1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Toàn cầu hoá va đơi sống tinh thần người Việt

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi phuong_le, 03/08/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Trí thức Việt Nam thời toàn cầu hóa: Tư duy, kỳ vọng và trách nhiệm
    Trần Hữu Dũng, Giáo sư - Đại học Wright State University, Mỹ
    Thời báo kinh tế Sài Gòn
    Được hiểu như sự dịch chuyển (con người, sản phẩm, thông tin) giữa các quốc gia, thậm chí liên lục địa, ngày càng nhanh chóng, thông thoáng, toàn cầu hóa vừa là một tiến trình kinh tế, vừa là một sự hòa nhập văn hóa. Nó đặt ra nhiều vấn đề mới cho những suy nghĩ về tương quan giữa cá nhân và quốc gia, dân tộc.
    Toàn cầu hóa tác động đến tư duy và trách nhiệm của trí thức, đặc biệt là trí thức Việt Nam, ra sao? Câu hỏi này không hàm ý rằng trí thức là quan trọng hơn những thành phần khác trong xã hội (một người trí thức chân chính sẽ không có cái vĩ cuồng kênh kiệu ấy). Trí thức chỉ là một thuộc tính, một tác phong, của nhiều ngành nghề thực tế (nhà giáo, nhà văn, nhà báo...) và có thể trong những nhân thân khác mà trách nhiệm của họ là quan trọng hơn. Nói đến trí thức ở đây chỉ là để giới hạn đề tài trong khuôn khổ một bài viết.
    Ngoài ảnh hưởng đến mọi người, trong đó có trí thức, về thu nhập, việc làm, lối sống... toàn cầu hóa ảnh hưởng đến sinh hoạt trí thức qua nhiều cách khác, sâu vào bản chất, bởi tiến trình này tác động đến hai thành tố định hình sinh hoạt ấy, đó là khung tư duy và đề tài suy nghĩ. Hơn nữa, trong chừng mực mà người trí thức có trách nhiệm đặc biệt với xã hội (ở vai trò thuyết phục và hướng dẫn), toàn cầu hóa sẽ uốn nắn trách nhiệm ấy, từ những kỳ vọng mà xã hội đặt ở họ trong bối cảnh mới này.
    TƯ DUY
    Đối với người trí thức mà xưa nay sự ràng buộc địa lý là phải chấp nhận, có lẽ không hiện tượng nào của toàn cầu hóa quan trọng bằng sự tiếp xúc giữa họ và thế giới đã trở thành nhanh chóng và rộng rãi đến mức độ mà, chỉ vài thập kỉ trước đây, khó có thể tưởng tượng nổi. Đứng đầu hiển nhiên là cuộc cách mạng thông tin và truyền thông do Internet, nhưng cũng không nên quên là với chi phí đi lại ngày càng hạ, các cơ hội tham quan, trao đổi với trí thức quốc tế ngày càng nhiều, dễ dàng.
    Mở rộng cửa với toàn thế giới, người trí thức không chỉ có thêm công cụ và nguyên liệu để học hỏi, nghiên cứu, mà còn bị đặt nhiều vấn đề đương đại để suy nghĩ, chia sẻ với đồng nghiệp toàn cầu. Đó không những là những vấn đề chính trị, xã hội, kinh tế, mà còn là văn hóa và nghệ thuật. Tin tức sốt dẻo về những phát minh, lý thuyết mới về khoa học, kỹ thuật (không chỉ trong ngành của mỗi người mà còn trong các ngành lân cận) sẽ gợi cho trí thức những cảm hứng mới, và giúp họ kịp thời nhận ra những sai lầm của mình. Ngược lại, diễn biến ở mỗi quốc gia cũng được khắp nơi theo dõi hàng ngày, trở thành đề tài bàn bạc của trí thức quốc tế. Toàn cầu hóa là một sự hòa nhập đa phương: học giả mỗi nước sẽ có nhiều thông tin hơn về các nước khác, do đó tư duy thế giới sẽ bị ảnh hưởng bởi văn hóa, kinh tế, và kinh nghiệm lịch sử của mọi quốc gia, trong đó có ta.
    Khi luồng trí thức Việt Nam nhập vào đại dương trí thức thế giới thì kiến thức và khả năng của chúng ta cũng sẽ được đánh giá theo những tiêu chuẩn khắt khe hơn, nhất là trong những lĩnh vực mà chúng ta đương nhiên là ?ochủ nhà?. Có một cái gì ?olấn cấn?, chẳng hạn, khi các nghiên cứu về kinh tế hay văn hóa Việt Nam của người nước ngoài lại chi tiết hơn, sâu sắc hơn, các nghiên cứu của học giả Việt Nam.
    Một mảng quan trọng trong giao diện giữa trí thức Việt Nam và trí thức quốc tế là thành phần trí thức Việt Nam đang sống ở nước ngoài. Thử thách của thành phần này là làm sao hòa hợp tinh thần quốc tế và bản sắc dân tộc. Sống ở nước ngoài, họ không thể không tiêm nhiễm lối làm việc, cách nghĩ suy, thậm chí óc khôi hài của một nền văn hóa khác. Đó là những bức tường vô hình (không như bức tường văn hóa đương nhiên giữa trí thức ngoại quốc và trí thức Việt Nam), cần được ý thức và đòi hỏi một cố gắng đặc biệt để vượt qua.
    Đàng khác, cùng với những trí thức xa quê từ các quốc gia khác (nhất là những nước ngoài phương Tây), trí thức Việt Nam ở nước ngoài có cơ hội đóng góp vào ?ocái chung? của nhân loại, cụ thể là trong nhánh ?ovăn hóa tha hương?, một ?otư duy quốc tế? (cosmopolitanism) ngày càng sống động và phong phú. Hầu như mọi thành phố lớn ở Âu, Mỹ, Úc ngày nay đều có những cộng đồng người đồng hương với những hoạt động văn hóa đặc thù, gắn kết với văn hóa bản địa. Đó cũng là một bộ mặt của toàn cầu hóa.
    Nhìn xa hơn, như một số học giả phương Tây nhận xét gần đây, toàn cầu hóa cũng sản sinh một giai cấp mới: đó là những người ít gắn bó với bất cứ một quốc gia nào. Họ là những nhà khoa học thường xuyên dự hội nghị, đi thuyết giảng khắp thế giới, những đại diện các công ty đa quốc gia, những nhà ngoại giao, những nhân viên các tổ chức quốc tế... Họ thông thạo nhiều ngôn ngữ, hôm nay ở nước này, ngày mai ở nước khác, khắp các châu lục... Hầu như họ sống trên những chuyến bay dài, ngồi ở sân bay, ngủ ở khách sạn... nhiều hơn ở chính ?onhà? họ. Tinh thần địa phương, quốc gia của những người này ngày càng lạt phai. Đó cũng là một xu thế khó cưỡng của toàn cầu hóa.
  2. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0

    KỲ VỌNG
    Tuy mỗi xã hội có một kỳ vọng khác nhau về vai trò của trí thức trong xã hội ấy, và dù rằng gần đây, nhiều người cho rằng vai trò này ngày càng lu mờ, vẫn có một sự đồng thuận ít nhiều rằng người trí thức có trách nhiệm lãnh đạo đời sống tinh thần của xã hội. Nói theo Giáo sư Stefan Collini (2006), người trí thức không bao giờ mất vai trò của họ, chừng nào mà nhân loại còn muốn được hướng dẫn ?osống như thế nào?.
    Và dường như nhân loại ngày càng có nhiều vần đề cần sự hướng dẫn của trí thức. Thế giới không ngừng bị xâu xé bởi các bất hòa chủng tộc, xung đột tôn giáo, đang đối diện với nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, thay đổi khí hậu... cần những bộ óc lớn chung sức tìm giải pháp. Gần gũi hơn với đời sống hàng ngày là sự ô nhiễm và phàm tục hóa văn hóa do chính làn sóng toàn cầu hóa thương mại và truyền thông. Người trí thức phải mạnh dạn hướng dẫn và gạn lọc (qua thuyết phục) các trào lưu văn hóa đại chúng. Song, cần nhấn mạnh, sự ?ohướng dẫn? này phải được vạch ra từ góc nhìn toàn cầu của chính người trí thức. Nó phải xuất phát từ một trình độ lý luận cao, đượm tính nhân bản, tôn trọng dị biệt. Nó không thể là một ?ophản xạ? có tính giáo điều, hoặc mù quáng bảo lưu những tư duy lỗi thời, không còn thích hợp với thế giới mới.
    Trong thời đại toàn cầu hóa, chính kỳ vọng mà một xã hội đặt ở trí thức của xã hội ấy cũng chịu ảnh hưởng căn tính của tiến trình này. Nói cách khác, tư duy ?otoàn cầu? không chỉ là trách nhiệm của người trí thức, nó là của toàn xã hội khi quy định trách nhiệm ấy. Kỳ vọng của người Việt vào trí thức Việt Nam không chỉ ở sự đóng góp của họ cho đất nước, nhưng còn ở đóng góp của họ cho nhân loại. Ngược lại, chúng ta cũng kỳ vọng trí thức quốc tế góp phần tìm hiểu và phát triển nước ta. Sự thật là, người trí thức có thể có nhiều liên hệ với nhiều quốc gia, nhiều chủng tộc khác nhau (ngay trong phạm vi gia đình), bổn phận người trí thức là trung thực với lương tâm mình, trong đó có thể là việc phục vụ cả nhân loại, hay ít ra là phục vụ cho một văn hóa phi quốc gia.
    Mỗi dân tộc cần một cái nhìn cởi mở hơn về trách nhiệm của trí thức của mình, đặc biệt là các mong mỏi về những trí thức xuất thân từ một quốc gia chậm tiến nhưng hiện sống ở nước đã phát triển. Kwame Anthony Appiah, một triết gia nổi tiếng gốc Ghana hiện sống ở Mỹ, lý luận rằng người trí thức đóng góp nhiều hơn cả không phải bằng cách hi sinh những thú vui tinh thần có vẻ trưởng giả (như xem opera) nhưng qua những suy nghĩ thấu đáo về các vấn đề chung của nhân loại và tác động của xã hội đến chính sách.
    Đã lỗi thời rồi quan niệm cho rằng trí thức người Việt phải hồi hương mới phục vụ đất nước, cũng chẳng công bằng, nếu không là vô lý, nếu đòi hỏi họ luôn luôn lấy Việt Nam làm trọng tâm nghiên cứu và đối tượng suy nghĩ. Đóng góp của họ cho đất nước này, trong chừng mực họ muốn, có thể thực hiện từ bất cứ nơi nào trên thế giới (một tiện lợi của toàn cầu hóa). Phải ?othông cảm? rằng một người trí thức trong thời đại này, ngay những người nặng lòng với quê hương, có rất nhiều trăn trở về sự nghiệp, về vị trí của họ trên bản đồ trí thức nhân loại. Hãy cho họ tự do theo đuổi hoài bão chân chính của họ.
    TRÁCH NHIỆM
    Người trí thức Việt Nam phải ý thức vai trò của mình trong cộng đồng nhân loại và tích cực dấn thân vào sinh hoạt trí thức quốc tế, trong đó có trách nhiệm quảng bá văn hóa Việt Nam cho thế giới. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của nước ta, người trí thức cần bước ra khỏi ?otháp ngà?, đóng góp suy nghĩ về những vấn đề thiết thực của đất nước, nơi, nói thẳng, vẫn là một vùng đất nhiều thiệt thòi, nghèo khổ. Người trí thức Việt Nam sống ở nước ngoài cần luôn luôn trau dồi tiếng Việt, theo dõi và tích cực tham gia vào sinh hoạt trí thức trong nước. Người trí thức, căn bản, phải là một thầy giảng.
    Chừng nào tinh thần dân tộc còn là một thành tố của nhân thân, chừng ấy người trí thức cần đặt nó làm giềng mối trong tư duy của mình. Trí thức Việt Nam cần theo dõi mọi mặt diễn biến của quốc gia, đắm mình trong mạch văn hóa của đất nước, đủ tự tin để ?ophóng lên? từ căn bản ấy đến khám phá và phân tích những vấn đề mới, trong chuẩn mực học thuật. Xây dựng quốc gia, đóng góp vào tiến bộ, công bình nhân loại, trong tinh thần nhân bản. Ý thức tự do phải là căn bản của cốt cách trí thức, và người trí thức chân chính phải có can đảm thực hiện sự tự do đó trong suy nghĩ của mình.
    Song, người trí thức phải thực tế, sáng suốt chấp nhận vai trò của mình trong một thế giới không ngừng thay đổi. Thực vậy, với toàn cầu hóa, sinh hoạt kinh tế, khoa học, công nghệ càng nhộn nhịp, tinh thần thực dụng càng được tôn sùng, thì người trí thức ?ochuyên nghiệp? sẽ phải chia sân với các nhà quản lý, các nhà khoa học, các doanh nhân, những nhà hoạt động xã hội... Như bất cứ trí thức nơi nào khác, trí thức Việt Nam cần ý thức vai trò của mình trong cộng đồng dân tộc (và nhân loại) với tinh thần trách nhiệm, nhưng khiêm cung, hòa nhã.

    (*) Bài viết cho Kỷ yếu vinh danh Giáo sư Đặng Đình Áng (nhà toán học nổi tiếng năm nay tròn 80 tuổi)
    Theo Thời báo kinh tế Sài Gòn
  3. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Việt Nam và toàn cầu hóa
    TS. Nguyễn Quang A
    Lao động cuối tuần
    Toàn cầu hóa được nhiều người hiểu theo những cách khác nhau. Theo Wikipedia: "Toàn cầu hóa là khái niệm về quá trình đa dạng, phức tạp của những thay đổi kinh tế, xã hội, công nghệ và văn hóa được xem như sự phụ thuộc lẫn nhau, sự hội nhập và tương tác ngày càng tăng giữa người dân và các doanh nghiệp ở những vị trí xa nhau trên thế giới?
    Thomas Friedman, tác giả cuốn "Thế giới phẳng", phân toàn cầu hoá thành ba thời kỳ: Toàn cầu hoá 1.0 kéo dài từ 1492 khi Coiumbus đi Ấn Độ nhưng lại tìm ra Châu Mỹ cho đến khoảng 1800. Toàn cầu hoá 2.0, kéo dài từ 1800 (với cách mạng công nghiệp hay việc chế tạo ra máy hơi nước năm 1760) đến 2000, bị gián đoạn bởi đại khủng hoảng và chiến tranh thế giới I và II. Toàn câu hoá 3.0 bắt đầu khoảng năm 2000.
    Lấy mốc 1492 làm năm khởi đầu của làn sóng toàn cầu hoá 1.0 là có lý nhưng chỉ máng tính chất ước lệ, vì cũng có thề lấy sự hình thành con đường tơ lụa khoảng năm 100 trước công nguyên làm điểm mốc. Quá trình đó trải qua bao thăng trầm và sự hình thành con đường tơ lụa trên biển khoảng năm 700, các đợt thám hiềm của Trịnh Hoà (Trung Quốc) bắt đầu từ năm 1405 hay việc Columbus dương buồm năm 1492 là những sự tiếp nối của qúa trình hội nhập đó.
    Nhiều người có lý khi cho rằng qúa trình toàn cầu hóa mới bắt đầu ở Việt Nam từ 1986. Nếu như toàn cầu hóa như một qúa trình như trên, ở tầm dài hơn thì cũng có thể hình dung khác đi một chút. Ý kiến chung cho rằng nền kinh tế Việt Nam thời phong kiến mang tính ?otrọng nông ức thương", không khuyến khích thương mại và cản trở sự hội nhập. Sử sách không nói mấy về sự phát triển kinh tế Việt Nam trong mấy ngàn năm qua. Các sản phẩm có thể xuất khẩu thời đó có lẽ chủ yếu là lụa, gia vị, hương liệu và gốm sứ. Lịch sử có nhắc đến cảng Vân Đồn, hình thành từ thời Lý (thế kỷ XI - XII) và phồn thịnh thời Trần (thế kỷ XIII - XIV), đến Phố Hiến (Hưng Yên) bên cạnh Lẻ Chợ (Hà Nội) như những nơi buôn bán sầm uất thời thế kỷ XVII. Sự hiện diện của thương gia, các thương điếm và tàu bè nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Hà Lan, Anh, Bồ Đào Nha... tại phố Hiến từ những năm 1630 trở đi đã chứng tỏ sự gian thương nhộn nhịp đáng tiếc từ cuối thế kỷ XVII phố Hiến dần suy tàn. Hội An đã từng là một trong những trung tâm Thương mại Quốc tế lớn ở Đông Nam Á từ thế kỷ XV - XIX. Những phát hiện mới đây khi trục vớt các tàu bị đắm ven biển Việt Nam, những kết quả khai quật ở Chu Đậu (Hải Dương), ở Hoàng thành Thăng Long gần đây cũng như những nghiên cứu về gốm Việt Nam mới đây chứng tỏ một điều chắc chắn: Việt Nam đã xuất khẩu không ít đỗ gốm ra nhiều nước trên thế giới rước khi Columbus xuất hành ít nhất 50 năm.
    Quá trình hội nhập này đã trải qua rất nhiều thăng trầm với nhiều giai đoạn hầu như ngưng trệ hoàn toàn. Nhà văn Nguyên Ngọc (Tạp chí Tia sáng số ra ngày 20/01/2006) có nhắc đến cuốn sách của Giáo sư Vĩnh Sính (Việt Nam và Nhật Bản: Giao lưu văn hóa, Nxb Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh 2001) kể về chuyện Chu Tuấn Thuỷ (trung thần nhà Minh) chạy sang Việt Nam ít nhất 5 lần và đã ở đây lâu nhất từ 1654 - 1658. Ông tha thiết muốn giúp Việt Nam trong thời kỳ toàn cầu hoá 1.0. Nhà cầm quyền Việt Nam bấy giờ đã tiếp Chu Tuấn Thuỷ theo ?ohống hách bắt phải lạy, hỏi có những bằng cấp gì, khi biết chẳng có bằng cấp gì cả thì hết sức coi thường, rồi bầu lại chất vấn toàn những chuyện vớ vẩn về sách vở giáo điều và tướng số mê tín, rồi bát giam, câu lưu, có lúc Chu đã suýt phải bỏ mạng... Cuối cùng, năm 1658, Chu ốm nặng, phải tìm cách quay về Nhật Bản. Ở Nhật, hoàn toàn ngược lại, được lãnh chúa của một trong ba lãnh địa lớn nhất của Nhật lúc bấy giờ là Tokugawa Mitssukumi mời làm tân khách, Chu đã đem sở học của mình hết lòng giúp Mitsukumi và Mitsukumi chính là người chủ xướng học phải Mito, có ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước dẫn đến Minh Trị Duy Tân, như chúng ta đều biết đã đưa nước Nhật đến một số phận khác hẳn chúng ta, không những giữ vững được độc lập dân tộc trước bão táp toàn cầu hóa mà còn trở thành cường quốc, cho đến ngày nay...".
    Trong "An Nam cung dịch sứ", Chu Tuấn Thủy có nhận xét cay đắng và thẳng thắn về Việt Nam thế kỷ XVII như sau: "Tuy là nước nhỏ, nhưng khí kiêu ngạo, học vấn nông cạn, kiến thức có giới hạn, tuy có thể tuyển chọn được người tài năng trong nước... của mình, nhưng không tránh được vẻ ếch ngồi đáy giếng".
    San bao năm chiến tranh liên miên, Việt Nam chỉ thực sự có thể phát triển trong điều kiện hòa bình và ổn định hơn 20 năm nay. Quá trình hội nhập bước vào giai đoạn mới từ 1986. Nó đã diễn ra cùng với nhiều khó khăn thách thức nhưng đã tăng tốc dần dần và lấy được đà mạnh mẽ trong mấy năm lại đây với đỉnh điểm là những sự kiện vừa diễn ra tháng 11 vừa qua liên quan đến WTO, APEC... Hy vọng chúng ta rút được bài học lịch sử và thực sự cầu thị nhằm hội nhập thành công mà không để mất những cơ hội vàng như thế.
    Theo Lao động cuối tuần
  4. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Những thách thức của toàn cầu hóa
    Nguyễn Trọng Chuẩn
    Tạp chí Triết học
    Toàn cầu hoá được nói đến ở đây trước hết và chủ yếu là toàn cầu hoá kinh tế. "Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh", vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ kém phát triển. Vì toàn cấu hoá là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo ngược.
    Toàn cầu hoá nói chung, một mặt, là sự tiếp nối, sự khẳng định và hoàn thiện các khuynh hướng đã hình thành từ lâu trong lịch sử thế giới, mặt khác, nó cũng là một hiện tượng mới, bắt đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế, rồi dần đần lôi cuốn theo toàn cầu hoá về một số lĩnh vực văn hoá và tác động mạnh mẽ đến chính trị. Từ khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới hai cực thực sự đã trở thành thế giới một cực, với một siêu cường duy nhất là Mỹ. Ngày nay, Mỹ đang từng bước thực hiện chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền nhằm biến toàn cầu hoá thành Mỹ hoá cả về kinh tế, văn hoá và chính trị, nuôi hy vọng chiếm địa vị độc tôn và làm bá chủ thế giới.
    Thật ra, không phải mọi quốc gia đều tham gia vào quá trình toàn cầu hoá với mức độ giống nhau và đều được bình đẳng như nhau. Khi tham gia toàn cầu hoá, các nước phát triển có rất nhiều lợi thế. Phần còn lại của thế giới thì chịu thiệt thòi về nhiều mặt và gặp nhiều thách thức. Tuy nhiên, trong điều kiện thế giới ngày nay, các quốc gia không thể tẩy chay hoàn toàn toàn cầu hoá hoặc đứng ngoài quá trình toàn cầu hoá. Vấn đề đối với tất cả các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, là phải có chiến lược thích ứng và khôn ngoan để vượt qua thách thức và chớp lấy thời cơ, trong quá trình hội nhập thế giới, phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia dân tộc mình đến chỗ phát triển và phồn vinh.
    Ngày nay, ai cũng biết rằng, toàn cầu hóa có cả mặt tích cực với những khả năng và cơ may rất lớn, và mặt tiêu cực cũng chứa đựng không ít những thách thức, rủi ro và cạm bẫy. Mặc dù người được lợi nhiều nhất trong toàn cầu hoá là các nước phát triển, đặc biệt là nước Mỹ, còn người bị thiệt thòi hơn cả là các nước đang phát triển, nghĩa là phần số đông còn lại của thế giới. Song, không nên nghĩ rằng, các nước phát triển khi tham gia toàn cầu hoá chỉ gặp toàn những thuận lợi, mà không gặp một thách thức nào cả. Thật ra, những thách thức đó là chung đối với tất cả các nước và chúng có khá nhiều, chúng thể hiện trên tất cả các mặt, từ những thách thức về chính trị đến những thách thức về kinh tế, từ những thách thức về văn hoá - xã hội đến những thách thức về môi trường sống... Dĩ nhiên, cần phải thấy rằng, các nước đang phát triển và các nước chậm phát triển phải chịu thách thức nhiều hơn rất nhiều do các vấn đề toàn cầu hoá đặt ra so với các nước phát triển. Do vậy, nếu các nước này coi nhẹ hoặc không thấy hết mặt tiêu cực do các vấn đề toàn cầu hoá đặt ra thì sẽ là sai lầm, sẽ dẫn đến nguy cơ mất chủ quyền quốc gia dân tộc, đến nền kinh tế của đất nước đến những khó khăn ngày một lớn hơn, đe dọa hủy hoại các giá trị truyền thống, thậm chí hủy hoại cả cơ sở tồn tại của chính dân tộc mình là thiên nhiên, là môi trường sống. Trái lại, nếu coi nhẹ mặt tích cực của nó cũng là sai lầm, sẽ làm cho đất nước càng lún sâu hơn vào trạng thái kém phát triển. Có thể thấy điều này qua việc nhiều quốc gia nhờ tham gia vào quá trình toàn cầu hoá mà đã vượt qua được thách thức và đang trên con đường phát triển với tốc độ khá nhanh.
    Trong phạm vi bài này chúng tôi muốn nêu lên một số thách thức lớn do toàn cầu hoá đặt ra hay là sự đối mặt của các quốc gia dân tộc trước các vấn đề toàn cầu của thời đại.
    Thách thức do toàn cầu hoá mang lại cho các nước, như đã nói ở trên, có nhiều loại trong đó thách thức chính trị là quan trọng nhất. Việc toàn cầu hoá đang và sẽ thách thức sự độc lập, tự chủ của các dân tộc và chủ quyền quốc gia là một hiện thực. Chưa nói đến các cuộc chiến tranh nóng do các siêu cường bất chấp luật pháp quốc tế gây ra, nền độc lập, tự chủ, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của các nước nhỏ, của các nước chậm phát triển đang và sẽ đứng trước nguy cơ tiềm tàng bị cộng đồng quốc tế can thiệp ngày một nhiều hơn. Hệ thống và cơ chế quyền lực quốc tế gây ra cho các quốc gia này nhiều mối lo ngại, vì nó được sử dụng như là cơ sở để cộng đồng quốc tế, hoặc nhân danh cộng đồng quốc tế, can thiệp trực tiếp và thách thức chủ quyền chính trị truyền thống. Ngay cả những quyền định ra chính sách và mục tiêu kinh tế, kiểm soát, điều hoà nguồn tài nguyên và nguồn thông tin, quyền quản lý các hoạt động kinh tế và khả năng hành động của một nước cũng sẽ bị tác động và bị các tổ chức kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia ràng buộc chặt chẽ, do đó khó có thể phát triển kinh tế dân tộc theo chiến lược riêng. Những quy tắc thị trường toàn cầu, buôn bán toàn cầu, tiền tệ toàn cầu, hoạt động kinh tế toàn cầu đã trở thành lực lượng mang tính cưỡng chế về mặt pháp luật quốc tế đối với một nước, nhất là các nước nhỏ, buộc họ phải điều chỉnh chủ quyền kinh tế cho phù hợp với quy định chung thường là do các nước lớn áp đặt.
    Đứng trước sự thách thức về chủ quyền quốc gia trong toàn cầu hoá, có những ý kiến khác nhau, thậm chí có khi rất trái ngược nhau. Một số người cho rằng, trong tiến trình toàn cầu hoá, vai trò của nhà nước không giảm đi mà ngược lại, còn tăng lên, sự tăng lên đó không phải để cản trở sự phát triển, mà là để thúc đẩy tiến bộ.
    Số thứ hai cho rằng, chủ quyền quốc gia ngày nay không còn giữ nguyên giá trị cơ bản như trước đây nữa, do vậy, địa vị và vai trò của nhà nước giảm đi rõ rệt. Theo họ, nhân quyền hiện đã vượt lên trên chủ quyền ở trong tất cả các xã hội khác nhau, nó không đếm xỉa tới biên giới quốc gia và trên một số mặt, đã phá bỏ sự phân cách giữa các quốc gia và độc lập của các quốc gia. Như vậy, theo họ, trong thời đại toàn cầu hoá, chủ quyền quốc gia đã bị suy yếu và lỗi thời, còn nhân quyền cao hơn chủ quyền là điều tất yếu (!).
    Chúng tôi cho rằng, đó là những ý kiến cực đoan.
    Nếu nói rằng toàn cầu hoá không thách thức gì đối với chủ quyền quốc gia là không thực tế. Chỉ cần nhìn vào cơ chế LHQ liên tiếp can dự đến các công việc chính trị và an ninh quốc tế, vào việc tổ chức thương mại thế giới (WTO) có quyền trừng phạt đối với những hành vi vi phạm quy tắc buôn bán của WTO: có quyền phán xử đối với những tranh chấp mua bán: việc qũy tiền tệ quốc tế (IMF) thường cho vay với điều kiện nước đi vay phải thực hiện những cải cách trong nước, hoặc tổ chức năng lượng nguyên tử quốc tế tuyên bố họ có quyền tiến hành kiểm tra các thiết bị hạt nhân đối với nước vi phạm hiệp định sử đụng hạt nhân mà không cần có sự đồng ý của chính phủ nước đó thì chúng ta đủ hiểu.
    Trái lại, nếu cho rằng. do toàn cầu hoá mà chủ quyền quốc gia - dân tộc đã lỗi thời thì là sai lầm nguy hiểm. Sứ mệnh lịch sử của nhà nước vẫn còn lâu dài. Nhà nước vẫn là nhân tố chính trị cơ bản nhất.
    Biểu hiện rõ rệt nhất của thách thức về mặt kinh tế là sự phân cực quá đáng thành những nước giàu và những nước nghèo, những nước cực giàu có và những nước khốn khó đến cùng cực với các khoản nợ chồng chất không có khả năng trả. Ngày càng lộ rõ bộ mặt của chủ nghĩa thực dân kinh tế trong thời đại toàn cầu hoá. Điều này làm cho sự phân hoá giàu - nghèo trở thành một đặc điểm của toàn cầu hoá hiện nay, nó thể hiện sự bất bình đẳng của các nước và các dân tộc tham gia toàn cầu hoá. Đáng chú ý là sự bất bình đẳng không chỉ thể hiện giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển, tức là giữa các nước phương Tây giàu có và phần còn lại của thế giới. Sự bất bình đẳng còn thể hiện ngay trong số các nước phát triển, cũng như giữa các nước chậm phát triển, giữa các khu vực khác nhau trong một quốc gia và giữa các dân tộc trong một quốc gia nhiều dân tộc.
    Toàn cầu hoá hiện thời là toàn cầu hoá tư bản chủ nghĩa, cho nên tiến trình toàn cầu hoá càng phát triển thì khoảng cách giàu nghèo ngày càng tăng lên gấp bội. Bởi vì, toàn cầu hoá này không thể nào giải quyết được sự bất công trong xã hội. Sự chênh lệch giàu nghèo, sự bất bình đẳng giữa các nước thể hiện rõ nét nhất mặt trái của toàn cầu hoá và cũng là thách thức lớn nhất đối với nhân loại.
    Toàn cầu hoá càng tiến triển nhanh, hai cực giàu - nghèo càng doãng rộng ra thêm, thì đồng thời càng thúc đẩy sự chống đối. Sự phân hoá giàu nghèo và sự bất công xã hội gia tăng đã gây nên nỗi bất bình chính đáng ở các nước và các tầng lớp nhân dân nghèo khổ. Sự chống đối toàn cầu hoá ngày càng quyết liệt không chỉ ở các nước đang phát triển, mà còn xảy ra ngay cả trong các nước phát triển phương Tây nó đang biến thành làn sóng phản đối toàn cáu hoá.
    Thách thức văn hoá cũng là một trong những thách thức rất đáng kể. Bất chấp việc có người tán thành, có người phản đối hay thậm chí phủ nhận toàn cầu hoá văn hoá, thì toàn cầu hoá vẫn đang tác động mạnh đến văn hoá. Có một thời người ta đã dự đoán rằng, trong tương lai sẽ hình thành một thứ ngôn ngữ chung cho từng khu vực và từ đó sẽ hình thành ngôn ngữ chung cho toàn thể thế giới. Cũng có thời, người ta đặt ra quốc tế ngữ để làm công cụ giao tiếp cho che dân tộc trên thế giới. Không thể không thấy một thực tế là ngày nay, hiện tượng hay đấu hiệu toàn cầu hoá về ngôn ngữ bộc lộ khá rõ trong việc tiếng Anh ngày càng được sử dụng rộng rãi. Những sản phẩm văn hoá Mỹ, như phim ảnh, nhạc, thức uống, các món ăn nhanh của Mỹ hoặc y phục thời trang, nước hoa và mỹ phẩm Pháp? đã trở thành món ăn tinh thần và vật chất của nhiều người thuộc các châu lục khác nhau, nhất là của lớp trẻ. Vì vậy, đã xuất hiện những khái niệm như chủ nghĩa đa nguyên văn hoá, chủ nghĩa liên văn hoá, chủ nghĩa xuyên văn hoá. Một hiện tượng khác cũng hết sức đáng chú ý là, các Công ty xuyên quốc gia nào mà muốn đầu tư sản xuất và thành công ở các nước khác thì trước tiên phải tìm hiểu sự khác biệt về cách thức ứng xử, về tâm lý và phong tục tập quán của nước mình so với các nước đó, đồng thời còn phải tìm hiểu về ngôn ngữ, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, và nói chung về văn hoá của dân tộc ở các quốc gia mà mình sẽ đầu tư sản xuất.
    Toàn cầu hoá, đặc biệt là sự lan tràn ồ ạt của văn hoá phương Tây, không những thách thức văn hoá dân tộc, mà còn thách thức cả sự ổn định xã hội của các nước mà nó xâm nhập. Cùng với toàn cầu hoá kinh tế là xu hướng thúc đẩy toàn cầu hoá về ngôn ngữ, về văn hoá, về lối sống và quan niệm giá trị của các cường quốc. Đây là đòn tiến công mạnh mẽ của văn hoá phương Tây đối với văn hoá dân tộc của các nước chậm phát triển. Sự rối loạn văn hoá tinh thần và sự rạn nứt quan niệm giá trị toàn cầu nổ ra cùng một lúc với hàng loạt các hiện tượng phạm tội xã hội, như nghiện hút, buôn bán ma tuý, buôn lậu, tham nhũng, cướp giật, án mạng, kết hợp với sự lan tràn của các loại tà giáo và thế lực xã hội đen, càng làm tảng thêm sự rối ren, đe dọa sự ổn định và an ninh xã hôi.
    Trong toàn cầu hoá, văn hoá dân tộc, văn hoá truyền thống có nguy cơ bị xói mòn dữ dội, mà nghiêm trọng nhất là xói mòn về văn hoá chính trị, ý thức hệ phương Tây du nhập ngày càng nhiều, thách thức an ninh chính trị đối với nhiều quốc gia ngày càng lớn.
    Các nước phương Tây lấy toàn cầu hoá làm công cụ, ra sức truyền bá quan điểm về giá trị, về văn hoá và tư tưởng của họ cho các nước và các dân tộc khác, thực hiện chính sách ?othực dân văn hoá", gây ảnh hưởng đối với nhân dân các nước, can thiệp vào công việc chính trị, ngoại giao của các nước này, làm suy yếu ý chí dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc và cơ sở tồn tại của các nước đó, biến họ thành những nước lệ thuộc. Làm theo cách đó, họ hy vọng sẽ giành được thắng lợi dễ đàng hơn so với việc dùng sức mạnh quân sự và sự khống chế về kinh tế. Du nhập ý thức hệ tư sản đã trở thành một trong những biện pháp cơ bản để một số nước lớn phương Tây thực hiện ?odiễn biến hoà bình" đối với các nước khác, thậm chí trở thành mối hiểm hoạ gây nên những biến động xã hội ở các nước khác. Quá trình toàn cầu hoá hiện nay, và hơn thế nữa trong tương lai, sẽ tạo ra cơ hội cực kỳ thuận lợi cho các nước phương Tây sử dụng hệ thống truyền thông hiện đại của họ nhằm thực hiện đa nguyên hoá về chính trị, phi chính trị hoá quân đội, phương Tây hoá lối sống.
    Nêu trên lĩnh vực toàn cầu hoá kinh tế, các tổ chức thương mại thế giới, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế đóng vai trò to lớn như thế nào, thì trên lĩnh vực văn hoá. những ông trùm truyền thống thế giới, đặc biệt là Mỹ, cũng đóng vai trò quan trọng như vậy. Thế giới đang chứng kiên sự tập trung ráo riết các phương tiện truyền thông, đưa tới tư tưởng đồng hoá và Mỹ hoá việc phát hành những chương trình phim ảnh, âm nhạc và xuất bản. Bởi vậy, trong lĩnh vực này, nói toàn cầu hoá là phương Tây hoá cũng không sai, nhưng chính xác hơn phải nói là Mỹ hoá. Trong một tình thế như vậy, sự xuất hiện của xu hướng chống lại nó là tất nhiên. Đây tuyệt nhiên không phải là xung đột giữa các nền văn minh hay văn hoá. Sự xung đột đó là do bàn tay của con người, do vấn đề lợi ích và mưu đồ chính trị của con người mà thôi.
  5. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Trước nguy cơ toàn cầu hoá tác động mạnh đến văn hoá, chúng ta bất gặp 3 cách ứng xử:
    Một là, cự tuyệt hoàn toàn để tránh phương Tây hoá và Mỹ hoá nền văn hoá truyền thung của dân tộc, nhằm bảo vệ văn hoá dân tộc. chủ quyền quốc gia về văn hoá. Đây là cách ứng xử cực đoan có thể sẽ dán đốn chủ nghĩa bảo thủ văn hoá: đến sự trì trệ.
    Hai là, mở toang cửa cho văn hoá toàn cầu, văn hoá phương Tây, văn hoá Mỹ tràn vào. Hậu quả tất yếu là văn hoá truyền thống bị đồng hoá, hoà tan vào văn hoá toàn cầu. Một khi văn hoá tàn lụi thì chủ nhân của nó là dân tộc tất yếu sẽ biến khỏi vũ đài lịch sử. Đây là cách ứng xử cực đoan dẫn đến tự sát.
    Ba là, kết hợp hài hoà truyền thống với hiện đại. Trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa của văn hoá dân tộc, loại trừ dần các yếu tố lỗi thời. tăng cường giao lưu văn hoá với bên ngoài, tiếp thu những gì là tinh hoa của văn hoá thế giới, đồng thời tiến hành bản địa hoá, dân tộc hoá chúng để làm giàu cho văn hoá dân tộc, lấy văn hoá làm động lực cho sự phát triển của dân tộc. Theo chúng tôi, đây là cách ứng xử khôn ngoan nhất, đúng đắn nhất mà chúng ta cần thực hiện.
    Bên cạnh đó, thách thức về môi trường và sinh thái cũng là thách thức hết sức nặng nề đối với tất cả các quốc gia, các khu vực và đối với toàn thể thế giới. Nếu không có những biện pháp kịp thời của cộng đồng quốc tế để ngăn chặn thì hiểm hoạ môi trường và sinh thái sẽ đe dọa không những đối với mạng sống của con người, mà còn đe dọa ngay cả sự tồn tại của hành tinh chúng ta.
    Vào nửa sau của thế kỷ XX, áp lực của con người đối với thiên nhiên đã mạnh tới mức làm cho thiên nhiên mất đi khả năng tự phục hồi. Hiểm hoạ sinh thái toàn cầu ngày càng tăng lên. Do bị ô nhiễm nặng nề mà khí hậu và thời tiết toàn cầu đang thay đổi thất thường, đang nóng dần lên qua từng năm. Đây thực sự là mối nguy lớn và khó lường trước hết các hậu quả.
    Hiểm hoạ khác về môi trường liên quan tới những vùng rộng lớn quanh năm đóng băng. Trong trường hợp nhiệt độ tăng làm cho trái đất nóng lên, băng nóng chảy thì có khả năng một lượng lớn khí mêtan và cácbon chứa trong các núi băng sẽ đổ vào khí quyển và như thế, hiệu ứng nhà kính sẽ tăng lên rất nhiều lần. Vì thế sự nóng lên của khí hậu đang gây mối lo ngại chính đáng của các nhà khoa học và của cộng đồng thế giới.
    Tình trạng các nguồn nước sông, hồ, biển nội địa đang trở nên tồi tệ. Hiện nay đã có tới 80 nước, chiếm 40% số dân trên trái đất, bị thiếu nước, có nước thiếu một cách trầm trọng. Đại đương thì vẫn tiếp tục biến thành cái bể lắng khổng lồ chứa các chất thải ô nhiễm của đất liền thải vào và các sản phẩm phân rã của chúng, là nơi chôn lấp phế thải có độc tố cao. Chỉ riêng các tai nạn tàu chở dầu hàng năm cũng đã đổ vào biển và đại dương hàng triệu tấn dầu.
    Đất đai bị thoái hoá, diện tích đất trồng trọt của thế giới đang giảm mạnh qua từng năm. Nguy cơ hoang mạc hoá đang đe dọa nhiều vùng rộng lớn. Rừng tiếp tục bị tàn phá làm cho các nguồn tài nguyên rừng suy kiệt, do vậy tính đa dạng sinh học đang mất đi nhanh chóng. Hơn bao giờ hết, ngày nay, việc bảo vệ quỹ đen của trái đất đã trở thành một trong những vấn đề sinh tử, một thách thức lớn đối với loài người.
    Tất cả những cái đó làm cho vấn đề an ninh lương thực trở thành bài toán khó giải cho tất cả các quốc gia và cộng đồng thế giới.
    Thách thức về xã hội cũng hết sức nghiêm trọng đối với tất cả các quốc gia. Sự phát triển của giao thông vận tải, thông tin, Internet, ngân hàng, tài chính? cùng các tệ nạn xã hội dễ dàng và nhanh chóng vượt ra khỏi biên giới quốc gia lan ra toàn cầu. Đó là nạn ma tuý, đại địch HIV-AIDS, nàn tham nhũng, nạn buôn lậu xuyên quốc gia, nạn các tà giáo, nạn di dân bất hợp pháp. sự gia tăng tội phạm có tổ chức, nạn khủng bố quốc tế?
    Có thể nói rằng, chưa từng có lúc nào trong lịch sử thế giới mà bọn buôn lậu các loại và các băng nhóm tội phạm ma tuý với các khoản tiền khổng lồ lại có thể gây áp lực tới hệ thống chính trị, tới các cơ quan bảo vệ pháp luật, các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời làm mất ổn định và phá hoại an ninh xã hội như trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay. Thực sự đó là những thách thức đối với thế giới văn minh.
    Tương tự như vậy chưa bao giờ tham nhũng trở thành quốc nạn và trở thành thách thức lớn đối với nhiều quốc gia như trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay. Các nước phát triển cũng như chậm phát triển hiện đang phải đối mặt với thách thức này. Hình thức tham nhũng tuy khác nhau, mức độ tuy không đồng đều nhưng nước nào cũng có. Với sự phát triển của khoa họe và kỹ thuật, tham nhũng ngày càng tinh vi và mang tính quốc tế. Những cơ quan, những bộ sức mạnh của Nhà nước, thậm chí cả các lĩnh vực như giáo dục, y tế? cũng bị tham nhũng tấn công. Đặc biệt, tham nhũng không chỉ do những người có thu nhập thấp mà người giữ địa vị cao trong xã hội thậm chí cả Tổng giám đốc các Công ty xuyên quốc gia các Tổng thống, Thủ tướng và gia đình họ đều không tránh khỏi sự cám dỗ của tiền bạc. Tham nhũng làm cho ngân sách Nhà nước cạn kiệt, làm cho các công trình xây dựng không đảm bảo chất lượng, các dự án phải bỏ dở, còn con người thì trượt dài về mặt nhân phẩm, đạo đức, lối sống và cuối cùng đi đến chỗ đánh mất bản thân mình, gia đình mình và cả Tổ quốc mình nữa.
    Nạn tà giáo xuất hiện tràn lan trong loại toàn cầu hoá như một nghịch lý trong cho thời đại cách mạng khoa học và cách mạng công nghệ. Nhiều vấn đề về vũ trụ, thế giới tự nhiên và bản thân con người hiện chưa được khoa học làm sáng tỏ, cho nên con người phải tìm lời giải đáp và nơi ẩn náu trong các tôn giáo, tín ngưỡng kể cả trong các loại tà giáo. Tà giáo xuất hiện không phải chỉ ở các quốc gia chậm phát triển, mà trớ trêu thay, còn ngay cả ở các nước phát triển.
    Do chiến tranh và do các nguyên nhân dân xã hội khác như sự phân cực giàu nghèo mà tình trạng di dân rộng lớn giữa các nước trong bối cảnh toàn cầu hóa mà cộng đồng thế giới phải tìm cách giải quyết.
    Bên cạnh đó, sự gia tăng tội phạm và tội ác, đặc biệt là nạn khủng bố quốc tế cũng đang làm mất ổn định xã hội. Kể từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay mức độ tội áccác dạng này tăng hàng năm là 5%. Các loại tội ác như nạn hải tặc tăng lên một cách đột biến, đặc biệt ở vùng biển Đông Nam Á và Châu Phi. Một loại tội ác mới là tin tặc và máy tính tặc, chúng tạo ra và phát tán những loại virus phá hoại hệ thống máy tính điện tử thế giới đang đe dọa làm trì trệ nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời đại văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp.
    Gần đây việc giải mã bộ gen của con người là một cuộc cách mạng vĩ đại trong sinh học. Nó mở ra những triển vọng to lớn cho con người và loài người trong việc chế ngự các loại bệnh tật di truyền. Tuy nhiên, tại nhiều nước, cũng chính thành công này đang dẫn đến các cuộc thí nghiệm đe dọa đến đạo đức, đến giống nòi của nhân loại. Tình trạng đồng tính luyến ái, sự phá vỡ chức năng gia đình truyền thống? đang là những vấn đề xã hội to lớn nảy sinh trong toàn cầu hoá.
    Như vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá đang đặt ra hàng loạt những thách thức hết sức khó khăn cho tất cả các nước. Đó chính là những vấn đề toàn cầu mà nhân loại đang và sẽ phải đối mặt. Nhận thức cho được các vấn đề này và tìm ra đối sách để giải quyết chúng là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng đó lại là việc không thế không làm một cách tích cực, từng bước và làm một cách khoa học. Có vượt qua được những thách thức đó, chúng ta mới có cơ hội phát triển nhanh hơn trong tương lai. Vì vậy, "nắm bắt cơ hội: vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sông còn đối với Đảng và nhân dân ta?.
    Theo Tạp chí Triết học
  6. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Nhà quản lý Việt Nam trong xu thế hội nhập toàn cầu
    Phạm Anh Tuấn (Trung tâm Hỗ trợ cộng đồng phát triển bền vững)
    Nhà quản lý
    Tác giả đề cập đến một vài nét khác biệt giữa văn hóa quản lý của thế giới và của Việt Nam mà các nhà quản lý của chúng ta đã, đang và sẽ phải đối mặt trong xu thế hội nhập toàn cầu.
    Quản lý: một khoa học và một nghệ thuật
    Có thể thấy khái niệm "Nhà quản lý? (tiếng Anh là Manager) chỉ mới được đùng nhiều ở Việt Nam không lâu khi chúng ta mở cửa hợp tác nhiều hơn với các nước phát triển. Trước đó, chúng ta vẫn quen gọi những nhà quản lý này với cái tên mà thoạt nghe đã thấy sự hiển hiện của chức vụ và quyền lực nhiều hơn nghề nghiệp như là sếp, thủ trưởng, lãnh đạo.
    Nhà quản lý có thể là một anh đội trưởng đội bảo vệ của cơ quan, một chị tổ trưởng phụ trách tổ vệ sinh đường phố, một công viên chức bình thường trong bộ máy quản lý Nhà nước, một Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước hay tư nhân, một vị Bộ trưởng một Bộ hay một ông Thủ tướng của một đất nước...
    Trong mấy thế kỷ gần đây, quản lý đã trở thành một công việc rất đặc thù vì quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Đã là một khoa học thì không thể không nghiên cứu không học hành bài bản và hệ thống mà hy vọng trở thành Nhà quản lý giỏi. Đã là một nghệ thuật thì không phải cứ học thuộc lý thuyết quản lý trong sách vở là có thể trở thành nhà quản lý xuất sắc. Nghệ thuật quản lý là cái gì đó thuộc về năng khiếu, thuộc về bẩm sinh, giống như năng khiếu hội họa, năng khiếu âm nhạc, năng khiếu toán học, cái mà không phải ai khi sinh ra cũng có, cái mà không phải cứ cần cù là bù được khả năng.
    Yếu kém của Việt Nam
    Trong gần 20 năm qua, với chính sách đổi mới, kinh tế Việt Nam đã có một bước tiến vượt bậc. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hiện nay thì không biết bao giờ mới đuổi kịp nền kinh tế hiện tại của các nước xung quanh như Singapore và Thái Lan. Nguyên nhân của sự yếu kém này phải chăng do sự nhìn nhận khác biệt giữa thế giới và Việt Nam về đặc tính khoa học và nghệ thuật của công tác quản lý được đề cập dưới đây?
    Thứ nhất, hầu hết các Nhà quản lý nước ta trước khi được bổ nhiệm và trong suốt quá trình làm quản lý rất ít được đào tạo bài bản, hệ thống về quản lý vì thế việc họ không nắm được các kiến thức, các kỹ năng thiết yếu của quản lý cũng như các công cụ hỗ trợ hiện đại và việc họ thường thực hành quản lý một cách bản năng, mò mẫm tuỳ theo hiểu biết, kinh nghiệm của bản thân cũng là điều dễ hiểu. Hậu quả của việc "trăm hoa đua nở" trong thực hành quản lý là sự mất đồng bộ của hệ thống quản lý trong bản thân một tổ chức cũng như sự mất đồng bộ của hệ thống quản lý của tổ chức này với hệ thống quản lý của tổ chức khác. Đây có lẽ là một trong các nguyên nhân của hiện tượng "trên bảo dưới không nghe" - sự mất kiểm soát vô tình hay cố ý giữa các cấp quản lý mà ta thường nói đến?
    Thứ hai, phần lớn các nhà quản lý trong lĩnh vực công của Việt Nam thường xuất thân từ những cán bộ làm chuyên môn thuần tuý. Đó là các ngành nghề: xây dựng, cơ khí, công nghệ, kỹ thuật... các cư nhân kinh tế, văn hóa, xã hội, các GS, PGS... hoặc là từ những cán bộ trưởng thành từ một công việc nào đó cụ thể. Họ được bổ nhiệm làm lãnh đạo - nhà quản lý chủ yếu do có thành tích xuất sắc trong chuyên môn chứ không nhất thiết vì họ có khả năng lãnh đạo. Do đặc thù của công tác quản lý là điều hành tổ chức, là làm việc với con người, khác xa với việc làm chuyên môn tương đối độc lập. Việc bổ nhiệm chéo giò như vậy có thể làm mất đi một nhà khoa học, một nhà chuyên môn giỏi để đổi lấy một nhà quản lý nhàng nhàng. Thực tế cho thấy một nhà Toán học nổi tiếng chưa chắc đã là một Viện trưởng Viện toán học tốt. Một kỹ sư xây dựng có nhiều sáng kiến, cải tiến, phát minh trong xây nhà xây cầu chưa chắc đã là một Giám đốc Công ty xây dựng giỏi.
    Trong lĩnh vực quản lý tư, việc trở thành nhà quản lý còn dễ hơn nhiều. Chỉ với số vốn không lớn, bất kỳ ai cũng có thể trở thành Giám đốc một Công ty trách nhiệm hữu hạn, một ông chủ của doanh nghiệp tư nhân nào đó mà chẳng cần biết mình có đủ năng lực quản lý hay không. Hậu quả là chỉ sau một thời gian hoạt động, Công ty hay doanh nghiệp này làm ăn thua lỗ, phá sản kéo theo bao hệ lụy kinh tế- xã hội khác.
    Một nhà quản lý ở bất kỳ một lĩnh vực nào, cấp độ nào muốn trở thành nhà quản lý giỏi, ngoài năng khiếu bẩm sinh không thể không nắm vững năm kỹ năng quản lý tối thiểu, đó là xây dựng kế hoạch, xây dựng tổ chức, sử dụng nhân lực, lãnh đạo và kiểm soát. Để làm tốt năm kỹ năng nêu trên, các nước phát triển, các Công ty đa quốc gia hiện nay với những tiến bộ như vũ bão trong khoa học kỹ thuật đặc biệt là trong công nghệ thông tin, đã phát minh ra những công cụ hỗ trợ rất hữu hiệu và hiện đại. Rất tiếc các công cụ này còn rất xa lạ với hầu hết các nhà quản lý Việt Nam. Gần đây có một tờ báo đưa tin rằng 90 % GS, PGS của Việt Nam sống ở Hà Nội, trong số này 60% không sử dụng máy vi tính. Khi GS và PGS, những nhà khoa học đầu ngành của đất nước còn ngại thích ứng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật khó có thể hy vọng những nhà quản lý sẽ có thói quen tiếp cận, học hỏi những kiến thức quản lý và công cụ trợ giúp hiện đại.
    Xét theo khía cạnh sản phẩm, quản lý là một nghề có tầm quan trọng đặc biệt so với những nghề khác vì sản phẩm của quản lý là sản phẩm của một tổ chức có từ vài người cho tới hàng chục triệu người tham gia tạo thành. Chất lượng quản lý sẽ quyết định chất lượng sản phẩm của tổ chức, vì vậy nếu không có khả năng quản lý xin đừng làm quản lý vì sẽ gây tác hại cho rất nhiều người.
    Hãy trả quản lý về đúng chỗ của nó
    Có thể kể ra hàng loạt khác biệt nữa giữa văn hóa quản lý của thế giới và của Việt . Nam trong xu thế hội nhập toàn cầu hiện nay. Tuy nhiên, sự khác biệt lớn nhất làm cho kinh tế Việt Nam chậm phát triển có lẽ là do: Thứ nhất, ở Việt Nam quản lý chưa được coi là một khoa học để từ đó có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý cho các nhà quản lý một cách bài bản, hệ thống trước cũng như trong quá trình làm quản lý. Thứ hai, quản lý không dược coi là một nghệ thuật để từ đó có biện pháp phát hiện, lựa chọn và bổ nhiệm những người có năng lực quản lý thực sự vào cương vị quản lý.
    Nếu sự khác biệt này sớm được khắc phục, nó sẽ góp phần đáng kể rút ngắn sự tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam so với nền kinh tế thế giới.
    Theo Nhà quản lý
  7. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Kiến tạo một xã hội học tập ở Việt Nam - những hạn chế từ lịch sử
    Trần Ngọc Vương
    Tạp chí Tia Sáng
    Nền kinh tế tri thức ở quy mô toàn xã hội tự nhiên đòi hỏi mọi thành viên của xã hội ấy đồng thời là những người năng sản bằng trí tuệ. Kiến tạo một xã hội học tập, không nghi ngờ gì nữa, là một con đường tất yếu mà Việt Nam phải khẩn trương hướng tới. Bài viết này xuất phát từ một góc nhìn cụ thể, là góc nhìn về logic - lịch sử sự vận động của đối tượng, lại chỉ muốn đề cập chủ yếu tới những hạn chế, những khía cạnh không thuận, nói khác, những khó khăn trong việc xây dựng một xã hội như thế, ở ta.
    1. Giới tri thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam ?" những đặc điểm có thể thành chướng ngại cho việc xây dựng một xã hội học tập.
    Những người được coi là thuộc giới tri thức sớm nhất ở Việt Nam mà tên tuổi còn lưu lại, còn có thể khảo chứng được đa số lại là người Hán hoặc gốc Hán. Lý do thật đơn giản: cho đến nay một khi chưa có bằng chứng đầy đủ để khẳng định một thứ văn tự trước Hán và khác Hán từng tồn tại trong quá khứ ở Việt Nam thì đội ngũ những người dùng chữ viết sớm nhất là những người dùng chữ Hán (sử dụng "công cụ lao động" là chữ viết tuy không phải là tiêu chí duy nhất, nhưng chắc chắn là tiêu chí quan trọng nhất để xác định thành phần cho người tri thức. Có thể có những trường hợp đặc thù, ít hay thậm chí không dùng đến chữ viết để "hành? vẫn có thể là tri thức, nhưng đó chỉ là cái cá biệt làm sáng tỏ hơn quy luật). Nếu bắt đầu sự khảo sát của chúng ta về lịch sử tầng lớp trí thức Việt Nam từ sau khi Ngô Quyền giành lại độc lập, thì giới trí thức đầu tiên góp mặt đông đảo nhất đến từ đội ngũ các võ tướng và các nhà sư, rồi dàn nhà nho có số lượng áp đảo. (Tuy đã thuộc về một thời đại lịch sử xa xôi, giai đoạn Lý - Trần rất đáng được nghiền ngẫm trở lại bởi theo cảm nhận của tôi, đó là một giai đoạn còn tiềm tàng nhiều bài học cho cả thời nay).
    Như đã rõ, trong lịch sử Việt Nam cho đến tận đầu thế kỷ XX, mẫu hình tri thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là nhà nho. Tinh thần văn hóa Nho giáo thấm sâu vào thành truyền thống, thậm chí thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Về mặt tổng thể, nền văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX là nền văn hóa Nho giáo. Nếu lưu ý đến "đặc điểm lớn nhất của xã hội Việt Nam thời đại ngày nay" là sự phát triển bỏ qua (hay ít nhất cho đến nay cũng chưa thành một phương thức sản xuất một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh) đối với hình thái kinh tế xã hội TBCN, thì phải đồng ý với nhiều nhà khoa học rằng Vệt Nam đi từ Nho giáo lên chủ nghĩa cộng sản. Trước khi có nền học vấn Âu hoá của thời hiện đại và cả khi nền học vấn đó đã, đang trở thành xu thế chủ đạo thì quán tính của nền học vấn truyền thống vẫn chi phối từng bước của lịch sử một cách mạnh mẽ, khá vô hình nhưng vẫn khá quyết liệt. Cái chết đang túm lấy cái sống. Sự "túm lấy" này, tuy không hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, nhưng nhũng tác động tiêu cực của nó là điều không thể xem thường.
    Trong vòng bảy, tám thế kỷ, đội ngũ ttrí thức nhà nho ở Việt Nam đã dần dần thay thế và cuối cùng là thay thế hẳn đội ngũ trí thức Phật giáo, tạo ra một nền học vấn kiểu nhà nho, và vì thế, ngả theo mô hình của nền học vấn Trung Hoa. Nhưng khác với giới trí thức Trung Hoa nói chung, tầng lớp nhà nho Trung Hoa nói riêng, chưa bao giờ tầng lớp nhà nho Việt Nam thực sự có thực sự độc lập tương đối về chính trị, nhất là trong quan hệ với chế độ chuyên chế, để có thể có được những thành tựu độc lập trong sáng tạo tri thức và những giá tinh thần đủ để vinh danh chỉ riêng tầng lớp của mình. Lý luận Nho giáo không được khái quát lên từ thực tế Việt Nam mà lý luận đó chỉ phù hợp nên có thể vận dụng được trên thực tế Việt Nam ở những thời gian lịch sử nhất định, do quãng thời gian lịch sử ấy có thể và trên thực tế đã kéo dài, thậm chí quá dài. Theo cách nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng phật giáo ở Việt Nam thật thịnh trong một khoảng thời gian không dài, nhưng lại có những thành tựu về sáng tạo tinh thần đột xuất và có những gương mặt trí tuệ đỉnh cao, khả dĩ vinh danh và đại diện cho trí tuệ Việt hơn cả những đóng góp mà nhà Nho tạo nên trong một thời kỳ lịch sử dài hơn nhiều.
    Nhìn vào nhũng sản phẩm đỉnh cao cuối cùng theo cách nhìn cầu trúc đồng đại hóa, sẽ thấy trong đội ngũ tri thức nhà nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn. Các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Định Hươu, Hà Văn Tấn đã nhiều lần lưu ý đến sự thiếu hụt áy. Nói thiếu vắng hoàn toàn thì không phải, nhưng chắc chắn đội ngũ những người như vậy trong lịch sử Việt Nam khá thưa thớt, có nhũng thế kỷ hầu như không thể tìm thấy được. Điều đáng cảm thán không chỉ là "ôi thương sao những thế kỷ vắng anh hùng" như Chế Lan Viên từng thốt lên, mà cũng cả ?oôi thương sao những thế kỷ vắng thiên tài"! Nhận xét tương đối tỉ mỉ hơn cả về điều này là ý kiến của cố học giả Trần Đình Hượu.
    a) Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học. Chưa có tác phẩm, tác giả chuyên về tư tưởng triết học. Nhũng người mà ta phải tính là các nhà tư tưởng như Nguyên Trãi, Nguyên Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... đều là như vậy.
    Loại hình chính là những nhà hoạt động Nhà nước, những người làm văn học, học thuật (chủ yếu là sử học) và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay nghệ thuật của mình mà đề cập những vấn đề tư tưởng. Những ông thầy khi giảng kinh, sử cũng bàn những vần đề tư tưởng, mà nhiều khi chính những ông thầy đó lại nói tư tưởng nhiều hơn, nói nhiều nhưng là nói lại, có hay không sửa chữa chút ít.
    b) Ở đây chưa hình thành mối quan hệ tác động tương hỗ giữa khoa học kỹ thuật và triết học, tức là triết học làm cơ sở lý luận cho khoa học và phát triển theo sự phát triển của khoa học... Có thay đổi thì cũng chỉ là lấy, bỏ, thêm, bớt từ những cái có sẵn trong và ngoài từng hệ thống...
    Nhìn chung, tư duy lý luận không phát triển. Nhũng vấn đề nhận thức, logic, phương pháp không được bàn bạc. Ở đây phát triển một cách tư duy thực tiễn nhằm không phải vào sự chính xác mà sự hợp lý (phải khoảng). Cái ngự trị ở trong nhiều phạm vi là một cái lý - lẽ phải thông thường. Triết học không tách khỏi tôn giáo, học thuật. Về căn bản, trong lịch sử chưa xảy ra một sự thay đổi đến nền móng sản xuất, tổ chức xã hội, văn hóa, học thuật. Tôi nói cả văn hóa, học thuật vì khi còn học theo, bắt chước, nói lại thì chưa chưa gây ra tác động sâu từ khoa học sang triết học, không tạo ra cách mạng trong tư tưởng.
    Nền học vấn truyền thống theo Nho giáo ấy rút cuộc ở lớp trên cùng chỉ để ra được nhà nho - ông quan (đường quan hay học quan, vũ quan có học hay văn quan, kể cả loại "văn võ kiêm bị" đi nữa thì nói gọn lại, cũng chỉ là quan).
    Các loại hình trí thức then chốt của một xã hội trí thức, một kết cấu của tầng lớp trí thức thực thụ như nhà kỹ thuật, nhà khoa học ( hay tác giả) , nhà nghệ sĩ, tiếp đến là nhà tư tưởng - nhà triết học loại thì xuất hiện thưa thớt, mờ nhạt, loại thì hoàn toàn vắng bóng học giả lừng danh nhất trong lịch sử việt Nam trước thế kỷ XX là Lê Quý Đôn, người mà với tất cả sự ngưỡng mộ và lòng kính trọng cũng không thể gắn cho là tác giả của bất cứ định lý, định luật hay nguyên lý, quy tắc nào, ý tưởng nào thực thụ mang tính đột phá tri thức, có lẽ danh xưng xứng đáng nhất trong việc phân loại chuyên gia khoa học thời hiện đại là nhà sưu tầm, nhà biên khảo hay nhà thư tịch học. Thật đau lòng khi phải nói lên điều này.
    Bộ phận hiền nho - các nhà nho hữu danh và thành đạt cũng hầu như không có ai đủ can đảm để chỉ "đi đến cùng một con đường đã chọn?, có lẽ trừ Hải Thượng Lãn ông. Ngay Hải Thượng Lãn ông cũng chọn con đường trở thành một danh y vào lúc tuổi đời không còn trẻ và tình huống cơ hồ không thể khác. Nói tổng quát, màu tri thức nhà nho ở ta chuyên môn hóa khá muộn màng và không trở nên đội ngũ chuyên gia thực thụ, hầu như bất cứ bình diện nào của lao động sáng tạo tinh thần. Trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ thơ là có thành tựu nổi bạt, nhưng không có ai, kể cả nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học dân tộc là Nguyễn Du cũng không trở thành nhà thơ "chuyên nghiệp".
    Một khi hoạt động sáng tạo tinh thần, lao động trí óc chưa được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, thì mọi hoạt động lao động khác gắn liền với các hệ thống tri thức chuyên nghiệp sẽ chỉ trở thành các loại lao động thủ công, nghiệp dư. Tình trạng đó là phổ biến từ các loại làng nghề gắn bó xa gần với hoạt động nghệ thuật cho chí các loại làng nghề sản xuất ra các sản phẩm thuần túy mang tính thương mại. "Công tượng", gọi nôm na là thợ, xếp loại ba, sau nông dân, còn được an ủi là xếp trên loại người tiêu thụ sản phẩm cho họ, tức thương nhân, tầng lớp dưới đáy, bị gọi là miệt thị là loại ?ocon buôn?, ý coi ngang ngang như các loại người bị coi là con... gì gì khác. Việc cất giữ các bí mật nghề nghiệp thành tâm lý phổ biến không đơn thuần chỉ để giữ gìn phương tiện mưu sinh: theo ý tôi trong cách hành xử ấy còn tiềm ẩn cả tâm trạng ẩn ức, cả sự chống đối theo tiêu cực, cả niềm kiêu hãnh về hững phẩm tính và kỹ năng ưu việt không được thừa nhận.
    Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bi đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá "hoàn hào", giới trí thức Việt Nam khi trở thành "tầng lớp trí thức bản xứ? thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vầy vò, ép ướp, hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chủ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vố số bằng chứng cả trực tiếp, cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách tri thức thuộc địa này của thực dân Pháp.
    Từ sau cách mạng tháng tám, thân phận con người, thân phận công dân của người tri thức được đổi thay về chất. Đại đa số những tri thức trong xã hội cũ vì thế hăng hái tham gai bằng sở học của mình vào các công việc của xã hội mới. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, tuy có quá nhiều khó khăn khách quan, một thế hệ tri thức mới đã xã hội, trưởng thành trong thời chống Pháp. Đội ngũ này, tuy về số lượng không thật đông đảo, nhưng đặc biệt có chất lượng. Đa số những tên tuổi lớn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và nghệ thuật thời gian qua của ta là thuộc về hoặc cơ bản là thuộc về thế hệ này. Phần lớn họ là những người ra đời trong khoảng từ 1920 - 1932. Không phải ngẫu nhiên tôi chọn những mốc này, cho đến khi cách mạng tháng Tám nổ ra, hầu hết họ đều đã có một thời kỳ học phổ thông và có được một "lưng vốn" tri thức nói chung, tiếng Pháp hay một ngoại ngữ nói riêng đủ để tự đọc sách và tự học tiếp tục. Những người sinh trước năm 1920 nếu thành danh thì đã thành danh trước cách mạng, mà những người sinh sau 1932 thì ?okhông kịp? có điều kiện như vừ tính tới.
    Nhưng cũng từ sau cách mạng tháng Tám xã hội Việt Nam trải qua hơn 30 năm là xã hội thời chiến hoặc bị chi phối mạnh mẽ bởi những hoàn cảnh thời chiến. Trừ một hai lĩnh vực đặc biệt, chiến tranh không phải là điều kiện dương tính cho sự phát triển của lĩnh vực lao động tri thức. Không quá khó khăn để chỉ ra các lĩnh vực đặc biệt ấy. Dù muốn dù không, tính phục vụ trực tiếp tính ứng dụng là những yêu cầu được đặt lên hàng đầu đối với lao động của người trí thức trong hoàn cảnh ấy. Cũng khó mà tạo ra những diện mạo tri thức, những tên tuổi lớn theo líii hàng loạt trong điều kiện như vậy.
  8. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Mặt khác, kề từ sau cách mạng tháng Tám, nền khoa học non trẻ của Việt Nam nhận được sự bổ sung về nguồn tri thức từ các nước XHCN có nền khoa học tiên tiến, chủ yếu là từ Liên Xô và mức độ khác, từ Trung Quốc. Nhưng rồi giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Tiếp theo đó là đại ***************** vô sản, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố này. Trong giới khoa học Việt Nam những năm 1967 - 1970 nhiều nạn nhân bị quy kết là chuyên môn thuần túy, thiên tài chủ nghĩa, mặc dù thế một số khá đông trong họ vẫn còn kịp có những cống hiến khoa học xuất sắc, kịp được nhận những giải thưởng khoa học cao quý như giải thưởng Hồ Chí Minh hay giải thưởng Nhà nước.
    Có thể nói cho đến nay, ở ta mới có những người trí thức lớn - không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được "lớn" lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào tri thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến "tầm" trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều kiện không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định.
    2. Từ chuyện người có học đến chuyện kiến tạo một xã hội học tập
    Việc kiến tạo một xã hội học tập trong đó mọi thành viên đều được học tập lại là điệu tuyệt đối không dễ dàng. Bên cạnh đòi hỏi về một nguồn ngân sách Nhà nước khổng lồ, một nguồn tài chính từ trong nhân dân hừng hậu, còn cần tạo ra được một cương lĩnh, một chương trình giáo dục vừa phải ưu việt vừa phải mang tính khả thi. Một xã hội học tập lại cũng là một xã hội đòi hỏi một đội ngũ cực đông đảo những người giáo dục và quản lý giáo dục có chất lượng, dù yêu cầu tự học có tăng lên đến mức tối đa chăng nữa.
    Một hệ vấn đề tưởng như đã cũ nhưng do việc tìm lời giải đáp cho đến nay còn mơ hồ nên hóa ra lại thành hệ vấn đề thời sự đó là đáp án đúng cho những câu hỏi nền tảng: ai là người cần học, học cái gì, học ở đâu, học đến đâu, học để làm gì? Điều lạ lùng là, theo tôi, đối với tất cả các câu hỏi này, tìm từ trong lịch sử, đều chỉ thu về được những lời đáp đáng thất vọng trên thực tế.
    Trong những phẩm chất mà nhiều người muốn đề lên thành phẩm chất dân tộc, liên quan đến chuyện học hành, có đức tính hiếu học, và vì thế, truyền thống tôn sư trọng đạo. Thật đáng ngạc nhiên, người ta có thể gán một phẩm chất cho một chủ thể không có khả năng thực tế để thực hiện phẩm chất đó. Ít nhất, từ cách mạng tháng 8 trở về trước, căn cứ vào các con số điều tra và thống kê, tuy có sai khác, nhưng dao động trong khoảng từ 95% - 99% người Việt Nam mù chữ. Một cộng đồng với tuyệt đại đa số người không được học, không đi học, không biết chữ, làm sao xác định rằng cộng đồng đó hiếu học hay không? Tôi nêu lại vấn đề này không phải vì hiểu sự hay thích gây sự, mà nhằm tìm kiếm câu trả lời đúng cho câu hỏi đầu tiên đã nêu ở trên: ai cần học?
    Nhu cầu học tập là một loại nhu cầu thứ sinh, không phải là nhu cầu mang tính tự nhiên như những nhu cầu mà Marx đã đề cập ở con người trước khi nó xây dựng nên những cộng đồng xã hội như ăn, mặc, ở, đi lại, sinh con đẻ cái? Loại nhu cầu có tính tự giác, duy lý mang tính định hướng mục tiêu này chỉ được thỏa mãn thật sự khi mục tiêu thật sự rõ ràng.
    Như đã rõ, tuy nói rằng nhà nho từng tự đòi hỏi phải tinh thông "lục nghệ" (lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số), và với những người được ca ngợi là thông minh cái thế, thì "trên thông thiên văn, dưới tường địa lý" nhưng nền giáo dục Nho giáo, căn cứ vào việc khảo sát các loại đề thi ở cấp cao nhất là Đình thí hay Điện thí, yêu cầu chủ yếu đối với người đỗ Tiến sĩ (kể cả đệ nhất giáp, tức đỗ đến Trạng nguyên, Bảng nhãn hay Thám hoa), cũng chỉ tập trung vào 2 nội dung chủ yếu: văn chương và đạo lý. Nho giáo khởi đầu là một học thuyết đạo đức và cốt lõi của nó cho đến cùng vẫn là những nội dung đạo đức, nên giáo dục mà nó triển khai trong hàng vài nghìn năm bi trói buộc chặt chẽ vào những yêu cầu hiểu và thực hành trước hết là những nội dung đạo đức. Quanh quẩn với những "tu, tề trị, bình", với những "hành, tàng, xuất, xử", cả hai nội dung lớn mà một nền giáo dục lành mạnh bất kỳ nào cũng phải hướng tới là tri thức và kỹ năng lại đã chỉ được nền giáo dục Nho giáo đáp ứng một cách cực tiểu, tối thiểu. Đói diện với chủ nghĩa thực dân, dù vững tin vào đạo lý, vào chính nghĩa của mình, nhà Nho đã phải nhanh chóng cay đắng thừa nhận ?ogươm nhân giáo nghĩa? không trụ nổi với ?ogiáp bền gươm sắc", càng không thể đương đầu có hiệu quả với "tàu thiếc tàu đồng, ngư lôi đại bác". Sự tỉnh thức của chính các nhà nho Duy tân đầu thế kỷ XX là một tình huống thời sự kéo dài, cho đến nay lại càng thêm cấp bách.
    Những tri thức, kỹ năng toàn diện và ở trình độ cao, có được là nhờ nhũng nỗ lực cá nhân to lớn và những chi phí còn to lớn hơn, lại là điều quá xa xỉ trong một xa hội nông nghiệp sản xuất nhỏ. Không hình thành nổi nhu cầu học tập mạnh mẽ và đích thực một khi không/ hay chưa có chỗ ứng dụng những tri thức và kỹ năng học tập được ấy. Chưa bao giờ giáo dục ở ta được hạch toán như là đầu vào (imput) của một chu trình liên tục trong nền kinh tế quốc dân, như là một tham số hữu cơ của nền kinh tế mà chỉ mới được quan niệm như là một vấn đề thuộc phúc lợi xã hội. Những năm gần đây, khi vỡ lẽ ra (chẳng lẽ mãi mà không vỡ lẽ ra cái điều tối thiểu ấy?) rằng giáo dục là động lực để cải tạo nền kinh tế, các quyết sách về giáo dục văn chỉ mới chuyển động ở cầp vi mô: không ai giải thích với chúng ta, từ ông Bộ truởng Bộ Giáo dục, cho đến câc ông Hiệu trưởng các trường chuyên nghiệp, các Bộ chuyên ngành rằng tại sao năm nay, thời gian này, từng trường một lại cần và có thể tuyển số lượng sinh viên là như thế, mà không phải là những con số khác. Các giám đốc Sở giáo dục không thuyết trình rõtại sao tỉnh này cần đến ngần này loại trường, ngầnnày loại lớp... Cho đến nay, kể cả ở các truờng Đại học lớn, vốn được tiếng, hay nói theo ngôn ngữ hành chính là đảm nhiệm chức năng "máy cái", vẫn có lượng sinh viên tại chức đông hon chính quy, trong khi tỷ lệ mà báo chí nêu, có đến 70 - 80% sinh viên chính quy tốt nghiệp không có việc hay làm việc không đúng chuyên môn được đào tạo.
    Vì vậy cùng với việc nâng cao chất lượng cãc trường Đại học, cần hình thành cho được hệ thống các trường dạy nghề đa dạng, phong phú, số lượng lớn, vừa kế thừa và phát huy được những thứ nghề truyền thống, vừa đón bắt nhu cầu của các loại ngành nghề mới của công nghiệp, dịch vụ hiện đại, khiến cho tuyệt đại đa số người lao động còn có khả năng lao động hay lớp trẻ khi nhìn vào tương lai có được sự bình thản khi nghĩ tới chỗ làm, nghĩ tới "đầu ra", phải chăng một sự tiên lượng về những việc phải làm trong quỹ đạo này, từ trưóc tới nay, vốn là bất khả và từ giờ trở đi, vẫn cứ là "chưa phải lúc"? Theo ý tôi, cái xã hội học tập mà ta mong muốn kiến tạo, cần trước hết tập trung vào đối tượng này.
    Theo Tạp chí Tia Sáng
  9. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Nước Việt Nam không hề nhỏ
    Tô Phán
    Báo Lao Động
    Ngày 5.8, tại TP.Hồ Chí Minh, Báo Thanh Niên đã tổ chức lễ tổng kết diễn đàn "Nước Việt Nam nhỏ hay không nhỏ" và ra mắt Quỹ "Đào tạo nhân tài đất Việt". Các hoạt động trong khuôn khổ lễ tổng kết diễn đàn có sự góp mặt của khoảng 7.000 người. Phải ghi nhận Báo Thanh Niên đã tạo nên một diễn đàn rất có ý nghĩa về vấn đề Việt Nam lớn hay nhỏ với các góc độ tiếp cận khác nhau. Chỉ trong thời gian từ 27.3 đến 30.6.2006, đã có hàng vạn ý kiến tâm huyết gửi đến tham gia diễn đàn.
    Điều thấy rõ nhất và mang tính bản chất nhất qua diễn đàn của Báo Thanh Niên là người dân thuộc các tầng lớp khác nhau, ở các cấp độ hiểu biết khác nhau đều trăn trở về vận mệnh quốc gia, đều có niềm tin mãnh liệt vào một đất nước Việt Nam không hề nhỏ. Khi công dân không còn trăn trở vì vận mệnh quốc gia, không còn niềm tin vào đất nước thì đó là bi kịch lớn nhất của lịch sử một dân tộc.
    Hầu hết các ý kiến đều cho rằng Việt Nam không hề nhỏ, nhưng vấn đề là tại sao lại chưa phải là nước lớn trên thế giới? Khái niệm lớn hay nhỏ không phải là đất rộng người đông. Một quốc gia lớn hay nhỏ phụ thuộc vào giá trị tinh thần của chính quốc gia đó, dân tộc đó. Việt Nam trở nên nhỏ đi, khi các giá trị tinh thần bị đảo lộn do chính mỗi con người chúng ta.
    Giá trị tinh thần có thể thay đổi, có thể tiếp nhận những yếu tố mới theo sự biến thiên và các cuộc giao thoa của lịch sử, thế nhưng không thể lấy lý do thay đổi để đảo lộn giá trị, thậm chí đánh tráo giá trị.
    Tại sao có lúc Việt Nam ta vừa nhỏ, vừa yếu? Nói nhiều, làm ít; phê phán, chê bai và nặng nề đến mức là phủ nhận cả dân tộc - đó là căn bệnh của không ít người mà hậu quả của nó là làm cho nước Việt Nam nhỏ đi. Ơ một cực khác gần như đối lập là nhiều người lại tự hào quá độ, dẫn đến kiêu ngạo. Chính sự kiêu ngạo đó vẽ ra ánh hào quang không có thật, làm cho đất nước mình nhỏ đi. Biết mình là ai, điểm mạnh, điểm yếu là gì, đang ở đâu trong dòng chảy lịch sử thì mới có thể tiến về phía trước hợp quy luật. Có thể nói, hội chứng phủ nhận và hội chứng kiêu ngạo làm cho đất nước Việt Nam nhỏ đi.
    Quan điểm đạt được lợi ích kinh tế bằng mọi giá cũng làm cho Việt Nam nhỏ đi. Tại sao vậy? Phát triển kinh tế bất chấp tất cả sẽ không đi đến cái đích cao cả. Sự hùng mạnh của nền kinh tế không có văn hoá là sự hùng mạnh của kinh tế chiếm đoạt theo lối thực dân. Và vì thế kinh tế lúc đó thực chất là kinh tế nô dịch, với vô số những tệ nạn xã hội.
    Tất cả mọi người đều bức xúc vì sự phát triển của đất nước, vấn đề là cần những diễn đàn như vậy để tỏ rõ quan điểm. Tuy nhiên, thông điệp từ lễ tổng kết diễn đàn do Báo Thanh Niên tổ chức là: Nước Việt Nam không hề nhỏ; phải từ bỏ những tư duy cản trở sự phát triển đất nước: Và đã đến lúc tất cả mọi người phải xắn tay áo để cùng nhau làm việc thực sự vì đất nước Việt Nam hùng cường, chứ không chỉ có những lời hô hào!
    Theo Báo Lao Động
  10. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Việt Nam không thể đứng ngoài!
    Thanh niên Online
    Giáo dục ÐH Việt Nam cần đào tạo Cử nhân theo xu hướng hội nhập với thế giới. Là Giáo sư trưởng bộ môn Cơ học phá hủy (Khoa Kỹ thuật Hàng không - Không gian) của ĐH Liège (Bỉ), đi thỉnh giảng ở nhiều nước trên thế giới và hiện đang là Chủ nhiệm chương trình hợp tác đào tạo Cao học Việt - Bỉ tại ĐH Bách Khoa Hà Nội và ĐH Bách Khoa TP. HCM. GS. TSKH Nguyễn Đăng Hưng sau chuyến trở lại từ Châu Âu đã có cuộc trò chuyện về một ?oCuộc cách mạng ĐH xáo trộn cả châu Âu? (cách dùng từ của báo chí châu Âu) trong năm 2004 này.
    - Thưa GS, nghĩ đến việc đổi mới hay cải tổ một nền giáo dục, người ta hay nghĩ đến sự yếu kém của nền giáo dục đó, phải chăng châu Âu đang phải làm cách mạng giáo dục ĐH là nằm trong trường hợp đó?
    - GS, TSKH Nguyễn Đăng Hưng: Tây Âu với các nước như Đức, Ý, Pháp... đã dẫn đầu thế giới cả mấy thế kỷ về học thuật và kinh tế vì đã xây dựng được từ lâu đời một nền ĐH có chất lượng bậc nhất thế giới. Nhưng chính các nhà lãnh đạo Liên hiệp Châu Âu ngày càng ý thức những điểm yếu của mình.
    Nền giáo dục châu Âu vì lý do lịch sử để lại nên có tính manh mún, phân tán, mỗi nước mỗi kiểu, lại không thể thu hút sinh viên hay giữ chân nhân tài, không tương xứng với yêu cầu của tình hình mới. Theo thống kê từ năm 1980, sinh viên ngoại quốc đến châu Âu đã ít hơn đến Mỹ. Từ năm 1991 đến 2000, 50% tiến sĩ gốc Châu Âu đến Mỹ học và không về lại Châu Âu làm việc (khoảng 11.000 người).
    Năm 1999, các nhà lãnh đạo giáo dục 29 nước châu Âu đã họp tại Bologne (Ý) để thông qua một tuyên bố lịch sử là "Tuyên ngôn Bologne". Văn bản này đề ra những phương hướng chung, khắc phục những yếu kém hiện hữu, đồng loạt làm một cuộc cải tổ có tính cách mạng bắt đầu thực hiện từ năm 2004 và phải xong trong thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ mới.
    - Nội dung chính của cuộc cách mạng này sẽ là gì?
    - GS, TSKH Nguyễn Đăng Hưng: Đó là các ĐH ở Châu Âu thống nhất một lộ trình từ nay cho đến 2010 là một thập kỷ để cải tiến giáo dục toàn châu Âu hướng đến một nền giáo dục chung nhất. Các ĐH sẽ tự chuyển mình, sao cho đến thời hạn cuối là 2010 phải đạt được 6 mục tiêu cụ thể sau đây:
    Một là, xây dựng một hệ thống đào tạo thống nhất, trên toàn lãnh thổ châu Âu chỉ còn 3 loại bằng: tú tài+3 là Cử nhân, tú tài+5 là Thạc sĩ (Master) và Tú tà+8 là tiến sĩ.
    Hai là, phát triển và tổ chức hoàn chỉnh chế độ đào tạo theo tín chỉ trên toàn châu Âu.
    Ba là, công nhận bằng cấp của nhau.
    Bốn là, liên thông giữa đào tạo nghề và đào tạo ĐH để mở rộng cơ hội học tập suốt đời cho mọi người.
    Năm là, củng cố việc trao đổi sinh viên, giảng viên bằng cách tăng cường học bổng và thù lao thỉnh giảng.
    Sáu là, củng cố chế độ tự trị ĐH cùng lúc với những phương thức kiểm định chất lượng ĐH.
    Trong phạm vi những nỗ lực của Chương trình hợp tác Việt - Bỉ (www.ulg.ac.be/ltas-rup/dang), chúng tôi đang có những dự tính tìm kinh phí để đưa một số nhà quản lý giáo dục ĐH Việt Nam sang nước ngoài để tiếp cận những kinh nghiệm này và cũng sẵn sàng chia sẻ tất cả các thông tin với những trường ĐH nào trong nước cần tìm hiểu. Năm 2004, chương trình giao lưu, trao đổi sinh viên châu Âu sẽ mở rộng ra toàn thế giới với tên gọi mới ERASMUS MUNDUS, nhờ đó hy vọng sẽ có sinh viên Việt Nam sang châu Âu du học trong khuôn khổ chương trình mới này.
    Các trường chủ động xác định cho mình một lộ trình phù hợp với điều kiện cụ thể của mình. Nhưng nhìn chung một bầu không khí sôi động đã bắt đầu ở tất cả các trường ĐH trên toàn Châu Âu ngay từ đầu năm mới. Theo tôi biết 50% trường ĐH của Pháp và 100% của Ý, Bỉ đã công bố thực hiện theo quy chế mới từ đầu niên khóa 2004-2005.
    - Theo GS thì ?ocuộc cách mạng? đó có ảnh hưởng tới ĐH Việt Nam?
    - GS Nguyễn Đăng Hưng: Cuộc cải cách mà tôi vừa nói đang xáo trộn toàn diện không gian ĐH châu Âu, có đến 31 quốc gia tham gia. ĐH Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Úc đã tổ chức theo hệ thống như vậy từ trước. Như vậy có nghĩa là gần như sẽ đi đến một nền ĐH thống nhất toàn thế giới cho thập kỷ trước mắt.
    Việt Nam không thể đi một lối khác với xu thế toàn cầu này mà nên nhanh chóng hòa vào xu thế chung của ĐH thế giới. Chúng ta đang tính toán, đang bàn cãi và thậm chí chuẩn bị sửa chữa, bổ sung Luật Giáo dục thì rất nên tìm hiểu kinh nghiệm của các nước để "đi tắt, đón đầu", sử dụng kinh nghiệm của họ áp dụng vào thực tiễn Việt Nam là có lợi nhất. Nếu chúng ta đứng ngoài xu thế này hoặc đi ngược lại trào lưu, sẽ đến lúc rất khó khăn cho việc giao lưu quốc tế, khó khăn trong việc gởi sinh viên đi đào tạo nước ngoài...
    Theo Thanh niên Online

Chia sẻ trang này