1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tôn giáo và dân tộc (không bàn chuyện thời sự - xem thông báo của Mod trang 47)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 01/09/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Sao bài của mấy bạn bên trên lại bị ẩn đi vậy?
    Tiếp tục đề tài vua Minh Mạng đối với giáo sĩ, giáo dân đạo Thiên Chúa, trong phần dưới đây, tôi sử dụng những tài liệu của PGS. Nguyễn Văn Kiệm (1931- 2004), nhà sử học, nhà nghiên cứu lịch sử Công giáo ở Đại học Sư phạm Hà Nội, dịch từ Annales de la propagation de la Foi - Paris. 1931. Xin trình bày một số nét chính để dẫn đến thời kỳ được gọi là "Bách hại Công giáo" dưới triều vua Minh Mạng.
    Mối quan hệ giữa Triều đình Nhà Nguyễn với Giáo hội Thiên Chúa giáo trong thế kỉ XIX đã diễn ra khá quanh co, phức tạp và đi đến một kết thúc ngoài mong muốn của triều đình.
    A. de Rhode là giáo sĩ thừa sai thuộc dòng Jésuites do Bồ Đào Nha tài trợ, nhưng mang quốc tịch Pháp. Vào những năm 20 thế kỉ XVII, việc truyền bá đạo Thiên Chúa ở phương Đông trong đó có Việt Nam do dòng Jésuites đang tiến triển tốt, thì cũng vào thời điểm này Bồ Đào Nha rơi vào tình trạng suy yếu tới mức không còn đủ khả năng đáp ứng cho công cuộc truyền giáo đó. Năm 1645, các vị bề trên của A. de Rhodes đã cử ông về Roma kiến nghị với Giáo hoàng tìm một quốc gia nào khác có khả năng tài trợ cho công cuộc truyền bá đạo Thiên Chúa ở phương Đông. Đến năm 1858, với áp lực và nhiệt tình của Giáo hội Pháp, Giáo hoàng Alexandre VII đồng ý cử các Thế diện Tông toà Pháp là Pallu, Lambert và Cotolendi sang Viễn Đông đảm nhiệm công cuộc truyền giáo. Và chỉ mấy năm sau (1663), một tổ chức truyền giáo lấy tên là Hội truyền giáo nước ngoài Paris (Société des missions étrangères de Paris), người Thiên Chúa giáo Việt Nam gọi là Hội Thừa sai Paris, được thành lập ở Pháp nhằm đào tạo các giáo sĩ thừa sai Pháp đi truyền giáo ở Viễn Đông. Căn cứ vào bản trần tình của các vị bề trên của Hội với Nhà nước Pháp năm 1790, thì Hội vừa có nhiệm vụ truyền giáo vừa có nhiệm vụ phát huy thế lực của Nhà nước Pháp ra vùng đất ngoại. 
    Một sử gia người Pháp, Bonifacy, đã đánh giá về A. de Rhodes như sau: "Vai trò của ông trong việc thành lập Hội Thừa sai Paris, hoạt động của ông để đưa giáo hội ở Đàng Ngoài và Đàng Trong ra khỏi vòng kiểm soát của người Bồ,... nói chung đã đem lại cho nước Pháp vai trò quan trọng nhất ở bán đảo Đông Dương".
    Như vậy là Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam chủ yếu là do Hội Thừa sai Paris điều hành. Ngay từ khi mới hình thành nó đã phải đảm nhiệm một nhiệm vụ chính trị quan trọng là phát huy ảnh hưởng của nước  Pháp ở những nơi họ đến truyền giáo bằng mọi phương thức có thể.
    Mặc dù được giao trách nhiệm cai quản việc đạo ở Đàng Ngoài song vì lí do khách quan, Pallu chưa hề đặt chân tới đây. Tuy nhiên từ nhiều nguồn thông tin, Pallu đánh giá rất cao tiềm năng thương mại của Việt Nam cũng như của Trung Quốc. Năm 1681, khi từ Châu âu trở lại Viễn Đông, Pallu cử thừa sai Lefèbre và Geffrard đem tặng vật cùng thư của vua Pháp Louis XIV đến vua Đàng Ngoài yêu cầu cho phép công ti Đông ấn được lập một thương điếm ở đây và cho phép hai thừa sai Bourges và Deydier được tự do truyền đạo.
    Lambert được giao trách nhiệm cai quản việc đạo ở Đàng Trong, song được sự uỷ nhiệm của Pallu, năm 1669 đã cùng với Bourges theo một chiếc thuyền buôn Pháp ra Đàng Ngoài. Tuy bị kiểm soát gắt gao, Lambert và Bourges vẫn lên được bờ lén lút đi làm việc đạo; đồng thời nhờ sự giúp đỡ của một hoạn quan có đạo tên Tuyên, Lambert đưa được tặng vật cho chúa và được chúa cho phép thương nhân Pháp mở một nhà hàng ở Phố Hiến.
    Cùng với Pallu và Lambert, hai giáo sĩ thừa sai Pháp là Bourges và Deydier cũng tích cực hoạt động làm môi giới cho thương nhân Pháp thâm nhập Đàng Ngoài. Trong buổi yết kiến Chúa Trịnh cùng với thương nhân Bồ Đào Nha và Hà Lan, hai giáo sĩ này đã lợi dụng khả năng nói thạo tiếng Việt của mình, tranh thủ cảm tình của Chúa, khiến Chúa Trịnh cho phép lái buôn Pháp đi lại tự do.
    Sau Bourges và Deydier, công ty Đông ấn và các nhà chức trách ở vùng đất do Pháp chiếm ở ấn Độ còn đặc phái nhiều giáo sĩ thừa sai khác sang Việt Nam công cán để thăm dò khả năng buôn bán với Việt Nam. Những người này, sau khi đi khảo sát, đều khẳng định Việt Nam là một thị trường rất tốt và cung cấp nhiều thông tin giá trị. Từ đó, Việt Nam đã được đặt trong vòng ngắm của các thương nhân Pháp và là mục tiêu hàng đầu của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Viễn Đông.
  2. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Bước sang đầu thế kỉ XIX, chính quyền của giai cấp tư sản Pháp được củng cố vững mạnh, tiếp tục triển khai mở rộng thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Đây là lúc có sự phối hợp khá chặt chẽ giữa các giáo sĩ thừa sai đang hoạt động ở Việt Nam với hạm đội của Pháp ở Đông Hải. Mỗi khi chính sách cấm đạo của nhà nước phong kiến Nguyễn gây khó khăn cho việc truyền đạo, các giáo sĩ Pháp lại thông báo cho chỉ huy hải quân Pháp và ngay sau đó tàu chiến xuất hiện ở cửa biển Đà Nẵng đưa yêu sách đòi thả các giáo sĩ đang bị giam giữ và đòi cho được tự do truyền bá đạo Thiên Chúa, cùng lúc là những hành động gây rối, khiêu khích.
    Đó là trường hợp Favin Livêque đem tàu Héroine đến Đà Nẵng vào tháng 2 năm 1843, đòi triều đình Huế thả 5 giáo sĩ Pháp đang bị giam giữ, tin tức do giáo sĩ Chamaison thông báo. Rồi năm 1844, Fornier Duplan được cử đến Đà Nẵng cùng với tàu chiến Alemene xin tha giáo sĩ Lefèbre bị bắt giam. Năm 1847, đô đốc Cécille, tưởng rằng Lefèbre chưa được thả lại cử Lapierre cùng với R. de Genouilly đem hai chiến hạm Gloire và Victorieuse đến Đà Nẵng đòi thả Lefèbre; khi không được đáp ứng như mong muốn, Lapierre cho bắn phá 5 chiếc thuyền đồng của triều đình, làm chết và bị thương nhiều binh lính. Tháng 9 -1856, Le Lieur theo lệnh của Montigny đem thư đến Đà Nẵng yêu cầu được thông thương và truyền đạo tự do. Thư không được trả lời, Le Lieur cho bắn phá các đồn binh ở Đà Nẵng, cho quân đổ bộ phá huỷ một số vũ khí của quân triều đình rồi bỏ đi.
    Thấy sự đe doạ bằng tàu chiến ở cửa biển không thành công, hai giáo sĩ Pháp, Huc và Pellerin về Pháp đề nghị Chính phủ Pháp tiến hành cuộc xâm lược vũ trang. Một uỷ ban được thành lập theo lệnh của Napoléon III, sau khi thảo luận, đã can thiệp vũ trang vào Việt Nam. Ngày 1 - 9 -1858, tiếng súng đại bác mở màn cho cuộc xâm lược Việt Nam của Pháp đã nổ; và những người thúc đẩy cuộc xâm lược này là các giáo sĩ thuộc Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam.
    Từ sau khi nổ súng xâm lược cho đến suốt quá trình chiếm đóng và bình định nước ta, Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam vẫn tiếp tục dành cho quân đội Pháp một sự hỗ trợ nhiệt tình và hiệu quả.
    Sau khi nổ súng bắn phá cửa biển Đà Nẵng, R. de Genouilly nhận được thư của Retord, Giám mục Địa phận Tây Bắc Kỳ, gợi ý nên suy tôn một ông vua theo đạo đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp thì lợi ích của người Pháp ở Việt Nam sẽ được bảo đảm lâu dài. Được phép của Giáo hội Bắc Kỳ, nhiều giáo dân đã kéo vào Đà Nẵng, được Genouilly lập thành hai đội quân người bản xứ ở bán đảo Sơn Trà, phối hợp chiến đấu với quân đội Pháp. Khi Genouilly đem quân đánh Gia Định, y đã được Giám mục Lefèbre cung cấp tin tức và hướng dẫn cuộc tấn công thành. Tiếp đó, Lefèbre huy động giáo dân tiếp tế, chuyển vận cho quân Pháp, động viên giáo dân đi lính cho Pháp và cùng các giáo sĩ Pháp mở lớp đào tạo thông dịch viên đầu tiên phục vụ cho chính quyền thực dân mới được thành lập.
    Khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất, Giám mục Puginier đã giúp tuyển mộ cho Francis Garnier một lực lượng lính nguỵ và tay sai, chủ yếu là giáo dân, khoảng 2.000 người. Puginier cũng sử dụng một số giáo dân tin cẩn làm tai mắt để do thám quân triều đình. Cũng theo lệnh của Puginier, nhà thờ Hà Nội và Kẻ Sở đã tự vũ trang và trở thành những ổ đề kháng chống lại quân đội triều đình Nguyễn. Sau khi Garnier bị phục kích và chết ở Cầu Giấy, Puginier đã giúp Bain de Coquerie, chỉ huy phó của quân Pháp, ổn định tình hình. Sau khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai, Puginier đã dành nhiều thời gian biên soạn tài liệu, cung cấp những thông tin quan trọng, tham mưu cho các quan chức và tướng lĩnh Pháp xung quanh vấn đề bình định Bắc Kỳ cũng như nhiều vấn đề quan trọng khác có liên quan tới phương hướng hành động của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ nói riêng và Việt Nam nói chung.
    Công lao của Puginier, cũng có nghĩa là của Giáo hội Thiên Chúa giáo, được thực dân Pháp đánh giá rất cao. Trong bức điện chia buồn của Khâm sứ Briere khi Puginier mất (25-4-1892) có đoạn viết: "Sự quá cố của Đức Cha Puginier không chỉ là một tổn thất lớn lao cho Giáo hội mà còn là một tổn thất cho nước Pháp và cho xứ Bắc Kỳ mà Đức Giám mục đáng kính đã khôn khéo góp phần làm cho nó trở thành một thuộc địa của Pháp" (Brebion. Dictionnaire bio - bibliographique de l'' Indochine, 1935, trang 315)
    Những sự việc trên đặt triều đình nhà Nguyễn vào thế khó khăn, đẫn đến việc triều đình xiết chặt thêm việc cấm đạo (TCG). Nhà Nguyễn thấy rõ nguy cơ Giáo hội Thiên Chúa giáo tiếp tay cho âm mưu xâm lược nước ta của thực dân Pháp. Vua Gia Long, người chịu ơn sâu của P.de Béhaine, tuy không ban hành chính sách cấm đạo, song cũng không ưa đạo này và sau khi lên ngôi đã tỏ rõ sự lãnh đạm và cảnh giác đối với các giáo sĩ trong Giáo hội Thiên Chúa giáo.
    Căn cứ vào những lời lẽ trong các sắc chỉ cấm đạo của triều đình Nguyễn thì các giáo sĩ Tây Dương xâm nhập Việt Nam đã truyền bá vào Việt Nam một thứ tôn giáo xa lạ, gây nguy hại cho sự ổn định đời sống văn hoá và chính trị của dân chúng, đe doạ nghiêm trọng tính thống nhất về văn hoá và chính trị của quốc gia, cũng có nghĩa là đe doạ sự tồn vong của quốc gia.
    Trong chỉ dụ cấm đạo do vua Minh Mạng ban hành năm 1825 có đoạn: "Đã từ lâu, nhiều tàu Tây Dương đến đây để buôn bán và để lại các đạo trưởng trong vương quốc này. Các đạo trưởng đã lôi kéo và làm hư hỏng nhân tâm, làm suy thoái thuần phong mĩ tục. Đó chẳng phải là tai hoạ lớn cho đất nước?". 
    Trong thực tế, đạo Thiên Chúa khi du nhập nước ta đã coi mọi tôn giáo, tín ngưỡng đang hiện diện ở Việt Nam, kể cả Khổng giáo và tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đều là thấp kém, vô nghĩa; mọi tập tục cổ truyền mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc ở đây đều là những thứ mê tín, dị đoan phải tẩy bỏ. Như vậy, việc Giáo hội một mặt chống lại Khổng giáo, vốn đang được coi như là quốc giáo, mặt khác muốn đồng hoá văn hóa của người Việt với văn hoá của nước ngoài là không thể chấp nhận.
    Đó là những lí do cơ bản và chính đáng khiến các vua triều Nguyễn, sau Gia Long, đều tiến hành những chính sách cụ thể nhằm ngăn chặn nguy cơ Giáo hội Thiên Chúa giáo giúp thực dân Pháp xâm hại nền độc lập của nước ta và đồng hoá dân tộc ta về mặt văn hoá.
    Đối với các giáo sĩ ngoại quốc, chính sách của Nhà nước phong kiến Nguyễn khá rõ ràng. Từ thời Minh Mạng đã có chỉ thị canh phòng cẩn mật các hải cảng, các vùng biên giới, ngăn không cho các giáo sĩ nước ngoài thâm nhập. Chỉ thị của Minh Mạng năm 1825 viết: "Phải canh phòng cẩn mật hải cảng, miền núi, tất cả các ngả đường thuỷ bộ để ngăn không cho các đạo trưởng Tây Dương lén lút, trà trộn vào trong dân chúng để reo rắc các bóng đen trên vương quốc". Chỉ thị này được thực thi lâu dài, chí ít là cho đến Điều ước năm 1862. Những giáo sĩ nào đã có mặt ở Việt Nam, không được tự do đi lại truyền đạo nếu không được sự cho phép của các nhà chức trách; những thừa sai vi phạm điều cấm  này sẽ bị xử phạt theo khung hình phạt cụ thể mà mức cao nhất là tử hình. 
    Tuy nhiên, với những giáo sĩ hiện đã có mặt ở Việt Nam mà chưa có điều kiện ra đi và không cố ý trái lệnh triều đình thì vẫn được đối xử mềm dẻo. Dưới thời Minh Mạng, nhiều thừa sai đã được gọi về kinh đô Huế để dịch sách (một hình thức quản lí tại chỗ), cô lập họ với giáo dân, được đối xử tốt, thậm chí còn được phép về nhiệm sở với điều kiện là phải ở yên tại chỗ và phải chịu sự kiểm soát của các quan chức địa phương, không được tự do đi lại giảng đạo (đã viết trong bài trước). Những giáo sĩ bị giết dưới thời Minh Mạng như Gagelin (1833), Marchand (1835), Cornay (1837), Jaccard, Borie (1838), Delamotte (1840),... đều đã bằng cách này hay cách khác cố tình vi phạm lệnh đã ban hành.
     Không những thế, Nhà nước phong kiến nhận thấy rất rõ là Giáo hội Thiên Chúa giáo luôn nuôi dưỡng ý đồ Thiên Chúa giáo hoá Việt Nam thông qua việc lập một ông vua có đạo hoặc có thiện cảm với đạo Thiên Chúa và cho phép tự do truyền bá đạo này, một hình thức xâm lược nước ta ít tốn kém nhất.
     Các đời vua kế sau như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cũng đều cảnh giác với nguy cơ này, và từ sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, trong con mắt của triều đình Huế, Giáo hội Thiên Chúa giáo đã trở thành một cánh tay đắc lực của thực dân Pháp.
    Đối với cộng đồng giáo dân, bộ phận cấu thành Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam Chính sách của Nhà Nguyễn, so với chính sách đối với các giáo sĩ, có phần uyển chuyển hơn.
    Cho đến trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, Nhà nước phong kiến Nguyễn còn coi giáo dân là những thần dân nhẹ dạ tin theo một tôn giáo xa lạ, có thể giáo huấn họ từ bỏ tôn giáo đó để trở về với những tôn giáo và tín ngưỡng truyền thống. Xuất phát từ quan điểm đó, Minh Mạng đã chủ trương một chính sách "trước hãy giáo huấn và chỉ cưỡng chế khi cần thiết. Sách Đại Nam thực lục,  tập 11. Trong sắc dụ năm 1832 của Minh Mạng có đoạn: "Đạo Gia Tô nguyên từ người nước Tây Dương đem vào truyền bá đã lâu, dân ngu phần nhiều bị mê hoặc mà không biết hối. Thiết nghĩ cái thuyết Thiên Đường chỉ là chuyện hoang đường, không có bằng chứng. Hơn nữa không kính thần minh, chẳng thờ tiên tổ, rất trái với chính đạo... Đạo ấy quy là tà đạo hơn đạo nào hết; trong luật đã có điều cấm rõ ràng rồi. Nhân nghĩ: các hạt còn có những kẻ cố chấp mê man... Song, tính giữ đạo thường thường mọi người đều có, nếu biết tỉnh ngộ đều có thể trở thành lương thiện. Phải nên một phen khuyên bảo khiến họ biết đường đổi mới để tỏ cái ý trước hãy giáo dục, sau mới dùng đến hình phạt?".
    Để hỗ trợ thêm cho việc lôi kéo và giáo dục dân theo đạo trở về với tín ngưỡng và đạo lí truyền thống, năm 1834, Minh Mạng biên soạn một tài liệu có tên Thập điều giáo huấn, khuyến dụ dân chúng làm những điều tốt lành nhằm nâng cao phẩm chất, đạo đức. ở Điều 7, có tên Sùng chính học, Minh Mạng khuyên dân nên học theo đạo Khổng, phê phán đạo Gia Tô, khuyên ai đã theo nên mau chóng bỏ đi.
  3. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1

    Tuy nhiên, dưới thời Minh Mạng, cũng có lệnh cho các quan địa phương khuyến cáo bỏ đạo, ai thành thực bước qua cây thánh giá thì miễn tội, nhà thờ, nhà giảng cho huỷ diệt đi, ai cố tình không tuân thủ bị trị tội nặng. Đây là một cách tạo cơ hội cho những người dân bỏ đạo, đồng thời cũng là cách ép người dân bỏ đạo.
    Trở lại với tình hình cấm đạo của vua Minh Mạng, qua các thư đã nói ở đầu bài.
     
    Thư của Thừa sai Taberd, Thế diện Tông toà, gửi ngài Challeton, ************* giáo khu Lyon và ngài Durand, cha sở ở ST-Frénée ở Lyon:


    ?oHuế, vương quốc Đàng Trong, ngày 28 tháng 2 năm 1828?.
    ?oNăm ngoái, tôi đã viết về Pháp một bức thư, trong đó thông báo những tính toán khác nhau của nhà vua Đàng Trong nhằm bách hại tôn giáo, nay tôi xin kể tiếp. Các kế hoạch cấm đạo khác nhau do các quan trình bày, đã không được nhà vua đồng ý, nhưng nhà vua muốn thực hiện nó một cách khéo léo để đạt tới mục đích,?

    Trong tháng 11 - 1826, tôi đau bệnh lị vẫn chưa khỏi. Vào cuối tháng 12, nhà vua gửi đến một viên thị đồng, một thông dịch viên và 6 người lính cùng với một cái cáng để dẫn tôi về triều đình với lí do là để dịch một vài bức thư và còn nói thêm là tôi nên đem theo kinh sách và dẫn theo một số học trò mà tôi muốn. Các linh mục bản xứ, học trò và giáo dân ở đây rất hào hứng về việc nhà vua đã dành cho tôi một nghi thức đón tiếp long trọng như thế. Mặc dù bệnh của tôi nặng thêm, tôi buộc lòng chấp nhận phải ra đi. Tôi sợ rằng sự từ chối của tôi sẽ làm bùng nổ cuộc bách hại đạo mà tôi cũng không muốn bị mang tai tiếng. Vậy là tôi thuê một chiếc thuyền và ra Huế. Chưa rõ tình hình sẽ diễn biến thế nào, tôi nại cớ bệnh tật để xin nhà vua cho được ở trong một ngôi nhà riêng, hơi xa cung điện và được nhà vua cho phép. Cho đến lúc đó mọi việc đều ổn. Nhưng hai hay ba ngày sau khi tôi đến, nhà vua ra sắc chỉ lệnh cho tất cả những thừa sai người Âu đang có mặt trong vương quốc phải tập trung về kinh đô, bởi các ông Vannier và Chaigneau đã không còn ở đó, mà các thông dịch viên lại không dịch nổi các bức thư do nhà vua viết. Các quan phủ, huyện có trách nhiệm giao cho mỗi thừa sai chấp hành lệnh 3 nén bạc (246 Fr.) tiền thưởng. Các vị thừa sai ở phía Bắc không ai chấp hành lệnh. Họ đã làm đúng??.
     ?oVào những lúc tôi có một mình, nhà vua không cho ai đến canh gác chặt chẽ. Vua chỉ thỉnh thoảng gửi đến tôi một vài đồ vật nhờ tôi giải thích hoặc một số giấy tờ cần phải dịch. Mặc dù đang ốm tôi vẫn phải làm việc và nhiều  khi rất khó chịu với những tên thị đồng thiếu lễ phép.
     Vào tháng 6, hai người trong số đồng nghiệp của tôi ở miền Trong là Gagelin, thừa sai người Pháp, và cha Odorico, linh mục dòng Phan Sinh (Franciscain) Italia cũng đến. Các ông này do quan khâm sai gửi về. Ông nói rằng theo lệnh vua, các ông phải đến Huế vì nhà vua đang cần sự có mặt của những người Châu Âu. Quan khâm sai là người có lòng tốt, không biết rõ những ý đồ thầm kín của nhà vua. Nhưng khi biết rõ ý đồ không chính đáng của vua đối với chúng tôi, ông đã khóc. Sau đây là vài chi tiết về vị quan này: Ông rất xứng đáng được người Pháp coi trọng vì hầu như ông là người duy nhất yêu mến họ và nhắc  tới những  sự đóng góp to lớn của ngài Pigneaux và đất nước chúng ta. Ông được gọi là Thượng công và là người duy nhất nhà vua phải e sợ. Ông từng kịch liệt chống lại sự kế vị của ông vua hiện tại bởi ông vua này không phải là con của Chính thất, nhưng vua cha vẫn không đổi ý? Nhận thấy những ý đồ không thân thiện của nhà vua với tôn giáo của chúng ta, chúng tôi đã viết thư cho ông,?, ông đã thốt lên: ?oTôi hoàn toàn không biết gì về vụ việc này. Các thày linh mục Pháp mắc những tội gì để phải bị xua đuổi. Nhà vua đã không nhớ lại những công lao của các thừa sai, đã cho gạo khi chúng ta đói, cho quần áo khi chúng ta rách rưới - nhà vua đã trả ơn họ như thế sao??? Ông còn nói thêm: ?oTôi sẽ đi Huế và sẽ nói với nhà vua?. Và ông đã từ Đồng Nai về Huế vì nhiều công việc vào khoảng tháng 12 năm 1827. Vào lúc tôi đang viết bức thư này, ông vẫn còn ở đây. Ông đã tạo ra một cái cớ nào đó và có ý tốt mời tôi đến gặp. Tôi đã đến gặp ông hai lần và ông đã tiếp tôi niềm nở. Thấy ông tỏ cảm tình tốt với tôi, tôi đã tranh thủ kể hết tình cảnh của chúng tôi và các đồng nghiệp ở phía Bắc. Ông nói: ?oTôi đã biết chuyện này từ khi  còn ở Đồng Nai, và tôi đến đây cũng vì chuyện đó, nhưng trước hết tôi phải thăm dò thái độ của nhà vua?. Sau đó, do muốn giúp đỡ chúng tôi và đạt được mong muốn ấy, ông đã tập hợp các bức thư trao đổi giữa nhà vua đã qua đời với ngài Pigneaux, trong đó khẳng định những công lao mà ông này đã đóng góp cho vương quốc. Ông cho chép lại, đóng con dấu của mình và mang về đây để trình lên đức vua. Ông quan này thật lòng muốn giúp đỡ chúng ta. Liệu ông có thành công? chỉ có Chúa mới biết?.
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Trích từ bài của fddinh viết lúc 14:04 ngày 06/03/2009:

    Tại đây, http://ttvnol.com/f_533/1093605/trang-4.ttvn#13666698 những tài liệu mà Công giáo gọi là "Bình Tây Sát Tả" hay "Bách hại Công giáo" mà tôi đăng tải hay dẫn link đều thường lên án gay gắt do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, và đặc biệt nhấn mạnh sự độc ác của vua Minh Mạng đối với giáo sĩ, giáo dân đạo Thiên Chúa và gán cho ông những cái tên thật xấu xa: "tên bạo chúa", "kẻ khát máu", "tay sai của quỷ Satan", "Néron của Việt Nam", v.v?
    Để minh họa cho tình hình đã nêu ở trên, bài sau tôi sẽ trích đăng một số bản dịch  những đoạn lấy trong thư của những người trong cuộc gửi về cho các nhân vật quan trọng trong Giáo hội ở Pháp và một số tài liệu do Hội truyền bá Đức tin phát hành miêu tả diễn biến vụ tập trung các thừa sai về Huế của vua Minh Mạng, vụ việc mà cuối cùng đã biến thành cái gọi là thời kỳ "Bách hại Công giáo".

    Thư của Gagelin, thừa sai Đàng Trong, gửi ngài Langlois, cha nhất chủng viện Hội Thừa sai Paris.

    ?oHuế, tháng 2 - 1828?.
    ?oChắc hẳn ngài đã biết sự việc gì đã diễn ra ở xứ này vào năm ngoái. Vào cuối năm 1826, nhà vua đã cho công bố trong toàn quốc một sắc chỉ ra lệnh cho tất cả những thừa sai đang có mặt ở đây phải tập trung về kinh thành, nếu trái lệnh sẽ bị bắt và bị trừng phạt. Ở phía Bắc không có ai chấp hành. Các vị linh mục dòng Đa Minh vẫn đang đi ẩn náu?.
    ?oỞ phía Nam, chúng tôi bắt buộc phải xuất hiện. Trước hết, nhà vua cử người đến đón ngài Taberd ở nhà trường. Ngài Jaccard đã bị tố giác với các quan. Nhưng hình như người ta không báo với nhà vua cho nên ông này vẫn được trở lại trường. Còn về phần ngài Régérau và tôi thì cả hai đều kém sức khoẻ và vì chúng tôi không thể ẩn náu trong  rừng rậm và bãi lầy, chúng tôi đành phải trình diện với ngài Tả quân. Chúng tôi chấp nhận làm vậy cũng bởi các giáo dân của chúng tôi ra sức khuyến khích, lại cũng còn vì ngài Taberd cũng không viết thư nói rõ là chúng tôi nên xử sự như thế nào. Ngài Tả quân đã để ông Régérau ở lại trường, và chỉ gửi tôi đi cùng với ông Odorico, dòng Phan Sinh. Chúng tôi nghĩ đành phải chấp nhận hoàn cảnh dù chẳng muốn ở Huế làm thông dịch viên. Vị Tả quân có cảm tình đặc biệt với chúng tôi nói rằng khi nào muốn trở về Đồng Nai, chỉ cần biên thư cho ông. Khi ban hành sắc chỉ, nhà vua cũng thực lòng muốn tìm một vài vị thừa sai tài giỏi trong lĩnh vực chính trị và thiên văn như ngài Adrau, và quả thật ông cũng có nhiều thứ cần được phiên dịch. Nhưng dường như lí do chính để gọi chúng tôi về Huế là để ngăn không cho chúng tôi truyền bá đạo Thiên Chúa, bởi ông nghi ngờ các thừa sai và những người đi theo đạo là đứng về phía gia đình đáng được quyền thừa kế ngôi vua. Có một đôi lần khi chúng tôi mới đến, nhà vua hỏi chúng tôi có bằng lòng ở lại đây không, chúng tôi nói rằng muốn được đi từ tỉnh này sang tỉnh khác để giảng đạo như trước đây. Nếu chúng tôi tỏ vẻ bằng lòng thì rất có thể nhà vua cho chúng tôi được hưởng một sự tự do nào đó. Nhưng vào tháng 9, khi hầu như biết chắc chúng tôi vẫn còn đến các họ đạo lân cận, ông đã cho 3 toán lính thay nhau đến gác để ngăn chúng tôi đi truyền bá đạo Thiên Chúa mà ông cho là tà đạo? Ông Taberd, bị bệnh từ 15 tháng nay, vẫn còn được phép ở lại một họ đạo gần kinh thành trong một thời gian nữa. Hai lần nhà vua gửi thày thuốc tới thăm ông và cho thuốc. Nhà vua cũng phát cho chúng tôi mỗi người 20 quan tiền và 5 hộc gạo mỗi tháng, tương đương như lương của quan nhị phẩm của triều đình. Ông cũng phong cho chúng tôi một chức quan, nhưng chúng tôi nhất thiết từ chối??.
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
     Trích từ bài của fddinh viết lúc 14:04 ngày 06/03/2009:

    Tại đây, http://ttvnol.com/f_533/1093605/trang-4.ttvn#13666698 những tài liệu mà Công giáo gọi là "Bình Tây Sát Tả" hay "Bách hại Công giáo" mà tôi đăng tải hay dẫn link đều thường lên án gay gắt do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, và đặc biệt nhấn mạnh sự độc ác của vua Minh Mạng đối với giáo sĩ, giáo dân đạo Thiên Chúa và gán cho ông những cái tên thật xấu xa: "tên bạo chúa", "kẻ khát máu", "tay sai của quỷ Satan", "Néron của Việt Nam", v.v?
    Để minh họa cho tình hình đã nêu ở trên, bài sau tôi sẽ trích đăng một số bản dịch  những đoạn lấy trong thư của những người trong cuộc gửi về cho các nhân vật quan trọng trong Giáo hội ở Pháp và một số tài liệu do Hội truyền bá Đức tin phát hành miêu tả diễn biến vụ tập trung các thừa sai về Huế của vua Minh Mạng, vụ việc mà cuối cùng đã biến thành cái gọi là thời kỳ "Bách hại Công giáo".

    Thư của ông Jaccard, giáo sĩ thừa sai Miền Trong, gửi ông Langlois, cha nhất chủng viện Hội Thừa sai Paris.

    ?oDương Sơn ngày 15-9-1828?.
    ?oThưa đồng nghiệp kính mến?.
    ?oNgài Thế diện Tông toà của giáo phận chúng tôi, ông Taberd, và ông Gagelin hẳn là đã báo tin ngài biết là các vị ấy cuối cùng cũng đã được Đức vua Minh Mạng cho phép trở lại Miền Trong. Các vị đồng sự kính mến này đã khởi hành về đó ngày 29-6-1828. Tôi rất vui được sống chung với các vị 12 ngày trước khi các vị ấy ra đi. Điều đó đã làm dịu đi đôi chút nỗi buồn phải nhìn thấy họ ra đi và để tôi ở lại một mình. Họ vừa mới khởi hành thì có một bức thư viết từ Bộ Ngoại giao bởi một người nhập quốc tịch Pháp (ông Diard) mà  không ai dịch nổi?.

    ?oTrong khi người ta bận rộn tìm cách dịch bức thư đó thì người thông dịch chính, vốn là một giáo dân tốt, muốn đi Touron (Đà Nẵng) để nhờ một vài người Pháp đang có mặt ở đó; nhưng có một người chối đạo được người ta gọi đến, đã nói to trước mặt các quan: ?oViệc gì phải đi Touron? Chả phải thày Ninh (tên Việt Nam của thừa sai Jaccard) đang có mặt ở nhà trường đó sao? Sao không nhờ ông dịch bức thư đó??. Lập tức người ta báo với vua, sau đó vua cử viên thông dịch nói trên cùng với một thị đồng, mang bức thư đến cho tôi và dẫn tôi về kinh nếu sức khoẻ của tôi cho phép. Vậy là vào ngày 14-7, khi tôi vừa kết thúc buổi lễ thánh, người ta cho biết những người của nhà vua đã chờ ở cổng. Phải làm gì bây giờ?? , bản thân tôi muốn bỏ trốn,? tôi vạch hàng rào và trốn sang khu vườn bên cạnh. Tôi ở đó khoảng hai giờ, và có người đến nói với tôi là không thể trốn được nữa? Tôi đành phải về Huế. Tôi dịch thư cho nhà vua. Thấy tôi tỏ vẻ mệt nhọc, người thị đồng nhận trách nhiệm xin với nhà vua cho tôi về nghỉ lại ở nhà trường để phục hồi sức khoẻ??

    ?oTôi dám chắc rằng có kẻ đã tố giác tôi không muốn cho tôi được tự do như tôi đã có?, nhưng ?onhờ sự tố cáo của y mà tôi lại được hưởng quyền hiện diện hợp pháp ở đây. Lúc đầu, tôi nghĩ nhà vua sẽ tức giận về việc tôi không chấp hành Sắc chỉ 1827 và sẽ bắt tôi phải chịu cảnh gò bó như các ông Taberd và Gagelin. Tuy nhiên, khi tôi xin được phép ở lại vùng ven đô, không nhận trợ cấp và một chức quan thì đều được chấp thuận. Người ta cũng không ép tôi rời khỏi nhà trường và mãi đến 25 tháng 8 tôi mới rời đi. Khi về đến họ đạo mà tôi đang ở hiện nay, cách đô thành hai dặm, tôi vẫn còn dịch những bức thư của các ông Chaingneau và Vannier. Có vẻ như không ai muốn gây phiền hà với tôi. Đã từ ba năm ở xứ này, tôi không được phép để mình lộ diện. Nhưng từ sau vụ vừa rồi, tôi rất được tự do, và hy vọng là tôi không phải ngồi rồi. Có một việc mà tôi làm bí mật, đó là việc cho gọi những  học trò khá nhất của tôi đến để dạy dỗ cho đến khi nào ông Taberd báo cho biết cách thức tập trung họ ở một nơi nào đó; đó là vì ngôi trường ở Phượng Rou khó mà duy trì được bởi nhà vua và các quan đã coi nó như là bộ phận đầu não của giáo phận?.
    ?oNgày 4 tháng 10, khi bắt đầu viết bức thư này, tôi tìm cách thăm dò xem nhà vua có ý định giữ riệt tôi ở đây không. Tôi xin phép được đi thăm các con tàu Pháp đang đậu ở Touron, và yêu cầu đó đã được chấp nhận không có khó khăn gì. Nhưng đúng vào hôm tôi định ra đi thì trời mưa và tôi bị đi lị nên phải từ bỏ dịp may được đi thăm các linh mục và giáo dân ở Quảng Nam và Quảng Ngãi??.(
  6. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Bạn trích dài quá, chẳng biết có ai rỗi mà đọc cho hết không?
    Mà bạn thích chuyện cũ, phải không, vì đây là Lịch sử mà?
    Có điều bạn chỉ trích dẫn một chiều thôi.
    Chiều kia thì bạn mù tịt.
    Chẳng thế mà bạn rất thông thái.
    Thông thái ở chỗ mắt bên phải thì không thấy được gì,
    nhưng vụng chèo thì đã có mắt trái chống rất khéo rồi.
    Trong mấy bài Toán dạy trong trường phổ thông, học sinh cũng
    đã tập coi cách chứng minh 2 nhân với 2 thì bằng Không như vậy.
  7. quydede02

    quydede02 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/03/2008
    Bài viết:
    514
    Đã được thích:
    0
    Bác Codep trích chiều ngược lại cho em tham khảo thêm đê, chứ bác cứ bảo là một chiều mà bác không chỉ ra chiều ngược lại là chiều nào thì em cũng lùng bùng bác ạ.
  8. caytrevietnam

    caytrevietnam Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/10/2005
    Bài viết:
    1.839
    Đã được thích:
    1
    Em cũng thấy thế, do đó đang mong chờ bác dẫn ra những tài liệu của chiều kia cho bà con được nghe 2 tai, nhìn = 2 mắt cho đỡ lệch lạc, phiến diện
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Bác không đọc cái này???
    Trích từ bài của fddinh viết lúc 14:04 ngày 06/03/2009:



    Tại đây, http://ttvnol.com/f_533/1093605/trang-4.ttvn#13666698 những tài liệu mà Công giáo gọi là "Bình Tây Sát Tả" hay "Bách hại Công giáo" mà tôi đăng tải hay dẫn link đều thường lên án gay gắt do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, và đặc biệt nhấn mạnh sự độc ác của vua Minh Mạng đối với giáo sĩ, giáo dân đạo Thiên Chúa và gán cho ông những cái tên thật xấu xa: "tên bạo chúa", "kẻ khát máu", "tay sai của quỷ Satan", "Néron của Việt Nam", v.v?
    Để minh họa cho tình hình đã nêu ở trên, bài sau tôi sẽ trích đăng một số bản dịch  những đoạn lấy trong thư của những người trong cuộc gửi về cho các nhân vật quan trọng trong Giáo hội ở Pháp và một số tài liệu do Hội truyền bá Đức tin phát hành miêu tả diễn biến vụ tập trung các thừa sai về Huế của vua Minh Mạng, vụ việc mà cuối cùng đã biến thành cái gọi là thời kỳ "Bách hại Công giáo".


    Tớ đã nói rõ rồi mà, nói lại cho các bạn khác: trong link là tài liệu từ Công giáo Vn (trong và ngoài nước, bình luận trong các bài mới là từ tài liệu phi Công giáo, còn thư trích, là của các cố đạo người Tây vào thời mà có cái gọi là "Bách hại Công giáo". ) Bác CoDep có gì thì pọt lên đi.
    Tiếp tục vài thư nữa:
    Thư của thừa sai Bringol gửi ngài Ferry, cha nhất của chủng viện Nancy.
     Linh mục này trên đường đi Manilla, gặp gió lớn phải tạm lánh vào Đà Nẵng, đã viết:

    ?oĐàng Trong? 1828?.
    ?oÔng thuyền trưởng khi thấy không thể đi Manilla được, đã quyết định neo lại cảng Touranne ở Đàng Trong. Ở đây, chúng tôi có dịp mục kích giáo phận đang ở trong một tình trạng đáng buồn. Nhà vua, với mưu mô lớn, đã cho bắt ba thừa sai là các ông Taberd, cha nhất của giáo phận, ông Gagelin và ông Joseph, người Italia thuộc dòng Phan Sinh. Để đạt mục đích, nhà vua truyền cho các vị này phải ở gần mình bởi ông có việc cần thông báo với họ và hứa sẽ không làm gì có hại cho họ. Khi họ đến Huế, nhà vua cho biết là sẽ dùng họ như những thông dịch viên người Pháp. Vua đảm bảo phát cho mỗi người 600 franc một năm cùng 20 tải gạo, trong khi các thông dịch viên khác chỉ được lĩnh 60 franc và 9 tải gạo. Vua cũng cấp cho mỗi người một căn nhà và 6 người giúp việc, nhưng cấm các vị này không được đi đâu nếu không có giấy phép của một vị quan lớn và có một người lính đi kèm?.
    ?oCác linh mục bản xứ thì được hoàn toàn tự do trong chức vụ của mình. Nhà vua chỉ e ngại các linh mục nước ngoài vì theo như ông nói, họ được phái đến đây bởi nhà vua Pháp và các nhà vua khác ở Châu Âu để khai thác xứ Đàng Trong và tạo điều kiện dễ dàng cho cuộc xâm lược?
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Trích từ bài của fddinh viết lúc 14:04 ngày 06/03/2009:

    Tại đây, http://ttvnol.com/f_533/1093605/trang-4.ttvn#13666698 những tài liệu mà Công giáo gọi là "Bình Tây Sát Tả" hay "Bách hại Công giáo" mà tôi đăng tải hay dẫn link đều thường lên án gay gắt do chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, và đặc biệt nhấn mạnh sự độc ác của vua Minh Mạng đối với giáo sĩ, giáo dân đạo Thiên Chúa và gán cho ông những cái tên thật xấu xa: "tên bạo chúa", "kẻ khát máu", "tay sai của quỷ Satan", "Néron của Việt Nam", v.v?
    Để minh họa cho tình hình đã nêu ở trên, bài sau tôi sẽ trích đăng một số bản dịch  những đoạn lấy trong thư của những người trong cuộc gửi về cho các nhân vật quan trọng trong Giáo hội ở Pháp và một số tài liệu do Hội truyền bá Đức tin phát hành miêu tả diễn biến vụ tập trung các thừa sai về Huế của vua Minh Mạng, vụ việc mà cuối cùng đã biến thành cái gọi là thời kỳ "Bách hại Công giáo".

    Thư của ông Jaccard, thừa sai, gửi các vị bề trên và các vị lãnh đạo Hội Thừa sai Paris.

    ?oKing-Long ngày 5 tháng 12-1829.?
    ?oTôi tranh thủ con tàu Duchesse du Berri, vào lúc này đang ở Touranne để thông báo cho ngài đôi điều về giáo phận của chúng tôi. Các đồng sự của chúng tôi tất cả đều khoẻ mạnh... Tôi vẫn được đi lại tự do trong vùng phụ cận của kinh thành. Nhà vua cũng đôi khi nhờ tôi dịch một số giấy tờ cũ, hoặc tóm tắt lịch sử cuộc cách mạng, Bonaparte, cuộc chiếm đóng ấn Độ của người Anh và những chuyện tương tự. Vào thời điểm này, ông không tỏ ra thù ghét gì chúng tôi?
    Trong phần mở đầu cho mục "Giáo hội Thiên Chúa giáo Đàng Ngoài", Ban Biên tập tờ Annales de la propagation de la Foi, tập 4, xuất bản năm 1830, đã viết:

     "Sắc chỉ của vua Minh Mạng đòi các thừa sai Âu Châu phải về kinh đã được ngừng thi hành theo lời thỉnh cầu của ngài Tả quân... Kể từ đó, người ta đã không cho tiến hành những cuộc tìm bắt các thừa sai nữa; và các quan thường thừa dịp này để ăn đút lót, đã không còn dựa vào sắc chỉ của vua để quấy rầy người bên giáo".
    Trong thư của thừa sai Journoud, đang phục vụ ở Bắc Kỳ, gửi về Pháp đề ngày 17-7-1830 có đoạn:

    "Tôi hiện đang ở Xứ Đoài... Hiện tại, các linh mục và giáo dân bản xứ được hoàn toàn tự do".

    Thừa sai Maretle ở Bắc Kỳ, trong thư gửi về Pháp, vào tháng 9 năm 1830 có đoạn:

    "Năm ngoái, vào ngày lễ mừng Đức Giám mục Gortyne, chúng tôi tập họp tới 30 linh mục ở đây... Chúng tôi được hoàn toàn bình yên...  Quả thực có lúc tôi có cảm tưởng được sống bằng an dưới một chính phủ ngoại đạo hơn là dưới chế độ của một vài nhà nước theo đạo Thiên Chúa".
    Trong một bức thư gửi về Pháp đề ngày 31-3-1830, Giám mục Takerd ở Đàng Trong khẳng định:

    "Tôn giáo của chúng ta vốn trước đây bị cấm, nay hoàn toàn không có một cuộc bách hại nào".
    Những tư liệu trên cho thấy rằng thời vua Minh Mạng không hề có cái gì gọi là "Bách hại Công giáo" như trong các tài liệu của Công giáo mà ngày nay ta có thể tham khảo, mà ta chỉ có thể nhận xét rằng: Biện pháp tập trung các thừa sai Châu Âu về Huế nhằm làm suy yếu Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam của vua Minh Mạng coi như hoàn toàn thất bại. Đa số các thừa sai ngoại quốc có mặt ở Việt Nam lúc ấy không chấp hành lệnh, vẫn trốn tránh và lo toan việc đạo, chỉ một số ít thừa sai (3 người) chịu về Huế, song thời gian ở lại đây rất ngắn: từ đầu năm 1827 đến giữa năm 1828. Ngay khi đang bị quản thúc, họ vẫn lén lút đi làm việc đạo ở vùng ven kinh thành mà không gặp trở ngại gì lớn.

    Sự thất bại của vua Minh Mạng  trong vụ việc này trước hết là ở khâu tổ chức. Triều đình đã không thành lập một ban chuyên trách, cử người có năng lực cầm đầu để kiểm tra, đôn đốc việc thi hành mà chỉ khoán trắng cho các quan lại địa phương. Ở đâu có quan lại cấp tỉnh là người theo đạo thì đương nhiên lệnh không được thi hành. Một số các quan đầu tỉnh khác không mấy nhiệt tình thi hành lệnh vì không muốn làm phức tạp thêm tình hình an ninh nơi mình cai quản. Thảng hoặc có nơi nào đó phát giác và bắt được giáo sĩ thừa sai, thì giáo dân lại gom góp tiền bạc lo lót cho quan lại để chuộc không mấy khó khăn. Cũng cần nhấn mạnh rằng, giáo dân Việt Nam, qua nhiều năm phải đối phó với việc cấm đạo của các triều đại phong kiến trước đây đã tích luỹ được những kinh nghiệm phong phú để tự giấu mình và nhất là để che giấu các giáo sĩ thừa sai. Cuối cùng, cần đặc biệt nhấn mạnh thêm rằng người dân Việt Nam vốn rất khoan dung trong lĩnh vực tín ngưỡng nên hầu như đã không xảy ra những vụ xung đột mang tính thuần tuý tôn giáo giữa dân bên lương và bên giáo hoặc những vụ tố cáo các thừa sai đang trốn tránh. Đó cũng là một đặc điểm được coi như một thuận lợi cho Giáo hội Thiên Chúa giáo nói chung và hoạt động của các thừa sai nói riêng.

    Cũng có thể nói rằng, dưới triều vua Minh Mạng, từ năm 1820 đến trước năm 1833, tức khoảng hơn 10 năm, chính sách của Nhà Nguyễn đối với Giáo hội Thiên Chúa giáo là khá khoan dung. Trước tình hình các thừa sai Âu Châu vẫn lén lút xâm nhập, các thừa sai đang có mặt ở trong nước không chấp hành lệnh tập trung, vua Minh Mạng không cho thi hành thêm những biện pháp quyết liệt nào khác ngoài những sắc chỉ đã ban. Cá nhân vua Minh Mạng đã đối xử tốt, mềm mỏng với các thừa sai về tập trung ở Huế, không tỏ ra giận dữ khi biết họ vẫn lén lút đi làm việc đạo, thậm chí có lúc còn tỏ ra có thiện cảm đối với các thừa sai và giáo dân. Năm 1830, nhân lễ mừng sinh nhật vua Minh Mạng 40 tuổi, thừa sai Jaccard có ý nhân ngày lễ Ascension (lễ Thăng Thiên), muốn tổ chức một lễ bên giáo để cầu phúc  cho nhà vua, nhà vua vui vẻ nhận lời và nói: "Mọi tôn giáo trong nước đều cầu nguyện và chúc phúc cho ta. Vì vậy nếu người bên giáo cũng có ý ấy thì cứ để cho họ làm". Và thế là trong mấy ngày liền, với sự tham gia của dân bên giáo, lễ mừng thọ của vua Minh Mạng  đã diễn ra linh đình vui vẻ.
    Mức độ khoan dung này trong chính sách của vua Minh Mạng đối với Giáo hội Thiên Chúa giáo đã được chính Giáo hội Thiên Chúa giáo và các thừa sai thừa nhận (trong các thư trích phần trước).
    Cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi năm 1833 đã có tác dụng như một cú "sốc" làm cho chính sách cấm đạo của vua Minh Mạng trở nên quyết liệt hơn, và một số giáo sĩ thừa sai đã bị bắt, bị xử tử hoặc chết trong tù từ năm 1833 đến năm 1840, như đã nêu ở phần đầu bài viết. Cuộc khởi loạn này nếu không xảy ra, tình hình như trên sẽ vẫn còn kéo dài thêm nữa.

    Cuộc khởi loạn của Lê Văn Khôi đã làm bộc phát những nghi ngại đang tiềm ẩn trong nhận thức của nhà vua về những hậu quả của sự du nhập đạo Thiên Chúa; đó là nguy cơ của một cuộc đồng hoá về văn hoá dân tộc và của một cuộc xâm lược vũ trang của các nước Châu Âu theo chân các giáo sĩ thừa sai. Minh Mạng đã làm tất cả những gì mà một nhà nước đang có chủ quyền cần phải làm trước những nguy cơ đó. Và, những năm từ 1833 đến 1840, đã diễn ra những cuộc bắt đạo khá gay gắt, gây nhiều thiệt hại cho Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Việt Nam. Có cảm tưởng là vào những năm này, sự thiếu kiềm chế ở một phía nào đó đã khiến tình hình trở nên xấu hơn.

    Tuy nhiên sự gay gắt của việc cấm đạo cũng như sự thiệt hại của Giáo hội Thiên Chúa giáo trong những năm này, nếu đem so sánh với những năm 1858-1861 (thời Tự Đức), nhất là khi có lệnh phân tháp giáo dân (1861) thì mức độ còn thấp hơn rất nhiều. Và nếu so sánh một cách tổng thể chính sách cấm đạo của vua Minh Mạng nói riêng và của Nhà Nguyễn nói chung với chính sách cấm đạo của Nhật Bản, lại càng thấy rõ hơn mức độ khoan dung của chính sách cấm đạo ở Việt Nam:  Năm 1614, số giáo dân ở Nhật Bản đã lên tới con số 1.800.000. Nhưng cũng trong năm này 117 linh mục dòng Jésuites và 27 thừa sai các dòng khác, trong đó có giáo sĩ Hội Thừa sai Paris, đã bị bắt và  bị trục xuất đi Philippines. Từ đó cuộc bách hại đạo ngày càng quyết liệt. Ở Nagasaki, ngày 2-9-1622, có 10 linh mục dòng Jésuites, 6 linh mục dòng Dominicains, 4 linh mục dòng Franciscains và 32 nhà quý tộc Nhật Bản có đạo bị xử tử hình. Từ năm 1623, Sogun Jemitsu mỗi năm giết hại tới 200.000 giáo dân. Cho đến năm 1638, Thiên Chúa giáo hầu như bị xoá bỏ ở Nhật Bản. Cho mãi đến năm 1853, khi Mỹ cùng với Anh, Nga kí kết với Nhật Bản những điều ước mở cửa, giáo sĩ thừa sai các dòng mới có cơ hội trở lại hoạt động và đến đầu thế kỉ XX (1913) số giáo dân ở đây cũng chỉ vỏn vẹn có 69.755 người, một tỉ lệ rất thấp so với dân số Nhật Bản lúc bấy giờ (Trích theo: Encyceopecdio of Religions and Ethics. Tập VIII, New York, 1915, trang 721).
    Như vậy các bạn có thể thấy sự vu cáo trắng trợn vua Minh Mạng bằng các từ ngữ xấu xa: "tên bạo chúa", "kẻ khát máu", "tay sai của quỷ Satan", "Néron của Việt Nam", v.v? mới chính là điều xấu ra của bên vu vạ!

Chia sẻ trang này