Lương của họ thấp so với chuẩn thế giới nhưng còn cao hơn nhiều so với những công việc khác mà họ có thể làm. Những người vốn lo ngại về nạn bóc lột công nhân cũng đã phải thừa nhận sự cải thiện tương đối về điều kiện sống của những phụ nữ này. Rahana Chaudhuri, một bà mẹ 23 tuổi làm trong ngành dệt may Bangladesh nói: " Công việc thì nặng nhọc, chúng tôi lại bị đối xử không tốt. Người ta không coi trọng phụ nữ chúng tôi. Nhưng cuộc sống còn khổ hơn nhiều nếu làm việc khác. Dĩ nhiên là tôi muốn những điều kiện tốt hơn nhưng làm gì có sự lựa chọn nào khác. Với công việc đang làm, tôi mới có thể nuôi những đứa con tôi đủ ăn và cải thiện đời sống cho chúng".
    Sự liên kết kinh tế quốc tế mang lại những cơ hội nhưng cũng gây ra nhiều vấn đề. Ngay cả khi những việc làm mới là tốt hơn việc làm cũ thì những biến chuyển trong đời sống xã hội vẫn bị méo mó. Hầu hết các nước nghèo đều hạn chế trong việc đem lại sự bảo trợ xã hội cho những người bị mất việc. Thêm vào đó, có quá nhiều điều bất cập ngay trong nội bộ các nước nghèo, chẳng hạn như sự thiếu lòng tin, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, nạn tham nhũng của quan chức và những quyền lợi đất đai không được đảm bảo. Việc mở cửa thị trường mà không giải quyết được những tiêu cực và hạn chế nội bộ thì sẽ dẫn đến hậu quả xấu là kìm hãm lực lượng lao động. Thành ra, "toàn cầu hóa" theo kiểu đó thì chỉ khoét sâu thêm sự nghèo đói. Những cuộc tranh luận về toàn cầu hóa sẽ không bao giờ kết thúc nếu người ta thống nhất những tiêu chí đánh giá cụ thể. Trên khía cạnh kinh tế, chúng ta có thể có một số tiêu chí đánh giá sau đây:
    Kiểm soát vốn. Đầu tư quốc tế bao gồm vốn dài hạn và vốn ngắn hạn. Vốn ngắn hạn có thể được chuyển đi chỉ bằng một cái bấm chuột trên máy tính, thành ra chúng có thể chạy lung tung khắp nơi trên thế giới và gây ra sự phá hoại nghiêm trọng đối với các nền kinh tế yếu. Khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 chính là một ví dụ. Nhiều nhà kinh tế hiện nay đã thấy được sự cần thiết phải có một số hình thức kiểm soát sự luân chuyển của vốn ngắn hạn. Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia sở dĩ đã thoát khỏi bóng đen của khủng hoảng tài chính châu Á là bởi vì họ có sự kiểm soát chặt chẽ đối với sự bay nhảy của vốn.
    Giảm sự bảo hộ. Rào cản chính mà nhiều nước nghèo phải đối mặt lại không phải là toàn cầu hóa quá nhiều mà là toàn cầu hóa quá ít. Những người nghèo rất khó thoát nghèo nếu ở các nước giàu họ hạn chế nhập khẩu để bảo hộ cho những người nông dân và nhà sản xuất của họ. Các chính sách bảo hộ đó khiến các nước đang phát triển mỗi năm thiệt hại khoảng 45 tỷ USD; riêng trong lĩnh vực dệt may là khoảng 25 tỷ USD. Sự thiệt hại này vượt quá cả sổ tiền mà các nước giàu trợ giúp cho các nước nghèo. Chống độc quyền, các nhà sản xuất nhỏ ở các nước nghèo thường quá yếu về mạng lưới thị trường và thương hiệu để có thể tìm đường đến các thị trường giàu có. Mặc dù các Công ty bán lẻ đa quốc gia có thể giúp họ, nhưng chi phí cho việc đó thường rất cao. Vấn đề là các tập đoàn bán lẻ ăn chặn rất nhiều của các nước nghèo. Chẳng hạn, trên thị trường cà phê thế giới có 4 tập đoàn thống trị. Đầu thập kỷ 1990, các nước xuất khẩu cà phê kiếm được 12 tỷ USD, nhưng các tập đoàn bán lẻ cà phê lại kiếm được những 30 tỷ USD. Lỗi không phải là do các thị trường toàn cầu, mà lỗi chính là ở việc ngăn chặn sự tiếp cận các thị trường này và sự ép giá đối với các nước xuất khẩu. Một số tập đoàn bán lẻ hưởng lợi từ chuyện này với ưu thế độc quyền của họ. Nhiều nhà kinh tế đã đề xuất việc thành lập một cơ quan điều tra chống độc quyền. Ngay cả khi cơ quan này không mạnh lắm thì nó vẫn có thể cổ vũ và nâng cao ý thức cho hoạt động chống độc quyền. Thêm vào đó, việc triển khai các chương trình chứng nhận chất lượng quốc tế cũng có thể giúp cho sản phẩm của các nước nghèo được chấp nhận trên thị trường toàn cầu.
    Các chương trình xã hội. Nhiều nhà kinh tế khẳng định rằng, để việc buôn bán thực sự đem lại lợi ích cho một quốc gia thì quốc gia đó phải tái phân bố lại của cải cho toàn cộng đồng của họ. Tức là những người được lợi từ chính sách mở cửa kinh tế phải chia sẻ lợi lộc của họ cho những người bị thiệt hại tới một mức độ nào đó. Tất nhiên là cái cụm từ "tới một mức độ nào đó" vẫn còn gây ra nhiều bất đồng, nhưng một số chương trình nhất định vẫn tỏ ra là có ích. Chẳng hạn như chương trình giúp các công nhân mất việc được đào tạo lại và có việc làm trở lại. Các chương trình học bổng giúp những gia đình nghèo có thể cho con em họ đến trường, đây cũng là một biện pháp rất hiệu quả để làm giảm số lao động trẻ em.
    Theo Tạp chí Tia sáng
  9. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Trí tuệ Việt Nam trước thời cơ và thách thức của WTO
    GS Vũ Khiêu
    Văn hiến Việt Nam
    Năm qua, Hà Nội đã tổ chức thành công Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, gọi tắt là APEC. Cũng trong dịp này, cả nước đón chào Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, gọi tắt là WTO. Hai sự kiện lịch sử nói trên đánh dấu một bước chuyển biến lớn lao trong lịch sử phát triển của dân tộc. 21 người đứng đầu 21 nền kinh tế thành viên APEC và gần chục ngàn vị khách quốc tế đã đến Việt Nam, cùng ghi nhận sự tiến bộ vượt bậc của Việt Nam trong những thập kỷ vừa qua, đồng thời dự báo những thành tựu lớn lao của Vệt Nam trong thời gian đang tới.
    Những sự kiện nói trên đã mở ra trước nhân dân ta một thời cơ hiếm có và cả những thách thức chưa lường hết. Chúng ta có rất nhiều thuận lợi cần khai thác nhưng lại đứng trước rất nhiều khó khăn phải vượt qua. Làm thế nào để trong thuận lợi nhìn thấy hết khó khăn và trong khó khăn, cũng tìm ra được những thuận lợi để khắc phục? Chúng ta tin vào sự quyết tâm, vào tinh thần dũng cảm, vào đầu óc sáng tạo của toàn thể nhân dân ta trong bước ngoặt lịch sử này.
    Trong dịp này, chúng ta cùng nhìn lại nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Tổ tiên đã để lại cho chúng ta những gì có thể coi như nguồn sức mạnh bất diệt của dân tộc trước thời cơ và thách thức hôm nay? Tôi nghĩ rằng truyền thống văn hiến Việt Nam đang tiếp sức cho chúng ta từ nhiều góc độ. Hôm nay, tôi xin đi vào một điểm của văn hiến Việt Nam coi như quan trọng hàng đầu đối với việc gia nhập WTO: Đó là Trí tuệ Việt Nam.
    1. Vai trò của trí tuệ trong Văn hiến Việt Nam
    Văn hiến Việt Nam là sự phản ánh những đặc trưng của văn hóa Việt Nam và những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Đặc trưng và phẩm chất ấy có thể tóm lược ở 3 điểm sau đây:
    a) Về tình cảm: đó là lòng yêu thương vô hạn đối với đồng bào, là sự gắn bó máu thịt đối với Tổ quốc.
    b) Về lí trí: đó là tinh thần kiên trì học hỏi, không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết để trước mọi việc đều có những suy nghĩ sâu sắc và sáng tạo.
    c) Về hành động: đó là tinh thần dũng cảm trong sản xuất và chiến đấu, khắc phục mọi khó khăn để đạt tới thành công.
    Lịch sử Việt Nam là một chuỗi dài những gian nan thử thách trước sự tàn phá của thiên nhiên và sự xâm lược của nước ngoài. Muốn tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam chỉ có một con đường là dựa vào nhau để cùng chiến đấu. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cũng bắt đầu từ đây. Tuy nhiên, yêu nước và anh hùng lại chỉ có thể thành công khi được dẫn dắt bởi những nhận thức sáng suốt. Chính vì thế mà trong truyền thống của con người Việt Nam: trái tim, khối óc và bàn tay đã có mối quan hệ mật thiết tạo nên một nền văn hiến mang tính hoàn chỉnh gồm cả nhân, trí, dũng. Lịch sử từng chửng minh rằng: trước mọi thử thách của dân tộc, dựa vào trí tuệ thì thành công, thiếu trí tuệ thì thất bại.
    Trong sản xuất thì rút ra được tầm quan trọng của mối quan hệ tương tác giữa các mặt: nước, phân, cần, giống.
    Trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thì trí tuệ Việt Nam lại tạo ra những cách đánh sáng tạo trước tình hình khác nhau trong quan hệ giữa địch và ta ở mỗi cuộc kháng chiến khác nhau.
    Trong giao lưu văn hóa với nước ngoài: tiếp thu có sáng tạo thì thời Lý - Trần luôn luôn thành công, giáo điều và bắt chước mù quáng thì thời Lê - Trịnh - Nguyễn đã khiến cho đất nước trở thành lạc hậu và trì trệ.
    Bước sang thế kỷ XX, thành công rực rỡ của cách mạng tháng Tám, của hai cuộc chiến chống xâm lược, của đường lối đổi mới đều gắn liền với trí tuệ sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và **********************.
    Nếu trí tuệ Việt Nam là điều kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử phát triển của Việt Nam trước đây thì ngày nay, trí tuệ còn quan trọng hơn rất nhiều khi Việt Nam đang cùng cả thế giới đi vào thời đại của trí tuệ.
    2. Trí tuệ trong thời đại toàn cầu hóa và kinh tế tri thức
    Toàn cầu hóa đang được mở rộng và tiến nhanh trên mọi miền của trái đất. Nó đang thúc đẩy trí tuệ của cả nhân loại và của mỗi con người để phát huy những thành tựu lớn lao và khắc phục những hậu quả tai hại mà nó đang đem lại.
    Nền kinh tế của nhân loại đang phát triển tới đỉnh cao, không chỉ từ lực lượng của bản thân kinh tế mà còn từ những nhân tố phi kinh tế, mà điều quan trọng nhất là trí tuệ của con người. Nhu cầu tồn tại đã đòi hỏi sự tham gia của trí tuệ và tạo điều kiện cho trí tuệ phát triển. Trí tuệ ngày một khám phá ra những bí ẩn của thiên nhiên và con người, từ cái vô tận của thế giới vĩ mô và thế giới vi mô. Sự tiến bộ như vũ bão của các ngành khoa học cùng với công nghệ thông tin và những phát minh kì diệu khác đang thâm nhập vào mọi hoạt động kinh tế. Chính trí tuệ đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của bản thân toàn cầu hóa và chính nó đã đưa tri thức của con người vào các khâu của kinh tế, khiến cho nền kinh tế của thế giới đang trở thành nền kinh tế tri thức. Nếu trí tuệ của nhân loại đã tạo ra sự ra đời và phát triển của toàn cầu hóa thì chính trí tuệ cũng tự đặt cho mình nhiệm vụ phải giải quyết những hậu quả mà toàn cầu hóa gây ra.
    Toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đã lôi cuốn các dân tộc vào đòng sông cuồn cuộn của hội nhập toàn cầu. Hội nhập là chấp nhận mọi thời cơ và thách thức. Còn đứng ra ngoài dòng lịch sử ấy thì khó tránh khỏi nguy cơ tụt hậu.
    Trí tuệ Việt Nam, đặc trưng lớn nhất của văn hiến Việt Nam trong hoàn cảnh này đã chọn cho đất nước con đường hội nhập và sẽ phát huy mọi thuận lợi và khắc phục mọi khó khăn để đưa đất nước tiến nhanh trên con đường phát triển.
    3. Trí tuệ Việt Nam trước thời cơ và thách thức
    Thời cơ thực là lớn lao và hiếm có đối với Việt Nam. Nhân dân Việt Nam nhận định như thế. Các nhà kinh tế, các chính khách trên thế giới cũng đã nói rất nhiều về thời cơ này. Nhưng thời cơ là thế nào? Nó chứa đựng những thuận lợi gì? Nó đặt ra những thách thức gì trong quá trình hội nhập? Những câu hỏi đặt ra không dễ dàng được trả lời nếu như Việt Nam không có tầm nhận thức rộng lớn đối với toàn bộ diễn biến về mọi mặt trên thế giới ngày nay và không có tầm nhận thức sâu sắc về mọi vấn đề cần giải quyết trên đất nước của mình.
    Thời cơ đã đến với chúng ta. Nhưng sử dụng được thời cơ hay để mất thời cơ, điều này phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Lịch sử còn lưu lại những bài học quý báu: nắm được thời cơ thì thành công nhanh chóng, bỏ lỡ thời cơ thì khó tránh khỏi thất bại và suy vong.
  10. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Ta đã bỏ lỡ một thời cơ đáng tiếc. Trong thế kỉ XIX, khi chủ nghĩa đế quốc với nền công nghiệp hiện đại của nó tràn sang phương Đông thì Nhật Bản đã nắm được thời cơ, nhanh chóng tiếp nhận sự tiến bộ của phương Tây, tạo nên những chuyển biến căn bản về mọi mặt và đưa đất nước mặt trời mọc lên địa vị cường quốc. Cũng trong thời gian đó, Việt Nam đã tự khép kín mình trong một nền văn hóa đầy dãy những điểm lỗi thời. Nhà nước đã không nghe theo những kiến thức mới mẻ của những nhà canh tân, bỏ lỡ thời cơ thuận lợi mà lịch sử đưa lại, để đất nước trở thành một thuộc địa và chậm mất một thế kỷ trên con đường phát triển.
    Thời cơ thứ hai là vào năm 1945. Thời cơ ngàn năm có một của đất nước đã xuất hiện. Trí tuệ Việt Nam đã bừng lên ở Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản. Sáng suốt trước những diễn biến trên phạm vi thế giới và dự báo chính xác về tương lai. Trí tuệ Việt Nam phát huy được mọi tiềm năng của đất nước, nắm vững được thời cơ, tạo được bước chuyển biến lớn nhất trong lịch sử ở Cách mạng tháng Tám.
    Ngày nay, thời cơ lại đến với dân tộc ta. Trí tuệ của Đảng và Nhà nước đã sớm nhận thức được chiều hướng phát triển của lịch sử nhân loại, đã đánh giá đúng tiềm năng của đất nước, vạch ra được con đường đổi mới, do đó đã tạo được những thành tựu đáng kể về mọi mặt, kịp thời có những ứng xử thỏa đáng để cùng thế giới đi vào thời kì mới: thời kì toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.
    Chúng ta đã không để cho dân tộc lâm vào hoàn cảnh thụ động và bị cuốn theo mọi chiều gió. Phải có đầy đủ trí tuệ trước diễn biến của thời đại, chúng ta mới có thể chủ động hội nhập toàn cầu, chấp nhận mọi thời cơ và thách thức.
    Có đầy đủ trí tuệ mới nhanh chóng chớp được thời cơ, nhưng còn phải có tầm trí tuệ rộng lớn hơn và sâu sắc hơn nữa mới đánh giá được thời cơ, mới nhìn hết được thuận lợi và khó khăn mà thời cơ đem lại.
    a) Thời cơ do toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đưa tại. Tính xã hội của sản xuất ngày một rộng lớn và mang tính chất toàn cầu đòi hỏi phá vỡ rào cản có tính chất cục bộ địa phương. Thị trường mở rộng ra toàn cầu bao trùm lên các mặt: kỹ thuật, nhân công, nguyên liệu, thương mại, dịch vụ, dẫn tới nhu cầu hợp tác và cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu ở các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, xã hội và văn hóa. Đây cũng là thuận lợi của việt Nam trong quá trình hội nhập: vừa phát huy được nội lực của mình, vừa khai thác được mọi điều bổ ích từ thế giới.
    b) Toàn cầu hóa và kinh tế tri thức đã tạo được những điều kiện mới mẻ cho việc phát huy những tiềm năng lớn mạnh của Việt Nam từ tài nguyên thiên nhiên và con người vốn thực sự dồi dào nhưng bị sử dụng một cách lãng phí. Trong hội nhập toàn cầu, Việt Nam còn có ưu thế là vị trí tự nhiên của mình đang có khả năng trở thành trung tâm giao lưu rất thuận lợi cả về mặt thủy bộ và hàng không giữa các nước trong khu vực và trên thế giới.
    c) Tổ chức thành công Hội nghị APEC và gia nhập vào WTO là hai sự kiện lớn, đang đem lại một niềm phấn khởi và tin tưởng của toàn thể nhân dân ta. Uy tín và vị thế của Việt Nam trên toàn thế giới đang thu hút sự hợp tác và đầu tư rộng lớn không chỉ của 21 nền kinh tế trong APEC mà còn của đông đảo các nền kinh tế khác.
    Ba điều nói trên đã tạo nên một sự kết hợp vừa biện chứng, vừa hoàn chỉnh giữa ba nhân tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa, đem lại một thời cơ đầy triển vọng. Từ những đặc điểm nói trên, trí tuệ Việt Nam đang được vận dụng sâu sắc và rộng khắp vào thời cơ này để đánh giá đúng thuận lợi cần khai thác và để thấy hết những khó khăn cần khắc phục.
    4. Trí tuệ Việt Nam trước những vấn đề cụ thể của WTO
    Gia nhập WTO là đi vào cuộc cạnh tranh lớn trên thị trường hàng hóa. Việt Nam đã có điều kiện để khai thác những thuận lợi mà WTO đưa lại. WTO đã gạt bỏ cho Việt Nam những bất lợi trước đây, những sự đối xử không công bằng và hạn chế đối với hàng hóa Việt Nam. Ngày nay, trong quan hệ giữa 150 nước của WTO, Việt Nam được bảo đảm sự bình đẳng về luật pháp trong xuất nhập khẩu và cạnh tranh hàng hóa. Tuy nhiên, không ít những khó khăn đặt ra và cần được giải quyết.
    Trước khi vào WTO, trong lĩnh vực ngoại thương, mặc dầu ta đã có ít nhiều kinh nghiệm nhưng còn chưa nắm vững được luật pháp quốc tế. Những sai sót và thiệt hại đã đem lại cho chúng ta nhiều bài học đáng quý.
    Gia nhập WTO, việc buôn bán của Việt Nam sẽ nhanh chóng mở rộng và phát đạt, nhưng khả năng sai sót vẫn còn nhiều.
    Trong cuộc cạnh tranh quyết liệt trên lĩnh vực hàng hóa, thì hàng hóa Việt Nam còn kém chất lượng, còn khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường, còn chưa thích hợp lắm với thị hiếu khách hàng ở từng nước.
    Cuộc cạnh tranh lại không chỉ diễn ra ở ngoài nước mà còn diễn ra ở trong nước giữa hàng nhập khẩu và hàng nội hóa. Có thể xảy ra tình trạng nhiều hàng hóa Việt Nam không tránh khỏi sự ế ẩm, kéo theo sự phá sản của nhiều doanh nghiệp không kịp thời nâng cao được chất lượng sản phẩm.
    Cạnh tranh hàng hóa còn gắn liền với những thuận lợi và khó khăn trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhất là ở các khâu tiền vốn và đầu tư, ở việc sử dụng công nghệ hiện đại, ở trình độ quản lí của từng doanh nghiệp Việt Nam.
    Tiền vốn và đầu tư là khâu quan trọng đầu tiên để sản xuất và kinh doanh. Việt Nam gia nhập WTO giữa lúc tổ chức thành công Hội nghị APEC. Thành công của Việt Nam đã nâng cao uy tín của đất nước ta và tạo được sự tin cậy rộng rãi của cả cộng đồng APEC và của nhiều nước trên thế giới.
    Tình hình này khiến cho đầu tư của thế giới sẽ dồn dập đổ vào Việt Nam, đem lại cho Việt Nam điều kiện quan trọng bậc nhất để kinh doanh, đồng thời cũng đặt trước Việt Nam những thách thức về thành công hay thất bại. Chỉ có trí tuệ Việt Nam được nâng cao mới kịp thời và sáng suốt trong việc sử dụng tiền vốn và đầu tư để mọi công việc sản xuất, thương mại, dịch vụ đều đạt được những kết quả mĩ mãn. Nếu không thì sự lãng phí, sự tính toán sai lầm sẽ gây nên những tổn thất cho hôm nay và còn để lại những tác hại đến con cháu sau này.
    Công nghệ cao là một nhu cầu ngày càng cấp thiết, là mục tiêu phấn đấu của kinh tế Việt Nam và trở thành điều kiện tồn tại và phát triển của đất nước. Việc này đòi hỏi một trình độ kiến thức rất cao mới phát huy được vai trò của công nghệ hiện đại, rút ngắn dần khoảng cách của Việt Nam với các nước tiên tiến, bảo đảm cho bước tiến nhanh chóng và vững chắc của kinh tế - xã hội Việt Nam.
    Quản lý giữ vai trò cực kì quan trọng trong lĩnh vực điều hành nền kinh tế Việt Nam cũng như bảo đảm cho sự tiến bộ của các doanh nghiệp, nhưng quản lí lại là một lĩnh vực mà ta còn rất yếu. Nếu trình độ quản lý được nâng cao thì mọi khâu tiến hành sản xuất cũng như lưu thông hàng hóa đều được tiến hành thuận lợi. Ngược lại, những sai lầm và thiếu sót trong công tác quản lý sẽ không tránh khỏi những thiệt hại to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế, nhất là trong các khâu đầu tư và sử dụng công nghệ.
    Trên đây chỉ dừng lại một số vấn đề coi như quan trọng bậc nhất trong hội nhập kinh tế và gia nhập WTO. Những thuận lợi và khó khăn còn có thể nêu lên rất nhiều ở các khâu cụ thể. Tất cả được đặt ra trước nhiệm vụ cấp bách là gấp rút nâng cao tầm trí tuệ của Việt Nam.
    5. Vấn đề phát huy cao nhất tiềm năng trí tuệ Việt Nam trước mọi thử thách
    Vai trò của giáo dục
    Nếu như trí tuệ Việt Nam là điều kiện quan trọng bậc nhất để khai thác thời cơ và vượt qua mọi thử thách thì việc nâng cao trí tuệ phải trở thành yêu cầu quan trọng bậc nhất của toàn thể nhân dân ta. Đã từ lâu, Đảng và Nhà nước ta đã coi vấn đề giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhưng cho đến nay, quốc sách hàng đầu ấy vẫn chưa trở thành nhiệm vụ hàng đầu mà mọi người phải khẩn trương thực hiện. Hiện nay, với người lãnh đạo mới của mình, Bộ GDĐT đang chuyển mình mạnh mẽ. Hi vọng rằng với đà chuyển biến này, Ngành Giáo dục sẽ sớm đáp ứng được đòi hỏi cấp thiết của đất nước và cung cấp cho xã hội một nguồn nhân lực thích ứng với hoàn cảnh hôm nay và ngày mai.
    Đào tạo nhân tài
    Việt Nam là một đất nước có truyền thống thông minh và sáng tạo, lại hiếu học và học giỏi. Lịch sử còn ghi tên tuổi và thành tích vẻ vang của nhiều người rất trẻ mà đầy trí tuệ và tài năng. Ngày nay, trong những cuộc thi quốc tế, đã có rất nhiều em đoạt giải cờ và các giải khoa học như toán, vật lý...
    Trên tầm cao của trí tuệ thời đại, Việt Nam đã có nhiều trí thức trong nước và ngoài nước có những đóng góp lớn cho khoa học, làm vẻ vang cho Tổ quốc Việt Nam. Đó là những thuận lợi vô cùng to lớn để Việt Nam nhanh chóng đào tạo ra một tầng lớp đại trí thức vươn tới đỉnh cao của kiến thức đương thời, vận dụng được những thành tựu mới nhất của nhân loại, góp phần xây dựng một chiến lược khai thác được tiềm năng vô tận của trí tuệ Việt Nam, biến mọi khả năng tiềm ẩn của Việt Nam trở thành hiện thực.
    Con người Việt Nam không những thông minh để tiếp thu trí tuệ của nhân loại mà còn có bàn tay khéo léo trong lao động. Nhưng cho đến nay, từ trong tầng lớp này, ta chưa tạo ra được những công nhân kỹ thuật có trình độ văn hóa và ngoại ngữ, đủ để thỏa mãn nhu cầu cấp thiết của công nghiệp hóa. Ngày nay, hội nhập toàn cầu và vào WTO, chúng ta thấy một sự thiếu thốn vừa lớn, vừa khẩn cấp về công nhân kĩ thuật. Nếu như chúng ta kịp thời đào tạo được tầng lớp công nhân này thì chúng ta đã có đủ nguồn nhân lực có trình độ và kĩ thuật cao vừa phục vụ cho đất nước, vừa có khả năng xuất khẩu ra bên ngoài, không phải là những người lao động cơ bắp như ngày nay mà là những người công nhân có kĩ thuật và hiểu biết.
    Nâng cao mặt bằng của trí tuệ Việt Nam
    Hiện nay, trên 60 triệu dân số sống ở nông thôn đã thoát nạn đói, nhưng chưa hết nghèo túng. Ở đây, không những việc chữa bệnh đã khó khăn mà việc học tập cũng còn hạn chế. Cho con đi học ở trình độ đại học còn là một điều rất vất vả đối với người nông dân. Đây là một điều đáng tiếc, bởi đất nước chưa khai thác được tiềm năng trí tuệ vô cùng to lớn còn nằm ở nông thôn. Ngành Giáo dục chắc đã nghĩ tới điều này. Chỉ mong rằng việc cải cách giáo dục hiện nay sẽ cung cấp cho đông đảo con em ở nông thôn một trình độ hiểu biết đầy đủ, sẵn sàng đáp ứng với nhu cầu CNH, HĐH trong cả lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp.
    Mối quan hệ giữa thị trường trong và ngoài nước
    Trong khi Việt Nam ngày một hội nhập rộng rãi vào thị trường thế giới thì mặt khác, phải đặc biệt quan tâm tới việc nhanh chóng xây dựng và phát triển thị trường trong nước. Đó là thị trường vững chắc và rộng lớn bao gồm 75% dân số làm nông nghiệp. Làm thế nào để nông thôn Việt Nam không chỉ là thị trường để cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mà còn là một thị trường phát triển nhanh chóng, vừa cung cấp hàng hóa, vừa tiêu thụ hàng hóa. Thị trường ấy có hình thành và bền vững mới phát huy được một lực lượng vô tận về thể lực và trí lực, thực sự tạo nên sự phát triển bền vững cho cả đất nước.
    Trí tuệ kết hợp với đạo đức và luật pháp là chỗ dựa vững chắc của Việt Nam vào WTO. Trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện và giải quyết những khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam và các doanh nghiệp Việt Nam giành thắng lợi.
    Trí tuệ và đạo đức đem lại cho doanh nhân những hoài bão lớn về một Tổ quốc hùng mạnh làm vẻ vang cho con người Việt Nam trước bè bạn trên thế giới. Hoài bão đó sẽ là một sức mạnh, đem lại niềm ham mê trong suy nghĩ, sáng tạo và lao động không mệt mỏi vì sự nghiệp của mình. Như tôi đã phân tích trong số báo trước, cuộc sống thiếu đạo đức thì không thể có sự bền vững trong cơ nghiệp và hạnh phúc trong gia đình. Cuối cùng sẽ uổng phí cả công sức và cuộc đời.
    Có trí tuệ và đạo đức nghĩa là có một sức mạnh tinh thần để kinh doanh và phấn đấu, nhưng nếu trong nước luật pháp chưa được rành mạch và công minh thì sự kinh doanh sẽ vấp phải rất nhiều khó khăn. Nếu như pháp luật không trở thành một điều linh thiêng và nếu như mọi người không tự rèn luyện cho mình một nếp sống theo pháp luật, thì khi ra quốc tế sẽ không tránh khỏi sự va vấp và thiệt hại bởi đã không thông thạo, lại coi thường những luật lệ nghiêm ngặt của WTO.
    Với nền tảng tinh thần ấy của hội nhập toàn cầu, tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ khắc phục được mọi khó khăn và biến những thuận lợi của WTO thành một phương tiện hiệu quả nhất trên con đường giàu mạnh của Tổ quốc ta.
    Theo Văn hiến Việt Nam

Chia sẻ trang này