1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tội ác của những đội quân sang xâm lược Việt Nam

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi haohoacongtu, 15/01/2014.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Tao thích thì tao giết không cần lý do, tội các không bao giờ chấm dứt.
    Pháp Luân Công đã là tiêu điểm của chú ý quốc tế kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1999 khi Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu đàn áp trên toàn quốc môn phái này (ngoại trừ ở Ma CaoHương Cảng). Cho đến nay có hơn 100.000 người thực tập Pháp Luân Công bị bắt nhốt vào các trại học tập cải tạo, trại cưỡng bức lao động, bệnh viện tâm thần, bị tra tấn dã man và có 3.163 trường hợp chết vì tra tấn được ghi nhận và chứng minh, phỏng đoán có hơn 7.000 người đã bị hành hạ đến chết[15]. Chỉ cần bị nghi ngờ là thành viên Pháp Luân Công là đã có thể bị bắt giam 3 năm trong các trại lao động mà không cần xét xử.

    Chính quyền cộng sản Trung quốc không thừa nhận là có trại cưỡng bức lao động (laogai). Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ có một tổ chức gọi là "Laogai Research Foundation" đã thu thập tài liệu và có bằng chứng về sự hiện hữu của hệ thống đàn áp này[16].

    [​IMG]
    [​IMG]

    Giáo sư Triệu Hân trường đại học Công thương Bắc Kinh bị bắt khi tập Pháp Luân Công tại công viên Trúc Viện ngày 19/6/2000, cô bị giam cầm trái phép tại Bắc Kinh, cảnh sát đã đánh đập cô đến chết.[17]
    Vào ngày 6-7-2006, tại một buổi họp báo trên Parliament Hill, Ottawa, David Kilgour, nguyên Quốc Vụ Khanh phụ trách khu vực Châu Á Thái bình dương của Bộ Ngoại giao Canada và luật sư nhân quyền nổi tiếng David Matas, phát hành một bản báo cáo độc lập, sau hai tháng điều tra của họ và 18 dữ kiện, bằng chứng về việc tố cáo rằng các bộ phận nội tạng của các đệ tử Pháp Luân Công bị mổ cắp tại Trung Quốc để bán và ghép cho những người có nhu cầu và trả giá cao. Ông Matas tố cáo rằng việc mổ cắp các bộ phận nội tạng từ các đệ tử Pháp Luân Công là một điều vô nhân đạo chưa bao giờ xảy ra trên Trái Đất[18].

    Nhiều chính phủ, tổ chức nhân quyền quốc tế và các học giả đã xem sự ngược đãi này là vi phạm nhân quyền. Tổ chức Ân xá quốc tế tin rằng sự đàn áp này có động cơ chính trị và hạn chế các quyền tự do cơ bản[19].

    Các quan ngại đặc biệt đã được người ta nêu ra trong các bản báo cáo về sự tra tấn và bỏ tù bất hợp pháp những người theo môn phái này ở Trung Quốc[19][20][21]. Hạ viện Hoa Kỳ đã buộc tội Trung Quốc quấy rối công dân và những người dân Mỹ luyện tập Pháp Luân Công và đã thông qua nghị quyết 188 (đồng thuận theo tỷ lệ 420:0) kêu gọi Trung Quốc "ngừng các cuộc đàn áp và quấy rối những người luyện Pháp Luân Công ở Hoa Kỳ"[22][23]. Người theo Pháp Luân Công đã tổ chức thu thập chữ ký khắp nơi để khẩn cầu một tòa án nhân quyền xét xử Giang Trạch Dân và những lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc liên hệ đến sự đàn áp. Trong tháng 1 năm 2004, tại 12 quốc gia đã có 16 vụ án tố cáo Giang Trạch Dân và những lãnh đạo ĐCS Trung Quốc liên hệ đến sự đàn áp vì các tội tra tấn, tội ác đối với nhân loại và sát hại chủng tộc.

    Nguyên nhân[sửa | sửa mã nguồn]
    Một trong những nguyên nhân của cuộc đàn áp được chấp nhận đó là sự ghen tị của Chủ tịch Giang Trạch Dân, vì số lượng học viên Pháp Luân Công đã lên đến 100 triệu người. Như tờ Tin Tức Hoa Kỳ và Báo cáo Thế giới đã đưa ra vào năm 1999, “Tổ chức tự nguyện lớn nhất ở Trung Quốc, thậm chí lớn hơn cả Đảng Cộng Sản”, lúc đó Đảng Cộng Sản Trung Quốc có số thành viên khoảng 65 triệu. Các nguyên nhân khác:

    • Đàn áp Pháp Luân Công để đoạt lợi ích chính trị: Trong khi Trung Quốc chú trọng vào việc phát triển kinh tế, thì nhiều viên chức trong chính quyền chuyên môn trong việc tuyên truyền chính trị và đấu tranh tư tưởng bị lãng quên. Họ muốn dựa vào vu khống tạo lý do đàn áp Pháp Luân Công để đoạt được quyền lợi chính trị và được Giang Trạch Dân chú ý.[24]
    • Sự xung đột ý thức hệ: Đảng Cộng Sản Trung Quốc vô thần trong lịch sử của mình đã luôn tìm cách áp đặt tư tưởng vô thần lên nhân dân Trung Quốc vốn có truyền thống tin vào Đạo giáo, Phật giáo và Nho Giáo. Trong những năm 1966-1976 "Đại *****************"[25] với đàn áp các nhóm tôn giáo và văn hóa truyền thống, đập phá đền chùa, gần như đã phá hủy tín ngưỡng tinh thần của người dân Trung Quốc. Việc Pháp Luân Công tin vào các giá trị Chân Thiện Nhẫn, vào "thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo", có sự tương đồng với văn hóa Thần truyền Trung Quốc đã làm cho Đảng nổi giận. Năm 1999, Tân Hoa Xã tuyên bố “Thực tế, cái gọi là nguyên tắc ‘Chân, Thiện và Nhẫn’ được giảng bởi ông Lý Hồng Chí (người sáng lập Pháp Luân Công) chẳng có gì chung với sự phát triển văn hóa và đạo đức xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang cố gắng đạt được”.
    • Giải thích theo Cửu Bình: Cửu Bình một cuốn sách bình luận về chính bản chất của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cuốn sách đã nêu ra toàn bộ lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong việc đàn áp nhân dân và đàn áp các nhóm tôn giáo, tinh thần, khí công để duy trì sự thống trị trong suốt quá trình thành lập đến nay.[26]
    Truy tố về tội diệt chủng[sửa | sửa mã nguồn]
    Ngày 18/11/2009 toà án Quốc gia Tây Ban Nha đã truy tố 5 quan chức cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc vì vai trò của họ trong tội ác tra tấn và diệt chủng chống lại các học viên Pháp Luân Công. Các bị cáo bao gồm: Cựu lãnh đạo Đảng cộng sản Trung QuốcGiang Trạch Dân; La Cán, người đứng đầu Phòng 610 - lực lượng cảnh sát đặc nhiệm bí mật trên toàn Trung Quốc, dẫn đầu chiến dịch bạo lực; Bạc Hy Lai, nguyên Bí thư Thành ủy thành phố Trùng Khánh và cựu Bộ trưởng Bộ Thương mại; Giả Khánh Lâm, một trong bốn thành viên cao nhất trong hệ thống Đảng cộng sản Trung Quốc và Ngô Quan Chính, Bí thư Ủy ban Kỷ luật Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc. Các bị can có từ 4 đến 6 tuần để trả lời sau đó có thể phải đối mặt với sự dẫn độ nếu họ đi tới một đất nước có hiệp ước dẫn độ với Tây Ban Nha, các bị can phải đối mặt với 20 năm tù giam và có thể phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại kinh tế cho các nạn nhân.[27]

    Quyết định của tòa án dựa theo nguyên tắc thực thi pháp lý của thẩm quyền phổ quát – nguyên tắc cho phép tòa án bất kỳ nước nào cũng có thể thụ lý những vụ án liên quan đến các tội diệt chủng và tội ác chống lại loài người, không phân biệt nơi chúng xảy ra. Quyết định cũng dựa trên những báo cáo nhân quyền của tổ chức Ân xá quốc tế, tổ chức Quan sát nhân quyền, tổ chức sáng lập Luật nhân quyền và Ủy ban nhân quyền của Liên Hiệp Quốc [28][29][30], tất cả các tổ chức nhân quyền quốc tế có thẩm quyền và có ảnh hưởng.
    muamuaha86 thích bài này.
  2. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Và đây là cái giá của những kẻ muốn đầu hàng đi theo TQ
    Nhân dịp xét xử Duch - kẻ cầm đầu nhà tù Tuol Sleng của chế độ diệt chủng Pol Pot được đăng trên báo Thanh Niên và các phương tiện thông tin đại chúng - mà tôi – Half-Blood Prince – muốn giới thiệu với các bạn về một trong những chương đen tối nhất của thế kỷ 20. Có điều gì đó thôi thúc lương tri tôi phải nhìn lại quá khứ.

    Tôi là một người đặc biệt yêu thích bộ môn lịch sử. Bản thân đã từng đọc đủ thứ tài liệu, chứng kiến biết bao nhiêu tội ác của loài người tự cổ chí kim. Có thể kể đến một vài sự kiện nổi bật như thảm sát người Do Thái Holocaust của Đức quốc xã, Đại Thanh Trừng và Nạn Đói Holodomor của Joseph Stalin, Đại Nhảy Vọt và ***************** của Mao Trạch Đông … vân vân. Nhưng những điều đó, xét về độ tàn bạo, khủng khiếp, ghê tởm vẫn còn thua xa tội ác của Pol Pot và đồng bọn.

    Đất nước Campuchia bị ép chặt, nghiền nát dưới “bánh xe lịch sử” của chế độ Khmer Đỏ - một chế độ xã hội mà những ý tưởng man rợ của nó đã đưa một trong những nền văn minh rực rỡ nhất từng xuất hiện trên trái đất này vào guồng quay của sự hủy diệt.

    Ở đó, trong những trang trại lao động khổ sai, tất cả trẻ con và người lớn bị đày đọa bởi lao động quá sức, bởi đói khát bệnh tật, để rồi chết vì kiệt quệ và hành quyết.

    Ở đó, tri thức, văn hóa, truyền thống, tình yêu bị lên án, bị tiêu diệt.

    [​IMG]

    Tấm bản đồ sọ người

    Tôi đã lặng người đi khi lật lại từng trang của giai đoạn chết chóc này. Những câu chuyện rùng rợn tôi đọc trong “Hành trình qua cánh đồng chết”, "Người tù của Khmer đỏ”, “Hồi ký của Boun Sokha”, “Tam giác Trung Quốc-Việt Nam-Campuchia”… vượt xa trí tưởng tượng của tôi. Bởi nó quá sức thương tâm.

    Có thể bạn cho rằng tôi nói hơi quá , nhưng để tôi chỉ cho bạn thấy tại sao tôi lại ghê sợ chế độ Pol Pot này hơn tất cả các sự kiện ở trên:

    _Đầu tiên, Đức Quốc xã hiển nhiên là biểu tượng sáng chói nhất cho cái ác ngự trị trên trái đất này. Hình thức giết người của chúng cũng dã man : phòng hơi ngạt, tử hình bằng súng máy … Nhưng tựu chung, Hitler chỉ có ước mơ đưa dân tộc của mình thống trị địa cầu chứ không đẩy họ xuống âm phủ.

    _Kế đến, Joseph Stalin tổ chức cuộc Đại Thanh Trừng xuất phát từ nỗi sợ của ông ta về các đối thủ chính trị. Còn nạn đói Holodomor Stalin gây ra đối với người dân Ukraina là một thảm họa không thể chối cãi. Tuy nhiên, Stalin vẫn giúp Liên Xô trở thành siêu cường thứ hai duy nhất trong lịch sử.

    _Cuối cùng, thời kỳ ***************** của Mao Trạch Đông theo như tôi đọc trong“Sống và chết ở Thượng Hải” thật sự khắc nghiệt. Đó là một giai đoạn hỗn loạn xã hội và tình trạng vô chính phủ tại Trung Quốc. Sự lộng hành của Hồng vệ binh dưới quyền của Mao Trạch Đông đã tạo ra một bầu không khí khủng bố, khiến người dân sống trong nơm nớp lo sợ.

    Nhưng còn bọn Khmer Rouge thì sao ?

    _Theo nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng chính quyền Khmer Đỏ là độc ác chưa từng cóvà là một địa ngục, một vết nhơ không phai mờ trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại. Khó tưởng tượng rằng đến tận những năm gần cuối thế kỷ 20, tức thời hiện đại, mà còn tồn tại một chế độ vô nhân đạo hơn cả thời phong kiến. Thanh lọc dân số bằng… cuốc chim, bằng chặt đầu, bằng xẻ đôi, bằng khoan sọ …

    Tôi sẽ kể tóm tắt một cách rõ ràng và dễ hiểu qua những gì tôi nhớ được:

    Cuộc nội chiến tại Campuchia diễn ra trong 5 năm giữa phe cộng hòa do tướng Lon Nol chỉ huy và phe Khmer Đỏ do Pol Pot cầm đầu.

    *Kết quả: phe Lon Nol đầu hàng và phe Pol Pot tiến về thủ đô Nam Vang như những anh hùng.





    Chân dung Pol Pot

    Ngày 17-4-1975, khi Khmer đỏ kéo vào thủ đô Nam Vang, ai cũng hân hoan vui mừng đón rước, lầm tưởng hòa bình đã đến và cảnh chém giết lẫn nhau không còn xảy ra nữa. Nhưng không ngờ, chính ngày đó lại là ngày mở đầu cho một chuỗi dài thảm họa đẫm máu, khủng khiếp đến nỗi gây chấn động dư luận khắp nơi trên thế giới. Ai nghe đến cũng phải rùng mình kinh hãi.

    Chưa kịp reo hò, chưa kịp nhận xét thì ngay phút đầu tiên bắt gặp gương mặt của bọn lính Pol Pot, những người dân bàng hoàng nghe lệnh: “Tất cả ra khỏi thành phố !”

    Đàn ông, đàn bà, già trẻ lớn bé, sư sãi, nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ, nhà buôn, sinh viên ..vv hơn 1 triệu người không kịp mang theo quần áo. Tụ tập con cái, gọi vợ, gọi chồng thì bị lùa đi về nông thôn như những bầy nô lệ. Nam Vang trở thành một “thành phố ma” (City of ghost).

    Cuộc hành trình khủng khiếp này dựa trên một học thuyết của Darwin là “Chọn lọc tự nhiên”. Chỉ những người khỏe mạnh, có khả năng thích nghi tồn tại mới được sống để lao động. Dọc đường đi số người chết lên đến hàng trăm, hàng ngàn. Họ bị đối xử thua cả những con chó, con lợn.

    Tôi sẽ trích lại vài dẫn chứng cho các bạn từ một tác phẩm tôi yêu thích: “Hồi ký của Boun Sokha”

    Cảnh tượng thương tâm trên con đường "Chọn lọc tự nhiên"
    Bọn Khmer Đỏ huấn luyện con nít giết người không ghê tay:



    Lũ Khmer Đỏ nhí - tuy còn bé nhưng đã thành thạo việc giết người

    Vô cùng khát máu
    Chúng theo dõi con người ta ngày đêm :

    Tiêu diệt cả trí thức:

    [​IMG]

    Những đứa trẻ nạn nhân của chế độ khát máu này

    Dễ sợ quá phải không các bạn ? Không phải phim ảnh, không phải tiểu thuyết, đây là những việc có THẬT !

    Xã hội Campuchia từ một quốc gia hoà bình trong thập kỷ 60 đã bị Polpot biến thành một lò sát sinh khổng lồ đầy rẫy những hố chôn người. Không còn thành phố, trường học, chợ búa, tiền tệ, gia đình; không còn nhảy múa, đi chùa, tụng kinh niệm Phật; không có sự giao lưu với bên ngoài; con người không được nói, không được vui, không được buồn, không đuợc khóc, không được suy nghĩ, chỉ được cúi đầu tuân lệnh, sống trong câm lặng và hồi hộp chờ đợi nghe bọn Khmer Đỏ kêu đến tên mình đưa đi hành quyết.

    [​IMG]

    Cảnh tượng rất phổ biến tại Campuchia ngày đó

    Các bạn có tưởng tượng được một cuộc sống như vậy không? Vậy mà họ đã trải qua 3 năm 8 tháng 20 ngày với nó.

    Đó là đối với dân tộc Campuchia. Thế còn chính sách của Pol Pot dành cho Việt Nam ta ra sao ?

    Trung ương Đảng Pol Pot họp quyết định 3 chủ trương lớn:

    - Làm sạch nội bộ nhân dân
    - Xác định Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp !
    - Xây dựng xã hội mới của Campuchia: không chợ, không tiền, không trường học, không trí thức, không tôn giáo, không đô thị, không gia đình.


    Báo hiệu cho chính sách ấy, cũng trong tháng 5/1975 một khối thuốc nổ phá sập toà nhà Ngân hàng quốc gia Campuchia. Pol Pot hãnh diện nói: “Đây là tiếng súng đại bác tiến công vào dinh luỹ đồng tiền”.

    Cùng với tiếng nổ báo hiệu công khai đó, thường vụ TƯ đảng Polpot ra chỉ thị tuyệt mật tiến hành 1 cuộc thanh trừng nội bộ, “dù có phải hao tốn 1 triệu người. Đảng ta cũng không tiếc, đảng ta cần phải mạnh. Nếu chỉ còn lại 2 triệu người Campuchia thì chúng ta vẫn xây dựng lại được đất nước”.

    Bộ trưởng quốc phòng của chính phủ Polpot hồi đó nói với nhà vua: “Muốn cho đất nước và giống nòi Campuchia khỏi bị hoạ diệt vong, phải vĩnh viễn cắt khỏi thân thể Campuchia 3 thứ”:

    1. Kiên quyết không để cho bất kỳ 1 người Việt Nam nào có quyền sống ở Campuchia. Nhằm mục đích ấy, biện pháp do Khmer Đỏ thi hành là 1 năm giết chết một số lượng lớn Việt kiều bị tình nghi. Mặt khác dùng vũ lực trục xuất toàn thể Việt kiều.

    2. Ra lệnh cho mọi người dân Campuchia, cả nam lẫn nữ phải làm việc gian khổ hơn nhân dân Việt Nam gấp 2 lần, 10 lần và làm như thế để Campuchia mạnh hơn Việt Nam rất nhiều …

    3. “Chấp nhận” 1 cuộc chạm trán vũ trang trên quy mô lớn với Việt Nam…


    Hai triệu người Campuchia còn sót lại phải tiêu diệt sáu mươi triệu người Việt Nam. Với thái độ hết sức nghiêm túc, các nhà lãnh đạo Khmer đỏ đã ra lệnh cho binh sĩ và nhân dân : “ 1 người Campuchia phải giết chết 30 người Việt Nam”.



    Bộ đội Việt Nam tiến vào giải phóng Nam Vang. Chấm dứt thời kỳ khủng khiếp này, trong khi cả thế giới che mặt làm ngơ.

    Sau khi chế độ Polpot kết thúc, bọn diệt chủng Polpot đã giết hại hơn1.700.000 người. Vâng, số xương này nếu tập hợp lại thì đủ để chất cao thành một ngọn núi chứ không đùa đâu !

    Tôi tự hỏi: Một con người có học như Polpot với lý tưởng “Xây dựng thành công Xã Hội Chủ Nghĩa trong 6 tháng” đề xuất thanh lọc nhân dân Campuchia từ 7,1 triệu người xuống còn 2 triệu người. Rồi lại hi sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 60 triệu người VN. Vậy Pol Pot tính đưa dân tộc Campuchia đi tới đâu ?


    Nếu bạn đã đọc hết bài tôi viết ở trên thì xin mời xem tiếp clip này để hiểu một cách trực quan hơn:
    [YOUTUBE]hy3nmHH6Lho[/YOUTUBE]



    Trò ưa thích của bọn chúng: Tung trẻ em lên rồi dùng lưỡi lê hứng

    THẢM SÁT BA CHÚC



    23 năm đã trôi qua nhưng chưa một giây phút nào những người dân Ba Chúc nguôi ngoai cái cảm giác kinh hoàng của 11 ngày đêm tang thương của năm 1978. Bia đá của lòng căm thù đã được những người còn sống dựng lên, những lớp sọ người chất chồng lên nhau như nỗi đau chất lên nỗi đau thấu tới trời xanh. Nước mắt mãi mãi chảy ngược về quá khứ. Chưa có vụ thảm sát nào, chưa có tội ác nào kinh hoàng và rùng rợn như thế!...

    3.157 NGƯỜI DÂN VÔ TỘI BỊ SÁT HẠI

    Nằm dưới chân dãy Thất Sơn hùng vĩ, Ba Chúc là một xã thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Cách biên giới Việt Nam - Campuchia 7 km đường chim bay, vùng đất này là cửa ngõ mở xuống đồng bằng miền Tây Nam Bộ. Về Ba Chúc hôm nay, dưới những rặng dừa tỏa bóng bình yên bên những cánh đồng lúa ngậm sữa, không ai ngờ tới hơn 20 năm trước mảnh đất này đã phải từng gánh chịu một nỗi tang thương, đau đớn đến thế! Cùng với những hồi ức của người dân Ba Chúc, chúng tôi đi ngược thời gian...

    Ngày 30/4/1977, bọn diệt chủng Pôn Pốt vô cớ xua quân tấn công vào 8 tỉnh Tây Nam của Tổ quốc, trong đó có An Giang mà xã Ba Chúc là một điểm trọng yếu trong hướng tấn công của chúng. Vùng đất nhỏ bé này đã phải chịu đựng 30 lần tấn công của chúng. Ðỉnh cao của tội ác là vụ thảm sát 3.157 người dân vô tội, từ ngày 18/4 đến 30/4/1978.



    Sáng 18/4, sau khi chọc thủng phòng tuyến của du kích xã, bọn Pôn Pốt xua quân vào Ba Chúc. Xã bị dìm trong biển lửa và máu. Những cảnh tượng giết người hàng loạt dã man hơn cả thời trung cổ: Bắn người tập thể, dùng búa đập đầu, cắt cổ; với trẻ em thì chúng xé làm đôi hoặc nắm hai chân đập đầu vào gốc cây, vách tường, bờ đất hay tung lên và xóc lưỡi lê vào cơ thể; với phụ nữ thì bọn dã thú hãm hiếp, dùng dao xẻo vú, thọc tầm vông, cán búa hoặc nhét đất đá vào chỗ kín cho đến chết. Những người dân Ba Chúc từng chứng kiến đã rùng mình hồi tưởng và cho đến bây giờ họ vẫn thảng thốt ngạc nhiên tại sao có những kẻ mang khuôn mặt con người mà độc ác, dã man đến như vậy!...

    Cùng với một người bạn sinh ra ở Ba Chúc, chúng tôi đến thăm những địa danh ghi lại tội ác của bọn diệt chủng. Ðã hơn 20 năm mà tiếng mõ cầu kinh của chùa Tam Bửu vẫn rền rĩ ngân thảm thương như tiếng vọng của những oan hồn.

    Những ngày cuối tháng 3/1978, khi Pôn Pốt lấn qua biên giới, nhân dân thường chạy vào chùa trú ẩn vì cứ ngỡ rằng chúng sẽ không giết người trước Ðức Phật từ bi. Ai ngờ rằng, ngày 17/4, loạt pháo đầu tiên chúng bắn trúng hậu liên Tam Bửu tự. 40 người chết không toàn thây, 20 người bị thương, máu loang đỏ nền chùa, tiếng kêu la cất lên thảm thiết.

    Sáng hôm sau, giặc tràn vào chùa Tam Bửu và bắt hơn 800 người đang ẩn nấp nơi đây và xua họ đi thảm sát tập thể ở cánh đồng Cầu Sắt và giồng Ông Tướng. Ðối diện với chùa Tam Bửu là chùa Phi Lai. Ba giờ chiều hôm đó giặc tràn vào đây và xả súng bắn chết tại chỗ 80 người; 100 người khác kinh sợ bỏ chạy cũng bị chúng dùng báng súng và khúc cây đánh chết; 40 người khác nấp dưới bàn thờ Phật cũng bị lựu đạn tung vào chỉ sống sót 1 người. Những hang đá trên núi Tượng (Kỳ Lân Sơn trong dãy Thất Sơn) đã trở thành những mồ chôn người tập thể.

    Trong hang Ba Lê, 50 người trong một dòng họ không còn sót một ai và bên cạnh là giồng Ông Tướng đã vùi thây 100 sinh linh vô tội khác. Hang Cây Da có 17 người vào trốn, chúng xả súng giết ngay 14 người, hiếp dâm chị Chuột rồi dùng cây đâm vào cửa mình cho đến chết, hai người liều mình chạy thoát là anh Phan Văn Ba và người con trai 19 tuổi của mình. Bạn tôi kể lại, sau ngày bọn Pôn Pốt đã bị đẩy về bên kia biên giới, nhân dân Ba Chúc đã gom góp xương tàn của những người xấu số chất đầy cả... mấy chiếc xe bò!...


    NHỮNG NHÂN CHỨNG SỐNG

    Trước mặt chúng tôi là một ông già tiều tụy, những nét đau khổ khắc sâu trên gương mặt ông, đó là Trần Văn Tỏ. Người cha bất hạnh ấy quặn thắt ruột gan mà kể lại cho chúng tôi câu chuyện thương tâm. Ðây là nỗi ám ảnh chưa một giây phút nào thoát ra khỏi con tim và khối óc ông, ông sống mà cứ nghĩ như mình đã chết. Ông Tỏ kể:

    Tại hang Ðồ Ðá Dựng nằm trong lòng núi Tượng có 72 người trốn, trong đó có 4 cháu nhỏ. Do ở hang lâu ngày thiếu ăn, khát nước và bệnh tật, trẻ la khóc suốt ngày. Ðể đảm bảo bí mật cứu lấy số đông, mọi người phải đau lòng nghĩ đến chuyện bức tử các cháu bé nhưng không ai dám nỡ lòng. Ðến ngày 29/4, một tên nữ Khơme Ðỏ đi do thám và phát hiện tiếng trẻ khóc, thị la lên "thận or" (có người) và chạy đi báo thượng cấp.

    Trước nguy cơ tất cả bị tàn sát, mọi người quyết định phải tự tay giết 4 cháu bé. Ðứa con trai lên 5 của anh Trần Văn Tỏ biết mình sắp phải chết đã thảng thốt van xin: "Ba ơi! Ðừng giết con!". Anh Tỏ đã cố nén đau thương bóp mũi đứa con trai thương yêu của mình cho đến chết. Rồi tiếp đó là ông Hai Khế, ông Tư Ðức đã lần lượt tự tay giết ba đứa cháu nội của mình. Ba tiếng đồng hồ sau, bộ đội ta tấn công vào, những người dân trong hang Ðồ Ðá Dựng ôm 4 đứa trẻ vẫn còn hơi nóng mà đứt từng khúc ruột...



    Bà Hà Thị Nga cũng là một nạn nhân còn sống sót sau vụ thảm sát. Ngôi nhà trơ trọi của bà cũng hoang lạnh đến rợn người nằm sát bên Nhà mồ Ba Chúc. Khi chúng tôi vào nhà, bà thắp nhang xá bốn phương tám hướng và cắm lên vô số bát nhang. Trên gương mặt như vô hồn của người phụ nữ chịu quá nhiều đau thương chợt đanh lại và ép ra những giọt nước mắt khi phải hồi ức về những ngày bi thảm.

    Bà sinh năm 1939, lúc ấy 39 tuổi. Cả dòng họ trên 100 người của bà đã bị bọn Pôn Pốt giết hại; riêng gia đình bà đã vĩnh viễn mất đi 37 người, từ cha mẹ, anh chị, chồng và 6 đứa con thân yêu. Bà đã tận mắt chứng kiến kẻ thù giết hại những đứa con của mình. Ðứa gái út bị chúng đập đầu ba lần không chết vẫn ngẩng đầu kêu "Mẹ ơi!" đau đến xé lòng. Bà đã ngất xỉu đi và gục lẫn vào đống xác người cho nên thoát chết.



    Bà Hà Thị Nga với ký ức sau lưng

    Còn chị Nguyễn Thị Ngọc Sương năm ấy mới 11 tuổi - cha mẹ và tất cả anh chị em đều bị sát hại. Sương kể trong nước mắt: Chiều 18/4, giặc tràn vào chùa Tam Bửu và lùa bà con đi tàn sát tập thể, Sương chạy theo cha. Tại cánh đồng Cầu Sắt - Vĩnh Thông, cha chị cầm tay con mà dặn: "Cha còn 7 đồng bạc, con cầm lấy". Giặc bắn cha chị, xác nằm chung với hàng trăm người khác. Chị cũng bị bắn vào đầu và ngực nhưng may mắn không chết. Ban ngày Sương đi lượm xoài ăn, tối về nằm bên xác cha. Qua 11 ngày đêm, các vết thương trên người chị nhiễm trùng thối rữa ra. Sau thảm họa, chính quyền địa phương đã đưa chị đi bệnh viện điều trị ba tháng sau mới lành.

    Ông Nguyễn Văn Kỉnh là một trong 300 người bị bọn chúng dẫn đi tàn sát ở cánh đồng Vĩnh Thông. Ông kể, chúng chia từng tốp 20-30 người rồi đồng loạt nã đạn, đến tốp ông Kinh, khi súng nổ ông hoảng sợ chết ngất. Sáu xác người khác phủ lên người ông. Khi tỉnh lại ông bàng hoàng nhìn cảnh tượng xung quanh và muốn chết thật đi khi nhìn thấy đứa cháu ngoại 5 tháng tuổi của mình đang day vú mẹ trong khi người con gái của ông tắt thở tự lâu rồi...


    DI TÍCH CỦA LÒNG CĂM THÙ

    Năm 1977, Ba Chúc chỉ có 16 ngàn dân mà chỉ trong 11 ngày 3.157 người vô tội bị giặc sát hại, phần lớn trong số họ là người già, phụ nữ và trẻ em. Trên 100 hộ bị giết sạch không còn ai sống sót, giữa lòng Ba Chúc hôm nay vẫn còn đó những nền nhà cũ bám rêu. Trên mảnh đất nhỏ bé này đến hôm nay vẫn như còn nhuốm máu. Những người dân Ba Chúc hình như không đủ niềm vui để nở một nụ cười. Chính quyền và nhân dân An Giang đã xây dựng tại đây quần thể chứng tích tội ác và Nhà nước đã công nhận là Di tích Căm thù theo Quyết định 92/VH-QÐ ngày 10/7/1980.

    [​IMG]

    Những người Việt đáng thương bị bọn Khmer Đỏ thảm sát

    Trước mặt chúng tôi là nhà mồ Ba Chúc. Nhà mồ có hình lục giác, mỗi góc là một cột đỡ mái nhà bằng hình tượng bàn tay cầm chuôi kiếm đẫm máu giương thẳng. Chính giữa nhà mồ là khung hộp kính tám cạnh, chứa trong đó 1.159 hài cốt của những người dân vô tội; số còn lại đã được chôn cất và rất nhiều hài cốt khác đã lẫn vào đất đá hay chìm lấp trong các hang sâu trên dãy Kỳ Lân Sơn. Trước chứng tích của lòng căm thù, nỗi đau không thể cất thành lời, chúng tôi chỉ biết cúi đầu tưởng niệm. Tiếng vọng của những oan hồn mãi mãi ám ảnh trong lòng những người dân Ba Chúc, những người dân Việt Nam, thức tỉnh lương tri của những người dân Campuchia chân chính và nhân loại yêu chuộng hòa bình.
    [​IMG]Khắc sâu mãi mãi một tội ác
    TUOL SLENG
    [​IMG]

    Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng là một bảo tàng tội ác diệt chủng của Khmer Đỏ trong thời gian cầm quyền từ 1975 đến 1979. Đây đã là trường phổ thông trung học trước khi trở thành trại tập trung của chế độ diệt chủng Kmmer Đỏ. Năm 1975, trường được chuyển thành nhà tù với tên gọi Nhà tù an ninh S21.

    Trong thời gian 4 năm cầm quyền của Kmer Đỏ, nơi đây giam giữa khoảng 17.000 người (có nguồn khác cho răng con số này là 20.000), phần lớn là thành viên hoặc lính trước đó của Kmer Đỏ bị kết tội phản bội. Trường đã được cải hoán như xây thêm hàng rào điện, gia cố phòng thành trại giam, phòng hỏi cung và phòng tra tấn.

    Bảo tàng hiện nay nằm khuất trong khu phố nhỏ Toul Svay Prey ở phía Nam Phnom Penh và khá lạc lõng với cảnh quan xung quanh bởi nó quá cũ kỹ, sập sệ với những hàng rào thép gai bao quanh.

    Theo từ điển tiếng Khmer thì Toul Sleng có nghĩa như một Ngọn Đồi Độc Dược, cái tên như gắn liền với lịch sử của nó. Tuol Sleng từng là một trường học, nhưng Khmer Đỏ đã dùng dây thép gai để quây khu vực, đồng thời biến các phòng học thành các phòng giam nhỏ để tra tấn các tù nhân, trở thành trại tập trung của chế độ diệt chủng Kmmer Đỏ.

    Năm 1975, trường được chuyển thành nhà tù với tên gọi Nhà tù an ninh S21. Trong thời gian 4 năm cầm quyền của Khmer Đỏ, nơi đây giam giữa khoảng 17.000 người (có nguồn khác cho răng con số này là 20.000), phần lớn là thành viên hoặc lính trước đó của Kmer Đỏ bị kết tội phản bội. Trường đã được cải hoán như xây thêm hàng rào điện, gia cố phòng thành trại giam, phòng hỏi cung và phòng tra tấn. Hàng nghìn người đã bị tra tấn ở đây, chỉ có một số ít tù nhân còn sống sót khi rời nhà tù vốn là “nỗi ác mộng” đối với người Campuchia.



    Những linh hồn không an nghỉ

    Bảo tàng diệt chủng Toul Sleng trưng bày những hình ảnh nạn nhân và tư liệu về tội ác của Khmer Đỏ khiến người xem rùng mình. Có thể tham quan Bảo tàng diệt chủng Toul Sleng và sau đó ra ngoại ô thăm Cánh đồng chết (Killing Field).

    Lịch sử

    S21 có diện tích 600x400m và đã từng giam hơn 17000 người, chỉ có 14 người còn sống sót. Nhà tù bao gồm 4 dãy nhà chính và một số ngôi nhà xung quanh, vốn là trụ sở, phòng tra hỏi và tra tấn tù nhân của chính quyền Khmer đỏ. Năm 1962, S21 vốn là trường trung học Ponhea Yat. Đến thời kỳ chế độ Lon Nol, một chế độ cộng hoà được chính phủ Mỹ hậu thuẫn vào những năm 1970, trường được đổi tên thành Trường trung học Toul Svay Prey. Đến tháng 5.1976, trường được chính quyền Khmer đỏ cải hoán thành nhà tù với tên gọi Nhà tù an ninh S21.

    Theo các tài liệu mà Trung tâm Tư liệu Campuchia tìm được, S21 được thiết kế đặc biệt để dành cho việc tra hỏi và tiêu diệt các phần tử "phản bội".Trong suốt 4 năm cầm quyền của mình , nơi đây giam giữ tổng cộng 10.499 nghìn người (chưa tính khoảng 2.000 trẻ em bị giết) gồm nhiều quốc tịch như Việt Nam, Lào, Thái, Ấn Độ, Pakistan, Anh, Mỹ, Canada, New Zealand, Australia, nhưng phần lớn là người Campuchia.

    Họ là công nhân, nông dân, kỹ sư, thợ cơ khí, dân trí thức, giáo viên, giáo sư, học sinh và thậm chí là công sứ, nhân viên ngoại giao. Toàn bộ thành viên gia đình của nạn nhân, kể cả trẻ em mới đẻ cũng bị đưa vào giam giữ trong nhà tù. Số người sống sót tại nhà tù này chiếm chưa đầy một nửa.



    Duch - trùm nhà tù Tuol Sleng. Vừa bị tuyên án 35 năm tù cách đây vài ngày.

    Những dãy buồng giam dài được xây kín bằng gỗ, gạch, san sát nhau chìm trong bóng tối. , những tù nhân bị giam giữ trong buồng giam nhỏ có diện tích 0,8x2m bị xích chân bằng sợi xích to chôn chặt vào tường hoặc nền nhà xi măng; còn những nạn nhân bị giam trong buồng giam lớn có diện tích 8x6m bị xích một hoặc cả hai chân vào những thanh cùm ngắn hoặc dài.

    Cùm nhỏ dài chừng 0,8-1m được thiết kế để xích khoảng 4 người còn cùm dài 6m thì xích 20-30 người. Mọi nạn nhân đều phải nằm ngủ trên sàn nhà lạnh lẽo. 4.30 mỗi sáng, mọi nạn nhân phải thức dậy, kéo quần xuống tận đầu gối để cai tù kiểm tra, sau đó phải thực hiện một số động tác thể dục như đứng lên ngồi xuống, giơ tay cao cho dù chân vẫn bị cùm.

    Mỗi ngày cai tù kiểm tra nạn nhân 4 lần và thay ngay mọi cùm bị lỏng. Nếu nạn nhân nào vi phạm các quy định mà chúng đề ra sẽ bị phạt từ 20-60 gậy. Muốn thay đổi tư thế khi ngủ, nạn nhân cũng phải xin phép của cai tù. Cách 2-3 ngày hoặc thậm chí nửa tháng nạn nhân mới được tắm v.v...

    Mô tả

    Bảo tàng còn lưu giữ các hiện vật được tìm thấy sau khi quân Khmer đỏ bị khống chế vào tháng 01 năm 1979, nhà tù đã lưu giữ rất nhiều tài liệu, hàng ngàn bức ảnh các nạn nhân, rất nhiều trong số đó vẫn đang được trưng bày. Các bức tranh vẽ cảnh tra tấn trong tù đang được trưng bày do Vann Nath thực hiện, ông là một trong những người tù sống sót tại Toul Sleng.

    Bản đồ đất nước Campuchia ghép bằng sọ của các nạn nhân hiện không còn được trưng bày trong bảo tàng nữa vì một số ý kiến cho rằng việc đó qúa tàn nhẫn. Trước đây việc không tiếp tục trưng bày tấm bản đồ ghê rợn đó đã từng gây một cuộc tranh cãi phạm vi quốc tế. Để hiểu được toàn bộ bối cảnh lịch sử, nên kết hợp chuyến thăm tới bảo tàng tội diệt chủng Toul Sleng với chuyến thăm tới Cánh đồng chết Choeung Ek.



    Cánh đồng chết

    Choeung Ek vốn là những vườn cây ăn quả thuộc xã Choeung Ek, quận Dang Kor, tỉnh Kandal, Campuchia. Sau cuộc lật đổ Chính phủ Cộng hòa Khmer, trong những năm 1975-1979, chính quyền Khmer Đỏ đã biến xã Choeung Ek thành cánh đồng giết chóc tàn bạo và dã man nhất



    Cây tử thần - nơi hành quyết trẻ em

    Gần 30 năm kể từ khi xảy ra những vụ thảm sát tập thể tại đây, âm khí của vùng đất này vẫn chưa hết. Những mảnh vụn xương người trộn lẫn trong đất và áo quần của những nạn nhân xấu số bằng vải ni lông, khó phân hủy, càng bày lên nhiều hơn sau những cơn mưa lớn. Hơn nữa, chưa ai biết được trong lòng đất nơi đây còn bao nhiêu hố chôn tập thể khác chưa được tìm thấy. Cách đây không lâu, thêm một hố chôn tập thể các nạn nhân mới được tìm thấy sau nhiều năm nước mưa xói mòn để lộ ra dấu vết.



    Bức ảnh người phụ nữ bồng con sắp bị Khmer đỏ khoan vào đầu - hình thức giết người man rợ lúc bấy giờ

    Tại các trại giam to, hiện người ta cho trưng bày những bức ảnh, tranh vẽ sống động về thời đó, từ hình ảnh chiếc ghế sắt để nạn nhân ngồi chụp hình, các phạm nhân bị đánh đập tàn nhẫn, các cánh đồng chết đẫy rẫy xương của những người bị Khmer đỏ giết hại, các hình vẽ mô tả lại cảnh phạm nhân bị tra tấn.

    Sự giết người man dại của chế độ Khmer đỏ còn in dấu đậm nét tại các phòng tra tấn nạn nhân. Dãy phòng này gồm 14 phòng, chỉ kê vẻn vẹn một cái giường sắt và hộp đựng đồ tra tấn. Nạn nhân bị gọi lên phòng này bị tra tấn man rợ đến chết.

    Một trong những hình thức tra tấn phố biển ở S21 là rút móng tay, móng chân; đổ axít vào mặt, khoét ngực để thả rết, dùng búa, rìu, roi đánh đập... Những vết máu bắn ra của nạn nhân vẫn còn in đậm trên tường và trần nhà.
    Hiện trên tường của 14 căn phòng đều có treo một bức ảnh, những bức ảnh đó chính là hình ảnh của 14 nạn nhân cuối cùng trong nhà tù .Họ được giải thoát khi quân đội tình nguyện Việt Nam vào giải phóng khu vực này.

    Các bức ảnh của 14 nạn nhân hiện vẫn còn treo trên 14 phòng do phóng viên chiến trường Việt nam chụp lại . Mộ của những nạn nhân còn sống sót hiện được chôn cất phía trước nhà tù .

    Ba thập kỷ đã trôi qua kể từ khi thế giới lần đầu tiên biết tới "những cánh đồng chết" ở Campuchia, biết đến bàn tay khát máu của Khmer Đỏ thì mãi đến tháng 7.2006, một toà án LHQ -Campuchia mới tuyên thệ và bắt đầu công việc khó khăn đưa những kẻ phải chịu trách nhiệm ra trước vành móng ngựa.

    Ngày 26.2.2008, thủ lãnh của nhà tù khét tiếng ở Campuchia dưới thời Khmer Đỏ đã khóc khi hắn hướng dẫn một toà án được Liên Hợp Quốc hỗ trợ đi quanh một trong những "Cánh đồng Chết" của Campuchia thời thập niên 1970.

    Giá trị

    Bằng hình ảnh , hiện vật cùng với các tư liệu ,.v...v bảo tàng hiện nay thu hút đông đảo du khách đến từ khắp nơi trên thế giới .Tuy nhiên, xét về góc độ , du khách vẫn còn e dè với bảo tàng do quá ghê rợn và chính những điều mà du khách nhìn thấy , khiến họ ghê sợ.Một số hình ảnh về tra tấn tại Tuol Sleng
    Bị đánh đập, tra tấn, bỏ đói
    [​IMG]Rứt thịt bằng kềm, rết và bọ cạp[​IMG]Cướp đứa con vừa sanh của một nữ tù[​IMG]Một hình thức tra tấn của bọn Khmer Đỏ[​IMG]Trẻ em bị cùm trói lại với nhau[​IMG]Thi đua giết người[​IMG]Con người bị đối xử thua cả con vật[​IMG]Tra tấn bằng roi[​IMG]Tra tấn bằng rút móng tay và răng[​IMG]Trấn nước[​IMG]Dội nước[​IMG]Cắt cổTrẻ em bị hành quyết bằng cách đập vào câyHoặc tung lên rồi dùng lưỡi lê xọc vào cơ thểTrên con đường tới "Cánh đồng chết"Phút cuối của 17.000 nạn nhân tại Tuol Sleng
    muamuaha198, muamuaha86hoalongtrang thích bài này.
  3. haohoacongtu

    haohoacongtu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/05/2006
    Bài viết:
    3.736
    Đã được thích:
    5.410
    Sao thấy thế nào. Kết quả của việc theo TQ đấy. Và những kẻ đang tuyên truyền cho TQ sẽ là những kẻ, cầm kìm mổ bụng, giết trẻ con, đàn bà.
    Bọn cầm thú, các ông sẽ cầm súng bảo vệ tổ quốc, có chết cũng chết trên chiến trường chứ không chết nhục như thế này.
    muamuaha198, muamuaha86hoalongtrang thích bài này.
  4. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.813
    Đã được thích:
    14.230
    rước đây, Bình An là tên của một xã thuộc huyện Tây Sơn, ngày nay Bình An tách ra thành ba xã Tây Bình, Tây An và Tây Vinh. Bình An nằm về phía đông thị trấn Phú Phong, cách trung tâm huyện lỵ 12 km. Đây là một làng quê giống như bao làng quê khác ở vùng nông thôn Việt Nam, ở đó tình người, lòng yêu thương và lòng quý trọng con người được đặt lên trên tất cả. Họ yêu công bằng và chỉ muốn sống trong hòa bình hạnh phúc.
    Thế nhưng, những ước mơ nhỏ nhoi đó của họ đã không thực hiện được. Từ trong máu lửa của chiến tranh, Bình An - mảnh đất nơi đầu sóng, ngọn gió - đã phải gánh chịu biết bao trận mưa bom bão đạn của kẻ thù, những trận càn khốc liệt của địch chà đi xát lại ở vùng này biến Bình An thành vành đai trắng. Có lẽ người dân nơi đây không bao giờ quên được những cuộc tàn sát đẫm máu của những kẻ mất hết tính người, bắn giết không thương tiếc vào những người dân vô tội ở Bình An. Trong muôn vàn tội ác mà Mỹ - ngụy và chư hầu của Mỹ đã gây ra đối với nhân dân Bình Định, có lẽ Bình An là một vụ thảm sát có quy mô lớn mà ngày nay vẫn được nhiều người nhắc đến.
    Các nhân chứng kể lại rằng, một ngày cuối tháng 2 năm 1966, theo thường lệ, người dân ở Bình An dậy sớm và đang chuẩn bị mọi việc để bước vào một ngày lao động mới. Có một số gia đình còn đang tụ tập bên mâm cơm, lẻ tẻ một vài người đã vác cuốc ra đồng hoặc đi chợ sớm. Mùa xuân, tiếng chim hót ríu rít trên những nhành cây, đôi tiếng gà gáy muộn màng cùng tiếng í ới gọi nhau ra đồng. Cây xanh trong lành còn phớt một chút sương mai, vài tia nắng buổi sớm đằng đông tạo nên khung cảnh thiên nhiên của một làng quê thật đáng yêu.
    Nhưng cái khoảnh khắc bình yên đó trong chốc lát đã bị phá vỡ đột ngột. Vào khoảng 5 giờ sáng, các tràng đạn pháo đủ các cỡ từ Truông Bà Đờn, Gò Quánh, Bình Nghi nhất loạt vang lên kéo theo tiếng xe gầm rú phá tan sự yên tĩnh; mặt đất bỗng rung lên. Cùng với tiếng đạn pháo gầm rít là tiếng cây gãy, nhà đổ, tiếng người kêu khóc thất thanh. Mọi vật đã hoàn toàn trở nên hỗn độn, có một số người bị chết và bị thương vì không kịp chạy vào hầm trú ẩn. Mãi đến khoảng 10 giờ trưa, tiếng pháo thưa dần, một khoảng lặng yên nặng nề trôi qua. Nhưng tai họa đâu có dừng lại ở đấy, từ các hướng, bọn lính Nam Triều Tiên dàn hàng ngang tiến vào Bình An. Những người dân lành đang ẩn nấp trong các hầm tránh pháo hoặc đang ở ngoài đồng, ai cũng tưởng đây chỉ là cuộc càn quét bình thường. Không ai biết rằng mình và những người trong làng đang ở trước một kết cục bi thảm.
    Trong các ngõ thôn, bọn lính Nam Triều Tiên chia thành nhiều tốp, sục đến từng nhà, tìm từng căn hầm, bắt bớ dân lành. Điểm đầu tiên trong đợt tàn sát này là 2 thôn Mỹ Đức, Nhơn Thuận. Bọn lính đã dồn mọi người tập trung về một điểm, sau đó xả súng bắn hàng loạt, chỉ trong khoảnh khắc, hơn 100 người đã bị sát hại. Tại một số điểm khác, như Lỗ Sỏi, Bỉnh Đức, Sông Cạn, chỉ trong một ngày bọn chúng đã sát hại 200 người. Tại một số điểm như An Khánh, An Lộc… chúng cũng giết hàng trăm người như thế. Nhưng dã man nhất, khủng khiếp nhất là cuộc tàn sát diễn ra tại Gò Dài thuộc thôn An Vinh vào ngày 26 tháng 2 năm 1966 - chỉ trong vòng hơn một tiếng đồng hồ, bằng mọi phương tiện giết người sẵn có trong tay, bọn chúng đã tiến hành tàn sát 380 người dân, những xác chết ngổn ngang đè lên nhau, máu đỏ loang cả một vùng gò. Vẫn chưa hết, sau khi tàn sát, bọn chúng còn chia nhau đi khắp các ngỏ hẻm, đến các hầm trú ẩn quăng lựu đạn, ném pháo cay xuống hầm. Tàn sát chưa thỏa thích, bọn chúng còn lôi các chị em phụ nữ thay nhau hãm hiếp cho đến chết. Đê hèn hơn, tàn nhẫn hơn là chúng trói các cụ già sáu bảy mươi tuổi vào gốc cây rồi dùng lưỡi lê đâm, các cháu bé cũng bị chúng quăng vào lửa cho chết cháy…
    Khi bọn lính Nam Triều Tiên rút đi, cả Bình An hầu như không còn sự sống. Xóm làng chìm trong lửa khói chết chóc, lửa tràn thôn xóm, khói cuộn mù trời, máu ngập đỏ dòng mương, lai láng trên ruộng lúa, đường làng. Xác người ngổn ngang ngoài ngõ xóm, trên nền nhà cháy trụi, bên miệng hầm lở sập…
    Trong một khoảng thời gian ngắn từ 23 tháng 1 đến 26 tháng 2 năm 1966, có 1.004 người dân Bình An và các xã lân cận bị sát hại, 1.535 ngôi nhà, 835.580 kg lúa gạo bị đốt cháy, 649 trâu bò bị giết.
    giamadai thích bài này.
  5. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.813
    Đã được thích:
    14.230
    Tội ác chiến tranh của Mỹ ở Đông Dương và nhiệm vụ nói lên sự thật của chúng ta – Fred Branfman
    Chúng ta đang sống trong một thời đại mà khái niệm sự thật chẳng còn mang ý nghĩa thực tế, và khó mà phân biệt được đâu là thực tế và đâu là và huyền thoại. Chúng ta cũng khó mà phân biệt được chính khách với giáo sĩ, hay lực sĩ, hay thương gia. Thành ra, có lẽ chúng ta cũng chẳng nên để ý đến những lời tuyên bố thiếu thành thật từ những người có dính dáng ít nhiều đến cuộc tranh cử tổng thống Mĩ hiện nay.

    Nhưng có một vài dối trá chẳng những vô lí, mà còn gớm guốc và bệnh hoạn. Và chúng ta cần phải sửa lại cho đúng với sự thật. Một trong những lừa dối trắng trợn nhất hiện nay là bài quảng cáo trên tivi Mĩ về vụ “Swift Boat Veterans”, mà trong đó một vài cựu chiến binh Mĩ tố cáo John Kerry đã nói dối khi ông ta tuyên bố rằng chính sách của chính phủ Mĩ và hành động tàn ác của một số lính Mĩ tại Đông Dương có thể xem là tội phạm chiến tranh (war crimes). Quốc gia này chưa có một thất bại nào to lớn hơn là sự suy đồi đạo đức của chúng ta, không dám nhận trách nhiệm trước cái chết của hàng trăm ngàn nông dân Đông Dương bị chúng ta sát hại trong quá trình vi phạm những luật lệ chiến tranh. Những người cầm tay lái dư luận trong giới truyền thông của xứ sở này cũng chẳng màn nghiên cứu sự thật lịch sử để giáo dục cho con em chúng ta về những tội phạm chiến tranh của Mĩ tại Đông Dương.
    Sự vi phạm các qui tắc chiến tranh rõ ràng nhất của Mĩ là những đợt pháo kích vào các làng xã gây thương vong cho thường dân tại Đông Dương. Hành động này vi phạm Điều mục số 25 của Qui ước Hague 1907 mà Mĩ là một trong những nước phê chuẩn. Điều mục này viết: “Cấm tất cả các tấn công hay bỏ bom, hay bất cứ phương tiện nào, vào các thị trấn, làng xã, nơi cư trú, hay bin-đinh không có sự bảo vệ.”

    Trong cuốn sách cổ điển The Village of Ben Suc, tác giả Jonathan Schell mô tả máy bay bay qua những cánh đồng mênh mông, những vùng được các giới chức quân sự Mĩ tuyên bố là “tự do bắn phá” và tha hồ thả bom xuống các làng xã bất kể có hay không có dân phía dưới. Cuốn sách này gây một ảnh hưởng lớn đến John Kerry trong thời chiến.

    Tôi đã trực tiếp phỏng vấn hơn 2.000 nông dân chạy trốn những trận bom của Mĩ ở Lào. Mỗi người nông dân chất phác cho tôi biết làng xã của họ đều bị bom đạn của Mĩ san bằng thành bình địa, và bằng chứng này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay nếu ai đó chịu khó ghé thăm Đồng bằng Jars ở miền Bắc nước Lào. Phần lớn những trận dội bom nhắm vào các vùng nông thôn không phòng vệ, bởi vì du kích Pathet Lào và bộ đội Bắc Việt Nam di chuyển trong rừng núi và máy bay không thể nào phát hiện từ trên không.

    Tại Cambodia, các quan chức Mĩ tuyên bố rằng họ sẽ không dội bom xuống một làng nào nếu không có lệnh từ “Quan bom” (“Bombing Officer”) từ Căn cứ không quân Nakhorn Phanom ở Thailand. Nhưng đây là một sự nói láo trắng trợn. Tôi đã từng thu băng các cuộc đối thoại, thảo luận giữa các phi công và sĩ quan không lưu khi họ dội bom. Các cuộc đối thoại này cho thấy các phi công Mĩ chẳng bao giờ hỏi “Quan bom” có nên thả bom hay không; họ tự hành động theo ý họ. Sự thật này cũng từng được Sidney Schanberg đề cập đến trên tờ New York Times vào tháng 5 năm 1973. Sau này tôi còn có dịp phỏng vấn một Quan bom tại Căn cứ Không quân Nakhorn Phanom, và ông ta cho biết công việc duy nhất của ông ta là làm sao bảo vệ an toàn cho các tình báo viên CIA tại những nơi bị dội bom.
    Mĩ đã dội xuống Đông Dương 6.727.084 tấn bom, hơn 3 lần số bom dội xuống Âu châu và Thái Bình dương trong thế chiến thứ II. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được có bao nhiêu người Đông Dương vô tội đã chết vì những trận dội bom phi pháp, nhưng theo ước đoán của cựu Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara thì khoảng 3,4 triệu người Việt Nam, Lào và Cam-bốt đã chết tromg chiến tranh. Bởi vì phần lớn những cái chết này do bom đạn của Mĩ gây ra, con số thường dân vô tội bị chết phải lên đến vài trăm ngàn người.

    Phát biểu trong chương trình “Meet The Press” vào tháng Tư năm 1971, John Kerry cho biết, “Tôi đã từng dính dáng đến những vụ tàn sát và liên lụy đến những tội ác mà hàng ngàn binh lính khác phạm phải; tôi cũng bắn phá vào những vùng được xem là bắn phá thoải mái; tôi đã từng dùng súng để uy hiếp người dân, để đánh phá đường giao thông, từng tham dự vào những đợt truy lùng và tiêu diệt, từng đốt cháy làng xã. Tất cả những hành động này đi ngược lại với những luật lệ về chiến tranh trong Qui ước Geneva, và tất cả đều do cấp trên ra lệnh trên giấy trắng mực đen, và chính những người ra lệnh này cũng là những tên tội phạm chiến tranh.”

    Đây là những sự thật, những gì đã xảy ra trên thực tế ở Đông Dương, và John Kerry xứng đáng được khen ngợi khi ông can đảm dám nói và nói lớn tiếng. Những cựu chiến binh điều trần trước phiên tòa “Winter Soldier” tại Detroit về tội phạm chiến tranh đã gây một ảnh hưởng lớn đến John Kerry, và là động cơ cho ông nói lên sự thật trên chương trình Meet the Press. Ấy thế mà những người quảng cáo Swift Boat dám sỉ nhục đến những cựu chiến binh can đảm này, dám nói rằng họ đã nói dối!

    Gần đây, tờ Toledo Blade đã được trao giải thưởng Pulitzer vì những bài báo làm chấn động dư luận quốc tế về một nhóm lính biệt kích Mĩ đã phạm phải tội phạm chiến tranh tại Việt Nam. Chẳng những thế, tờ Toledo Blade còn cho biết nhiều quan chức cao cấp nhất như Donald Rumsfeld (nay là Bộ trưởng Quốc phòng) từng biết rõ những tội phạm này nhưng cố tình làm ngơ để cho lính Mĩ thẳng tay giết người Việt Nam.

    Vì công lí là công lí của kẻ mạnh, cho nên chẳng có một quan chức cao cấp nào trong bộ máy chiến tranh của Mĩ bị trừng phạt, hay bị kỉ luật, bởi vì những tội phạm mà chín họ ra lệnh. Chúng ta không dạy cho con em chúng ta rằng quốc gia này có khả năng vi phạm những qui ước chiến tranh, rằng quốc gia này đã từng gây nên những tội phạm chiến tranh.

    Điều này chẳng những là một sỉ nhục đến những người vô tội đã nằm xuống mà còn là một sỉ nhục đến lịch sử. Nó làm tổn hại đến quyền lợi quốc gia của chúng ta. Nếu những quan chức cao cấp bị trừng trị vì những tội phạm chiến tranh của họ tại Đông Dương, thì có lẽ chúng ta sẽ không phạm phải những xì-căng-đan trong nhà tù Abu Ghraib ngày nay. Nếu những quan chức cao cấp bị trừng trị vì những tội ác của họ trong thời chiến thì có lẽ chúng ta sẽ không kinh qua những hận thù của khối Hồi giáo đối với chúng ta.

    Nhưng ở đây vấn đề còn có một ý nghĩa lớn hơn. Trong tương lai khả năng mà nước Mĩ gây ảnh hưởng tích cực đến thế giới – và duy trì lòng trung thành của giới trẻ – tùy thuộc vào uy tín đạo đức của chúng ta, vào khả năng ghi nhận rằng không chỉ Mĩ mà còn có nhiều người khác trên hành tinh này cũng có quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc như chúng ta. Nước Đức thời hậu chiến ghi nhận trách nhiệm về tội ác của Đức trong thế chiến thứ II, không chỉ vì nạn nhân của chiến tranh, mà còn vì tương lai nước Đức. Người Đức hiểu rằng một quốc gia không dám nhìn nhận cái sai trái của mình trước con em mình và trước thế giới thì không thể nào khôi phục trung tâm đạo đức được.

    Trịnh Công Sơn, một thi nhạc sĩ hát rong (poet-troubadour) của Việt Nam từng viết những câu sau đây:
    ác người nằm trôi sông
    phơi trên ruộng đồng
    Trên nóc nhà thành phố
    trên những đường quanh co
    Xác người nằm bơ vơ
    dưới mái hiên chùa
    Trong giáo đường thành phố
    trên thềm nhà hoang vu.
    Mùa xuân ơi, xác nuôi thơm cho đất ruộng cày
    Việt Nam ơi, xác thêm hơi cho đất ngày mai
    Đường đi tới
    dù chông gai
    Thì quanh đây đã có người.”


    Nước Mĩ sẽ không thể nào khôi phục vị thế đạo đức trên trường quốc tế hay quên được nỗi ám ảnh cuộc chiến Đông Dương, nếu chúng ta không dạy cho con em chúng ta rằng chúng ta là tác giả tạo nên những xác người này, và chúng ta đã vi phạm các qui tắc chiến tranh. Nếu Mĩ muốn trở thành một quốc gia được xây dựng trên nền tảng sự thật, chúng ta hãy bắt đầu với một trong những chân lí quan trọng nhất: đó là chúng ta phải nhận lãnh trách nhiệm về những cái chết của thường dân mà chúng ta gây nên trong cuộc chiến Đông Dương.
    giamadaiChauBaTrieu thích bài này.
  6. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.813
    Đã được thích:
    14.230
    Tội ác của quân đội Hoa Kỳ
    Trong lịch sử hình thành và phát triển của mình, quân đội Hoa Kỳ đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt để trở thành một trong những lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới, tham gia nhiều cuộc chiến, trận đánh then chốt trong lịch sử chiến tranh, tuy vậy bên cạnh đó, quân đội Hoa Kỳ vẫn được nhiều người biết đến với những tội ác chiến tranh chống lại loài người, những vụ vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Đã có nhiều chỉ trích, buộc tội cùng những chứng cứ cụ thể tố cáo tội ác của quân đội Hoa Kỳ trong các cuộc chiến tranh cũng như những vi phạm nhân quyền đối với những nơi có sự hiện diện của họ. Cũng có thông tin cho rằng quân đội Hoa Kỳ đã tham gia thực hiện những thí nghiệm vô nhân đạo trên người tại Hoa Kỳ.
    Tàn sát người da đỏ
    Trong cuộc chiến tranh với người da đỏ, quân đội Hoa Kỳ bằng ưu thế về mọi mặt đã giành chiến thắng trước người da đỏ, chiếm lấy những mảnh đất màu mỡ, đày người da đỏ vào những vùng có điều kiện khó khăn. Nhiều quan điểm cho rằng đây không chỉ là một cuộc chiến mà còn là một cuộc diệt chủng quy mô.

    Theo David Stannard trong tác phẩm tựa đề Tàn sát ở Mỹ thì cho rằng cuộc càn quét sát hại người bản địa qua nhiều chiến dịch của người châu Âu và các thế hệ sau (ý muốn nhấn mạnh người da trắng Hoa Kỳ mà quân đội của họ là trung tâm) là một hành động diệt chủng khổng lồ nhất trong lịch sử nhân loại. Có nhiều quan điểm tán đồng và cho rằng đây là một kế hoạch diệt chủng. Trong những cuộc chiến tranh này, quân đội Hoa Kỳ đã thực hiện nhiều cuộc tàn sát mà điển hình là cuộc tàn sát tại Wounded Knee (Wounded Knee Massacre). Theo Russell Thornton thì khoảng 45.000 người da đỏ bị giết (gấp đôi số người da trắng) – trong đó có nhiều đàn bà và trẻ em. Theo ước tính người da đỏ có vào khoảng 15 triệu khi người Tây phương bắt đầu xâm lược, chỉ còn lại chưa đầy 250 ngàn vào năm 1890
    Các hoạt động ở Nhật Bản và Triều Tiên
    Trong chiến tranh thế giới thứ II, đã có những cáo buộc về tội ác của quân đội Hoa Kỳ. Trong trận Okinawa, các nhà sử học Nhật Bản ước tính có trên 10 ngàn phụ nữ Nhật bị lính Mỹ cưỡng hiếp trong chiến dịch kéo dài 3 tháng này. Tờ New York Time thông báo khoảng 2000 dân thường trong 1 làng ở Katsuyama bị lính Mỹ giết và cưỡng hiếp. Tội ác đáng kể nhất của Hoa Kỳ là Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, theo lệnh của Tổng thống Harry Truman, Ngày 6 tháng 8 năm 1945, quả bom nguyên tử thứ nhất mang tên “Little Boy” đã được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản. Sau đó 3 hôm, ngày 9 tháng 8 năm 1945, quả bom thứ hai mang tên “Fat Man” đã phát nổ trên bầu trời thành phố Nagasaki. Theo ước tính, 140.000 người dân Hiroshima đã chết bởi vụ nổ cũng như bởi hậu quả của nó, số người thiệt mạng ở Nagasaki là 74.000. Ở cả hai thành phố, phần lớn người chết là thường dân. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên cũng có những thông tin cho rằng đã có những vụ bắn giết của quân đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến này, trong đó có vụ Thảm sát No Gun Ri (No Gun Ri Massacre) từng gây chấn động dư luận.
    giamadaiChauBaTrieu thích bài này.
  7. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.813
    Đã được thích:
    14.230
    Trong chiến tranh Việt Nam
    Trong chiến tranh Việt Nam, có nhiều chứng cứ rõ ràng để chứng minh tội ác của quân đội Hoa Kỳ đó là những vụ thảm sát, tra tấn, ném bom, rải chất độc da cam…

    [​IMG]
    Cuộc thảm sát Mỹ Lai do viên trung úy Peter Cage chỉ huy

    Dựa trên các tài liệu của quân đội Mỹ, do một lực lượng đặc nhiệm của quân đội chịu trách nhiệm điều tra tội ác chiến tranh thu thập và giải mật, bài báo cho biết trong báo cáo gửi Bộ Tổng tham mưu quân đội, một trung tá Mỹ đã tố cáo các binh sĩ Lữ đoàn không vận 173 tra tấn những người bị bắt giữ ở miền Nam Việt Nam. Các nhà điều tra thuộc lực lượng đặc nhiệm trên đã phát hiện hàng loạt những vụ bạo hành của quân sĩ Mỹ, Trong các tài liệu này còn có báo cáo chi tiết về 142 vụ bắt giữ và ngược đãi tù nhân, trong đó có 127 trường hợp liên quan đến lữ đoàn 173. Tuy nhiên các giới chức lãnh đạo của Hoa Kỳ đã cố gắng che giấu các thông tin này. Tờ Los Angeles Times đã đăng bài viết tố cáo các chỉ huy quân đội Mỹ đã che giấu tội ác của cấp dưới trong chiến tranh ở Việt Nam và phần lớn các quân nhân phạm tội đã không bị trừng phạt, hoặc chỉ bị phạt rất nhẹ, trong khi người tố cáo lại bị ngược đãi.

    [​IMG]
    Thảm sát Mỹ Lai

    [​IMG]
    Cuộc thảm sát Mỹ Lai do viên trung úy Peter Cage chỉ huy

    Một số thông tin khác liên quan đến tội ác của quân đội Hoa Kỳ khi giải mật hồ sơ các vụ thảm sát của quân đội này tại Việt Nam 9.000 trang tư liệu Hồ sơ cung cấp chi tiết về 320 vụ việc đã được cơ quan điều tra của quân đội Mỹ xác minh và có những bằng chứng cụ thể. Tuy vậy, hồ sơ này không nhắc tới tội ác ghê rợn nhất được biết đến dưới cái tên “Thảm sát Mỹ Lai” – trong đó các binh lính Mỹ đã hãm hiếp phụ nữ và bắn chết 503 thường dân, trong đó đa số là phụ nữ, trẻ em và người già của làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi.

    [​IMG]
    Máy bay B52 của Mỹ ném bom rải thảm.

    [​IMG]
    Cô bé 9 tuổi Phan Thị Kim Phúc hoảng loạn chạy trốn bom Napan

    [​IMG]
    Cô bé 9 tuổi Phan Thị Kim Phúc hoảng loạn chạy trốn bom Napan

    Các vụ việc được chứng minh trong hồ sơ có thể kể đến: 7 vụ thảm sát từ 1967 đến 1971, trong đó có ít nhất 137 dân thường bị giết; 78 vụ tấn công khác nhau vào những người không tham chiến, trong đó ít nhất 57 người bị giết, 56 người bị thương và 15 vụ cưỡng hiếp; 141 vụ tra tấn những người tình nghi hoặc tù binh chiến tranh.

    [​IMG]
    Biệt kích Hoa Kỳ đang "khoe" thủ cấp chặt được của binh sĩ Quân Giải phóng.

    Các nhà điều tra đã xác định được bằng chứng chống lại 203 lính Mỹ bị cáo buộc giết hại dân thường Việt Nam hoặc tù binh. 57 người trong số họ đã bị đưa ra tòa án quân sự và 22 người đã bị kết án. 14 người đã nhận án từ 6 tháng đến 20 năm nhưng hầu hết đều được giảm án đáng kể trong phiên phúc thẩm. Nhiều vụ việc khác đã bị đóng lại vô thời hạn.

    Ngoài 320 vụ việc được xác minh, hồ sơ còn có những tài liệu có liên quan đến hơn 500 hành động tàn ác mà các điều tra viên chưa thể chứng minh hoặc không được quan tâm đến.

    [​IMG]
    Hình ảnh một số trẻ em VN bị hậu quả chất độc màu da cam

    Chủ tịch Hồ Chí Minh từng bức xúc phát biểu: “Vì Mỹ mà đất nước chúng tôi bị chia cắt làm đôi, đồng bào miền Nam chúng tôi đang lâm vào tình cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng. Vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam có những tòa án phát xít, những luật lệ bạo ngược, những máy chém lưu động giết người khắp thành thị và thôn quê, có những trại giam khổng lồ, giam cầm và tra tấn hàng chục vạn người, giết chết hàng vạn người yêu hòa bình và yêu Tổ quốc. Vì Mỹ mà có những sư đoàn, binh lính với máy bay, xe tăng và đại pháo Mỹ đi càn quét liên miên, giết hại thường dân, đốt phá làng mạc. Nói tóm lại vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần gian”.

    [​IMG]
    Mỹ từng sử dụng chất độc màu da cam trong chiến tranh Việt Nam. -Ảnh: BBC

    Song song với các cuộc tấn công, quân đội Mỹ còn sử dụng máy bay ném bom trên nhiều địa phương tại Việt Nam mà đỉnh cao là Chiến dịch Linebacker II, theo ước tính của phương Tây, đã có 1.624 thường dân thiệt mạng trong chiến dịch này. Ngoài việc tiến hành các cuộc thảm sát, tra tấn và bắn giết, quân đội Hoa Kỳ còn gây tội ác khi rải chất độc da cam lên Việt Nam. Tổng lượng chất da cam dioxin có trong số chất diệt cỏ nói trên ít nhất là 366 kg. Theo các nhà khoa học, do công nghệ sản xuất 2,4,5 T trong những năm 60 còn lạc hậu, mặt khác để tăng sản lượng chất diệt cỏ, một số công ty hóa chất Mỹ đã nâng nhiệt độ của công nghệ sản xuất, nên lượng dioxin có thể là 600-680 kg. Trong khi đó, chỉ cần một vài phần tỷ gam dioxin đã có thể gây ung thư, tai biến sinh sản và dị tật bẩm sinh ở động vật thực nghiệm. Từ năm 1962 đến 1971, quân đội Mỹ đã tiến hành 19.905 phi vụ rải chất da cam/dioxin trên diện tích 2.631.297 ha (trong đó, có 86% diện tích bị phun rải hơn 2 lần; 11% diện tích bị phun rải hơn 10 lần; có 25.585 thôn bản bị rải chất da cam/dioxin).

    [​IMG]
    Những đứa trẻ bị dị tật vì chất độc màu da cam

    [​IMG]
    Ngày nay vẫn có những đứa trẻ ra đời với những dị tật bẩm sinh cả về thể xác lẫn trí tuệ. Nguy cơ mắc các bệnh ung thư của chúng rất cao.

    Cơ quan Lưu trữ Hồ sơ và Tài liệu Quốc gia (NARA) của Hoa Kỳ đã miêu tả khoảng 320 hành động tàn bạo – không tính thảm sát Mỹ Lai năm 1968 – của quân đội Mỹ, được phát hiện bởi những nhân viên điều tra trong quân đội.
    giamadai thích bài này.
  8. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.813
    Đã được thích:
    14.230
    Các hoạt động tại Iraq và Afghanistan
    Trong cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, quân đội Hoa Kỳ cũng bị đưa tin là đã gây nhiều tội ác đối với thường dân nước này, nhiều vụ thảm sát thường dân được báo chí đăng tải. Điển hình là vụ ngày 19/11/2005, với 24 người ở Iraq. Hay nhiều vụ giết hại thường dân một cách tàn nhẫn đã bị phanh phui, trong đó có những vụ giết hại thường dân Afghanistan. Cũng có nhiều bằng chứng cho thấy trong các chiến dịch, quân đội Hoa Kỳ cũng đã giết nhầm dân thường.

    [​IMG]
    Mỹ ném bom giết chết nhiều thường dân, đặc biệt là trẻ em ở Irac

    [​IMG]
    Mỹ ném bom giết chết nhiều thường dân, đặc biệt là trẻ em ở Irac

    Tra tấn tù nhân
    Bên cạnh đó, nhiều tội ác của quân đội Hoa Kỳ cũng được đề cập đến xung quanh các vấn đề về các nhà tù bí mật như Abu Graib hay Guantanamo, tại nơi đây, lính Mỹ đã thực hiện việc tra tấn và đối xử dã man với các tù nhân.

    [​IMG]
    Một lính Mỹ tên Charles Graner đang tra tấn tù nhân

    Vào năm 2004, tổ chức nhân quyền quốc tế Human Rights Watch ngày 7 tháng 3 năm 2004, đã công bố báo cáo chỉ trích Hoa Kỳ nặng nề trong việc vi phạm quyền của người Afghanistan, trong đó có việc người Mỹ ngược đãi tù nhân, sử dụng vũ lực quá độ trong việc bắt giữ một số người Afghanistan, là nguyên nhân gây ra những cái chết và thương tích trong thường dân. Báo cáo dài 59 trang này được thực hiện trên các nghiên cứu tại Afghanistan và Pakistan trong năm 2003, đầu năm 2004. Báo cáo còn cho biết những tù nhân được trả tự do cho biết họ bị đánh đập nhiều lần, dội nước lạnh, quỳ gối trong những tư thế gây đau đớn trong một thời gian dài.

    [​IMG]
    Tra tấn tù nhân

    Năm 2006, Ủy ban Nhân quyền Liên Hiệp Quốc đã từng công bố bản báo cáo dày 54 trang lên án Mỹ đã vi phạm Công ước quốc tế về nhân quyền đối với các tù nhân bị giam giữ tại Guantanamo, bản báo cáo do 5 điều tra viên thực hiện sau 6 tháng tiếp nhận các cựu tù nhân ở Guantanamo và thu thập thông tin từ các luật sư và một số cơ quan của Mỹ (Mỹ không cho phép phỏng vấn riêng các nghi can đang bị giam giữ tại đây) theo đó, tù nhân tại đây bị đánh đập, bị tra tấn và ngược đãi, lính Mỹ đã bơm thức ăn qua đường mũi cho những tù nhân tuyệt thực, lột hết quần áo rồi đẩy họ vào những nơi thật lạnh hoặc xua chó dữ hăm doạ. Cũng theo bản báo cáo, hơn 500 tù nhân đã bị giam giữ không xét xử ở đây suốt 4 năm qua, kể từ sau vụ khủng bố 11/9/2001, mà không hề đưa ra tòa án xét xử.

    [​IMG]
    Lynndie England đang tra tấn

    Trước đó, Chương trình Dateline của Đài SBS (Úc) công bố những hình ảnh mới về việc lính Mỹ tại nhà tù Abu Ghraib ngược đãi tù nhân Iraq vào ngày 15/2/2006, đài SBS đã công bố những hình ảnh về cảnh ngược đãi tù nhân tại một nhà tù tai tiếng khác của Mỹ – nhà tù Abu Ghraib. Trong một đoạn băng được phát sóng có cảnh các tù nhân Iraq bị làm nhục bằng cách phải phô những bộ phận kín ra trước máy quay, hay phải đập đầu vào tường. Những tấm ảnh được công bố còn cho thấy cả những xác chết; các tù nhân trần truồng trong những tư thế nhục hình, trong đó, có hai người bị xích cùng nhau. Ngoài ra là cảnh lính Mỹ tra tấn tù nhân Iraq.

    [​IMG]
    Tội ác ghê tởm của binh lính Mỹ

    Xâm hại ********
    Ngoài việc giết chóc, ném bom, tra tấn, cũng có nhiều chỉ trích về binh sĩ của Mỹ tại những nơi họ đóng quân với những vụ cưỡng hiếp người bản địa (bao gồm trẻ em) như ở Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Afghanistan, Iraq… và cũng có những cáo buộc cho thấy binh sĩ của Mỹ có lạm dụng ******** trẻ em ở một số nơi trên thế giới. Đặc biệt là có cáo buộc về việc xâm hại ******** đối với các tù nhân. Tờ Daily Telegraph của Anh đã từng cho biết đã có những bức ảnh cho thấy tình trạng lạm dụng ******** và tra tấn các tù nhân Iraq của binh lính Mỹ, Tờ Daily Telegraph cho biết, họ có những bức ảnh ghi lại cảnh một binh lính Mỹ công khai hãm hiếp một nữ tù nhân Iraq, trong khi một bức ảnh khác ghi lại cảnh một nam biên dịch viên hãm hiếp một tù nhân nam khác. Không những hãm hiếp và xâm phạm ******** đối với người dân bản xứ, lính Mỹ thậm chí còn hãm hiếp lẫn nhau.
    giamadai thích bài này.
  9. lamali1

    lamali1 Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    11/05/2009
    Bài viết:
    7.813
    Đã được thích:
    14.230
    Trong chiến tranh Việt Nam, có một nhà tù tàn khốc nhất trong các loại nhà tù trên thế giới lại ít được biết đến một cách có hệ thống, đầy đủ là nhà tù Phú Quốc. Nơi đây, Tên tuổi của Phú Quốc gắn liền với những trang sử hào hùng. Khi nhà Nguyễn bị quân Tây Sơn đánh bại, Nguyễn Ánh đã 3 lần chạy ra đảo Phú Quốc nương náu. Sau khi 3 tỉnh miền Đông Nam Bộ mất, Anh hùng Nguyễn Trung Trực rút về hoạt động ở 3 tỉnh miền Tây. Tháng 6/1868, ông cùng nghĩa quân rút về Hòn Chông rồi ra Phú Quốc. Nhân dân và núi rừng Phú Quốc đã che chở người anh hùng, giúp ông tổ chức lại lực lượng, đánh địch nhiều trận ác liệt tại Hàm Ninh, Cửa Cạn. Nhưng bị chia cắt với đất liền do đường giao thông hiểm trở, nghĩa quân ngày càng hao mòn, lương thực thiếu thốn. Cuối cùng, nhân dân Phú Quốc đau lòng chứng kiến cảnh Nguyễn Trung Trực bị quân Pháp bắt, đem về Rạch Giá xử chém ngày 27/10/1868. Trước lúc hy sinh, Nguyễn Trung Trực đã nói một câu đầy khí phách anh hùng: “Bao giờ nhổ hết cỏ nước Nam thì dân Nam mới hết người đánh Tây”.
    Lời nói của Nguyễn Trung Trực như một câu sấm truyền, bởi suốt hơn một thế kỷ sau ngày máu ông đổ xuống cho quê hương, Phú Quốc là nơi ghi dấu bao trang sử hào hùng của hàng ngàn chiến sĩ yêu nước. Vượt qua mọi hình thức tra tấn tàn bạo, vượt qua mọi chế độ hà khắc, các chiến sĩ - tù binh Phú Quốc đã viết tiếp những trang sử sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng...
    Chưa có một nhà tù nào đặc biệt như ở Phú Quốc, bởi bản thân hòn đảo này cũng chính là một căn cứ địa cách mạng. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, nhân dân Phú Quốc đã đối mặt với muôn vàn khó khăn gian khổ, lực lượng mỏng, vũ khí thô sơ, xa đất liền, xa sự lãnh đạo của tỉnh, có lúc bị cô lập gần 2 năm trời do địch phong tỏa. Nhưng quân dân Phú Quốc vẫn kiên cường đương đầu với quân xâm lược, đặc biệt là đế quốc Mỹ với lực lượng quân đội hùng hậu, vũ khí và phương tiện chiến tranh thuộc loại hiện đại nhất thế giới. Hòn đảo ngọc này đã phải chịu đựng nhiều cuộc hành quân càn quét với quy mô lớn của quân Mỹ, có cả hải lục không quân, thọc sâu vào căn cứ cách mạng.
    Bị bao vây và bị đánh phá ác liệt, phong trào kháng chiến ở Phú Quốc không tránh khỏi những đau thương, tổn thất nhưng dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Kiên Giang và Huyện ủy Phú Quốc, nhân dân trên hòn đảo này kiên cường đứng dậy, bền bỉ phục hồi lực lượng, liên tục đánh địch, phá lỏng thế kềm kẹp của địch, không chỉ thu vũ khí tự trang bị cho mình mà còn đưa bộ đội về tiếp sức với đất liền.
    Với địa hình đặc biệt và tính cách anh hùng, dẫu đất rộng người thưa, đường giao thông cách trở, Phú Quốc đã che chở cho hàng trăm tù nhân khi vượt thoát, vẫn tìm cách liên lạc, nuôi dưỡng cho các phong trào đấu tranh ở Trại giam tù binh Phú Quốc. Những trang sử vàng của Phú Quốc đã ghi lại những cuộc “đánh chiếm” vô tiền khoáng hậu này, ngay từ thời chống Pháp: Tháng 9/1949, “bộ đội Phú Quốc” từ hòn Sơn Rái vượt biển, đổ bộ lên đánh chiếm hãng Cây Dừa ở Nam Đảo, thu 40 súng. Năm 1948, Phú Quốc đưa một trung đội vào đất liền, bổ sung cho lực lượng khu...
    Nhà tù Phú Quốc có một lịch sử vô cùng đặc biệt. Vào cuối năm 1949 đầu năm 1950, quân Quốc dân đảng Trung Hoa bị Quân giải phóng Trung Quốc đánh bại, phải chạy dạt sang biên giới phía bắc Việt Nam. Đám tàn quân này có trên 3 vạn người, được Pháp đưa ra trú ngụ ở phía nam đảo Phú Quốc. Sau khi Tưởng Giới Thạch rời khỏi Đại lục, tháo chạy ra đảo Đài Loan và tuyên bố hòn đảo này thuộc sự kiểm soát của Quốc dân đảng, đám tàn quân này trở về với chủ cũ.
    Lợi dụng một số nhà cửa có sẵn của trại tàn binh, quân Pháp lập một trại giam tù binh trên một diện tích gần 40 ha, gồm 4 khu giam A, B, C, D; được gọi là “Căng Cây Dừa” (Trại Cây Dừa). Những chiến sĩ cách mạng bị địch bắt ở các chiến trường Trung, Nam, Bắc bị chúng tập trung đưa ra trại giam này ở Phú Quốc, khoảng 14.000 người, phần đông từ “Căng” Đoạn Xá (Hải Phòng), được chở ra Phú Quốc bằng tàu thủy.
    Ngay từ những ngày đầu tiên đến “Căng Cây Dừa”, các đảng viên trong các khu nhà giam đã liên lạc với nhau, tổ chức được các chi bộ, Đảng bộ bí mật lãnh đạo anh em tù binh đấu tranh với địch, từ việc cử đại diện tù binh, tổ chức, lao động, sinh hoạt đến đấu tranh chống địch khủng bố, đàn áp, chống dụ dỗ lôi kéo bắt lính trong tù, tổ chức vượt ngục... Chỉ hơn một năm ở trại giam đã có 99 người chết, gần 200 người vượt ngục. Một số anh em thoát ra, được tham gia chiến đấu và công tác ở đảo, góp phần làm nên những chiến thắng của quân dân Phú Quốc. Một số về chiến đấu và công tác ở đất liền. Tháng 7/1954, sau khi Hiệp định Genève được ký kết, Pháp đã trao trả cho phía cách mạng hầu hết tù binh ở trại này.
    Cuối năm 1955, trong lúc giao thời “thay thầy đổi chủ”, ngụy quyền Sài Gòn tranh thủ lập một trại giam cũng ở địa điểm “Căng Cây Dừa” cũ, trên một diện tích rộng 4 ha, gồm có nhà giam tù nam, nhà giam tù nữ, nhà giam phụ lão, được chúng đặt tên là “Trại huấn chính Cây Dừa”, có lúc gọi là “Nhà lao Cây Dừa”. Đầu tháng 1/1956, ngụy quyền Sài Gòn đưa 598 người tù, quê quán từ 33 tỉnh ở trại “Trung tâm huấn chính Biên Hòa” đến đề lao Gia Định, rồi đưa xuống chiếc tàu vận tải của hải quân, mang tên Hắc Giang, rời bến Sài Gòn ngày 2/1/1956.
    Cũng chính nơi đây, những tù binh chiến tranh tại Trại giam tù binh Phú Quốc đã phải chịu những hình phạt, tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống...Trong thời gian tồn tại không đầy 6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973) trại giam tù binh Phú Quốc, có hơn 4.000 người chết, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế.
    Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc có tất cả là 12 khu (năm 1972) được đánh số từ khu 1 đến khu 12. Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm vào cuối năm 1972. Mỗi khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3000 tù nhân. Năm 1972, có khoảng 12x 3000 = 36 000 tù nhân. Mỗi khu trại giam lại được chia làm nhiều phân khu. Thường thì có 4 phân khu, trong 1 khu. Một phân khu chứa được 950 tù binh. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan. Tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ. Ngoài ra, Phú Quốc cũng có một trại giam tù hình sự, giam giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở lên, ở thị trấn Dương Đông, mặt tây của đảo.
    Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, tại huyện đảo Phú Quốc, Căng Cây Dừa (1953-1954), Trại Huấn chính Cây Dừa (1955-1957), Trại giam tù binh Cộng sản Việt Nam-Phú Quốc (1967-1973) là nơi địch giam cầm, đọa đày các chiến sĩ cách mạng với quy mô, số lượng lớn nhất ở Việt Nam.
    Giai đoạn 1967-1973, nhà tù này đã giam giữ gần 40 nghìn lượt tù binh là những chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang và cán bộ cách mạng Dân-Chính-Đảng. Phần lớn những chiến sĩ cách mạng bị tù đày ở đây đã vượt qua cái chết, vượt qua mọi sự đọa đày, dã man của kẻ thù cho đến ngày chiến thắng trở về, mặc dù mang trên mình nhiều thương tật. Có hơn 4.000 người đã bị kẻ địch sát hại, anh dũng ngã xuống với khí phách hiên ngang, ý chí cách mạng kiên cường, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc.
    Chính trong hoàn cảnh ấy, những tù binh cộng sản giữa kẻ thù hung dữ, lúc nào cũng thẳng tay hành hạ, đàn áp tù binh, thậm chí đến chết đã thể hiện được ý chí, bản lĩnh cách mạng kiên cường. Với tuổi đời của chỉ mới mười tám, đôi mươi, rất ít đồng chí hơn ba mươi tuổi nhưng với sự lãnh đạo khéo léo tài tình của đảng ủy từng phân khu giam, đã đoàn kết thành một khối vững chắc, kiên cường chiến đấu trong thế trận mới. Một thế trận mà kẻ địch thì nham hiểm, độc ác, tàn bạo và sẵn sàng xả đạn vào anh em ta. Còn những tù binh cộng sản chỉ có tay không với lòng quả cảm và lý tưởng cách mạng cao cả, sẵn sàng nhận mọi sự hy sinh mà không tính toán thiệt hơn.
    Các Chi bộ do tù binh tự thành lập theo kiểu du kích. Thường anh em dựa vào sự đã quen biết nhau từ trước, ở cùng quê hoặc cùng đơn vị để xác lập lòng tin, biết nhau là đảng viên rồi mới rỉ tai nhau lập một tổ, đủ 3 đảng viên thì nâng thành Chi bộ hoạt động phải rất bí mật và khôn khéo. Trong một nhà giam có thể có nhiều Chi bộ nhưng Chi bộ nào chỉ có thể biết đảng viên trong Chi bộ đó. Lúc đảng viên họp thực ra là ngồi tụm nhau ở một góc nhà giả đánh cờ hay đi ra ngoài hàng rào giả vờ đi tiểu để hội ý chớp nhoáng. Chỉ có Bí thư Chi bộ mới biết ai là Bí thư Đảng ủy. Người Bí thư Đảng ủy thường không để lộ diện trong các cuộc đấu tranh hay sự kiện nào. Khi kẻ thù phát hiện ra một chút manh mối nào là diệt ngay người đứng đầu, lôi đi tra tấn, truy tìm tổ chức của ta.
    Đại bộ phận tù binh bị đẩy vào Nhà lao Phú Quốc vẫn giữ trọn lời thề danh dự thứ ba “Nếu bị địch bắt, dù trong trường hợp nào cũng giữ vững khí tiết là chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam … quyết không cung khai phản bội”. Những cuộc đấu tranh và bị đàn áp đẫm máu ở nhà tù xảy ra thường xuyên. Chẳng hạn vào năm 1965, lần ấy chúng bắt anh em tập hợp chào cờ Ngụy và hô đả đảo cộng sản. Anh em không chịu hô thế là chúng dùng dùi cui, báng súng đánh tới tấp, anh em đánh trả lại, chúng xả súng giết chết 78 người. Đầu tháng 9/1969 ở khu A4 biết được tin Bác Hồ mất, sáng hôm sau ngay trước cửa trại xuất hiện một băng vải đen rộng 10cm dài 200 cm viết chữ trắng “Đời đời nhớ ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”. Bọn giám thị bị bất ngờ nhưng chúng cũng chỉ dám lẳng lặng gỡ xuống rồi lặng lẽ đem đi chứ không gầm gào như mọi khi. Ít ngày sau bên khu sĩ quan ném đá sang báo tin, anh em bên ấy đã chích máu vẽ Bác Hồ ngay trên tường thiếc. Sau đó bọn giám thị bắt tù cạo rửa, tưới nước thế nào cũng không sạch, làm cách nào thì đôi mắt và hàm râu Bác vẫn hiện ra.
    Nhiều anh em lúc mới bước chân vào nhà tù đã nung nấu ý định trốn tù. Có những vụ từ trong tự thoát ra. Có những vụ được lực lượng vũ trang bên ngoài hỗ trợ. Các vụ vượt ngục ở Nhà tù Phú Quốc có ba dạng trốn là: Vượt rào, đánh lính khi áp giải để chạy trốn, đào hầm thoát ra ngoài. Dụng cụ đào hầm tự chế bằng nắp cà mèn, cán muỗng. Cách đào phân công ba người một ca không mặc quần áo và đào vào ban đêm. Việc đào hầm không khó, khó nhất là làm sao giữ được bí mật. Vì vậy các đồng chí lên đầy đủ kế hoạch như lượng đất phải ép vào hai bên thành của hầm hoặc lợi dụng trời mưa đem đi đổ để xóa dấu vết, quan sát nếu có chỉ điểm thì trừ khử ngay. Theo tổng kết có 42 vụ vượt ngục, trong đó có 16 vụ vượt rào, 15 lần đi riêng lẻ, 7 cuộc đánh quân cảnh, 4 lần đào hầm. Hơn 400 người ra đi nhưng chỉ có 239 người về được căn cứ kháng chiến .
    Năm 1973, sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Nhà tù Phú Quốc bị giải tán. Tù binh được trao trả. Những câu chuyện khủng khiếp về một “địa ngục trần gian” giữa biển khơi vẫn còn trong ký ức không thể nào quên và những gì diễn ra với số phận của hơn 40.000 tù binh nơi đây là không thể kể xiết. Một khúc bi tráng về tù binh Nhà tù Phú Quốc ghi vào lịch sử. Chính vì vậy việc bảo tồn và phát huy giá trị di tích này là việc làm rất cần thiết và quan trọng.
    Thực hiện Hiệp định Paris, từ ngày 15-3-1973, chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ buộc phải thực hiện việc trao trả tù binh của Nhà tù Phú Quốc và cũng là ngày đánh dấu “Địa ngục trần gian” tại hòn đảo xinh đẹp này vĩnh viễn bị xóa bỏ.
    ****
    **
    Một thời chiến tranh khốc liệt, nhưng trong con tim của mỗi chúng ta lại có lý tưởng cao đẹp và trong sáng. Trong cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, có người đã hy sinh, có người bị thương và có người bị địch bắt. Khi cầm súng những tù binh Cộng sản đã mưu trí, dũng cảm, chiến đấu ngoan cường, lập được nhiều chiến công hiển hách. Lúc bị địch bắt, các đồng chí ta vẫn một dạ một lòng kiên trung, bất khuất, giữ vững khí tiết cách mạng”.
    giamadaiechditxanh thích bài này.
  10. halosun

    halosun Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    31/07/2006
    Bài viết:
    18.942
    Đã được thích:
    17.451
    cụ lamali chửi tàu thì mới có nhiều người hưởng ứng, chửi mỹ thì sẽ bị .. phản ứng [​IMG]
    Lần cập nhật cuối: 17/01/2014
    home124 thích bài này.

Chia sẻ trang này