1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Toàn cầu hoá va đơi sống tinh thần người Việt

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi phuong_le, 03/08/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Cái nhìn mới về thị trường lao động
    Văn Khoa
    Tạp chí Tia Sáng
    Dù muốn dù không, chúng ta vẫn không thể ngăn cản việc nhìn nhận sức lao động là một loại hàng hóa bị chi phốt theo quy luật thị trường. Người làm giỏi được lương cao, người làm dở chịu lương thấp. Sự cạnh tranh trong việc chào bán sức lao động là một yếu tố thúc đẩy từng cá nhân và toàn xã hội nỗ lực làm việc tự đào tạo nâng cao chất lượng lao động của mình. Chúng tôi xin mổ xẻ sau đây một số cách nhìn mà theo chúng tôi là không còn phù hợp về giá trị lao động trong nền kinh tế thị trường.
    Sức lao động thuận mua vừa bán
    Đã một thời gian dài chúng ta xây dựng hình ảnh người anh hùng lao động với sự gắn bó và cống hiến suốt đoiừ cho nhà máy. Đây là một quan niệm có thể đúng trong một giai đoạn lịch sử đầy thử thách của đất nước. Đến nay quan niệm này không còn phù hợp nữa.Với các quyền lợi của người lao động được quy định khá rõ ràng trong luật lao động hiện hành, giảm đóng góp của người lao động được doanh nghiệp trả đầy đủ qua các khoản tiền lương, tiền công, phụ cấp, bảo hiểm. Theo luật lao động sau khi rời doanh nghiệp, người lao động tiếp tục được đền bù cho sự đóng góp của mình bằng các khoản bảo hiểm mà cả hai bên cùng tích lũy trong quá trình đóng BHXH. Dù là nghỉ hưu hay nghỉ việc, hai suy nghĩ trái ngược quy luật bên sẽ sòng phẳng chia tay và thị trường về lao động. Phải không còn ai nợ ai. Quan hệ lao động lành mạnh là quan hệ không ai lợi dụng ai, do đó doanh nghiệp cũng không buộc người lao động gắn bó và lao động cũng không nên chịu ơn doanh nghiệp.
    Đẩy ra ngoài xã hội
    Một quan niệm khác rất phổ biến trong các doanh nghiệp Nhà nước là mỗi khi cho nghỉ, buộc thôi việc hay cho thôi việc một người lao động, thủ trưởng cơ quan vẫn có ít nhiều băn khoăn là mình đã đẩy một người ra ngoài xã hội. Đây là lập luận của hầu hết cán bộ công đoàn khi tham gia các buổi họp tinh giản biên chế. Phải chăng xã hội là một cái gì đó đầy đen tối, tệ nạn, xấu xa. Cho một người nghỉ việc là làm một hành động ít nhiều có ác tâm? Đây là một cách cho nghỉ việc một người là đóng góp vào tiềm năng lao động của đất nước vốn là một lợi thế thường được nhắc đến của Việt Nam. Các thủ trưởng doanh nghiệp Nhà nước thường kết hợp lòng nhân ái với thuộc cấp khi thực thi nhiệm vụ của mình. Chưa nói chuyện dẫn đến quan hệ chịu ơn không bình đẳng. Việc kết hợp này, không chỉ cho nghỉ việc, không đẩy ra ngoài xã hội là một việc làm thiếu tinh thần trách nhiệm với chức nghiệp, đồng lương thủ trưởng mà mình đang hưởng của Nhà nước. Doanh nghiệp có rào cản thế năng lớn, người xin vào làm khó khăn dẫn đến doanh nghiệp bị suy yếu sức cạnh tranh do thuê mướn lao động giá mắc. Chứa chấp người làm không được việc trong doanh nghiệp, nhìn một góc độ khác thì đó là sự lạm dụng quyền để thể hiện lòng nhân ái của cá nhân. Các vị thủ trưởng này nên thỏa mãn nhu cầu từ thiện bằng cách trích tiền lương của mình đóng góp cho các tổ chúc xã hội giúp người khốn khó hơn là thưởng cho nhân viên bằng chính quyền lục của mình và tiên lương cua cơ quan.
    Sa thải nhân viên là đóng góp cho xã hội
    Khi kế hoạch sản xuất ổn định như nhau, việc tăng năng suất để giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh là chỉ tiêu phấn đấu hàng đầu cua các doanh nghiệp sản xuất, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Lúc đó cứ mỗi năm tăng 10% năng suất mặc nhiên có nghĩa là phải giảm đi 10% lao động bằng hình thức không ký hợp đồng mới mà thực chất là sa thải. Mỗi năm phấn đấu cho nghỉ việc 10% lao động ngoài ý nghĩa đóng góp vào tiềm năng lao động của xã hội còn có ý nghĩa giảm nguồn năng lượng, nguồn tài nguyên, tăng thu nhập đầu người, tăng chất lượng lao động trên toàn xã hội. Suy nghĩ này khá lạ lùng so với nếp nghĩ của hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước nhưng nó phù hợp với quy luật hơn.
    Theo Tạp chí Tia Sáng
  2. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Toàn cầu hóa và vận hội của Việt Nam
    Vũ Thành Tự Anh
    Tạp chí Tia Sáng
    Toàn cầu hóa không phải là một hiện tượng gì mới lạ trong lịch sử phát triển của loài người, có mới đi chăng nữa chỉ là ở chỗ làn sóng toàn cầu hóa thời nay xảy ra với tốc độ cao hơn, cường độ mạnh hơn, và phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều so với trước đây mà. Và dân tộc ta đã có ý thức chủ động hòa mình vào làn sóng ấy.
    LÀN SÓNG TOÀN CẦU HÓA THỨ NHẤT (1492 ?" 1760)
    Làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất được đánh dấu bởi sự kiện Christopher Columbus tình cờ phát hiện ra Châu Mỹ, kéo dài cho đến cuối thế kỷ 18 và đã để lại nhiều hệ quả sâu sắc.
    Nếu như trước năm 1500, trình độ phát triển và điều kiện sống của con người trên thế giới (về thu nhập, tuổi thọ v.v.) tương đối đồng đều thì đến cuối thế kỷ 18, thế giới đã bị phân hóa một cách rõ nét. Đặc biệt, sự thăng trầm quyền lực của các quốc gia xảy ra với tốc độ khá nhanh. Trung Quốc là một ví dụ rất tiêu biểu, từ một nước dẫn đầu thế giới về gần như mọi phương diện trở thành một nước rơi vào sự đe dọa thường trực của phương Tây. Cho đến thế kỷ 15, có thể nói Trung Quốc là đại cường quốc của thế giới và là quốc gia đi đầu trong hầu hết mọi lĩnh vực. Trung Quốc lúc bấy giờ chiếm 1/5 dân số thế giới và là một quốc gia (đồng thời cũng là thị trường) thống nhất với diện tích rộng mênh mông.
    Trung Quốc cũng là nước có hạm đội hải quân hùng mạnh nhất. Về thương mại, Trung Quốc hồi đó là một trong vài nước có thặng dư thương mại, và theo một số ước lượng thì thương mại đường biển của Trung Quốc lớn gấp 15 lần thương mại qua biển Baltic của cả Châu Âu gộp lại. Về các mặt triết học, văn học, nghệ thuật, tôn giáo v.v. Trung Quốc đều có thể tự hào về những đóng góp của mình cho nền văn hiến của nhân loại.
    Một điều hết sức thú vị là quá trình giao lưu về mặt tư tưởng xảy ra song song với tiến trình toàn cầu hóa. Vào đầu thế kỷ 18, các nhà truyền giáo dòng Jesuit đã dịch nhiều tác phẩm triết học của Trung Quốc sang tiếng Pháp và được nhiều nhà khai sáng của Châu Âu như Voltaire, Montesquieu, Diderot rất ngưỡng mộ. Các tư tưởng triết học Trung Hoa cũng được các nhà tư tưởng của trường phái Trọng Nông thời đó để ý. Tương truyền, chính Francois de Quesnay, cha đẻ của học thuyết trọng nông đã trở thành một ?otín đồ? trung thành của Đạo Lão và trong tác phẩm ?oLe despotisme de Chine? (Chủ nghĩa chuyên chế Trung Hoa) năm 1764 của mình, Quesnay dịch hai chữ ?ovô vi? thành ra ?olaissez-faire? trong tiếng Pháp để truyền đạt ý tưởng cho rằng nhà nước không nên can thiệp sâu vào đời sống xã hội mà hãy để nền pháp quyền dẫn dắt. Sau đó, tư tưởng ?olaissez-faire? được phản chiếu lại trong ?obàn tay vô hình? của Adam Smith và trở thành viên đá tảng của chủ nghĩa tư bản thị trường tự do cho đến tận ngày nay. Và điều mà dân tộc Trung Hoa đang cố gắng làm mấy chục năm trở lại đây không khác gì là việc trở lại với quan điểm ?ovô vi trị,? nhưng lần này là dưới sự ảnh hưởng của phương Tây.
    Làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất thực chất là lịch sử của các cuộc chinh phạt và sự manh nha của chủ nghĩa thực dân. Về mặt kinh tế và quân sự, Trung Hoa đã phải dần lùi bước trước các nước phương Tây với công nghệ giao thông và quân sự ưu việt hơn. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn này, chiến lược chinh phạt đã tự chứng minh tính không bền vững, không chỉ vì sức tàn phá vô cùng to lớn của nó mà trên thực tế, chinh phạt là một ?ocuộc chơi có tổng bằng không?.
    LÀN SÓNG TOÀN CẦU HÓA THỨ HAI (1760 - 1914)
    Làn sóng toàn cầu hóa thứ hai được đánh dấu bằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất khởi thủy từ nước Anh vào nửa cuối thế kỷ 18 và kéo dài cho đến thế chiến thứ nhất. Sự xuất hiện của máy hơi nước, và sau đó là đường sắt, điện tín v.v. và cùng với nó là làn sóng toàn cầu hóa thứ hai đã đưa thế giới chuyển sang một quỹ đạo mới. Sức mạnh của động cơ hơi nước đã thay thế rất nhiều cho lao động nặng nhọc, đồng thời năng suất cao hơn cũng có nghĩa là từ nay thế giới có thể duy trì được một dân số lớn hơn.
    Bên cạnh những điều thần kỳ mà cuộc cách mạng công nghiệp mang lại cho nước Anh cũng như một số nước công nghiệp khác thì thời kỳ này cũng chứng kiến sự hình thành nên một giai cấp mới ?" giai cấp vô sản bị bần cùng hóa. Bắt đầu từ đây xuất hiện một sự đối lập giữa một bên là giới chủ tư bản - chủ sở hữu của các tư liệu sản xuất, và bên kia là giai cấp công nhân được tự do bán sức lao động nhưng lại hoàn toàn vô sản. Cuộc đấu tranh giai cấp làm nên một phần lịch sử nhân loại cũng bắt đầu từ đấy.
    Chứng kiến sự phát triển vượt bậc của nước Anh trong vòng vài chục năm kể từ khi bắt đầu công nghiệp hóa, các nước Châu Âu khác (và sau đó là Nhật và Mỹ) ý thức được rằng cuộc đua về sức mạnh kinh tế và quyền thống trị thế giới bây giờ mới thực sự bắt đầu. Chính cuộc cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bản chất của cuộc đua này: Cuộc đua giữa những người đi bộ hay ngựa đã chuyển thành cuộc đua của máy móc với tốc độ và công suất lớn gấp hàng ngàn, hàng vạn lần, và do vậy nguy cơ tụt hậu trở nên cấp thiết và hiện thực hơn bao giờ hết. Trên thực tế, nếu như vào đầu thế kỷ 18, dưới tác động của làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất, thu nhập bình quân của các nước Tây Âu chỉ cao hơn các nước Đông Âu chừng 20% thì đến năm 1890, khoảng cách này đã lên tới 80%.
    Trong cuộc đua này, nước Anh có một thuận lợi cơ bản vì nó có hệ thống thuộc địa rộng đến nỗi mặt trời không bao giờ lặn trên đồng bảng Anh. Cũng như nước Anh, các nước phương Tây khác lao như thiêu thân vào cuộc chiến giành thuộc địa vì thuộc địa rộng lớn đồng nghĩa với việc có nguồn nhân công và nguyên liệu rẻ mạt dồi dào hơn để phục vụ công nghiệp hóa, có thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn, có sức mạnh kinh tế và quân sự hùng mạnh hơn... Kết quả là nếu như vào năm 1800, Châu Âu mới kiểm soát 35% lãnh thổ trên thế giới, thì con số này tăng lên 67% vào năm 1878 và 85% vào năm 1914 ?" năm bắt đầu của thế chiến thứ nhất. Thế giới dường như đã rơi vào ngõ cụt khi một nước, để tránh thân phận thuộc địa, buộc phải thuộc địa hóa kẻ khác. Và đây cũng là chiến lược thống trị của các quốc gia phương Tây, của Nhật và Mỹ trong làn sóng toàn cầu hóa thứ hai.
    Và điều gì phải đến đã đến. Châu Âu đã phải nhờ đến bàn tay của thần chiến tranh để giải quyết mâu thuẫn và sự bế tắc của mình. Châm ngòi cho cuộc chiến tranh này là sự tan rã của đế chế Ottoman, và điều này ngay lập tức mở ra cơ hội to lớn cho cuộc xâu xé thuộc địa đã sắp đến hồi kết. Chiến tranh bùng phát, kéo dài gần 5 năm, lấy đi sinh mạng của 38 triệu con người, và tiêu hủy không biết bao nhiêu tài sản vật chất mà các nước phương Tây phải ky cóp chật vật trong suốt mấy thế kỷ trước đó. Mặc dù thế chiến thứ nhất thường được mệnh danh là ?ocuộc chiến chấm dứt mọi cuộc chiến?, nhưng trên thực tế nó đã không thể mang lại nền hoà bình cho Châu Âu. Có chăng chỉ là một khung cảnh ảm đạm thê lương của một Châu Âu thất thểu và kiệt sức.
    GIỮA HAI LÀN SÓNG TOÀN CẦU HÓA (1914 - 1980)
    Mâu thuẫn bên trong chủ nghĩa thực dân cũng như giữa người dân thuộc địa với các nước thực dân đã đặt dấu chấm hết cho làn sóng toàn cầu hóa thứ 2. Từ 1914 cho đến 1945, toàn cầu hóa hoàn toàn dừng lại. Siêu lạm phát ở Đức ngay sau chiến tranh, rồi đến cuộc đại khủng hoảng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ năm 1929, sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít ở Đức, rồi ở Ý và Nhật, cuộc chiến tranh thế giới thứ 2..., tất cả đều dẫn tới cùng một đích: sự hủy diệt. Nhưng từ đống tro tàn của thế chiến thứ hai, trong khi cả châu Âu gần như đã hoàn toàn kiệt quệ thì nước Mỹ đã nổi lên và khẳng định mình như là một cường quốc mới với sứ mạng lãnh đạo làn sóng toàn cầu mới.
    Thế chiến thứ 2 cũng đã cho thế giới thấy nhu cầu hợp tác và xích lại gần nhau giữa các quốc gia, và một số thể chế toàn cầu đã được hình thành ngay sau chiến tranh như UN, WB, IMF v.v. Tuy nhiên, trong những năm từ 1945 đến 1980, mặc dù làn sóng toàn cầu hóa trên thế giới có nhích lên chút ít nhưng không thể lan xa được do bị chặn đứng bởi bức màn thép và bởi vực thẳm khác biệt về ý thức hệ giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hệ quả là thương mại quốc tế trong giai đoạn này chủ yếu diễn ra trong nội bộ của mỗi phe nhưng có thể nói không có sự đột biến lớn lao nào xảy ra trong giai đoạn này. Vào năm 1950, tỉ trọng xuất khẩu so với GDP của toàn thế giới đã giảm xuống chỉ còn 5% - bằng con số của năm 1870! Đa số các nước đang phát triển theo đuổi chính sách hướng nội, thay thế nhập khẩu. Đáng lưu ý là chính trong lúc ấy, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, và Singapore, khi ấy vẫn còn là những nước nghèo đang phát triển, lại chọn một chiến lược khác hẳn: đặt trọng tâm vào xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo và nhờ đó đã có những bước nhảy vượt bậc. Thế giới đã xuất hiện một sự phân cực ngày càng rõ ràng hơn về mức độ giàu nghèo.
  3. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    LÀN SÓNG TOÀN CẦU HÓA THỨ BA (1980 - ?)
    Làn sóng toàn cầu hóa thứ ba chỉ thực sự nổi lên vào những năm 1980, đánh dấu bởi sự gia tăng của công-ten-nơ hóa, sự phát triển vận tải hàng không, cước phí thông tin liên lạc giảm đi một cách nhanh chóng, sự phát triển ứng dụng rộng rãi của công nghệ sinh học và điện tử, và sự xuất hiện và phát triển như vũ bão của Internet!
    Nếu thu gọn hệ quả của toàn cầu hóa trong thời đại ngày nay về một vài từ thì những từ đó có lẽ sẽ là tốc độ cao, khoảng cách nhỏ, mật độ cao, cường độ lớn! Không gian vật lý trong đời sống của con người đã được thu nhỏ lại rất nhiều kể từ những nỗ lực khám phá thế giới đầu tiên của Marco Polo, Vasco da Gama, Columbus v.v... hàng trăm năm trước. Nhưng đáng lưu ý hơn, toàn cầu hóa gia tăng tốc độ và vì vậy thu hẹp khoảng cách không chỉ trong không gian vật lý mà còn trong mọi chiều kích của cuộc sống loài người, từ việc ăn, ở, mặc, đi lại, giải trí, tinh thần, tình cảm, thông tin, tôn giáo, văn hóa... Một hệ quả của việc thu hẹp khoảng cách là sự phụ thuộc lẫn nhau được cảm nhận mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta lại phụ thuộc sâu sắc và trực tiếp vào những quyết định, hành động, sự kiện xảy ra cách xa chúng ta hàng ngàn dặm như ngày nay. Bin Laden vốn chẳng có chút liên hệ gì với chúng ta trở thành một trong những nhân vật được biết tới nhiều nhất ở Việt Nam; dịch SARS khởi phát ở Trung Quốc và lan rộng khắp thế giới; sự kiện Việt Nam không gia nhập được WTO do sự chưa nhất trí với một số đối tác thương mại nước ngoài v.v. Những sự kiện này xảy ra cách chúng ta rất xa, và trong đã số trường hợp độc lập với ý chí của chúng ta, nhưng lại trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của đại bộ phận người dân Việt Nam.
    Một lần nữa, thế giới bước vào một bước ngoặt, và khi gia tốc của thế giới tăng lên không ngừng thì chỉ cần chậm chân (chứ chưa nói đến xảy chân) thì tụt hậu và lạc đường là hệ quả tất yếu. Trong khi những năm 1980 được mệnh danh là ?omột thập niên bị đánh mất? của các nước Châu Mỹ La-tinh, và trong khi phần lớn các nước Châu Phi tiếp tục hứng chịu hậu quả từ nội chiến, những xung đột và chính sách kém cỏi của nhà nước thì hai người khổng lồ Ấn Độ và Trung Quốc đã bừng tỉnh. Hai nước này đã quyết định đưa nền kinh tế ra khỏi quỹ đạo cũ để hòa mình vào trào lưu chung của thế giới. Công cuộc mở cửa nền kinh tế và phát triển theo hướng thị trường hóa đã mang lại cho hai quốc gia này những thành tựu về kinh tế rất đáng khâm phục. Ấn Độ duy trì mức tăng trưởng bình quân 6-7% kể từ đầu những năm 1990, còn ở Trung Quốc là 8-9% trong suốt hơn 20 năm trở lại đây. Đáng lưu ý, điều thần kỳ chỉ này không chỉ xảy ra với Ấn Độ và Trung Quốc mà xảy ra với hầu hết những nước biết tận dụng sức mạnh của toàn cầu hóa. Trong một nghiên cứu gần đây Ngân hàng Thế giới đã phát hiện ra rằng giữa năm 1980 và 1997, thu nhập bình quân đầu người của nhóm nước toàn cầu hóa tăng thêm 70%, trong khi con số này ở nhóm nước có mức độ toàn cầu hóa thấp hơn chỉ là 10%. Hơn thế, ở nhóm nước toàn cầu hóa, tỉ lệ phổ cập tiểu học tăng nhanh hơn, mặt bằng thuế hạ thấp hơn, và hệ thống luật pháp cũng được cải thiện hơn.
    TOÀN CẦU HÓA VỚI VIỆT NAM
    Toàn cầu hóa là một hiện thực mới ở Việt Nam. Chúng ta mới chỉ thực sự làm quen với toàn cầu hóa trong vòng 20 năm trở lại đây. Nhớ lại là vào cuối thế kỷ 15, khi làn sóng toàn cầu hóa thứ nhất bắt đầu thì dân tộc ta vẫn còn bế tắc dưới thời vua Lê, chúa Trịnh; và đèo Ngang vẫn còn sừng sững trên tiến trình Nam tiến của dân tộc. Trong làn sóng toàn cầu hóa thứ hai, chúng ta, lại một lần nữa, không phải là người trong cuộc. Nếu như dân tộc ta đã không có ý thức về làn sóng thứ nhất thì chúng ta đã chủ động chối bỏ một cách có ý thức làn sóng thứ hai. Rất may là đối với làn sóng toàn cầu hóa thứ ba này, dân tộc ta đã có ý thức hơn và đã chủ động hòa mình vào làn sóng ấy, dám chấp nhận vị mặn chát của nó để đổi lấy sức mạnh của đại dương. Chỉ có tinh thần ấy mới tương xứng với những cơ hội và thách thức to lớn mà toàn cầu hóa đang đem lại cho dân tộc chúng ta.
    Nghịch lý của toàn cầu hóa là nó có thể biến mọi điều thành có thể và ngược lại. Nó có thể tước đoạt hoặc gia tăng quyền lực. Nó có thể đồng hóa, làm nghèo đi, đồng thời cũng có thể làm cho các nền văn hóa giao tiếp, xẻ chia, và cùng trở nên phong phú. Nó mở ra triển vọng phát triển, nhưng cũng có thể khiến mọi người ôm giữ chặt hơn ?ocây ô liu? truyền thống. Toàn cầu hóa có nghĩa là chúng ta vừa lớn lên lại vừa nhỏ lại, vừa mạnh lên đồng thời lại vừa yếu đi... Tuy nhiên, một bài học sâu sắc từ lịch sử là mọi cơ hội và thách thức gắn liền với toàn cầu hóa đều chỉ là những khả năng, và xác suất để những khả năng này trở thành (hay không trở thành) hiện thực phụ thuộc rất nhiều vào sự sáng suốt, thức thời và chuẩn bị của chúng ta. Toàn cầu hóa như thời tiết. Vấn đề không phải là trốn tránh hay cố tình phủ nhận nó, mà là hiểu được những quy luật của nó, từ đó thuận theo, thích nghi, đồng thời hạn chế tác hại của nó.
    Toàn cầu hóa là gì?
    Từ "toàn cầu hóa" tuy phổ biến và lâu đời nhưng thật đáng ngạc nhiên, người ta lại rất khó trả lời và đi đến thống nhất về khái niệm toàn cầu hóa.
    Đối với Thomas Friedman (tác giả của ?oChiếc Lexus và cây ô liu? và ?oThế giới phẳng?) thì toàn cầu hóa là một thế lực không gì ngăn cản nổi, được thúc đẩy bởi những bước tiến dài trong các lĩnh vực công nghệ, truyền thông, tài chính v.v. cho phép con người, hàng hóa, thông tin, và các dòng vốn lưu chuyển xuyên biên giới với một quy mô chưa từng thấy, từ đó kiến tạo nên diện mạo của những con người tự do và những quốc gia thịnh vượng. Còn đối với Namoi Klien (cũng là một nhà báo, tác giả của ?oNo Logo?) thì toàn cầu hóa là một thế lực ghê gớm nhưng mờ ám, bị thao túng bởi các tập đoàn quốc tế, có khả năng xóa nhòa ranh giới giữa giữa các quốc gia, san bằng các nền văn hóa, triệt tiêu vai trò của nhà nước - quốc gia (nation-state) và thủ tiêu các tiến trình dân chủ. Cũng có những người điềm tĩnh và trung dung hơn, như David Held (tác giả của ?oGlobal Transformations: Politics, Economics and Culture? và một vài cuốn sách khác về toàn cầu hóa) thì toàn cầu hóa là một phong trào rộng lớn trong lịch sử phát triển của loài người và có những hệ quả rộng lớn và sâu sắc đối với mọi mặt của đời sống con người, xã hội, và thế giới. Sự bất đồng này về quan điểm phản ánh phạm vi bao trùm và tính phức tạp của toàn cầu hóa: bao trùm đến nỗi hình như mỗi người đều thấy mình bị toàn cầu hóa tác động theo cách này cách khác, và phức tạp đến nỗi không một cá nhân nào có thể nhận thức đầy đủ về nó.
    Nếu như toàn cầu hóa được quan niệm một cách khái quát như một sự gia tăng các dòng chảy xuyên biên giới về con người, dịch vụ, vốn, thông tin và văn hóa thì lịch sử loài người đã trải qua ba làn sóng toàn cầu hóa với mức độ và những đặc trưng rất khác nhau.
    [1] Tôi xin chân thành cảm ơn Eli Mazur, đồng nghiệp của tôi trong môn học ?oToàn cầu hóa và Việt Nam? tại Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright vì đã cung cấp cho tôi một số thông tin rất hữu ích được sử dụng trong bài viết này. Tài liệu của môn Toàn cầu hóa và Việt Nam được đăng tại http://ocw.fetp.edu.vn/
    Theo Tạp chí Tia Sáng
  4. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Tản mạn về doanh nghiệp Việt Nam
    TS. Lê Đăng Doanh
    Sài Gòn tiếp thị
    Trong thế giới ngày nay, khi hiệu quả về thời gian trở thành thước đo rất quan trọng thì doanh nghiệp và cả xã hội phải có những thay đổi cơ bản.
    Tuy chưa trở thành thành viên của WTO vào tháng 12/2005 như đã dự định, nhưng hội nhập quốc tế ngày nay đã trở thành câu chuyện hàng ngày của doanh nhân Việt Nam: xuất khẩu đi hơn 120 nền kinh tế, một năm đi công cán cả trên chục lần ra nước ngoài, sử dụng các công cụ hiện đại của công nghệ thông tin trong công việc hàng ngày, từ nước ngoài có thể duyệt báo cáo, cho chỉ thị, nhận thông tin từ văn phòng như không còn khoảng cách địa lý. Và đã bắt đầu nếm những món khai vị đủ loại chua, cay, mặn, ngọt của hội nhập là cạnh tranh ngay trên sân nhà, vừa mới thâm nhập được vào thị trường đã phải đối mặt với kiện tụng tranh chấp thương mại.
    Rất nhiều doanh nhân đã trưởng thành nhanh chóng, nhất là những người trẻ, được đào tạo và chịu khó học hỏi. Trong khi đó phải nói không ít doanh nhân bị "hố" rất nặng, không biết ngoại ngữ, sử dụng phiên dịch không chuyên nghiệp và chưa biết ứng xử thích hợp. Việc uống rượu quá nhiều không phù họp với tập tục kinh doanh quốc tế, không phải cứ thật say thì ký được hợp đồng béo bỏ. Không phải tình cờ mà các doanh nhân Trung Quốc ngày nay không chỉ học quản trị kinh doanh, ngoại ngữ mà còn mời thầy từ Thuỵ Sĩ đến, trả tiền rất cao để học cách ăn mặc, chào hỏi, ứng xử phù hợp với doanh nhân quốc tế.
    Song, tất cả mới chỉ là khúc dạo đầu cho một trường ca bi tráng sẽ tới và phải tới. Chúng ta sẽ phải tham gia vào các chuỗi giá trị (value-chain) hay trở thành bộ phận của một dây xích sản xuất quốc tế: sản xuất ở Việt Nam, lắp ráp ở Trung Quốc hay phải làm dịch vụ cho những hợp đồng đưa công việc ra ngoài doanh nghiệp (outsourcing) như thiết kế, kế toán hay chẩn đoán cho các siêu thị, Công ty, bệnh viện của Mỹ hay EU. Họ làm việc cả ngày đến 9 giờ đêm, rồi chuyển sổ liệu cho ta và đóng cửa về nhà vì lúc đó ở bên Mỹ đã tối và phải nghỉ.
    Đúng lúc đó là một ngày mới của ta, mỏ máy tính đã thấy đầy ắp dữ liệu và phải hoàn tất mọi công việc trước 9 giờ đêm và gửi lại cho họ để họ bắt đầu một ngày mới. Không cần phải nói thêm nhiều cũng có thể hình dung khoảng cách dữ tợn giữa chúng ta hiện nay và thực tế này đang diễn ra ở Trung Quốc và Ấn Độ: khung pháp luật, kỹ năng của nhân viên - kể cả trình độ ngoại ngữ, sự tin cậy và kỹ thuật bảo mật... Phải đáp ứng tất cả các yêu cầu rất cao thì mới có thể trở thành thành viên của một mắt xích hay đối tác dịch vụ cho một mạng lưới outsourcing toàn cầu. Song, nếu đứng ngoài cuộc chơi lẫn này thì chúng ta đâu có chăm chỉ, xuất khấu thật nhiều gạo hay rơm sạch, tức là xuất khẩu những sản phẩm thô với giá trị gia tăng thấp, thì chúng ta sẽ vẫn là kẻ ngoài cuộc và sẽ vẫn chỉ là nền kinh tế thu nhập thấp.
    Trong thế giới ngày nay, khi hiệu quả về thời gian trở thành thước đo rất quan trọng thì doanh nghiệp và cả xã hội phải có những thay đổi cơ bản: phải thực hiện hợp đồng trong thời hạn nhanh nhất để đến sớm hơn đối thủ cạnh tranh. Chu kỳ sống của các sản phẩm đều đã trở nên rất ngắn, từ điện thoại đi động đến máy tính và thời trang cao cấp mùa vụ không quá ba, bốn tháng. Trong thời gian đó, từ người làm ra chính sách đến hải quan, vận tải đều phải tiết kiệm thời gian giao hàng. Không thể chỉ có công nhân làm đêm, còn quan chức thì đủng đỉnh, hôm nay cũng được ngày mai cũng xong, vì nếu vậy hiệu quả của cả nền kinh tế được quyết định bởi khâu chậm trễ nhất, tức là bởi khâu nào biếng nhác và vô trách nhiệm nhất. Chỉ cần một khâu chậm trễ và lỡ hẹn thì hàng vạn con người trên cả chục nước sẽ bị vô hiệu hoá và hệ quả ra sao có thế dễ dàng mường tượng được.
    Qua vài ví dự trên, có thể hình dung ra sự khác biệt lớn giữa doanh nhân toàn cầu hoá và doanh nhân của luỹ tre làng, giữa sinh viên toàn cầu hoá và sinh viên sau luỹ tre xanh : một người nhận thông tin, vật liệu từ toàn thế giới và hành xử theo luật chơi toàn cầu, ngôn ngữ toàn cầu, một người tìm kiếm lọi nhuận từ những tính toán thiệt hơn qua các mối quan hệ với anh Hai, chị Ba để xin miếng đất hay ưu đãi thuế. Chừng nào sự cám dỗ của con đường kiếm tiền dễ dàng và phi pháp còn lớn thì con đường nhọc nhằn của toàn cầu hoá chưa thề mỏ ra. Song, có thế nhìn thấy trước, những ưu thế của luỹ tre làng là hạn hẹp và sớm muộn cuộc cạnh tranh vái đối thủ không cân sức sẽ diễn ra. Và lúc đó, sự nâng đỡ của anh Hai, chị Ba sẽ chỉ tác động rất có giới hạn mà thôi.
    Một sinh viên toàn cầu hoá ở thành phố Hồ Chí Minh hay Hà Nội học qua mạng, xin học bổng qua mạng, trao đổi với bạn bè trên thế giới qua mạng. Có lẽ anh ta không khác một sinh viên ở nước ngoài nhiều lắm, trong khi một sinh viên sau luỹ tre xanh nhai lại những kiến thức cũ rích và vô dụng từ những bài đọc trong sách được xuất bản từ thế kỷ trước. Khoảng cách giữa hai con người đó là khoảng cách của thế kỷ chứ không phải khoảng cách tính bằng cây số.
    Như vậy có thế mường tượng được rằng khoảng cách giữa chúng ta hiện nay và cái mốc cần đạt tới trong vài năm nữa còn lớn như thế nào. Người Việt Nam ta vốn được đánh giá là thông minh, tiếp thu nhanh, khéo tay cho nên có nhiều khả năng sẽ bắt kịp về kiến thức. Song, các thể chế, thói quen, các định kiến và sự thiếu hiểu biết là những cản trở không nhỏ. Thách thức lớn nhất là thách thức từ chính mình, không tự vượt qua được các trói buộc mà mình tự buộc vào. Cho nên đối mới tư duy vẫn là điều quan trọng nhất. Biết đón nhận cái mới, biến kiến thức học được thành trí tuệ, kỹ năng của mình, đó là điều chúng ta cần làm.
    Năm mới 2006 với bao cơ hội giao lưu quốc tế chắc chắn sẽ đưa quá trình hội nhập quốc tế sâu sắc hơn và toàn diện hơn. Trong cuộc chiến đấu này, chiến đấu với chính mình, vượt lên được các giáo điều xưa cũ là yếu tố then chốt để đi đến thắng lợi với đối thủ trên thương trường. Chúc các doanh nhân chúng ta thành công!
    Theo Sài Gòn tiếp thị
  5. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Xây dựng cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam chuyên nghiệp
    Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch - Tổng giám đốc InvestConsult Group
    Văn hóa doanh nhân
    Một cộng đồng doanh nhân theo nghĩa phải là một cộng đồng doanh nhân được hình thành do nhu cầu tự nhiên của đời sống kinh doanh và phù hợp với các quy luật cạnh tranh. Chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường với nòng cốt là các doanh nghiệp mạnh, do đó, mục tiêu xây dựng cộng đồng doanh nhân Việt Nam phải là phát triển mỗi doanh nhân, mỗi doanh nghiệp trở thành một cá thể chuyên nghiệp.
    Chúng ta đều biết rằng, căn nguyên sâu xa của sự chênh lệch phát triển giữa phương Đông và phương Tây nằm ở sự giải phóng cá nhân, giải phóng sức sáng tạo và phát triển năng lực của mỗi cá nhân. Phương Tây phát triển trên cơ sở sức sáng tạo cá nhân được giải phóng, cá nhân trở thành module cơ bản cho mọi tiến trình xã hội. Khác với phương Tây, cộng đồng luôn được coi trọng và xem như một phẩm chất của người phương Đông, và chính nó hình thành lối sống dựa vào cộng đồng, quy mô sản xuất nhỏ và lạc hậu. Nói cách khác, phương Đông kém phát triển vì các giá trị cá nhân, các quyền con người chưa được khẳng định và tôn trọng đúng mức. Khẳng định các quyền cá nhân, các giá trị cá nhân là đòi hỏi tất yếu để giải phóng mỗi cá nhân, tạo động lực cho mọi sự phát triển.
    Sức ép cạnh tranh từ toàn cầu hóa và hội nhập đòi hỏi mỗi nền kinh tế trong đó nòng cốt là các doanh nghiệp phải luôn mài sắc năng lực và phẩm chất của mình. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, sự non yếu của cộng đồng doanh nhân là tất yếu. Không thể đòi hỏi những cá nhân trong một cộng đồng kinh doanh còn kém phát triển như Việt Nam có ngay được những phẩm chất như các cá thể ở các cộng đồng phát triển. Do đó, việc làm cần thiết hiện nay là phải nghiên cứu các quy luật hình thành cộng đồng doanh nhân Việt Nam với tư cách là tập hợp các cá thể hoàn chỉnh cả về kỹ năng, trình độ và các tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh. Nếu chưa hoàn chỉnh các tiêu chuẩn văn hóa của một cá nhân thì chưa có cá thể như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ là xây dựng các tiêu chuẩn văn hóa để có những cá thể hoàn chỉnh, mà còn phải biết phân loại cá thể và cộng đồng hóa cá thể. Để phân loại được cá thể cần phải hiểu cá thể, phải nghiên cứu cá thể. Như vậy, ?ocó cá thể, hiểu cá thể phân loại cá thể và cộng đồng hóa cá thể" là một chuỗi logic. Nếu không nghiên cứu cá thể thì không phân loại được cá thể không phân loại được cá thể thì không thể cộng đồng hóa được cá thể, không cộng đồng hóa được cá thể thì không thể quản lý và hỗ trợ cho chính các cá thể. Cần phải tuân theo chuỗi logic này để đảm bảo rằng sự hình thành cộng đồng kinh doanh dựa trên nền tảng các giá trị cá nhân, các quyền con người được khẳng định và tôn trọng, sức sáng tạo cá nhân được giải phóng.
    Tuy nhiên, việc nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển, hoàn thiện các cá thể để có một cộng đồng mạnh không chỉ dừng lại ở đây, nó đòi hỏi tiếp tục lật lại vấn đề tính cộng đồng. Đó là, có nhất thiết và duy nhất cần thiết phải xây dựng tính cộng đồng kinh doanh với ý nghĩa để cộng đồng kinh doanh người Việt cũng có tính liên kết tập thể cao giống như cộng đồng kinh doanh người Hoa hay không? Sự hài hòa giữa tính tập thể và tính cá thể trong một cộng đồng là câu trả lời của chúng tôi. Cộng đồng là nhu cầu của con người, sự hình thành cộng đồng là tất yếu, nhưng mỗi cộng đồng người có những phẩm chất riêng, do đó chỉ có thể hình thành cộng đồng người Việt hay các nhà kinh doanh người Việt chứ không thể đòi hỏi cộng đồng người Việt có những phẩm chất của cộng đồng người khác. Tính tập thể không phải là duy nhất cần thiết vì bản thân yếu tố này cũng hàm chứa không ít điểm yếu, đó là tính không bền vững, kém năng động, sáng tạo hay dễ bị bó méo. Thậm chí có người còn cho rằng, tính cộng đồng càng cao thì bản lĩnh cá thể càng kém và ngược lại ở nhiều nước phát triển, các hiệp hội luôn phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ, nhưng là sự kiểm soát của pháp luật. Mục đích thành lập các hiệp hội chính là tăng cường bản lĩnh của các cá thể thành viên nhằm duy trì sự tồn tại khách quan, hiệu quả của hiệp hội. Tính cá thể kết hợp với tính liên kết tập thể sẽ tạo thành sức mạnh cho cả cộng đồng. Do đó, chúng tôi cho rằng, không nên tiếp tục nhấn mạnh thái quá tính tập thể hay tính cộng đồng một khi đã xác định mục tiêu là xây dựng cộng đồng doanh nhân Việt Nam chuyên nghiệp với những cá thể chuyên nghiệp.
    Việc hình thành cộng đồng kinh doanh Việt Nam bị cản trở bởi không ít những yếu tố văn hóa lạc hậu và tiêu cực, trong đó có tâm lý tiểu nông. Tuy nhiên, cần nhắc lại là vấn đề vẫn sẽ không được giải quyết nếu chúng ta tiếp tục coi tâm lý tiểu nông là đối tượng để công kích, phê phán. Chừng nào chưa xây dựng được các tiêu chuẩn đạo đức, văn hóa của doanh nhân với tư cách là các cá thể hoàn chỉnh thì chúng ta chưa có được một nền văn hóa kinh doanh Việt Nam, tức là chưa có một cộng đồng doanh nhân theo đúng nghĩa. Theo chúng tôi, cần phải giải quyết tận gốc vấn đề, đó là cải cách văn hóa để giải phóng chính chúng ta khỏi tư duy cũ, thứ tư duy không dựa trên nền tảng là các giá trị cá nhân, các quyền con người. Điều đó cũng có nghĩa là thừa nhận những giá trị nhân văn thực sự trong đó thừa nhận các giá trị cá nhân là giải pháp căn bản cho việc xây dựng cộng đồng không chỉ cho giới doanh nhân mà cho tất cả các giới khác trong xã hội.
    Tóm lại, mục tiêu xây dựng một cộng đồng doanh nhân mạnh phải là phát triển những cá thể hoàn chỉnh không chỉ về năng lực, trình độ mà cả các tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh. Cộng đồng kinh doanh phải được hình thành tự nhiên do nhu cầu của cuộc sống chứ không phải do nhu cầu chính trị và trở thành nơi ẩn nấp của các cá thể yếu kém như hiện nay. Do đó, xây dựng cộng đồng doanh nhân Việt Nam chuyên nghiệp phải bắt đầu bằng việc nghiên cứu các tiêu chuẩn văn hóa của lực lượng doanh nhân để hoàn thiện và chuyên nghiệp hóa từng cá thể cũng tức là xây dựng một nền văn hóa kinh doanh Việt Nam tiên tiến nhằm phát huy vai trò thực sự của các doanh nhân trong sự nghiệp phát triển đất nước.
    Theo Văn hóa doanh nhân
  6. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Gắn văn hóa doanh nghiệp với đời sống người lao động
    Ts. Phan Quốc Việt
    "Tại sao ta thành lập doanh nghiệp? Doanh nghiệp hoạt động có phải chỉ vì tiền hay vì nhiều mục đích khác nữa? Theo tôi, xây dựng doanh nghiệp là để làm cho đất nước hưng thịnh. Như vậy, xây dựng văn hoá doanh nghiệp cũng không nằm ngoài mục đích đó.
    Văn hoá tồn tại ngoài sự nhận biết của chúng ta. Có con người, có gia đình, có xã hội là có văn hoá. Văn hoá rất quan trọng, nó tồn tại độc lập với chúng ta. Văn hoá không có nghĩa là cái đẹp. Dù ta có nhận thức hay không nhận thức thì nó vẫn trường tồn. Nếu ta biết nhận thức nó, xây dựng nó thì nó lành mạnh, phát triển. Có thể có văn hoá đồi trụy đi xuống, văn hoá phát triển đi lên, văn hoá mạnh hay văn hóa yếu, chứ không thể không có văn hoá. Người ta đồng nghĩa giữa văn hoá doanh nhân, văn hoá kinh doanh và nhiều người nghĩ văn hoá giao tiếp là văn hóa doanh nghiệp. Nhưng hoàn toàn không phải như vậy.
    Không phải chỉ đơn thuần vui vẻ với nhau, hoà thuận với nhau đã là văn hóa. Trong một doanh nghiệp, quy trình ra quyết định trên tinh thần dân chủ bàn bạc tập trung; truyền thông giao tiếp trong nội bộ là mệnh lệnh một chiều hay trao đổi trên tinh thần có đi có lại; giao tiếp ở sau lưng nói về nhau như thế nào, có nói tốt về nhau, có gạn đục khơi trong không, nó cũng thể hiện văn hoá.
    Tuy nhiên, cái quan trọng hơn là thái độ lao động, lao động sáng tạo, nhiệt tình cũng là thể hiện văn hoá doanh nghiệp. Lao động hùng hục chưa chắc đã là có văn hoá. Tất nhiên văn hoá giao tiếp là bộ phận cấu thành của văn hoá doanh nghiệp.
    Văn hoá doanh nghiệp được thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau. Cấp dễ thấy nhất đó là thực thể hữu hình như những đồ vật: báo cáo, sản phẩm, bàn ghế, phim... hoặc công nghệ: máy móc, thiết bị, nhà xưởng... hoặc ngôn ngữ: chuyện cười, truyền thuyết, khẩu hiệu... hoặc các chuẩn mực hành vi: nghi thức, lễ nghi, liên hoan... hoặc các nguyên tắc, hệ thống, thủ tục, chương trình...
    Cấp thứ hai là các giá trị được thể hiện. Giá trị xác định những gì mình nghĩ là phải làm. Nó xác định những gì mình cho là đúng hay sai. Giá trị này gồm hai loại. Loại thứ nhất là các giá trị tồn tại khách quan và hình thành tự phát. Loại thứ hai là các giá trị mà lãnh đạo mong muốn và phải xây dựng từng bước.
    Cấp thứ ba là các ngầm định. à?ó là niềm tin, nhận thức, suy nghĩ và xúc cảm được coi là đương nhiên ăn sâu trong tiềm thức mỗi cá nhân trong doanh nghiệp. Các ngầm định này là nền tảng cho các giá trị và hành động của mỗi thành viên.
    Bất kỳ tổ chức nào cũng phải có văn hoá mới trường tồn được. Một dân tộc, một quốc gia muốn trường tồn được phải có nền văn hoá rất mạnh. Văn hoá doanh nghiệp không nằm ngoài phạm trù đó. Phải coi văn hoá như tôn chỉ mục đích của doanh nghiệp mình. Vì vậy xây dựng văn hoá doanh nghiệp là cấp bách, cấp thiết và là cái đầu tiên mà mỗi doanh nghiệp cần lưu tâm tới. Tại sao nhiều công ty cứ đổ vỡ, có nhiều triệu USD vẫn phá sản? Phải chăng, đó là vì không chú trọng tới xây dựng văn hoá mà chỉ dám "đánh quả", "chộp giật"... bất cần biết văn hoá doanh nghiệp ở chỗ nào!
    Nói một cách hình tượng thì: "Văn hoá là cái thiếu khi ta đã có tất cả và cái còn lại khi ta đã mất hết". Nếu doanh nghiệp có văn hoá thì trong qua trình kinh doanh có thể lên, xuống vẫn vực lại được. Nhưng không có văn hoá, chỉ có chết. Nhiều người khi đánh giá về doanh nghiệp vẫn chú trọng đến thị trường, tổ chức, nhân sự, cơ cấu. à?iều đó không hoàn toàn đúng. Người nhận thức sâu sắc về giá trị của doanh nghiệp phải là ở chỗ đánh giá về cái gọi là: tầm nhìn, xứ mệnh và giá trị cốt lõi của doanh nghiệp.
    Nền phông chung của văn hóa dân tộc, trong đó có văn hoá doanh nghiệp là trăm hoa đua nở. à?iều đó không có nghĩa là một hệ thống văn hoá giống hệt nhau. Mà các doanh nghiệp phải tạo cho mình nét văn hoá riêng. Vì giống nhau quá cũng khó phát triển nếu không muốn nói là rất nguy hiểm. Bởi lẽ sự giống nhau về văn hoá trong mỗi doanh nghiệp như thế mới chỉ đảm bảo tính ổn định chứ khó phát triển được.
    Coi văn hoá doanh nghiệp như là tôn chỉ mục đích của công ty là rất cần thiết, bởi nó đảm bảo sự trường tồn của doanh nghiệp. Nó như thể ta tâm niệm sống để làm gì, tại sao ta lại sống...?
    Khi mỗi công ty xây dựng được môi trường sống lành mạnh thì bản thân người lao động cũng muốn đến công ty. Người cha, người mẹ gửi gắm con mình vào công ty nào xây dựng được môi trường văn hoá tốt thì họ cũng yên tâm hơn. Vì vậy, xây dựng cho được một môi trường văn hoá trong mỗi doanh nghiệp làm sao để người lao động thấy được môi trường làm việc của công ty cũng chính là môi trường sống của họ là điều mà các doanh nghiệp rất nên quan tâm.
    Cần làm sao để người lao động một ngày xa doanh nghiệp đã thấy nhớ, đã thấy thiếu đi cái gì đó trong cuốc sống của họ. Cái mà họ thiếu đó không phải đơn thuần là đồng tiền mà là giá trị tinh thần và chỉ đến công ty mới có được. à?iều đó cũng có nghĩa là để người lao động luôn tự hào về công ty, không có cách nào khác là xây dựng một nền văn hoá trong mỗi doanh nghiệp".
  7. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức đối với giá trị truyền thống trong điều kiện toàn cầu hóa
    Nguyễn Trọng Chuẩn
    Tạp chí Triết học
    Lịch sử nhân loại đã chứng kiến ba lần toàn cầu hóa khi diễn ra toàn cầu hóa hiện nay. Đó là, lần thứ nhất vào thế kỷ XV, sau khi Crixtốp Côlông tìm ra châu Mỹ, các nước phát triển ở châu Âu tiến hành công cuộc chinh phục thế giới. Lần thứ hai, từ giữa thế kỷ XIX trở đi, châu Âu chinh phục châu Á và người Nhật nhân cơ hội này thực hiện công cuộc duy tâm rất thành công. Kết quả của hai cuộc chinh phục này là ?omặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh?. Lần thứ ba, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc đã dẫn đến một trật tự thế giới mới với việc hàng loạt các nước châu Á, châu Phi, và khu vực Mỹ La tinh giành được độc lập về chính trị, tham gia vào các mặt hoạt động khác nhau của cộng đồng thế giới. Đặc điểm chung và nổi bật của cả ba lần toàn cầu hóa này là ở chỗ, chung đều là hệ quả của các cuộc chiến tranh và của chính sách thực dân.
    Khác hẳn với ba lần đó, quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra hiện nay là hệ quả của sự phát triển vô cùng mạnh mẽ, mang tính chất đột biến của khoa học và công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin. Các phương tiện hiện đại của công nghệ thông tin, trước hết là mạng Internet, mạng viễn thông toàn cầu, cáp quang xuyên đại dương, các mạng kết nối siêu lộ thông tin, ? đã tạo ra kết cấu hạ tầng kỹ thuật của toàn cầu hóa. Nếu chỉ xét riêng về mặt này thì toàn cầu hóa hiện nay là sản phẩm, là thành quả của văn minh nhân loại, do vậy mà tất cả các quốc gia, tất cả các dân tộc không những có cơ hội để tiếp nhận những sản phẩm và thành quả đó, mà còn có quyền và cần phải tìm cách tham gia vào chính quá trình ấy, để góp phần tiếp tục thúc đẩy sự tiến bộ của nhân loại.
    Song , bên cạnh đó, cần nhận thấy rằng, toàn cầu hóa hiện nay còn một mặt khác nữa. Nó là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại và của một yếu tố cần phải được tính đến là chính sách của tất cả các nước phát triển, nhất là Hoa kỳ. Không phải ngẫu nhiên mà M.Sorrel, người Anh, chủ tịch một trong những công ty truyền thông lớn nhất thế giới đã phải thốt lên rằng, thế giới không phải đang toàn cầu hóa, mà nó đang được Mỹ hóa. Điều này không chỉ được minh chứng về sức mạnh trong lĩnh vực kinh tế và thương mại của nươc Mỹ, mà còn có thể được minh chứng bằng ưu thế qua vài số liệu sau đây trong lĩnh vực văn hóa. Trong số 20 trường đại học nổi tiếng trên thế giới thì chỉ có 3 trường của nươc Anh là Oxford, Cambridge và Đại học London, số 17 trường đại học còn lại đều là của Hoa Kỳ. Hiện tại có khoảng 450.000 sinh viên nước ngoài đang du học ở Mỹ. Cái lợi trước mắt về kinh tế do những người này mang lại cho nước Mỹ thì đã rõ. Còn những gì sẽ xảy ra sau khi số này thành đạt và trở về quê hương họ thì ai cũng có thể dự báo được. Chính một nhà nghiên cứu người Mỹ, R.Stil, đã viết rằng, các tín hiệu văn hóa Mỹ thông qua Hollywood và ?oMcDonal? mang đi khắp thế giới đang phá tan cơ sở của các xã hội khác. Hoặc một số liệu khác. Trên 85% số phim được chiếu tai 22 nước phát triển nhất thế giới là phim Mỹ. Riêng tại các nươc Anh, Ai Cập, Argentina, Brazil thì phim Mỹ chiềm 100%. Sự đe doạ của toàn cầu hóa trong lĩnh vực văn hóa mạnh đến mức mà năm 2002 Tổng thống Cộng hòa Pháp Jacques Chirac phải thốt lên rằng, toàn cầu hóa đó là sự diệt vong của văn hóa. Sức mạnh của nước giàu nhất thế giới chi phối không chỉ tính chất của toàn cầu hóa hiện nay, mà còn chi phối cả thái độ và mức độ tham gia, hợp tác, hội nhập, lẫn những đối sách cần được cân nhắc kỹ lưỡng của các nước, nhất là các nước kém phát triển, vào quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
    Để tránh đồng nhất giai đoạn đang diễn ra với các giai đoạn trước và cũng để cho chuẩn xác về mặt khoa học, chúng tôi sử dụng thuật ngữ ?otoàn cầu hóa? không có tính từ hoặc trạng từ đang rất phổ biến. Bởi vì, chúng tôi coi toàn cầu hóa hiện nay là quá trình khách quan, một quá trình mở, luôn vận động, biến đổi, đang tiếp diễn, đang phát triển, ?ochưa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh?, chứ không coi nó là một hiện tượng cố định, bất biến, đóng kín hoặc đã hoàn thành.
    Khác với các giai đoạn toàn cầu hóa trước đây, toàn cầu hóa hiện nay diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó rõ nhất là trong lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực thông tin. Hai lĩnh vực này có sức cuốn hút lớn và tác động rất mạnh đối với tất cả các nước, các cộng đồng và cả các cá nhân. Tuy nhiên, do trình độ phát triển của các nước, các cộng đồng, các tầng lớp dân cư quá cách biệt nhau, nội lực là khác xa nhau, đặc biệt, do sự áp đặt nghiệt ngã của các thế lực tài chính quốc tế đối với các nước nghèo, yếu thế, cho nên khả năng nắm bắt có hội hợp tác và khả năng tham gia, hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa hiện nay của các nước cũng không giống nhau. Từ đó, những thách thức, những rủi ro và cả cạm bẫy đối với các nước, các cộng đồng người khác nhau cũng khác nhau, cho nên thành tựu và lợi ích thu được lại càng không giống nhau. Người thu lợi nhiều nhất nhờ toàn cầu hóa hiện nay không phải ai khác ngoài những nước giàu có nhất. Trong khi đó, số người thua thiệt, chịu tác động bất lợi trực tiếp của quá trình toàn cầu hóa hiện nay là đáng kể, mà theo nhiều tính toán thì có tới 4 tỉ người, tức là 2/3 dân số thế giới. Chính những điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thái độ, hành vi và quyết tâm hợp tác, hội nhập của các nước, nhất là các nước nhỏ với tiềm lực về mọi mặt còn quá yếu.
    Đó là lý do vì sao bên cạnh sự ủng hộ, sự cổ vũ nhiệt liệt, vô điều kiện của một bộ phận thì, ngược lại, một bộ phận không nhỏ khác lại tổ chức thành các phong trào và thậm chí còn tiến hành những cuộc bạo động, có khi đẫm máu, chống đối quyết liệt quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra. Mấy năm vừa qua, nhiều cuộc biểu tình đã nổ ra không chỉ tại chính những nơi diễn ra các hội nghị kinh tế quốc tế lớn, chẳng hạn ở Seattle, Washington, Praha, Quebec, Doha, Genéve, Johannesburg, mà còn nổ ra ở nhiều nước và vùng lãnh thổ khác như Anh, Pháp, Đài Loan, Hàn Quốc, Ôxtrâylia,?
    Mặc dù vậy, phải thấy rằng, toàn cầu hóa hiện nay là một quá trình đi lên của lịch sử nhân loại, cho nên, sẽ là sai lầm nếu có một nước nào đó tự mình tách ra đứng ngoài toàn cầu hóa, từ chối hợp tác, hội nhập hoặc đóng cửa với thế giới. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề sự phát triển chung và sự tiến bộ của lịch sử các nước, căn cứ vào mục tiêu phát triển và khả năng thực tế của mình, mà đề ra chính sách hội nhập quốc tế một cách có lợi nhất trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay. Hội nhập với thế giới, tranh thủ tối đa các cơ hội do toàn cầu hóa hiện nay mang lại là cách tốt nhất để các dân tộc, các quốc gia cùng tiến bước, cùng phát triển. Đây cũng là cách có hiệu quả giúp cho các nước chậm tiến thực hiện con đường phát triển rút ngắn, có cơ may thu hẹp khoảng cách và từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến về kinh tế. Bài học của các nước công nghiệp mới ở châu Á (NICs) là minh chứng rõ ràng nhất cho điều vừa nói. Qua những bài học đó, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt Nam đã dứt khoát chọn cho mình một con đướng hộp nhập quốc tế và khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
    Trái lại, có một số nước bảo thủ, quá lo sợ những tác động tiêu cực của mở cửa của hội nhập quốc tế đến tình hình chính trị ở trong nước nên đóng cửa với thế giới, kết quả là họ gặp phải vô vàn khó khăn, không chỉ nghèo và tụt hậu về kinh tế, mà còn lạc hậu về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Dù ở thời nào chăng nữa thì sự biệt lập hoàn toàn với thế giới cũng đều mang lại những hậu quả trái với mong muốn của những người chủ trương tiến hành sự biệt lập đó.Biệt lập tuyệt nhiên không đưa lại sự phồn vinh về văn hóa, không làm tăng thêm các giá trị.
    Như chúng ta biết, thời cổ đại, trong khi Athens, nhờ việc mở rộng cửa đón mọi ảnh hưởng từ khắp các nơi, đã trở thành biểu tượng của sự phồn vinh về mọi mặt như nghệ thuật, triết học, chính trị, sử học, và nói chung về các giá trị văn hóa, thì Sparte, vì cố chấp để giữ những nét độc đáo của mình, đã ngăn cấm ảnh hưởng từ bên ngoài, nên trở thành thành phố duy nhất của Hy Lạp không có lấy một nhà tư tưởng, một nhà văn hóa có khả năng tạo nên một giá trị văn hóa hay khoa học có tiếng nào. Thế kỷ XX vừa qua cũng có những trường hợp không kém điển hình như vậy. Chẳng hạn, Myanma ở châu Á, Anbani ở châu Âu, đã tự cô lập mình đến mức cực đoan vì sợ những ảnh hưởng và tác động từ bên ngoài vào làm xói mòn các giá trị dân tộc, đồng thời cũng còn vì sợ chế độ chính trị bị lung lay do các tác động từ bên ngoài. Hậu quả là văn hóa và khao học của các nước này đã bị lạc hậu thảm hại, mà thậm chí có người còn cho là tàn lụi một cách tuyệt đối. Do vậy, có đầy đủ cơ sở để nói rằng, trong thời đại chúng ta, hợp tác và hội nhập quốc tế đang là mệnh lệnh, là thước đo khả năng thích nghi của một dân tộc, tầm nhìn và năng lực quản lý đất nước của các chính phủ đương quyền vì mục tiêu phát triển.
    Dĩ nhiên, tấm huân chương nào cũng có mặt trái của nó.
    Hội nhập quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay cũng không nằm ngoài thực tế đó. Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, trong điều kiện còn tồn tại quá nhiêu sư bất bình đẳng, quá nhiều điều bất công và lại còn bị chi phối bởi một số nước giàu như hiện nay, thì không phải chỉ hứa hẹn toàn những điều tốt đẹp cho các nước đang ở trình độ phát triển thấp tương tự như Việt Nam. Vì vậy, cùng với việc nắm lấy những cơ may không nhỏ để phát triển đất nước nói chung, và phát triền kinh tế nói riêng, thì cũng cần phải biết cách giảm thiểu những bất lợi, những tác động tiêu cực, phải biết vượt qua thách thức và cạm bẫy do hội nhập và toàn cầu hóa gây ra.
    Dưới đây, chúng tôi chỉ đề cập đến những cơ hội, đến một số cái được chủ yếu là những thách thức đối với các giá trị, nhất là các giá trị truyền thống, khi thực hiện hợp tác và hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
    Là một nươc bị xâm lược, bị đo hộ suốt hàng chục thế kỷ, Việt Nam đã bị chiếm đoạt, đã mất đi rất nhiều những giá trị văn hóa, cả văn hóa vật thể lẫn văn hóa phi vật thể. Có một số trong số những giá trị còn lại đó hiện được lưu giữ ở một vài nơi trên thế giới. Nhờ sự hội nhập với thế giới mà một số những giá trị văn hóa từ lâu không còn tìm thấy ở trong nước đã được trở về hoặc ít ra đã được xác định nơi đang lưu giữ chúng. Hình như tình trạng tương tự như thế này cũng xảy ra với một số nước khác. Chắc chắn rằng, trong tương lai sẽ còn những giá trị khác bị chiếm đoạt ở những giai đoạn khác nhau hoặc bị thất lạc cũng sẽ được tìm lại, sẽ được khôi phục. Đây quả thật là những giá trị vô giá không thể tính bằng tiền!
    Cái được về mặt giá trị do hội nhập quốc tế mang lại cho các nước ở thế yếu không phải chỉ có vậy. Chưa kể đến các giá trị kinh tế mà các nước này thu được trong quá trình hội nhập (dù rất chênh lệch nhau), nhiều giá trị hiện đại khác được thế giới tạo ra trong các lĩnh vực khao học và công nghệ, văn học, nghệ thuật?cũng đã được các nước tiếp thu và chính chúng đang góp phần làm thay đổi diện mạo của các nước, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
    Vượt lên trên hết, hợp tác, hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa đã tạo cơ hội và khả năng tiếp xúc, giao lưu; làm xích lại gần nhau và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, qua đó góp phần nâng cao dân trí và tự khẳng định mình trước cộng đồng quốc tế. Trước đây, nhiều người trên thế giới mới chỉ biết đến Việt Nam như một đất nước có chiến tranh liên miên và dân tộc Việt Nam đã giành thắng lợi to lớn trong các cuộc chiến tranh đó. Ngày nay, nhờ mở rộng việc giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế mà thế giới đã biết đến Việt Nam như một đất nước yêu chuộng hòa bình, yêu độc lập, tự do, tôn trọng công lý, khoan dung, đầy năng động với một kho tàng các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể hết sức phong phú, đầy bản sắc riêng. Nhiều giá trị Việt Nam có những nét tương đồng với các giá trị Đông Á, theo ý nghĩa văn hóa học chứ không phải theo ý nghĩa địa chính trị, cũng được thế giới biết đến. Đó là các giá trị ham học hỏi, cần cù, đề cao tính cộng đồng, tôn trọng gia đình và huyết thống. Đối với người Việt Nam, cũng giống như đối với các dân tộc khác, không thể không nói đến tinh thần yêu nước với tính cách một giá trị ưu trội mà nếu thiếu nó thì đất nước chúng tôi đã bị thôn tính từ rất lâu rồi.
    Phải khách quan mà thừa nhận rằng, các giá trị mang tính truyền thống trên đây về cơ bản vẫn đang được đa số người gìn giữ, tôn trọng và đề cao. Tuy nhiên, không thể không thấy rằng, cùng với sự tiến triển của nền văn minh nhân loại, của sự phát triển kinh tế thế giới, của toàn cầu hóa, cả các giá trị chung mang tính hoàn toàn cầu lẫn các giá trị mang tính chất khu vực, các giá trị quốc gia dân tộc mang tính truyền thống? đều chịu những biến đổi nhất định. Trong sự biến đổi đó, rõ ràng là các giá trị nhân loại chung, toàn cầu đang có xu hướng ngày một tăng lên. Một khi các giá trị nhân loại chung, giá trị toàn cầu tăng lên thì lẽ tự nhiên các giá trị khác mang tính khu vực hoặc mang tính dân tộc sẽ không tránh khỏi suy giảm, mặc dù không phải bao giờ chúng cũng có sự tăng nên hay giảm xuống tương ứng với nhau, hoặc bề ngoài cư tưởng rằng, trật tự và thang bậc các giá trị vẫn được bảo tồn nguyên vẹn. Do vậy, nếu như không có sự nhận thức đúng đắn, nếu như chỉ quan tâm đến lợi ích riêng, bản sắc riêng; hoặc trái lại, nếu những lợi ích riêng, bản sắc riêng, những giá trị riêng độc đáo của các nước bị chà đạp, bị coi thường thì việc nảy sinh sự xung đột, hay ở mức độ nhẹ hơn là mâu thuẫn, giữa các giá trị toàn cầu, giá trị nhân loại hay giá trị xuyên quốc gia với các giá trị dân tộc truyền thống, các giá trị quốc gia, cũng là điều có thể hiểu được.
    Dễ dàng nhận ra rằng, khi hội nhập quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, các giá trị, kể cả các giá trị truyền thống, không còn bị trói chặt, không còn bị đóng khung trong biên giới quốc gia dân tộc. Do sức sống mạnh mẽ của chúng mà trong quá trình này, cả các giá trị văn hóa vật thể lẫn các giá trị văn hóa phi vật thể của một quốc gia có thể vẫn giữ được những nét độc đáo, những nét riêng biệt. Tuy nhiên, các giá trị ấy khó tránh khỏi sự thương mại hóa một khi mà việc trao đổi và quảng bá rộng rãi chúng nhằm mục đích thu hút sự chú ý của cộng đồng quốc tế trở thành nhiệm vụ quan trọng của các quốc gia để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế. Điều đó có nghĩa là các giá trị, nhất là giá trị văn hóa, kể cả các giá trị văn hóa phi vật thể, một khi đã nằm trong qúa trình quảng bá mang tính thương mại thì khó giữ nguyên giá trị nguyên sơ, ban đầu, thâm nghiêm của chúng.
  8. phuong_le

    phuong_le Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2005
    Bài viết:
    410
    Đã được thích:
    0
    Tất cả những giá trị truyền thống của Việt Nam nêu ở trên như tinh thần yêu nước, tính hiếu học, sự cần cù, đề cao tính cộng đồng, tôn trọng gia đình và huyết thống cùng với nhiều giá trị khác nữa, dưới tác động của sự hội nhập quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa làm cho mọi người dễ dàng nhận ra trình độ của các dân tộc khác, các nước khác, từ đó thấy được mình đang ở đâu, thấy rõ mình đang tụt hậu như thế nào, để từ đó thấy cần phải làm gì để rửa nỗi nhục nghèo đói và kém phát triển. Giờ đây, giá trị của tinh thần yêu nước sẽ được đo bằng sự đóng góp thực tế cho công cuộc phát triển đất nước, rút ngắn khoảng cách với các nước tiên tiến về kinh tế. Điều này đặt ra yêu cầu rất cao về mặt trí tuệ, khoa học, công nghệ. Yêu cầu và cũng là thách thức đó khác hẳn với những yêu cầu ở các giai đoạn lịch sử trước đây. Có vượt qua được thách thức này mới có hy vọng rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển với các nước khác, mới tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn, trước hết là về mặt kinh tế.
    Tinh thần hiếu học với tính cách một giá trị tuy nhìn chung vẫn giữ được, song cũng đã có những điều khác với trước. Nếu như trước đây, hiều học là vì lòng ham hiểu biết, muồn khám phá, học để làm người thì ngày nay, ở không ít người, những cái đó vẫn còn, song đáng tiếc là cũng có những người, mà số đông lại là trẻ tuổi, việc học để khám phá, để làm người không quan trọng bằng để có địa vị trong xã hội, để có nhiều tiền, chỉ cốt để sao cho có đời sống vật chất cao hơn. Không thể coi điều này là không chính đáng. Cái đáng lo ngại chỉ là ở chỗ, phân nhân văn, phần khoan dung, tức là những phần cốt cách tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam có nguy cơ bị đặt ra ngoài lề của sự học. Trong xã hội đang nổi lên một lối suy nghĩ phản giá trị của sự học rằng, ?ovăn hay, chữ tốt không bằng dốt lắm tiền?. Sự gia tăng của chủ nghĩa thực dụng cực đoan, của thói thiển cận đang đe dọa giết chết giá trị chân chính của sự học. Không thể nói rằng, điều này không liên quan gí với việc giao lưu, với việc tiếp thu không có chọn lọc các quan điểm và lỗi sống khác nhau của thế giới trong quá trình hội nhập. Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra là làm sao để mọi người, nhất là lớp trẻ, hiểu được và duy trì được giá trị, ý nghĩa chân chính của sự học, coi tinh thần hiếu học là một giá trị trong truyền thống của dân tộc, coi học chính là nhằm góp phần thúc đẩy sự tiến lên của xã hội, chứ không phải chỉ là để lo cho bản thân mình.
    Tương tự như vậy, một giá trị khác là sự tôn trọng gia đình và huyết thống, dòng tộc thể hiện qua nhiều mặt như tinh thần trách nhiệm, sự gương mẫu của cha mẹ đối với con cái, hành vi kinh trên nhường dưới, kính già yêu trẻ, con cháu hiếu thảo với ông bà cha mẹ, lòng chung thủy và tình nghĩa vợ chồng đã có từ ngàn xưa ở người Việt Nam. Trong bộ ba - gia đình, làng, nước - thì gia đình là cơ sở quan trọng của người Việt Nam, của xã hội Việt Nam. Dù có biết bao biến cố của xã hội dữ dội, nhưng theo nhiều nghiên cứu, sự bền vững của gia đình vẫn được coi là một giá trị và gia đình vẫn được coi là trung tâm của mạng lưới các quan hệ xã hội của Việt Nam.
    Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy một điều là giá trị gia đình, độ bền vững của đình, độ lớn của gia đình đang biến đổi khá nhanh dưới những tác động khác nhau. Số các gia đình lớn có từ ba thế hệ trở lên cùng chung sống ngày càng ít đi không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn.
    Độ bền vững của gia đình xét trong quan hệ vợ chồng cũng đã có phần khác trước. Số cặp vợ chồng ly hôn tăng lên và điều đáng ngại là thời gian lý hôn sau khi kết hôn và độ tuổi của các cặp ly hôn ngày càng có xu hướng thấp dần. Không thể giải thích hiện tượng này một cách đơn giản hoặc chỉ quy về một nguyên nhân nào đó. Song, có thể nhận thấy rằng, trong quan hệ hôn nhân và gia đình, xu hướng thực dụng đang tăng lên với những tinh toán vụ lợi, ích kỷ, chạy theo đồng tiền. Nhiều cuộc hôn nhân hoàn toàn không xuất phát từ tình yêu mà chủ yếu và trước hết là xuất phát từ những tính toán về lợi ích vật chất, về địa vị xã hội sẽ có được qua cuộc hôn nhân ấy. Điển hình nhất ở Việt Nam trong thời gian vừa qua là xu hướng lấy chồng người nước ngoài bất kể người định lấy có đui, què, mẻ sứt hay nhân cách ra sao; bất chấp sự chênh lệch về tuổi tác, miễn là được hứa hẹn ăn sung mặc sướng. Đáng buồn là có những gia đình không những khuyên can mà lại còn khuyến khích con gái làm việc đó với hy vọng gia đình họ sẽ được đổi đời sau khi con gái ra được nước ngoài. Đang có một vụ kiện hy hữu của một số cô gái ngoài 20 tuổi lên tận tòa án nhân dân tối cao do nhà chức trách địa phương khuyên cô nhiều lần và không cho cô đăng ký kết hôn với một thương gia nước ngoài vì người đã ngoài 70 tuổi! Nhiều hậu quả của loại hôn nhân này trong mấy năm vừa qua đã quá rõ!
    Không ít cuộc hôn nhân giữa những người ở trong nước cũng rơi vào tình trạng tương tự. Chắc chắn rằng, tác động của lối sống không lành mạnh từ bên ngoài vào tình trạng này thông qua giao lưu, hội nhập, thông qua các phương tiện truyền thông hiện đại là không nhỏ.
    Dường như vấn đề gia đình đang là vấn đề toàn cầu, là một trào lưu mà nhiều nước trên thế giới phải đối mặt, phải lo lắng và đang tìm cách giải quyết để nó không cản trở tiến bộ xã hội. Chẳng hạn, trong chuyến khảo sát tháng 5 vừa qua tại Nhật Bản, khi hỏi vấn đề nào được coi là đáng lo ngại đối với người Nhật hiện nay và những năm sắp tới, chúng tôi nhận được câu trả lời khá thống nhất là vấn đề gia đình, là sự không bền vững của gia đình. Điều lo lắng này của người Việt Nam, và cũng rất có thể là của các nước có cùng những giá trị chung Đông Á. Nó thật dễ hiểu, bởi vì, mội khi gia đình không bền vững thì sẽ sản sinh ra vô số tệ nạn xã hội. Tình trạng bố mẹ ly hôn dẫn đến chỗ con cái mất đi chỗ dựa, không có người chăm lo, bị tổn thương nặng nề về tâm lý. Từ đó sinh ra các tệ nạn ở trẻ em như nạn nghiện hút, cướp giật, giết người, đĩ điếm, băng đảng mang tính chất xã hội đen,?Thật ra, không phải chỉ có con cái, mà tất cả các thành viên trong gia đình ly hôn đều phải chịu những hậu quả của sự ly hôn đó. Một trong những cơ sở của sự tiến bộ xã hội do vậy, đã bị đe dọa, bị tổn thương ở một khâu quan trọng là khâu gia đình.
    Như vậy, có thể thấy rằng, hội nhập quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh vực, tư thân nó đã chứa đựng nhiều yếu tố tích cực nếu xét từ góc độ giá trị. Nó góp phần thúc đẩy sự tiến bộ trong các mặt của đời sống kinh tế - xã hội, của sự phát triển văn hóa các dân tộc.
    Đồng thời, thông qua hội nhập quốc tế, các dân tộc có thể thấy được cả những giá trị truyền thống cần phải bảo tồn, cần được phát huy, lẫn những hạn chế của những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ. Tuy nhiên, cũng chính toàn cầu hóa hiện nay, dưới áp lực và do sự áp đặt của một số nước giàu, do sức lan truyền của những phản giá trị nhờ các phương tiện truyền thông hiện đại, mà không ít những giá trị truyền thống lâu đời của các dân tộc, hoặc các giá trị có tính chất chung khu vực, đang đứng trước những thách thức, đang có nguy cơ bị xói mòn. Vì vậy, nhiệm vụ bảo vệ và làm phong phú thêm các giá trị truyền thống bằng cách tiếp thu có chọn lọc giá trị của các nền văn hóa khác cũng có tầm quan trọng giống như các biện pháp nhằm chống lại sự đồng hóa thông qua sức mạnh mềm (soft power) của các nền văn hóa của những nước đang có nhiều lợi thế. Trong điều kiện tòan cầu hóa hiện nay, nếu biết kết hợp hài hòa các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa, loại trừ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu với bên ngoài thì sẽ vượt qua được những thách thức, sẽ khơi dậy được vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến bộ xã hội. Và, ?ochủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc?, có thể coi, là một giải pháp hữu hiệu để phát huy vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến bộ xã hội trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
    Theo Tạp chí Triết học
  9. Chitto

    Chitto Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    23/01/2002
    Bài viết:
    5.198
    Đã được thích:
    13
    Bạn chăm chỉ copy and paste nhỉ ?
    Tôi không thể đọc nổi những đống copy and paste như thế, không biết người khác thế nào ?
    Có lẽ tốt hơn là bạn hãy nói những gì bạn nghĩ, ý kiến của bạn. Như thế mới thể hiện bạn là người có suy nghĩ và chính kiến.
  10. vovinamvn

    vovinamvn Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    08/10/2007
    Bài viết:
    988
    Đã được thích:
    1
    VN như chú bé phù đổng trong thời đại hội nhập này sẽ lớn nhanh như thổi . Nếu các bạn nhìn lại quãng đời 5 năm 1 lần sẽ thấy sự thay đổi thấy rõ như từ thành phố này sang thành phố khác , cho dù chỉ ở 1 nơi .
    Chúng ta sẽ bị hoà nhập (bị đồng hoá) ở rất nhiều mặt cuộc sống - văn hoá, thậm chí phải biến đổi, có những cái sẽ tuyệt chủng. Có những cái cố gắng để giữ gìn để thể hiện bản sắc VN.

Chia sẻ trang này