1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tôn giáo và dân tộc (không bàn chuyện thời sự - xem thông báo của Mod trang 47)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 01/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Mời các bạn có hứng thú thì có thể suy nghĩ được cách nào tìm kiếm
    tài liệu mình thích dựa trên những lời nói trên đây.
    Người Công Giáo ViệtNam đã từng bị giết chết vì tín ngưỡng, con số lên
    tới hàng trăm, và người Công Giáo ViệtNam đã từng đứng lên cầm vũ khí
    đánh giết người ViệtNam khác, con số lên tới hàng nghìn. Đó là sự
    thật lịch sử, không thể bác bỏ.
    Tôi không có hứng thú đào sâu tìm những bằng chứng thù hận xưa.
    Để thì giờ ấy mà hưởng thái bình.
    Các bạn cũng nên biết, khi chúng ta đang vui vẻ đây, không ít những kẻ
    đang vùi đầu tìm cách bêu xấu Mao, Hồ, Bush, là những người tôi không
    ưa, nhưng cũng chẳng muốn thấy và nghe người ta chửi họ.
    Bới rác thì bẩn, bới bẩn thì thối. Vậy thôi. Đáng thương thay.
  2. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    Không quên họ đâu.
    Người biết đọc viết chia làm 2 loại:
    Một loại đọc viết thiện, và một loại đọc viết ác.
    Chỉ tìm những cái xấu mà đọc mà viết, ấy là đọc viết ác.
  3. xn3

    xn3 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/10/2006
    Bài viết:
    557
    Đã được thích:
    1
    Ơ, thế bác fddinh đọc các bài viết về cái thiện của vua Minh Mạng, minh oan cái tiếng ác cho ông ấy thì được gọi là "thiện" hay "ác" theo tiêu chí của bác.
    Em nghĩ, bác phân loại theo kiểu hải ngoại rồi, tung hô ta thì là "thiện", "nhân văn", "nhìn nhiều góc, nghe hai tai".... ngược lại thì xxx
    Bác có tài liệu chiều ngược lại về vụ "bách hại công giáo" này không bác?
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    1- Tôi phân hạng thế nào mà là hải ngoại?
    Đọc bài mà không biết xấu tốt, thiện ác thì là đọc ác, đúng không?
    Hải ngoại hải nội thì không quan trọng bằng đọc và viết những câu đúng.
    Câu nào tôi viết chưa đúng, thì bạn trích dẫn riêng ra, chỉ ra chỗ sai,
    và viết ra chỗ đúng theo ý của bạn. Cái lối chụp mũ ấy xưa một thời
    đã hại bao nhiêu người, nhưng bây giờ khó được áp dụng thành công lắm.
    2 - Câu bạn hỏi đã có người hỏi và người trả lời rồi .
    Mời bạn lần lên trên mà đọc, sẽ hiểu.
  5. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Tại đây http://ttvnol.com/f_533/1093605/trang-6.ttvn?v=zr28c6fia45vh58y4kr2#13680258 có nói tới Tòa Thánh Vatican và công cuộc Kháng Chiến 1945- 1954 của VN.
    Nay xin điểm lại vài nét về lập trường của Tòa thánh Vatican đối với cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975).
    Dựa trên các nguồn tư liệu trong và ngoài nước, TS. Nguyễn Quang Hưng, Khoa Triết học, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội vạch rõ hai vấn đề:
    Sự ủng hộ có mức độ của Tòa Thánh thể hiện ở chỗ không phải nguyện vọng nào của chính quyền Ngô Đình Diệm cũng được Vatican đáp ứng. Giữa Sài Gòn và Vatican không thoả thuận được quy chế ngoại giao. Thay vào thiết lập quan hệ ngoại giao như chính quyền Ngô Đình Diệm mong muốn, Tòa Thánh chỉ thiết lập Tòa lãnh sự quán tại Sài Gòn. Năm 1925, Tòa Thánh thiết lập Tòa Khâm sứ với chính quyền thuộc địa ở Đông Dương. Sau 1954, do Việt Nam tạm thời bị chia cắt, Khâm sứ John Dooley vẫn thực thi trách nhiệm ở Hà Nội đến 1959. Tòa lãnh sự ở Sài Gòn thực chất làm nhiệm vụ của một Đại sứ quán, nhưng về danh nghĩa, vẫn chỉ là lãnh sự quán.
    Việc bổ nhiệm không phải Giám mục Ngô Đình Thục, mà là Giám mục Nguyễn Văn Hiền làm người kế nhiệm Giám mục Franxoa Cassaigne năm 1955 ở Sài Gòn cũng nằm ngoài mong muốn của anh em họ Ngô. ?oDiệm muốn bổ nhiệm Thục làm ************* Sài Gòn, nhưng Vatican đã từ chối bởi điều đó như một sự xác nhận trước công luận về sự ủng hộ của Vatican đối với chính quyền Diệm?(Adam Land. Ngo Dinh Thuc. In: Kulter I Stanley. Encyclopedia of the Vietnam War, New York, 1966, p. 360.).
    Việc này sau đó đã gây ra quan hệ khá căng thẳng giữa Tòa Thánh với chính quyền Sài Gòn. Chính quyền Sài Gòn phản ứng tới mức không chấp thuận việc bổ nhiệm này, ngăn cản công việc của Giám mục Hiền, phong toả mọi liên hệ giữa vị Giám mục này với Tòa Thánh. Để trả đũa Tòa Thánh, chính quyền Ngô Đình Diệm thậm chí đã bắt giam Giám mục Paul Sietz ở địa phận Kon Tum vì vị này đã có một số chỉ trích chính quyền họ Ngô. Anh em họ Ngô còn đưa ra yêu cầu tất cả các chức sắc của Giáo hội Công giáo Châu Âu khi tới miền Nam đều phải đến thề nguyện người đứng đầu chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Cuối cùng, Tòa Thánh đành nhượng bộ, điều Giám mục Hiền lên coi sóc địa phận Đà Lạt và bổ nhiệm Nguyễn Văn Bình làm ************* Sài Gòn. Giám mục Ngô Đình Thục được bổ nhiệm làm ************* Huế.
    Như vậy, ở thời kì mà Ngô Đình Diệm còn được sự hậu thuẫn của Mỹ, sự ủng hộ của Tòa Thánh đối với chính quyền Sài Gòn cũng có giới hạn nhất định. Bản thân việc bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Bình là người gốc miền Nam, có thái độ chính trị thích hợp hơn đã thể hiện sự tích cực, tỉnh táo của Toà thánh. Ước vọng của anh em họ Ngô muốn Giám mục Ngô Đình Thục làm Đức Hồng y đầu tiên của Việt Nam đã không bao giờ trở thành hiện thực. Trong khi anh em họ Ngô tin dùng người Công giáo miền Bắc di cư thì Tòa Thánh xuất phát từ những vấn đề nội bộ Giáo hội và cộng đồng Kitô hữu miền Nam sau 1954, muốn có sự công bình trong tương quan giữa những người Công giáo gốc Bắc và gốc Nam. Ngay những người đứng đầu nhóm Công giáo Phát Diệm di cư như Giám mục Lê Hữu Từ, Linh mục Hoàng Quỳnh cũng có những bất mãn với anh em họ Ngô.
    Giáo hoàng Paul VI tiếp tục duy trì lập trường trên đây của Tòa Thánh trong các vấn đề quốc tế. Về chiến tranh Việt Nam, lập trường đó còn phụ thuộc vào mối quan hệ tam giác Vatican - Mỹ - Pháp trong từng giai đoạn cụ thể. Sự ủng hộ có giới hạn của Tòa Thánh đối với chính quyền Ngô Đình Diệm càng thể hiện rõ ở giai đoạn cuối của chế độ này từ sau khi nổ ra cuộc khủng hoảng Phật giáo mùa hè năm 1963.
    Xuất phát từ sự thiếu tin tưởng ở ?olập trường chống C ộng? của Phật giáo và với việc bản thân là người Công giáo, anh em họ Ngô ít nhiều có sự thiên vị đối với Công giáo, với các tướng tá, quan chức người Công giáo. Điều này từ lâu gây nên sự bất bình của các lực lượng Phật giáo. Cuộc khủng hoảng xảy ra khi chính quyền Ngô Đình Diệm cấm treo cờ Phật giáo trong dịp Lễ Phật Đản 8/4 (ÂL) năm 1963. Lúc này, Giáo hoàng Gioan XXIII mới mất và ngày 30/6/1963, Giáo hoàng Paul VI trở thành người kế nhiệm. Vatican không đồng tình với việc anh em họ Ngô dùng bạo lực đàn áp các phong trào Phật giáo. Trong bài diễn thuyết gửi sinh viên Việt Nam ngày 3 tháng 8/1963, Giáo hoàng Paul VI kêu gọi chính quyền Ngô Đình Diệm nên có thái độ khoan dung, mềm dẻo đối với các Phật tử. Lời kêu gọi này được nhắc lại trong Thông điệp của Ngài gửi nhân dân Việt Nam ngày 30/8/1963. Giáo hoàng bày tỏ sự quan ngại sâu sắc đối với những sự kiện đẫm máu do sự đàn áp Phật tử và đề nghị cả hai bên, chính quyền Ngô Đình Diệm và Giáo hội Phật giáo tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho cuộc khủng hoảng. Tòa Thánh hi vọng ?otất cả mọi người hợp tác một cách có hiệu quả và cùng tôn trọng đối với tự do của mỗi công dân, xây dựng sự đồng thuận và hữu ái giữa các bên? (Informations Catholiques Internationales, ngày 1 tháng 9 năm 1963. Dẫn theo: Piero Gheddo. Die Katholiken und Buddhisten in Vietnam, Muenchen, 1970, tr. 204. Về những thông điệp của Giáo hoàng Paul VI gửi Phật tử miền Nam, xem thêm: Osservatore Romano, ngày 4 và 31 tháng 8/1963.).
    Mặc dầu vậy, chính quyền Ngô Đình Diệm vẫn phớt lờ đề nghị của cả Tòa Thánh và chính quyền Kennedy, từ ngày 20/8/1963 dùng quân đội trấn áp phong trào Phật tử, bao vây chùa chiền, cúp điện, nước tại các chùa, làm cho quan hệ hai bên càng căng thẳng. Trong một bài viết gửi Tòa ************* Sài Gòn ngày 20 tháng 9/1963, Giáo hoàng Paul VI đề nghị các Giám mục miền Nam Việt Nam hãy đứng ngoài, không can thiệp, tránh làm căng thẳng tình hình.
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Vatican không đồng tình với chính quyền Sài Gòn trong việc giải quyết khủng hoảng Phật giáo, một mặt, vì việc chính quyền Ngô Đình Diệm dùng bạo lực đàn áp Phật tử đã gây lên sự phản đối không chỉ ở Mỹ, mà cả cộng đồng quốc tế. Những đồng minh của Ngô Đình Diệm cũng không tán thành với cách giải quyết cuộc khủng hoảng bằng bạo lực. Mặt khác, cuộc khủng hoảng Phật giáo diễn ra khi Vatican đang ở giai đoạn chuyển đổi, hướng tới nhãn quan cởi mở đối với các tôn giáo khác, kể cả với các tổ chức và phong trào mác xít và vô thần ở Châu Âu được thể hiện trong Công đồng Vatican II.
    Từ những bất đồng trên đã dẫn tới sự lãnh đạm của Vatican đối với chính quyền Ngô Đình Diệm từ mùa hè năm 1963. Tại cuộc gặp giữa Giáo hoàng Paul VI và Tổng thống John Kennedy ngày 3/7/1963, vấn đề chính quyền Sài Gòn không có trong chương trình nghị sự, dầu lúc này quan hệ giữa chính quyền Kennedy với anh em họ Ngô khá căng thẳng.
    Cuối tháng 8 đầu tháng 9/1963, tất cả các Giám mục miền Nam được triệu tập tới Vatican, mặc dầu các khoá họp của Công đồng Vatican II đến 18 tháng 9 mới bắt đầu. Công đồng Vatican II đã được khai mạc tháng 10 năm 1962. Bao gồm nhiều phiên họp, kéo dài, trong đó Giáo hội Công giáo thảo luận hàng loạt các vấn đề trọng yếu của Giáo hội. Do Giáo hoàng Gioan XXIII mất, các khóa họp của Công đồng tạm ngừng, đến 18 tháng 9/1963, được tiếp tục.
    Lí do đơn giản: Tòa Thánh không muốn họ can dự vào cuộc khủng hoảng Phật giáo. Tháng 9/1963, Tòa Thánh cử người sang thay Khâm sứ Brini ở Sài Gòn ngoài lí do mãn hạn, có thể còn do Tòa Thánh không muốn can thiệp sâu vào quan hệ giữa chính quyền Kennedy và anh em họ Ngô. Tòa Khâm sứ đã được Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thông báo về kế hoạch lật đổ Ngô Đình Diệm trước khi cuộc đảo chính bắt đầu, nhưng đã không làm gì để cứu vãn tình hình (Trần Tam Tỉnh. Thập giá và lưỡi gươm. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh, 1990, tr. 140-142. Cao Văn Luận. Bên giòng lịch sử, Sài Gòn, 1972, tr. 370. Linh mục Cao Văn Luận là người sáng lập Đại học Quốc học Huế, nguyên Hiệu trưởng đầu tiên của trường này, là người gần gũi với anh em Ngô Đình Diệm.).
    Mặc dầu cả Khâm sứ và Cabot Lodge đều bối rối trước cái chết của anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, nhưng nỗ lực của họ cứu Ngô Đình Cẩn khỏi án tử hình cũng nửa vời.
    Sự không nhất quán của Vatican trong quan hệ với chính quyền Ngô Đình Diệm cho thấy Tòa Thánh có quan điểm độc lập nhất định trong các vấn đề quốc tế. Trong khi chính quyền Mỹ ủng hộ Ngô Đình Diệm trước hết là vì lập trường chống c ộng của anh em họ Ngô, thì Tòa Thánh trước tiên lại quan tâm tới khía cạnh truyền giáo. Nếu như chính quyền Kennedy chủ trương thay Ngô Đình Diệm khi thấy lợi ích chính trị của mình chưa được đáp ứng thoả đáng, thì Vatican lãnh đạm với Ngô Đình Diệm ở giai đoạn quyết định sự tồn vong của chế độ này xuất phát từ những lí do tôn giáo, ít nhiều mang tính nhân đạo. Vì thế, sự ủng hộ của Tòa Thánh đối với chính quyền Ngô Đình Diệm là điều không thể phủ nhận, nhưng có giới hạn nhất định. Giám mục Ngô Đình Thục trong thời gian lưu vong ở nước ngoài đã tỏ sự bất mãn với Giáo hoàng Paul VI. Ông đã phong Giám mục cho một số linh mục bất hợp tác với Tòa Thánh và do vậy, bị rút phép thông công. Đến 1984, Ngô Đình Thục được Giáo hoàng Gioan Paul II tiếp nhận trở lại Giáo hội.
    Nếu như sự ủng hộ của Tòa Thánh đối với chính quyền Ngô Đình Diệm được coi là không dứt khoát, thì lập trường của Vatican đối với chiến tranh Việt Nam từ cuối những năm 1960 càng thể hiện tính nước đôi (ambivalent). Một mặt, Tòa Thánh ủng hộ mọi chính thể tôn trọng tự do tôn giáo thực sự, đồng thời là cái barie ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa c ộng sản ở Việt Nam và cả Đông Nam á. Cái gọi là ?omiền Nam Việt Nam tự do? đảm bảo cả hai điều kiện trên. Nhưng mặt khác, chiến tranh Việt Nam cũng như mọi cuộc chiến tranh trên thế giới không phải là mong muốn của Giáo hội Công giáo bởi nạn nhân chiến tranh chủ yếu vẫn là dân thường. Do vậy, khác với quan điểm của các bên tham chiến chỉ chấp nhận ?ohòa bình có điều kiện?, Tòa Thánh kêu gọi ?ohòa bình bằng mọi giá? cho Việt Nam. Trong khi Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ chấp nhận hòa bình khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, thống nhất đất nước thì Mỹ và chính quyền Sài Gòn chỉ chấp nhận hòa bình ở Việt Nam khi chủ nghĩa c ộng sản ở đây bị đẩy lùi. Thắng lợi quân sự của bên này đối với phía bên kia được coi là điều kiện đảm bảo hòa bình.
    Nhân dịp Giáng sinh, ngày 19/12/1965, trong Thông điệp gửi các Kitô hữu lần đầu tiên Giáo hoàng Paul VI bày tỏ lập trường của mình về chiến tranh Việt Nam, trong đó có đoạn: ?oCuộc chiến ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng và đẫm máu. Số lượng người tham chiến không ngừng tăng, kéo theo đó là số thương vong cũng ngày càng lớn, bao nhiêu người di tản thê lương và nguy cơ xung đột ngày càng lan rộng (?). Những đứa con yêu quý hãy liên kết lại cầu cho hi vọng: rằng Đức Mẹ, cùng Đức Kitô, tâm điểm của Giáng sinh hãy được coi như Đức Mẹ, Nữ hoàng của hòa bình, Regina Pacis? (Insegnamenti di Paulo VI, 1965, Indice delle materie contenute nei primi dodici volume di Insegnamenti de Paulo VI, 1963-1974, Liberia e***rice Vaticana, p. 1155. Dẫn theo: Peter Hebblethwaite. Paul VI. The First Modern Pope, Harper Collins, London, 1993, tr. 454.).
    Ngày 1/1/1966, Giáo hoàng Paul VI cho công bố bức thư gửi những người đứng đầu chính phủ miền Bắc và miền Nam Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc, đề nghị họ cùng tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho Việt Nam. Trong đó, Giáo hoàng nhấn mạnh với Chủ tịch Mao Trạch Đông rằng sự can thiệp của Trung Quốc như một sự đáp trả việc leo thang chiến tranh của Tổng thống Lyndon Johnson chỉ làm cho cuộc chiến ở Việt Nam rối thêm. Những đề xuất này của Paul VI được nhắc lại trong Thông điệp Giáng sinh năm 1966 gửi tất cả Kitô hữu toàn thế giới.
    Kế tiếp đó, ngày 8/2/1967, Giáo hoàng Paul VI gửi thư tới Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng thống Lyndon Johnson kêu gọi các bên ngừng bắn trong dịp Tết năm 1967. Trước chuyến đi tới nơi hành hương Fatima ở Bồ Đào Nha tháng 5/1967, người đứng đầu Tòa Thánh cũng có buổi cầu nguyện cho hoà bình ở Việt Nam.
    Một trong những động thái mang tính quyết định của Tòa Thánh liên quan đến chiến tranh Việt Nam nửa cuối những năm 1960 là các cuộc tiếp xúc giữa Giáo hoàng Paul VI và Tổng thống Johnson. Trong nhiệm kì của mình, Tổng thống Lyndon Johnson có 3 lần gặp Giáo hoàng Paul VI. Tại cuộc gặp lần thứ hai ngày 23/12/1967 ở Vatican, họ đã có cuộc trao đổi lâu về chiến tranh Việt Nam. Tòa Thánh không đồng tình với việc leo thang chiến tranh của Mỹ và đặc biệt phê phán việc Mỹ ném bom miền Bắc Việt Nam. Giáo hoàng Paul VI nói với Tổng thống Mỹ: ?oTôi buộc phải có lập trường khác với Ngài mặc dầu rất hiểu thiện chí của Ngài và những tin tưởng của Ngài (?) Tôi muốn có một sự đồng thuận giữa những thỏa thuận của tôi với những mong muốn của Ngài, nhưng Ngài cũng phải hiểu rằng không bao giờ tôi lại có thể đồng ý với chiến tranh?(Stephen Denney. US sought Vatican role in Vietnam: documents, forwardes message von Agence France Presse, April 21, Washington, 2001, p. 1-3.).
    Tuy vậy, tại cuộc gặp này Giáo hoàng Paul VI và Tổng thống Lyndon Johnson cùng thống nhất là nên hòa đàm với Hà Nội. Theo đề nghị của Tổng thống Johnson, Giáo hoàng Paul VI đứng ra làm trung gian giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong những vấn đề về tù binh chiến tranh. Về sau, Tổng thống Lyndon Johnson kể lại trong hồi kí của ông như sau: ?oTôi cùng Giáo hoàng Paul VI chia sẻ nhiều nỗ lực mà chúng tôi đã làm để thúc đẩy Hà Nội tới hòa đàm hoặc là giảm số thương vong cho cả hai bên (?) Tôi kêu gọi Đức Thánh Cha làm một cái gì đó mà Ngài có thể đối với các tù binh, hoặc là thu lượm thông tin về hiện trạng của họ ở miền Bắc Việt Nam hoặc có thể trả tự do cho họ xuất phát từ những lí do nhân đạo. Tôi hứa với Ngài rằng chúng tôi cùng hợp tác với bất kể nhân vật nào mà Ngài lựa chọn để đàm phán về điều kiện tù nhân ở miền Nam Việt Nam? (Lyndon B. Johnson. Momoiary, Harper Collins, New York, 1971, tr. 379-380.).
    Từ sáng kiến của Tòa Thánh, ngày 1/1/1968 trở thành ngày hòa bình thế giới. Nhân dịp này, người đứng đầu Vatican đề cập tới tình hình Việt Nam. ?oTrường hợp Việt Nam thê lương cũng đủ cho thấy để có được một nền hòa bình khó như thế nào (?) Nhưng bao giờ hòa bình cũng là điều có thể, bao giờ hòa bình cũng là một bổn phận? (Paul VI. Der Frieden ist schwierig. Neujahransprache in der Peterkirche am 1. Januar 1968. In: Paul VI. Frieden als Auftrag, Papst Paul VI, ueber den Frieden (Hrs. von Sustar Alois), Muenchen, 1968, S. 110-111.).
    Sau Tết Mậu Thân, Chính quyền Johnson quyết định tích cực tiếp xúc với Hà Nội.
    Ngày 31/3/1968, Mỹ ngừng ném bom trên toàn miền Bắc Việt Nam để có thể hòa đàm với Hà Nội.
    Ngày 27/4/1968, Tổng thống L. Johnson có buổi làm việc với Thư kí của ông là Joseph A Califano, người có trách nhiệm tiếp xúc với ************* Washington, Luigi Raimondi, Đại diện của Tòa Thánh tại Washington. Theo sự đề nghị của phía Mỹ, Tòa Thánh đứng ra làm trung gian giữa Mỹ và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Qua Giám mục Raimondi, Giáo hoàng Paul VI đáp lại đề nghị của Tổng thống Mỹ một cách tích cực.
    Ngày 1/5/1968, người đứng đầu Tòa Thánh gửi một thông điệp tương tự tới Hà Nội. Thông qua Tòa Thánh, những cuộc tiếp xúc giữa đại diện của Mỹ và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ giữa năm 1968 đã được bắt đầu ở Paris theo đề nghị của Hà Nội.
    Lập trường đề nghị ?ohòa bình bằng mọi giá? cho Việt Nam, chứ không phải ?ohoà bình có điều kiện? như các bên tham chiến và Giáo hội Công giáo miền Nam thời Mỹ-Thiệu duy trì, tiếp tục được Giáo hoàng Paul VI ủng hộ dưới thời Tổng thống Mỹ Richard Nixon.
    Báo Người quan sát (Osservatore Romano) của Tòa Thánh phê phán các bên tham chiến, trong đó có phía Mỹ không tích cực trong các cuộc hòa đàm ở Paris năm 1969. Tờ báo bình luận: ?oNhững hòa đàm ở Paris hiện chưa tiến triển vì cả hai bên tham chiến vẫn chưa thực sự cởi mở với nhau. Mặc dầu vậy, chúng ta vẫn tin tưởng rằng những cuộc hòa đàm chân thực sẽ thay thế những tuyên truyền hiếu chiến như những người vì chủ nghĩa nhân đạo mong muốn? (Osservatore Romano, ngày 14/11/1969.).
    Giáo hoàng Paul VI khẳng định lập trường không thay đổi của Tòa Thánh đối với chiến tranh Việt Nam trong cuộc tiếp 5 vị Thống đốc Hoa Kỳ tại Vatican ngày 17/ 11/ 1969(Agency Presse Vatican, 17 November, 1969.).
    Dường như Giáo hoàng Paul VI đã tận dụng mọi cơ hội để kêu gọi hòa bình cho Việt Nam. Trong dịp dự Hội nghị các Giám mục thế giới ở Manila năm 1970, Giáo hoàng Paul VI gửi điện tới Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kêu gọi hòa bình. Đức Giáo hoàng có nhã ý dừng chân ở cả Hà Nội và Sài Gòn để trực tiếp thuyết phục các bên đi đến các thoả thuận hòa bình. Chính phủ Hà Nội đáp lại nhã ý của Giáo hoàng Paul VI muốn dừng chân ở Hà Nội một cách tích cực, nhưng chưa sẵn sàng đón tiếp Giáo hoàng. Để Hà Nội khỏi mếch lòng, Giáo hoàng Paul VI cũng không ghé qua Sài Gòn.
    Biện pháp của Washington gây sức ép với Hà Nội tại bàn đàm phán bằng việc gia tăng ném bom tháng 12/1972 ở Hà Nội và Hải Phòng bị người đứng đầu Tòa Thánh lên án mạnh mẽ. Hiệp định Paris tháng 1/1973 được Tòa Thánh coi là sự kiện quan trọng để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam.
    Ngày 14/2/1973, người đứng đầu Tòa Thánh đã tiếp kiến các Bộ trưởng Xuân Thuỷ (VNDCCH) và Nguyễn Văn Hiếu (VNCH). Đây là cuộc tiếp xúc đầu tiên của Giáo hoàng với các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. ?oSự hài lòng của Giáo hoàng Paul VI về cuộc gặp chỉ ra rằng Thư chung 1951 nghiêm khắc cấm người Công giáo Việt Nam không được hợp tác với những người c ộng sản đã trở thành lỗi thời. Đối với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, cuộc gặp này được coi là sự đảm bảo của họ về tự do tôn giáo? (Informations Catholiques Internationales, Nr. 427, 1/3/1973. tr. 29.).
    Kế tiếp đó, lập trường chống c ộng và những lời nói hiếu chiến của người đứng đầu chính quyền Sài Gòn tại cuộc gặp Đức Giáo hoàng tháng 4/1973 như bị ?ogiội gáo nước lạnh?, đặc biệt khi bàn về vấn đề tù chính trị ở miền Nam. Trong khi Nguyễn Văn Thiệu khẳng định miền Nam Việt Nam không có tù chính trị, chỉ có hoặc ?otù c ộng sản? hoặc tù hình sự, thì vị Giáo hoàng đưa ra danh sách tù chính trị gồm những nhân vật đối lập với Thiệu, nhưng không phải là thành viên Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Số là trước cuộc gặp, Giáo hoàng Paul VI đã nhận được danh sách tù chính trị ở miền Nam do các phong trào và tổ chức Công giáo cánh tả ở miền Nam thuộc ?olực lượng chính trị thứ ba? như Thanh Lao Công, Thanh Sinh Công, Uỷ ban vận động cải thiện chế độ lao tù miền Nam Việt Nam, v.v.. cung cấp. Và Nguyễn Văn Thiệu đã phải thất vọng trước lập trường của Tòa Thánh. (Xem: Chuyến công du qua 6 nước và ở Vatican của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Trong: Đối diện, số 45, ngày 12/4/1973).
    Nhìn chung, lập trường của Giáo hoàng Paul VI ít được hưởng ứng của các bên tham chiến. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chỉ chấp nhận ngừng đấu tranh khi một Việt Nam được thống nhất, có chủ quyền dân tộc và lãnh thổ thống nhất, quân đội nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam. Phía Mỹ cũng có những toan tính riêng. Một tài liệu của Nhà Trắng về cuộc trao đổi giữa Bộ trưởng ngoại giao và Tổng thống Johnson xác nhận: ?oDean Rusk: ?o(?) Chúng ta đã thử nghiệm nhiều. Chúng ta đã trao đổi với Đức Thánh Cha, với Tổng Thư kí U Thant, với Liên Hợp Quốc. Quan điểm của chúng ta hoàn toàn rõ ràng (?) Phía bên kia không đáng quan tâm (?)? Tổng thống: ?o(?) Hà Nội đang tìm cách buộc chúng ta phải ngừng ném bom Bắc Việt. Chúng ta cứ tiếp tục duy trì cho đến khi đạt được một điều gì đó của Bắc Việt? (Summary Notes of 568th National Security Council (NSC) Meeting. From Bromley Smith to President on 8 February 1967. In: Barret B. David. Lyndon B. Johnson?Ts Vietnam Papers: A Documentary Collection, Texas, 1997, p. 392.).
    Mặc dầu vậy, lập trường của Giáo hoàng Paul VI cổ vũ cho các phong trào vì hòa bình của các tổ chức Công giáo quốc tế, các phong trào phản chiến ở Mỹ và Châu Âu, và các tổ chức cánh tả miền Nam thuộc ?olực lượng chính trị thứ ba?. Lập trường này của Tòa Thánh cần được đánh giá trong bối cảnh chiến tranh lạnh. Vatican giữ khoảng cách với Mỹ và phương Tây trong vấn đề hòa bình. Đối với Chính phủ Hà Nội, đây là cơ hội để hai bên hiểu nhau hơn, hạn chế thành kiến của những quan điểm cực tả.
    Lập trường của Tòa Thánh, nhất là dưới thời Giáo hoàng Paul VI, như vậy, bên cạnh những mặt tiêu cực, còn có một số tác động tích cực nhất định tới tình hình Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
    Trong khi Tòa Thánh, người đứng đầu Tòa Thánh có những động thái như vậy, thì những người Công giáo VN, như Ngô Đình Thục và biết bao nhiêu con chiên khác lại suy nghĩ, hành động ngược lại, các bạn có ý kiến gì về điều đó?
  7. Liv

    Liv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2003
    Bài viết:
    398
    Đã được thích:
    0
    Vậy thì nó chứng tỏ bên trong giáo hội Công giáo hiện đại có tự do chứ không độc quyền tư tưởng, và chắc chắn là không có chuyện giáo dân răm rắp nghe lời Tòa thánh rồi...
  8. pamasi

    pamasi Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    30/05/2004
    Bài viết:
    799
    Đã được thích:
    0
    Chân thành cảm ơn bác. Dù trước đây em cũng có suy nghĩ khá tương đồng với bác nhưng quả thực nhờ có những kiến thức của bác em mới hiểu vấn đề một cách rõ ràng hơn.
    Nếu có thể mong bác đề xuất việc xoá bỏ tên đường Alexandre De Rhodes, thật tiếc là nó lại còn đứng ở vị trí trung tâm nữa chứ. Em nhớ hồi còn bé cô giáo cũng dạy về chuyện dạy chữ latin, nghĩ cũng buồn vì dân trí của mình, mà qua việc này thì trong đó có cả chính em.
    Một lần nữa rất cảm ơn những người như bác, đã giúp em nhận thức tốt hơn.
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Cảm ơn bạn động viên!
    Ở đây: Những người có công trong buổi đầu hình thành chữ quốc ngữ tôi có nói kỹ hơn về chuyện chữ La Tinh, chữ Quốc ngữ, bạn có thể tham khảo và đóng góp ý kiến không ạ!
  10. kalatnhikop

    kalatnhikop Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/12/2008
    Bài viết:
    62
    Đã được thích:
    0
    đọc bài của ngài pa ma si hay lắm ,xin cảm ơn
    Được kalatnhikop sửa chữa / chuyển vào 18:12 ngày 02/04/2009

Chia sẻ trang này