1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tôn giáo và dân tộc (không bàn chuyện thời sự - xem thông báo của Mod trang 47)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 01/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1

     
    Giám mục Lê Hữu Từ cũng thừa nhận các sự kiện nói trên trong một Thư chung gửi cho các linh mục ngày 23 tháng 3 năm 1947, như sau: ?oCác cha biết một vài người c ộng tác của chúng ta và nhiều giáo dân đã bị bắt và giam giữ nhiều ngày, vì họ đả bị nghi là đảng viên của các đảng phái chống Chính phủ. Nhiều người bị bắt do ông Huệ, một thầy giảng địa phận Thanh Hóa ẩn núp trong địa phận chúng ta, tung ra những tin đồn lung tung và thậm chí dám mạo danh tôi đánh lừa dân chúng. Cảnh sát truy nã ông ấy khắp nơi. Các cha đừng để nó tự do qua lại trong các xứ đạo của mình và nếu phát hiện thì hãy bắt và nạp giải cho tôi. Kẻ nào tiếp tục liên lạc với ông ấy, hoặc che giấu nó thì đừng phân bua rằng mình vô tội khi bị cảnh sát bắt làm khó dể. Hơn bao giờ hết, toàn dân phải một lòng đoàn kết chiến đấu chống lại bọn xâm lược. Hãy để vấn đề các đảng phái sang một bên, đừng bận tâm tới. Tôi đã nói đi nói lại nhiều lần với các cha, lần này nữa, tôi xin các cha hãy nghe lời tôi?
    Trong cùng một thư đó, giám mục đã bảo các linh mục chớ nói đến chính trị trong các nhà thờ và cũng hãy cảnh giác đối với những người lạ mặt thường lảng vảng vào các xứ đạo để thám thính hay tuyên truyền ủng hộ Pháp. Bọn đó là những tên phản quốc.
    ***** Chí Minh có thành thật trong các thư Cụ viết, có thật tôn trọng tín ngưỡng và tin tưởng người Công giáo chăng? Không có một dấu hiệu nào cho phép trách được rằng Người nói dối. Suốt cuộc đời tham chính của Người, Cu Hồ là một người yêu nước trên hết mọi sự. Hơn nữa, trong bài viết cũng như trong bài nói. Ngưởi luôn luôn nhấn mạnh về thực tiễn mac-xít hơn là về biện chứng. Các lời lẽ Cụ phê phán Giáo hội không bao giờ chạm tới khía cạnh Đức tin, nhưng chỉ nằmg ở phạm vi các vấn đề cơ chế và chính trị.
    (bỏ một đoạn).
    3 "? THẬP GIÁ BIẾN THÀNH ĐẠI BÁC
    Với sự ủng hộ của giám mục Se-giơ (Chaize) Hà Nội, các giám mục Ac-ta-ras (Artaraz) Bắc Ninh, Ubiec-na (Ubierna) Thái Bình, Cô-man (Cooman) Thanh Hóa, Gô-mes (Gomez) Hải Phòng, và phép lành của giám mục Drapiê (Drapier) Khâm mạng Toà thánh, giám mục Lê Hữu từ quyết định vũ trang cho giáo hữu của mình. Người ta có thể đọc trong tập hồi ký của ông như sau: «Vào thời ấy, hoàn cảnh bắt buộc chúng tôi phải có một lực lượng tự vệ hùng mạnh để có thể «nói chuyện» với chính phủ CS. Vì thế, lợi dụng tình hình, chúng tôi đã có các toán du kích địa phương và lợi dụng đường lối chiến tranh nhân dân do ông Hồ Chí Minh công bố, tôi đã xin phép được mua súng đạn. Hố Chí Minh không thể từ chối tôi việc này, bèn đề nghị tôi gặp ông Phan Anh, Bộ trưởng Quốc phòng, đã được ông Hồ mớm cho việc tìm lý do, ra những điều kiện, để đừng phải cấp cho tôi giấy phép. Nhưng với cái phép miệng, tôi đả gửi người lên Móng Cáy mua vũ khí.?
    «Tuy vậy, việc chuyên chở vũ khí được tiến hành một cách bí mật và phải dùng mưu mẹo mới qua được. Nhiều lần, xe ôtô của tôi chở vũ khí đã có thể qua các trạm gác vốn được kiểm soát rất nghiêm nhặt, vì tôi đưa ra cái thẻ «Cố vấn Tối cao của Chính phủ» và tôi nhất quyết không cho khám xe. Tôi nói với bọn cảnh sát: Chủ tịch đã chọn tôi làm Cố vấn vì Người tin tưởng ở tôi; nếu Người không tin tôi, tôi sẽ từ chức. Và bởi vì tôi là Cố vấn Tối cao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chẳng ai có quyền khám xét tôi mà không có lệnh rõ ràng của Chủ tịch. Một khi súng đạn đã được tới nơi yên ổn, tôi thông báo cho Ủy ban Nhân Dân và cảnh sát biết rằng, tôi đã mua vũ khí với sự đồng ý của Hồ Chí Minh.
    «Khi súng ống và đạn dược về tới Hải Phòng thì bị quân Pháp giữ lại, bọn này chỉ chịu trao cho tôi khi chính tôi phải đích thân can thiệp và bọn họ còn cấp thêm súng đạn (để mua chuộc tôi). Tuy nhiên, nguyên tắc của tôi là nhận khí giới từ bất cứ phía nào, kẻ cả ngay phía Nga hay Tàu CS, để chống lại CS. Tôi đã vay tiền nơi Đức Cha Gomez, một người Tây Ban Nha giám mục Hải Phòng và đã xin Ngài vui lòng hỗ trợ tôi trong chuyện này. Sau khi đã bàn hỏi Đức khâm mạng Drapiê, Ngài đã cho tôi mượn một khoản tiền lớn (1.000.000 đồng) và đã cung cấp cho tôi một lượng súng đạn quan trọng». Vì ***** Chí Minh đã nhường cho vị cố vấn Lê Hữu Từ việc quản lý thị trấn Phát Diệm (một bề chỉ 1km và bề kia dài 3km), giám mục đã biến nó thành một «khu an toàn» có quân lính riêng canh gác. Khu an toàn này sẽ trở nên cứ điểm, qui tụ những kẻ chống lại ***** Chí Minh, hoặc làm chỗ núp ẩn cho bọn hoạt động chính trị, bọn mưu đồ lật đổ v.v...
    Cùng lúc đó, quân Pháp, sau khi đã chiếm phần lớn các tỉnh quanh Hà Nội, bắt đầu gặp phải một cuộc kháng cự mạnh mẽ của du kích và của dân chúng. Cái hy vọng tái chiếm nhanh cả nước bị lu mờ. Các làng «tề» vừa thấy quân đội Pháp rời đi là thoát ly khỏi sự kiểm soát của chúng.
    (bỏ một đoạn)
    5 "? CUỘC THÁNH CHIẾN
    Dưới sức ép của Đơ Lát và của đức cha Đulay (Dooley) người Ái Nhĩ Lan được chỉ định làm Khâm mạng năm 1950, các giám mục Việt Nam họp tại Hà Nội đã đưa ra những lời tuyên bố sấm sét trong Thư chung mục vụ ngày 9 tháng 11 năm 1951 như sau: «Chúng tôi thấy mính có bổn phận nhắc nhở anh chị em đề cao cảnh giác chống lại nguy cơ hết sức to lớn của chủ nghĩa CS vô thần là một mối đe dọa lớn lao nhất hiện nay. Chẳng những cấm anh chị em không được vào Đảng CS, mà anh chị em cũng không được hợp tác với họ, hay là làm bất cứ việc gì có thể góp phần cách nào cho Đảng CS lên nắm chính quyền. Mối nguy hiểm nghiêm trọng và các hậu quả của nó kinh khủng đến nổi chúng ta cảm thấy có bổn phận nhắc nhở anh chị em đề phòng cả đối với những kiểu lươn lẹo và mưu chước người CS dùng để đánh lừa dân chúng, những mưu chước chỉ phục vụ cho các mục tiêu của người cs mà thôi».
    Bản kết án đó mang 12 chữ ký, trong đó có 5 chữ ký Việt Nam, tỏ rõ cho dân chúng thấy Giáo hội chính thức của Việt Nam đứng về phía nào. Nó hoàn tất sự cắt đứt quan hệ (trừ những người Công giáo yêu nước, chỉ với danh nghĩa yêu nước mà bị vạ tuyệt thông và bị giáo hội ruồng bỏ) giữa Công giáo và Kháng chiến. Nó xô đẩy người Công giáo coi mình là quân binh của lực lượng Thực dân bởi vì từ nay, việc họ sung vào hàng ngũ quân đội Pháp được giáo quyền thánh chiến rồi.
    Từ năm 1950, nhiều làng Công giáo vùng đồng bằng được vũ trang, nhận súng của Pháp, dưới quyền chỉ huy của giám mục Lê Hữu Từ, còn Bùi Chu thì do giám mục Phạm Ngọc Chi điều khiển. Vai trò của đội quân tự vệ vượt xa tư cách gọi là chỉ để tự vệ khi bị cs tấn công, bởi vì nó được tung ra các hoạt động chủ yếu là hành quân càn quét, có khi bao trùm cả vùng, có lúc chỉ ở địa phương nhỏ. Chẳng hạn trong trận Ký Con ở Nam Định, một bộ tham mưu liên quân gồm có trung tá Căngđu (Canduo) ở Nam Định, trung đoàn trưởng Mô-la (Mollat) đồn Phát Diệm và linh mục Hoàng Quỳnh, tổng tư lệnh đội quân Công giáo, đã thành công loại khỏi vòng chiến cả tiểu đoàn ********* ở đây. Lính công giáo cũng có lúc tham dự các cuộc hành quân gồm nhiều tiểu đoàn của Pháp.
    Nhưng ở cấp địa phương, quân lính Công giáo mới là đội quân hung hăng nhất. Nhằm lo cho các xứ đạo được bảo vệ hữu hiệu hơn, bọn chúng tổ chức ruồng bố liên tục các làng Lương chung quanh, bắt giam hoặc giết chết, khỏi cần tòa án, tất cả chiến sĩ du kích và những ai bị tình nghi là *********. Theo gương lính Pháp, chúng cướp bóc các làng, lấy trộm, tàn sát, thiêu rụi tất cả những gì bị coi là ổ kháng chiến. Nực cười hết cỡ, có những linh mục - đại úy nghĩ rằng thời điểm đem cả nước theo Kitô đã tới: họ ra lệnh cho lính đi cướp phá các chùa Phật giáo, mang hết các tượng Phật về làm cũi chụm, rồi cắm thánh giá lên chùa hay là đặt tượng Đức Mẹ vào trong đó. Thật phải rùng mình, khi nhắc lại tên tuổi của một số linh mục như Khâm, Tôn, Luật...
    Các bản tin về những vụ cs tàn sát Công giáo, do báo chí Pháp hoặc hãng thông tấn Fides đưa ra, phải được đặt vào trong bối cảnh lịch sử nói trên. Chẳng hạn, Beena Phan, trích dẫn tờ nhật báo tiếng Pháp Viễn Đông xuất bản tại Sài Gòn, đã viết: «Người ta kể lại rằng tại Cao Mai, 180 người Công giáo, gồm nam nữ và trẻ con bị thiêu sống trong nhà thờ làng, theo sau vụ một đồn lính Pháp bên cạnh đó không chịu đầu hàng».
    Sự thật lịch sử hoàn toàn khác thế, Cao Mai là một làng thuộc huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, ở 5km cách sông Hồng, nơi chia đôi Thái Bình với Nam Định, và cũng là ranh giới giữa hai địa phận Thái Bình và Bùi Chu. Cao Mai có hai thôn, một Công giáo và một thôn Phật giáo. Đang mùa xuân 1950, giáo dân Bùi Chu lúc đó đã được vũ trang, còn tại Thái Bình thì quân Pháp chỉ đóng ở thành phố và những vùng lân cận. Một hôm cha Luật, chính xứ Cao Mai, tiếp một cha bạn người Bùi Chu sang thăm, có mấy tiểu đội mang vũ khí tháp tùng. Bọn lính này đi lùng sục các làng chung quanh, bắt các du kích quân và cán bộ ********* bất ngờ gặp được và giết chết mấy người. Được báo động, du kích toàn vùng đó kéo về hướng Cao Mai. Bọn lính Công giáo vừa đánh vừa rút, có chừng 50 thanh niên Cao Mai và các linh mục tham gia. Khi thấy quân du kích kéo tới, giáo dân Cao Mai hoảng sợ, chạy vào nhà thờ đóng cửa lại chờ cha xứ trờ về mang theo tiếp viện. Du kích tổ chức bao vây, đòi phải thả các đồng chí bị bắt ra. Đám người bị bao vây cứ cầm cự. Khi đêm về, nhà thờ bốc chấy. Nhiều người bị nhốt trong đó chết thiêu. Người ta không rõ vụ hỏa hoạn đó là do nhóm bao vây gây ra, hay chỉ là một chuyện rủi ro. Sau đó, cha Luật và quân lính ông trờ về, ông chỉ còn biết khóc trước đống tro tàn của nhà thờ và cái tang của dân chúng. Ông quyết định trả thù cho giáo dân. Cuộc báo thù hết sức kinh khủng. Các du kích quân bị lính cha bắt đều bị chôn sống trước nhà thờ. Từ đó, Cao Mai trở nên một nơi kinh khủng cho cả vùng.
    Cao Mai là một trường hợp điển hình trong thảm kịch Việt Nam hồi đó. Máu đổi máu, những cuộc thanh toán tiếp theo những vụ trả thù. Vì không biết nghệ thuật quân sự và chiến lược của Kháng chiến - do chính phủ Hồ Chí Minh vạch ra từ 1940 - quá tự tin vào những thắng lợi lúc đầu, người Công giáo cứ đi bổ ráp tại các làng không công giáo, vốn thường đâu có chống cự lại họ.
    Vào thời gian này, Kháng chiến chỉ ở bước đầu của «chiến lược phòng thủ» thôi. Quân đội chính qui rút vào núi, sau khi áp dụng chiến thuật «tiêu thổ» tại các thành thị. Từ 1947, các ngôi nhà lớn đều bị triệt hạ, trừ những kiến trúc thuộc về Giáo hội, nghĩa là các chủng viện, trường Công giáo, tòa giám mục, nhà thờ. Sự tôn trọng của cải Giáo hội như thế tỏ cho thấy rõ chính phủ Hồ Chí Minh đã thận trọng chừng nào, để tránh đụng chạm đến tình cảm tôn giáo của người Công giáo, kể cà trường hợp họ biết trước rằng các kiến trúc đó rồi đây sẽ bị quân Pháp sử dụng. Những biến cố xảy ra sau này, đã xác lập sự tiên đoán trên là đúng. Thật vậy, năm 1949 và 1950, phần lớn các tòa nhà Công giáo đã là nơi đặt bộ tham mưu của các toán quân viễn chinh.
    Năm 1950, tất cả địa phận, từ Thanh Hóa và Vinh (không hề bị chiếm đóng) được quân Pháp «giải phóng». Nhằm chiến thắng cs, người Công giáo miền Bắc tổ chức các cuộc rước hết sức to lớn, đem tượng Đức Mẹ Fatima rảo khắp nơi, tượng này đã do giám mục Gomez, Hải Phòng, làm phép tại Fatima rồi rước về. Tượng Đức Mẹ viếng thăm lần lượt Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Thái Bình; Phát Diệm, Bùi Chu. Việc tăng cường sùng mộ Đức Mẹ Fatima một cách đột ngột như thế, mang tính chất nổi bật của cuộc thánh chiến. Theo các vị cổ vũ việc sùng kính này, thì Đức Mẹ Fatima đã hứa sẽ đập tan bọn Cs Nga sô. Tiếng hô triệu tập dân Công giáo lúc đó là: Trái tim Mẹ sẽ thắng! Việc nhắm mắt tin vào chiến thắng của Đức Mẹ Fatima một cách mù quáng đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, như chúng ta sẽ thấy.
    Sau sự thất bại của Đơ Lát đơ Tátxigny và cái chết của ông tướng này, lực lượng nhân dân chuyển sang gia đoạn hai của cuộc chiến, «chiến lược cân bằng lực lượng». Họ không còn để cho quân Pháp và lính Công giáo nắm quyền chủ động về hành quân nữa. Năm 1952, nhiều giáo xứ-đồn bót các địa phận Thái Bình và Hải Phòng bị chiếm, hoặc đầu hàng. Năm 1953, các vùng đất quân Pháp kiểm soát bị thu hẹp lại ở các thành phố và các xứ đạo nông thôn của địa phận Phát Diệm và Bùi Chu. Chính quyền Pháp gọi tình hình đó là «sự mục rã vùng Đồng Bằng»: hai phần ba đất đã về lại quyền kiểm soát của ***** Chí Minh. Còn lại một phần ba kia, ngoại trừ các trung tâm thành thị và Bùi Chu, Phát Diệm, thì quân Pháp kiểm soát ban ngày, ********* làm chủ ban đêm
    (bỏ một đoạn)
    được mltr_sg sửa chữa / chuyển vào 09:44 ngày 08/02/2010
  2. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    ?oLập lờ đánh lận?? ông trời!
    Lập lờ khái niệm ông trời trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, để cố gắng làm cái việc chứng minh dân tộc Việt Nam đã có cái gốc ?othờ?? chúa từ lâu đời, là điều đã được các bạn đọc Phattuvietnam.net đề cập đến trong dịp thảo luận một bài viết về việc cải đạo tín đồ Phật giáo đăng tải trước đây.
    Hiện nay, dụng ý ?olập lờ đánh lận? (1) đã rõ, nội dung các ý kiến phản hồi cũng nói lên được phần nào vấn đề. Vì vậy, ở đây, chúng tôi hướng đến mục tiêu tìm hiểu sự hình thành của kỹ thuật thâm hiểm này.
    Chúng ta đều biết trời đã có một vị trí nhất định trong đời sống tâm linh người Việt, nhưng đó không phải là ông trời tôn giáo, mà là khái niệm trời hết sức mơ hồ, được hình dung có phần chủ quan?
    Chỗ này ông trời có dáng dấp một ông vua ?" Ngọc Hoàng và một số chùa Phật thờ luôn cả ông ?ovua? này, trong sự vận hành mang tính bao dung của Phật giáo đại thừa. Chỗ khác, ông trời chỉ là khoảng không bao la phía trên mà người Việt theo đạo Phật vẫn thờ với tên gọi bàn thiên. Ở chỗ khác nữa, ông trời với thuyết Thiên mệnh của Nho giáo, cũng không hình thù gì?Tất cả những ông trời đó đều sống chung với đạo Phật. Vua tế trời nhưng vẫn lễ chùa. Truyện Kiều đậm đà tư tưởng nhân quả, nghiệp báo của nhà Phật, nhưng vẫn có một ông trời đánh ghen với khách má hồng, để lại có chuyện ?onhân định thắng thiên?? Trời tồn tại song song với đất, không phải là chủ thể duy nhất.
    Tất cả các ông trời mà đạo Phật đều dung chứa, đối với đạo Thiên Chúa La Mã, ngày mới đến Việt Nam từ những ?odương nhân? (người tây dương), đều bị coi là những thứ bị bài trừ: ?obụt thần ma quỷ?.
    Những người đi cải đạo rất kỵ trời của người Việt, trời của dân tộc bản địa (mà vua là con trời), nên trong giai đoạn đầu của đạo Thiên chúa ở Việt Nam, người ta cố gắng phân biệt trời được cho là ở trong chùa hay trời mà vua cúng tế đó khác với trời trong Kinh Thánh, bằng cách gọi gọi trời trong Kinh Thánh là ?ochúa Dêu?.
    ?oChúa Dêu?, một cái tên rất lạ, từ tiếng Bồ Đào Nha, bảo đảm chắc chắn là phân biệt được trời trong cụm từ quen thuộc của người Việt ?otrời Phật?, mà đã bị đổi tên với dụng ý xấu là ?obụt thần?.
    Đối với người Việt, bụt với Phật ngang nhau, dù viết hoa hay không viết hoa. Nhưng trời và thần khác nhau xa. Vì vậy, cần phải ?ohạ tầng công tác? ông trời có quan hệ với đạo Phật đó xuống hàng thần, hay trời ?ogiả?, để bài trừ, bôi nhọ.
    Đến thế kỷ XX, từ Dêu vẫn còn được Thiên Chúa giáo tại Việt Nam sử dụng: Trong kinh Tin kính: ?oTôi tin kính Dêu cha hay lọn vậy, dựng nên lời đất. Tôi tin kính một con Dêu cha, Jê?"su Ki?"ri?"xi-tô Chúa chúng tôi? và đọc Chúa Dêu trong kinh thánh mừng: ?oA-ve Ma-ria, đầy ga-ra-sa, chúa Dêu ở cùng bà, nữ trung bà có phúc lạ, bà thai tử Jê-su gồm phúc là Sang-ta Maria. Đức Mẹ Chúa Dêu, cầu cho chúng tôi kẻ có tội, khi nay cập thần đẳng tử hậu. Amen? (2)
    Có ?oChúa Dêu?, người ta ra sức bài xích ông Trời của người Việt, cố làm cho mọi người thấy có trời giả và trời thật, tức Chúa Dêu: ?o?song le đức chúa trời chẳng phải loài người ta, thật Mục Mũi trong sách đạo vậy là loài người ta, Mục Mũi ấy chẳng nên chức đức Chúa trời đâu. Sự Ngục Hoàng nó cũng nói như vậy, vì chưng trong sách đạo vậy nói rằng Ngục Hoàng là con cháu Lão Tử, lại trong sách ấy kể cha mẹ Ngục Hoàng: vì vậy Ngục Hoàng chẳng phải thật Chúa trời đất (trang.29 - 30), sự Bàn cổ mà khiến sinh ra trời đất thì dối vậy, như sự Mục Mũi và Ngục Hoàng đã bắt khi nãy? (3).
    Như vậy, ?ocó chức? trời thật và có những trời ?ogiả?.
    Lẽ tất nhiên là việc đối kháng chúa Dêu với các khái niệm trời bản địa, gộp hết vào đối tượng bài trừ là ?obụt thần ma quỷ? không phải là một kỹ thuật cải đạo khôn ngoan. Nó hỗn hào và thô bỉ quá!
    Vì thế, ngày nay, để cải đạo hiệu quả, người ta chuyển hướng 1800, biến trời ngày xưa, một ông trời có liên hệ với đạo Phật bản địa, ông trời giả lúc đó, thành ông trời thật, một dạng của ?ochúa Dêu?.
    Lập luận này dễ dàng tìm thấy trên trang mạng hay ở các diễn đàn nhằm mục tiêu cải đạo. Bạn đọc Phattuvietnam.net đã dẫn lại những luận điệu này, vì vậy thiết tưởng không cần trình bày lại chi cho mất thời gian.
    Chỉ mong lưu ý được đối với bạn đọc sự chuyển hướng kỹ thuật ngoay ngoắt, giảo quyệt và không liêm sĩ như vậy.
    Một sự chuyển hướng như thế không chỉ diễn ra đối với ông trời mơ hồ của người Việt, mà còn diễn ra đối với ông trời cụ thể của các tôn giáo khác. Mục tiêu cũng không gì khác hơn, một sự lập lờ để qua đó việc truyền đạo được dễ dàng. Người ta nhận ra rằng, trời thật hay trời giả đều không quan trọng, mà trời nào giúp cải đạo tôn giáo bản địa thuận lợi thì dùng trời ấy.
    Cho nên, người ta dùng cả từ ?oAllah? để dịch Chúa trời trong Kinh Thánh.
    Mặc dù mới đây, việc đồng hóa này đưa lại sự phản đối kịch liệt ở Malaysia, cả bằng biện pháp ôn hòa lẫn những hành vi bạo động bất hợp pháp, những người ta vẫn bám chặt lấy từ Allah.
    Thực ra, không cứ gì phải khư khư giữ lấy từ ?oAllah? để dịch từ Thiên Chúa (God) để kích động thù hằn, gây bùng nổ xung đột tôn giáo, với hàng loạt nhà thờ Thiên Chúa La Mã và Tin Lành bị đốt phá.
    Nhưng kỹ thuật ?olập lờ đánh lận? như thế là kỹ thuật tốt nhất. Cứ bưng mặt mà dùng.
    Đối với Hồi giáo là thế: ?oAla? chính là? ?oGod?, còn với Phật giáo Việt Nam, chúa đã ở sẵn? trong chùa: Chúa ở trong câu ?olạy trời mưa xuống??, chúa hiện hữu trong tượng cốt Ngọc Hoàng, chúa ở trên bàn thiên của nhà nhà tín đồ đạo Phật?
    Cho nên theo đạo Chúa cũng như là theo đạo Phật đó thôi! Chúa đã sẵn đó, đã thờ, đã kính tự bao giờ. Nay chỉ đổi chút danh xưng, hình thức, không hại gì. Người theo đạo Phật bị cải đạo, có thể không chút ngỡ ngàng, vì như cách nói mượn luôn của nhà Phật, như là tìm lại chính mình mà thôi....
    Một chiếc áo khoác mới được mặc lên ?ochúa Dêu? để người ta đi vào giữa lòng đạo Phật cho dễ.
    Kỹ thuật hay mánh khóe?
    Phật tử chúng ta nên cẩn trọng: Chúa trong Kinh Thánh và trời, một khái niệm dân gian mơ hồ mà Phật giáo Việt Nam đã dung chứa, là hoàn toàn khác biệt. Một thời những người làm công việc cải đạo đã nói như thế.
    Và bây giờ, cũng những người làm công việc cải đạo lại nói ngược lại!
    (1)      Cụm từ Nguyễn Du dùng, trong Truyện Kiều
    (2)      Đỗ Quang Chính, SJ: Hòa mình vào xã hội Việt Nam, nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội 2008, trang 92.
    (3)      Sách dẫn trên, trang 112 ?" 113, dẫn lại Phép giảng tám ngày của Đắc Lộ
    Minh Thạnh
    http://phattuvietnam.net/nghiencuu/triethoc/8608.html
  3. BrodaRu

    BrodaRu Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    06/03/2004
    Bài viết:
    1.026
    Đã được thích:
    32
    Tôi đã đọc nhiều lần tất cả các bài của topic này để hiểu và tôn trọng .Một số các tác giả có cái nhìn chính xác,một số lớn hơn có quan điểm chưa đúng về tình hình tôn giáo Việt nam theo ý kiến cá nhân tôi.
    Không tóm tắt các ý kiến cuả các bạn,tôi chỉ muốn nêu một số nhận định chủ quan:
    i.Việt nam là nước đa tôn giáo.
    Có 6 tôn giáo. Giống như các nước khác,Việt nam cần thiết có sự tôn trọng tất cả các tôn giáo và những người không tôn giáo.Hơn hết,cần có sự đoàn kết-đại đoàn kết như ***** đã nêu.
    ii.Việt nam đang đổi mới mạnh mẽ các quan điểm đối với tôn giáo.
    Điều này cũng trùng khớp với giai đọan chuyển biến quá độ như ở Liên xô 1985 trở đi.Các nhận thức mới thay cho lối đối xử bất công,việc làm cho tôn giáo tiêu biến đi như trước.Những cố gắng không mệt mỏi duy ý chí cuả Lê nin và được Stalin thưà kế,nhằm xã hội hoá vô thần trong quảng đại quần chúng đã bị thất bại thảm hại sau gần 70 năm.Lúc đó ,Bộ chính trị DCS Liên xô ,qua ông Suslov,cây lý thuyết số một hàng chục năm cuả Đảng,cay đắng nhận ra rằng: Lê nin quá vội vàng trong việc xây dựng một nước xã hội chủ nghiã không theo học thuyết cuả Mác,trong đó ông ta cố gắng xoá bỏ hai đặc điểm cơ bản cuả con người là tư hữu và tôn giáo.
    Tại Liên xô,Công giáo bị xoá xổ hoàn toàn,bị đặt ra ngoài vòng pháp luật.Chính thống giáo( giống hệt Công giáo),đạo gốc mà trước Cách mạng tháng 10, 95% dân số theo cũng bị thảm sát hết sức đẫm máu.18 ngàn linh mục tu sỹ bị bắn,treo cổ,..Cảnh sát xông vào nhà riêng nổ súng giết chết tất cả những ai tụ tập cầu nguyện Đạo Công giaó.Tới mức độ,cả nước Nga đến 1990,chỉ còn có 2 nhà thờ Công giáo dành riêng cho Ngoại giao đoàn,với 2 linh mục thừa sai.Chính thống giáo,tuy không bị đặt hoàn toàn ra ngoài vòng pháp luật,nhưng cũng bị làm cho mọi cách để tiêu biến đi.Năm 1993,khi phát hiện 217 người bị mất tích vào 1921 do bị cảnh sát thủ tiêu trong hầm nhà thờ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội Moscow,thân nhân họ đã kiện và đòi chính quyền Eltsin bồi thường hàng chục triệu $ vì cho rằng chính quyền kế tiếp có trách nhiệm giải quyết thiệt hại.Một ngày muà đông ảm đạm,số người đó đi cầu nguyện không trở về.Họ bị đẩy xuống hầm Nhà thờ và bị chết vì hơi độc.Hầm nhà bị lấp,xây kín cho đến khi Nhà thờ được giao lại cho giáo dân,khi phục chế,mới phát hiện ra xương cốt cả trẻ thơ lẫn người già..Lỗi cuả họ là đi lễ ở Nhà thờ gần sát với Liubanka,cạnh trụ sở KGB.
    Như thế,tôn giáo vẫn tồn tại,và dai dẳng phục hồi.
    Tới 1985,không những thượng cấp,mà dân thường Liên xô cũng nhận ra được những vấn đề như thế,ý thức hệ cuả dân Liên xô thay đổi.Tuy thế,nhiều người vẫn giữ cái nhìn cũ xô viết.
    Trong diễn đàn này,ở box này,cũng như box Thảo luận,rất nhiều topic lập ra về vấn đề tôn giáo và đã có những tranh luận căng thẳng.Vì thế,giống hệt như Liên xô cũ,những ý kiến như thế cũng đã có ở thời đó và ngay cả bây giờ (ở những người già).;
    iii.Tôn giáo nào cũng có người tốt,người xấu,tôn giáo nào cũng cần được trọng thị,được Nhà nước và người dân đối xử công bằng từ trong ý nghĩ.
    Có nhiều ý kiến mạ lỵ Công giáo và đề cao thái quá Phật giáo.Cũng còn may,chưa thấy ý kiến mạ lỵ Hồi giáo Việt nam.
    Đức Jesus Christ cũng như Đức Phật Thích ca là những tấm gương trong sáng,cao cả.Lý thuyết cũng như tôn giáo cuả các Ngài phải được tôn trọng.Là một người Công giáo,tôi tôn vinh Thiên Chuá mọi nơi,cũng như bạn,một Phật tử,luôn kính trọng chư Phật và chúng ta cùng tôn trọng nhau.
    Đạo Công giáo được xây dựng và phát triển trên hòn đá tảng là Thánh Peter và học thuyết đầy tình nhân ái cuả Chuá Jesus.Những người theo đạo đầu tiên tại Việt nam thuộc xứ Ninh cường thuộc Bùi chu cho đến phu nhân cuả Chuá Trịnh cách đây cũng đã gần 400 năm.Đến nay,khoảng trên 7 triệu người Việt nam trong nước là tín đồ Công giaó chiếm 9% dân số cả nước.Sau ngày Giải phóng,số tín hữu tăng hơn gấp 2 và trở thành nước có đông tín hữu Công giaó thứ 2 ở châu Á sau Philippine.
    Đa số tín hữu Công giáo là tốt.Người Công giáo Việt nam đồng hành cùng dân tộc như chính phủ Việt nam thường phổ biến.
    Tuy nhiên,có một thời,gần như toàn bộ hàng Giáo phẩm cao cấp đã chống Cộng sản.Những Giám mục Lê Hữu Từ,linh mục Hoàng Quỳnh,v.v.v là những tấm gương mù,gương xấu.Những linh mục xấu xa trong vùng Bùi chu Phát diệm tự trị giết cộng sản cũng khát máu không kém các tu sỹ Phật giáo Hoà hảo hay Cao đài lập các vùng chống ********* trong Nam. Cái thái độ đó,cái lập trường dùng bạo động để chống cộng sản là đi ngược với Kinh thánh.Chuá Jesus luôn chúc phúc cho những người tra tấn và chém giết mình cũng như các học trò cuả mình.Những linh mục,giáo dân như vậy không còn thực chất là người Công giáo nưã.Người Công giáo có thể dũng cảm nói lên sự thật,nói lên quan điểm nhưng tuyệt đối xa lánh việc dùng vũ lực.Người Công giáo bắt buộc phải cầu nguyện và chỉ bằng cầu nguyện đổi mới mọi sự.
    Thậm chí,khi người Công giáo bị tra tấn,bị bắt buộc đạp lên Thánh giá,nếu không,sẽ bị chém đầu trong năm lần bách hại kể từ XVIII đến XIX,họ vẫn liên lỉ cầu nguyện cho Triều đình: người Công giáo không có kẻ thù là con người.
    Như trên và nhiều bài đã viết trong forum,khi mà hàng Giáo phẩm đa số chống cộng sản như trước,cũng như bây giờ,một vài giáo sỹ hay một số giáo dân chống lại Chính quyền,họ không đại diện cho người công giáo Việt nam (CGVN).Thái độ hợp tác với chính quyền,bắt đầu công khai từ Đức Hồng Y Trịnh Như Khuê,một người rất bảo thủ về mặt giáo điều.Ngài nói lại câu nói cuả Thánh Paul khi khuyên các tín hữu cho các linh mục,các Giám mục Việt nam : Phải tuân phục chính quyền,vì đó là do ý Chuá Trời dựng lên.
    Trong hàm ý đó,người ta thấy rõ,việc không vưà lòng hay muốn thay đổi đường lối đối xử cuả Chính quyền,người Thiên Chuá giáo chỉ được phép dùng cách cầu nguyện.
    Ngay việc gần đây,giáo phận Hà nội có chuyện này chuyện khác,ấy là do cách hành động không phải đối thoại cuả Đức ************* Ngô Quang Kiệt và một số linh mục,giáo dân.Điều này không phản ánh được thái độ cuả CGVN.Hiện nay,thái độ cuả Hội đồng giám mục Việt nam là đối thoại với Chính phủ,ngõ hầu xây dựng xã hội tốt đẹp.Rất tiếc,thái độ cuả Đức TGM Ngô Quang Kiệt không theo đúng hướng dẫn cuả Bộ Giám mục Toà Thánh.Theo tôi,ông đã chọn con đường từ nhiệm bằng cách viết đơn xin về hưu sớm.
    Chuyển sang phần Phật giáo.Trong quá khứ,rất nhiều lần Phật giáo đứng lên mà điển hình vụ Phật giáo nổi dậy,có cả Ủy ban hành động do Thượng toạ Thích Trí Quang nổi lên nhằm lật đổ chế độ cuả ông Ngô Đình Diệm.Sau đó lại vụ Phật giáo miền Trung.Giáo hội Phật giáo Thống nhất mà thành phần tích cực là Giáo phái Ấn quang bị Chính quyền Sài gòn cấm hoạt động vì lý do chính trị,vì lý do muốn nắm quyền cai trị.Sau năm 1975,Giáo hội này hoạt động tại Việt nam bất hợp pháp và liên tục là những vấn đề rất đâu đầu cho chính quyền.Các vị như Hoà thượng Thích Quảng Độ,Thích Không Tánh bị bắt nhiều lần và vẫn tiếp tục chống phá Cách mạng tới nay.Vụ Bát nhã cũng là vấn đề lớn cho Chính quyền...Các vụ ở Huế,cũng như Sài gòn cũng gây khó khăn rất lớn.
    Tuy một số sư sãi và Phật tử chống phá như thế,nhưng đó chỉ là số ít.Số đông Phật tử Việt nam là những người thuần thành và tốt đẹp.
    Như thế,các tôn giáo ở Việt nam,ngay cả Hồi giáo,có số tín hữu đa số là sống tốt đời đẹp đạo.
    iv. Công giáo có đóng góp gì cho Cách mạng ?
    Ngay từ trước 1945,đã có nhiều người Công giáo theo Cách mạng.Chính phủ Kháng chiến thành lập,nhiều tín hữu Công giáo đã có những đóng góp rất lớn.Những Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Mạnh Hà,Bộ trưởng Thương binh xã hội Vũ Đình Tụng,cụ Ngô Tử Hạ,Thứ trưởng y tế Vũ Đình Thuyết và còn nhiều cán bộ quân và dân sự Công giáo khác hy sinh xương máu cho sự nghiệp Kháng chiến.
    Có một người cao tuổi,một người bạn tâm đắc cuả *****,là Phó chủ tịch Quốc hội,linh mục Phạm Bá Trực đã dành hết sức lực tuổi già mà làm việc nơi núi rừng Việt bắc ,mà bị nhiễm bệnh sốt rét ác tính nơi lam chướng,từ trần cũng ở chốn núi rừng Kháng chiến.Sự hy sinh này cũng chẳng khác sự hy sinh cuả anh bộ đội ngoài mặt trận.
    Tôi tự hào về anh hùng Đại tá Công giáo Phạm Ngọc Thảo,nhà tình báo chiến lược đơn độc xoay chuyển chế độ Nguyễn Khánh.Tôi tự hào về Thiếu tướng Công giáo Vũ ngọc Nhạ.Tôi tự hào về anh hùng Công giáo Vũ thị Hoa.Tôi tự hào về trên năm vạn bộ đội Công giáo hy sinh xương máu trong các cuộc chiến tranh chống Pháp,chống Mỹ và còn nhiều hơn nưã trong các cuộc chiến với Trung quốc và Căm pu chia.
    Trên hết,tôi tự hào về bố tôi,một thương binh Công giáo công chính,một con người dũng cảm và khiêm tốn,trong đầu vẫn còn mảnh đạn pháo.
    Ngày nay,tuyệt đại đa số dân Công giáo sống chấp hành chủ trương chính sách Nhà nước.Tỷ lệ tội phạm là người Công giáo rất thấp.
    v.Chủ trương cuả Nhà nước Việt nam và Nhà nước Vatican như thế nào?
    Đó là Đối thoại và hợp tác.Chuyến đi thăm Đức Giáo hoàng cuả Thủ tướng *************** là minh chứng.Gần đây nhất,chuyến viếng thăm cuả ************* ***************** nói lên điều này.
    Vatican thể hiện thiện chí trong sứ mạng hoà giải qua việc chỉ thị cho Đức TGM Ngô Quang Kiệt rút những giáo dân,tu sỹ gây áp lực trong việc đứng cầu nguyện tại Toà Khâm sứ.
    Chính phủ Việt nam cũng muốn thể hiện thiện chí trong lời tuyên bố cuả Chủ tịch ***************** trước mặt Đức Giáo hoàng Biển Đức:
    Chủ tịch ***************** nói lên những đóng góp rất lớn cuả người công giáo Việt nam trong sự nghiệp đấu tranh và xây dựng Tổ quốc.''************* ***************** khẳng định VN đang nỗ lực mở rộng quan hệ với Vatican''.Đức Thánh Cha cho rằng,bây giờ là ''một giai đoạn ý nghĩa đối với sự phát triển quan hệ song phương với Việt Nam và Tòa Thánh '' và Ngài hy vọng sẽ giải quyết được nhiều vấn đề còn tồn tại.
    Tóm lại,thái độ cuả Chính phủ Việt nam và Chính phủ Va ti can là hợp tác và đối thoại


  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1

     
    Rất cảm ơn bác BrodaRu đã có bài viết rất giá trị.
    Chúng tôi chống lại những gì mà bác gọi là "những tấm gương mù,gương xấu", Tổ tiên người Việt để lại câu "Con sâu bỏ rầu nồi canh", chúng tôi chống lại những con sâu ấy, chúng tôi cũng muốn nhiều người biết đến những con sâu ấy mà tránh đi.
    Tuy nhiên, có nhiều thành viên do không hiểu biết, hay cực đoan, hay mù quáng mà có những lần chúng tôi phản ứng gay gắt, đó không phải điều chúng tôi muốn, nhưng "đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy", bác hẳn cũng đọc tiêu chí của tôi tại trang đầu!
    Xin cảm ơn bác BrodaRu và xin tiếp tục với trích một số đoạn trong sách THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM của Linh Mục Trần Tam Tỉnh do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1978.

    Chương III - GIÁO HỘI TRONG CƠN BÃO BÙNG
    1 "? GIÁO HỘI CHIẾN THẮNG
    «Tại các vùng tôi đã đi thăm, người CS đã giành được một loạt thắng lợi về chính trị, hành chính, quân sự và ?" cũng phải nói thôi ?" tinh thần? Điều đã gây ấn tượng mạnh nhất trong tôi, hỡi ôi, lại là tinh thần hăng hái họ đã tạo được nơi các cán bộ không Cs và sự ủng hộ mạnh mẽ họ giành được từ phía nông dân». (Joseph Alsop, phóng viên chống c ộng, ngày 31-8-1954).
    Lêo Secnơ (Leo Cherne) viết trong báo Look ngày 19-1-1955 rằng: «Nếu tổ chức đầu phiếu hiện nay thì phần lớn người Việt (miền Nam) sẽ bỏ cho CS...Chúng ta biết làm được gì?».
    Các phóng viên người Mỹ kể trên có lẽ chưa đọc lời tuyên bố chính thức của các tu sĩ dòng Tên trong báo Missi mười lăm hôm sau hiệp định Giơnevơ, vốn đã tiên liệu bằng giấy trắng mực đen cuộc đầu phiếu cho năm 1956, như sau: «Sẽ không có đầu phiếu, dầu người của Nhà nước có suy nghĩ nói năng thế nào cũng mặc. Sẽ không bao giờ có đầu phiếu, bởi một lẽ là không thể làm việc đó, nếu chính quyền miền Nam có may mà thắng cử, thì liệu chính phủ ********* có chịu giải tán quân đội, bộ máy hành chính, cảnh sát của họ để tuân theo sự phán quyết của dân chúng chăng? Thực ra, ********* vẫn mong một thắng lợi trọn vẹn, càng hòa hoãn thì càng có tính quyết định hơn. Họ mong chiến thắng về tâm lý «giải phóng» bởi vì các bối cảnh chính trị và mối liên lụy miền Nam mắc phải, lại có lợi cho họ.
    «Nhưng các cuộc bầu cử có lợi cho ********* không thể xảy ra, bởi vì Hoa Kỳ và các thành viên trong Đông Nam Á không thể chấp nhận một sự đảo ngược cán cân như thế. Càng không thể được, khi mà chính quyền Việt Nam đã nhất định quay sang phía Hoa Kỳ, được coi là thành trì các nước tự do» (Missi số 7.1954, tr.252).
    Danlơt (F. Dulles), Quốc vụ Hoa Kỳ, đã chẳng nói trong một mật điệp gửi cho phụ tá của ông, ngày 7-7-54, đang tham dự thương nghị Giơnevơ như sau: «Chẳng còn hồ nghi về việc các cuộc bầu cử có thể thống nhất đất nước Việt Nam dưới quyền của Hồ Chí Minh» (Pentagon Papers 46).
    Aixơnhao cũng đã chẳng cả quyết sau này rằng: «Nếu bầu cử xảy ra theo như Hiệp định Giơnevơ đã tiên liệu thì 80% dân chúng miền Nam sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh» đó sao?
    Phải nhìn vào ánh sáng của chính sách rõ ràng đó, người ta mới hiểu được tại sao Mỹ và các thành phần Công giáo đã nổ lực xô đẩy vào Nam những đoàn người Công giáo rồi đây trở thành những toán quân xung kích chống Cộng và có nhiệm vụ phá hoại bầu cử, để hoàn tất việc chia cắt đất nước ra làm hai, trái với Hiệp định Giơnevơ và bảo vệ cho chế độ mỏng manh do Mỹ dựng lên.
    Toàn thể độc giả chắc còn nhớ các biến cố tại Sài Gòn những năm 1954 ?" 1956. Ngô Đình Diệm phải đánh dẹp các lực lượng phong kiến đã do quân Pháp dựng lên trong thời chiến: Quân Bình Xuyên, lúc đó kiểm soát ngành cảnh sát Sài Gòn Chợ Lớn, các đảng phái vũ trang như Cao Đài và Hòa Hảo và cái gọi là quân đội miền Nam, nhưng sĩ quan đều là tay sai của Pháp. Diệm đã thắng.
    Một đàng, nhờ Mỹ đã thành công hất cẳng Pháp, bắt họ rút hết quân thuộc địa về. Quân Pháp đi rồi, Ngô Đình Diệm truất phế Bảo Đại, rồi tự phong là tổng thống Cộng hòa miền Nam. Trong tất cả các cuộc khủng hoảng này, chú Sam luôn luôn có mặt đấy, «Theo yêu cầu của ông Diệm, chúng tôi (trung tá Lansdale, trùm CIA) đến thăm ông ta hầu như mỗi chiều, trong thời gian đó căng thẳng gia tăng, và nhiều khi cuộc thăm viếng của chúng tôi kéo dài hàng giờ» (Pentagon Papers, tr.20).
    Nhưng đàng khác, bên cạnh sự ủng hộ của Mỹ, Diệm cũng cần có lực lượng dân chúng để giúp ông cầm quyền. Nhân dân miền Nam tỏ thái độ hững hờ hoặc chống đối ông. Các đảng phái chính trị - tôn giáo hầu như không không muốn hợp tác với ông. Quân đội thì còn ở dưới sự chỉ huy của các sĩ quan thân Pháp. Đảng Cần Lao do em của Diệm là Ngô Đình Nhu lập ra, tập họp một nhóm chính trị gia Công giáo tư sản còn ở giai đoạn trứng nước. Diệm dựa vào khối Công giáo di cư, dễ sai bảo và cuồng nhiệt, sẵn sàng tuân lệnh các cha xứ kéo nhau xuống đường mít tinh ủng hộ.
    Cuộc xuống đường đầu tiên xảy ra ngày 21-9-1954. «Trong không khí bị đầu độc của Sài Gòn, những người di cư khốn khổ ấy dầu sao cũng là một sự khích lệ cho Diệm, khi họ kéo nhau biểu tình hô to ủng hộ ông ta, với những khẩu hiệu được bôi vẽ vội vàng. Như thế ông không phải cô đơn một mình trong dinh Dorođôm, như một vài người muốn nói. Người di cư được tập họp theo những mệnh lệnh hết sức đơn giản. Họ biết rằng người cha của họ, người họ cậy nhờ, người bảo hộ cho họ, đó là tổng thống Diệm? Người ta nói với họ rằng tổng thống sắp gặp rắc rối với các đối thủ, thế là họ kéo nhau tới, một cách hiền hòa, chẳng súng ống gì, để nói lên sự gắn bó của họ».
    Đó là mô tả tình hình theo báo Missi. Còn phải thêm luận điệu của Paris-Match để hiểu sự kết cuộc bi đát của nội vụ: «Các đoàn xe cam nhông Bình Xuyên xuất hiện, điều động vào địa hình rất tài, dựng cản khắp đưởng phố. Rồi bỗng dưng một loạt súng máy bắn xả vào một toán, mà chỉ cần nhẹ hơn cũng đử sức giải tán? Nhiều người chết và bị thương nằm la liệt giữa phố. Một nhóm nhỏ biểu tình tiến tới quảng trường Bá Đa Lộc và treo lên bờ rào của Nhà thờ chính tòa mấy câu khầu hiệu. Các linh mục tới gỡ đi và khuyên đám biểu tình hãy giải tán.».
    Những màn tương tự cứ tiếp tục xảy ra tại Sài Gòn. Mỗi lần «Quốc gia lâm nguy», hàng chục ngàn người Công giáo, từ các trại di cư quanh thủ đô sắp hàng theo sau các cha xứ bận áo chùng thâm, kéo tuôn về thủ đô để biểu tình nói lên ý chí cương quyết ủng hộ Diệm tới chết. Quả thế, số phận họ được coi như gắn liền với số phận của thủ tướng.
    Nhờ viện trợ Mỹ, việc định cư hầu như được giao phó hoàn toàn trong tay cái cha xứ, các làng «kiểu Bắc kỳ» mọc lên tại Hố Nai, Cái Sắn v.v? bao quanh nhà thờ, lúc đầu chỉ làm bằng vật liệu nhẹ, sau được xây gạch thường có tháp chuông. Đó là những ốc đảo khép kín, vừa không thể xâm nhập, vừa không thể đánh chiếm.
    Nhờ sự ủng hộ vô điều kiện đó, sau cùng Diệm đã hất được Bảo Đại trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-55, Diệm chiếm được 98% số phiếu. Nước Cộng hòa được công bố và đương nhiên Diệm trở thành tổng thống đầu tiên. Các mục tiêu của chính phủ ông đơn giản lắm. a) củng cố miền Nam; b) giải phóng miền Bắc khỏi ách CS.
    Người ta đã viết nhiều về Ngô Đình Diệm như một «người hùng Đông Nam Á», là «Côngxtantanh châu Á», là «Klôvít mới trong lịch sử Giáo hội». Theo dư luận của những người đã từng cộng tác với ông, Diệm là một người liệm khiết, độc tài, phong nho, và «trung cổ». Cổ lổ, ông càng tỏ ra cổ lổ hơn, khi tự cho mình là «Người Chúa chọn» để cứu dân. Là người độc thân từng sống gần chục năm trong tu viện, chủng viện, tại Việt Nam cũng như tại Mỹ, ông gần gủi với thuyết thiên chủ hơn là dân chủ.
    GM Ngô Đình Thục Là cha của nước Cộng hòa, ông chỉ chấp nhận một đảng duy nhất là Cần Lao, được thành lập và khuynh loát bởi ông em Ngô Đình Nhu, làm nòng cốt cho cái ông gọi là Phong trào cách mạng quốc gia. Phong trào này được tổ chức theo cơ cấu của một chính thể quốc gia, có tất cà các bộ chân rết như bộ máy chính quyền từ trên xuống dưới, khiến bất cứ ai muốn được thành tỉnh trưởng, quận trưởng, xã trưởng, giáo sư hay công chức, đều phải là đảng viên Cần Lao.
    Hệ tư tưởng của Đảng và Phong trào là «thuyết Nhân vị», chỉ có một trường đào tạo duy nhất là «Trung tâm đào tạo nhân vị?T, do người anh của tổng thống là Giám mục địa phận Vĩnh Long, Ngô Đình Thục sáng lập. Bất kỳ là Công giáo hay không, tất cả công chức đều phải qua một khóa học tập ít là một tháng tại đó. Cá lớp học đều do các linh mục đảm nhiệm, nhồi nhét những khái niệm về nhân bản, con người được Thiên Chúa sáng tạo, giảng về những điều lầm lạc của Phật giáo, Khổng Giáo, về các tội ác của C ộng sản? Cuộc «tẩy não» này do chính các linh mục thực hiện, họ là những người chỉ biết triết học kinh viện tây Âu và «đã tiếp thụ tại Rôma cái khái niệm về Phật giáo do các cố cựu thừa sai dạy cho» (lời thú nhận của giám mục Thục).
    Vị giám mục này, anh của tổng thống, niên trưởng của hàng Giáo phẩm, đã hóa thành trí não tuyệt vời của chế độ. Người ta tìm tới ông để xin xỏ ân huệ, đặc quyền. Giám mục làm như hiện thân của Giáo hội, cũng như ông em là hiện thân của Nhà nước. Thật không phải vô cớ mà thiên hạ hàn tán về «óc hiếu thắng của Giáo hội» và chủ nghĩa gia đình trị của nhà họ Ngô. Đáp lại các lời chỉ trích, giám mục Thục nói năm 1963 rằng «Trên bàn giấy của tôi nằm chồng chất những lô đơn xin tôi can thiệp cho họ ơn này ơn nọ, khổ thay, thường chỉ là thế tục, từ chóp bu của Giáo hội, băng qua các đồng nghiệp của tôi trong hàng giám mục (?) và xuống cho tới những tầng lớp thấp nhất của quần chúng, bất phân màu da và tôn giáo (tôi có thể kể ra tên tuổi đáng kính như hồng y Feltin và đức cha Rô-đanh (Rodhain). Tôi không thể dửng dưng trước những lời kêu xin của họ. Cho nên có sự ăn qua giữa cái thiêng liêng và cái phàm tục! Ở vào địa vị tôi, các ông sẽ xự sự thế nào?» (ICI, 15.4.1963).
    Từ 1955 đến 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú, với những lợi ích thật chẳng bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây nhiểu tiếng tăm hơn, nhất là trong khi công chúng gồm 90% là ngoài công giáo mà bị kiểm hãm dưới một thứ «chính phủ công giáo». Khắp nơi, ở thành phố cũng như nông thôn, chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế.
    Tại các vùng Công giáo di cư, cha xứ là toàn quyền, là những ông vua tuyệt đối. Giám mục Ngô Đình Thục cũng phải thừa nhận những chuyện hà lạm của các nhà độc tài áo đen. Trong một lá thư gởi cho một bạn cũ, ông viết: «Người ta có cả trăm hồ sơ, tố cáo các linh mục ăn cắp tiền của di cư, bằng những danh sách ma, bằng cách tẩy xóa sổ sách, bằng cách thu xếp để chiếm đoạt tiền bạc của chương trình Cải cách Điền địa, hoặc bán hàng viện trợ Mỹ (theo các lời tố cáo của chính bà con di cư) hay là giữ tiêu riêng các khoản tiền họ nhận để xây dựng nhà ở cho bà con di cư: Nhà nước (và cả Giáo quyền) dễ dãi cứ nhắm mắt làm ngơ cái vụ đó, bởi vỉ linh mục rất cần cho việc huy động dân chúng trong cuộc chống C ộng.
    Tại thành thị, các linh mục chẳng có bằng cấp, chẳng tài giỏi gì, mà vẫn điều khiển các trường tư thục, được tổ chức những áp phe vơ vét tiền bạc. Hai linh mục đã được cử làm viện trưởng của hai trong ba đại học của toàn miền Nam, trong đó có đại học Đà Lạt. Đại học này chỉ là Công giáo nơi danh nghĩa thôi. Đất đai và cơ sở kiến trúc của nó đều do Nhà nước đài thọ. Để có nguồn thu nhập cho đại học, giám mục Thục đã giành được độc quyền các vùng đốn cây tại Định Quán, là điểm ngon nhất nước. Ông cũng xin được những thửa đất ruộng mênh mông dọc bờ biển, để trồng dương liễu và dừa; công viện này được tiến hành nhờ có tiền vay được hàng triệu đồng của chính phủ.
    Đã có đại học Công giáo thì phải có sinh viên. Song Đà Lạt là một thành phố nhỏ miền cao nguyên, ở xa các trung tâm đô thị lớn và nhất là nó chỉ là một thành phố biệt thự dành cho hạng giàu có. Muốn cho đại học Công giáo này hoạt động, chính phủ quyết định dời khoa sư phạm Sài Gòn lên, đem theo toàn bộ sinh viên, anh chị em nào cũng có học bổng Nhà nước cấp.
    Thế là nhờ có sự bảo trợ của giám mục Thục thuộc địa phận Vĩnh Long, sau nầy làm ************* Huế, các sinh viên Công giáo đã giành được những vị trí then chót và lương bỗng cao. Tòa giám mục trở thành một loại phòng ngoài của dinh Tổng thống. Người ta thấy bộ trưởng, dân biểu, tỉnh trưởng, tướng tá (trong đó có nhiều người mới trở lại đạo) lũ lượt sắp hàng vào hầu đức cha.
    Tại các tỉnh, các linh mục cố vấn chính trị rất có ảnh hưởng cạnh tổng thống hoặc bên cạnh người em thứ ba của tổng thống ?" phó vương không danh nghĩa của miền Trung ?" các cha không ngần ngại tìm cách đưa con chiên mình vào thay thế các quận trưởng hay xã trưởng không công giáo.
    Để thành lập những đơn vị bảo vệ dinh tổng thống Diệm chiêu mộ những người di cư tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình vốn nổi tiếng là dũng cảm và chống Cộng. Ông nói chuyện đó với linh mục Cao Văn Luận, một người rất thân tín. «Giả như tôi đem vào được ít chục ngàn chiến sĩ của Thanh Nghệ Tĩnh Bình và một chục cán bộ có khả năng cỡ cha Khai, thì mọi sự chắc chắn sẽ thành công. (Người ta biết rằng sau này linh mục Khai đã hối tiếc vì đã quá nhiệt tình phục vụ ông Diệm).

    ?oChính phủ công giáo? ngày càng trở nên lộ liễu khi ngành công binh, từng đoàn binh xa và vật tư của chính phủ được đưa ra sử dụng trong việc xây cất nhà thờ, chủng viện, các nhà thuê thuộc tòa giám mục; khi các cán bộ nông thôn và công chính được phái đi lo việc trồng dương liễu và dừa cho đức cha, khi các binh sĩ được biệt phái thường trực tại văn phòng Công giáo tiến hành, khi các giám mục có chỗ danh dự đứng bên cạnh tổng thống trong các nghi lễ công cộng, hay là trong các cuộc duyệt binh, khi chính phủ phê nhận luật gia đình của bà Nhu, em dâu của Diệm, áp dụng ?" trong một nước mà 90% dân là không công giáo ?" các khoản luật gần giống như trong Giáo luật. Khỏi nói tới việc dựng các tượng Đức Mẹ do tay tổng thống, có giám mục nọ kia phụ vào, tại nhiều điểm ranh giới để «nhờ Đức Mẹ che chở đất nước khỏi nạn CS».
    Quả thế, Đức Mẹ cũng được đưa vào môi trường của chủ nghĩa hiếu thắng huênh hoang, nhất là dịp Đại hội Thánh mẫu tháng 2 năm 1959, có hồng y Agagian, sứ thần của Đức giáo hoàng qua chủ sự. «Ba trăm ngàn giáo hữu đã đi theo cuộc rước khổng lồ trong ngày kết thúc, sau đó hồng y đã long trọng dâng nước Việt Nam cho Đức Mẹ Vô Nhiễm» theo tin tức báo chí thời ấy. Để cuộc rước đó thành công, ngoài sự tưởng tượng của Rôma và Pari, người ta đã huy động hàng ngàn tên công binh để xây dựng một bệ lớn trước nhà thờ chính tòa Sài Gòn, để dựng lên cổng chào, đồng thời đưa ra hàng trăm xe căm nhông để vận chuyển hàng chục ngàn giáo dân từ các tỉnh về.
    (bỏ một đoạn về Đức Mẹ La Vang)
     

    được mltr_sg sửa chữa / chuyển vào 13:01 ngày 12/02/2010
  5. thusinhbeo

    thusinhbeo Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    16/03/2008
    Bài viết:
    119
    Đã được thích:
    0
    Người Công giáo luôn nhớ hậu quả mà chẳng bao giờ nhớ nguyên nhân. Chính quyền Phong kiến Việt Nam "bách hại" người Công giáo vì lý do tôn giáo hay vì họ không tuân thủ pháp luật đương thời, tiếp tay cho ngoại bang xâm lược?
    Báo chí chính thống trong nước luôn nói thiếu tướng đã dùng "vỏ bọc giáo dân" để thực hiện nhiệm vụ.
    Báo chí Công giáo tại hải ngoại thì viết như sau:
    " Để kiểm tra Vũ Ngọc Nhạ có phải là người Công Giáo thật hay không, anh Thái đã hỏi Vũ Ngọc Nhạ khi còn ngoài Bắc đã ở giáo xứ nào, Linh mục nào rửa tội, linh mục nào đã làm phép hôn phối cho vợ chồng Nhạ... Nhạ khai rất ú ớ. Để kiểm tra thực tế, sáng Chúa Nhật tuần đó, anh Thái đã dẫn Vũ Ngọc Nhạ đi dự lễ ở nhà thờ Regina Pacis ở đường Tú Xương, Quận 3. Anh bảo Nhạ lên ngồi hàng ghế trên hết để Nhạ không thể bắt chước những người khác được. Thấy Nhạ dự lễ rất loạng quạng, không biết khi nào đứng, khi nào ngồi, khi nào quỳ, khi nào làm dấu... Anh tin chắc Nhạ không phải là người công giao.
    Kiểm tra lại kỷ hơn thì được biết huyện Vũ Thư ở Thái Bình lúc đó chỉ có 5 xã có giáo xứ công giáo, đó là: Giáo xứ Gia Lạc ở xã Hồng Mỹ, giáo xứ Cổ Việt ở xã Việt Thành, giáo xứ Thái Sa ở xã Vũ Vân, giáo xứ Bồng Tiên ở xã Vũ Tiến và giáo xứ Nguyệt Lăng ở xã Minh Khai. Xã Vũ Hội, nơi Vũ Ngọc Nhạ sinh ra và lớn lên là một xã không có giáo xứ và người công giáo nào. Trong nhà của Vũ Ngọc Nhạ không có treo một ảnh tượng nào và vợ con anh ta không bao giờ đi nhà thờ. Anh Thái đã nói thẳng với Nhạ: ?oAnh nói dối, anh không phải là người công giáo!? Bị lộ tẩy, Nhạ phải nhìn nhận anh không phải là người công giáo, nhưng lại nói khi nhỏ anh có học ở trường Dòng!
    Trong bài báo Nhân Dân đã trích dẫn trên, Đảng CSVN cũng xác nhận Vũ Ngọc Nhạ chỉ ?otạo vỏ bọc là giáo dân? mà thôi chứ không hề nói Nhạ là người công giáo.
    Như vậy, những chuyện như Vũ Ngọc Nhạ đã đi tu, lên tới Thầy Bốn rồi mới ra hay Vũ Ngọc Nhạ dạy giáo lý ở giáo xứ Bình An... đều là những huyền thoại. Thật ra, Linh mục Hoàng Quỳnh cũng có một người cháu tên là Nhạ, thường giúp các việc trong nhà thờ và trong giáo xứ, nên Nhạ đã lập lờ đánh lận con đen."
    Xóa vì link không phù hợp
    Đối với ông "Đức TGM Ngô Quang Kiệt": ông là công dân Việt Nam, ông không tuân thủ pháp luật Việt Nam, ông "đấu tranh" bằng cách huy động bà già, con nít, người dân tộc thiểu số trên rừng xuống Hà Nội, ăn bờ ngủ bụi trong những đêm đông lạnh giá cuối năm 2007. Còn ông thì yên vị trong tòa ************* Hà Nội (đất cướp của Phật giáo) để "hiệp thông" với tòa thánh của ông. Sự việc diễn ra 1 thời gian dài, chính quyền ra tối hậu thư, cơ quan đoàn thể vận động thuyết phục ông không nghe. Đến khi tòa thánh của ông thấy thua tới nơi rồi, chỉ thị cho ông "thu quân" thì ông cun cút tuân phục. Ôi người như vậy cũng được gọi là đức này đức nọ.
    Đối với Vatican: Cứ cho là ông "Đức TGM Ngô Quang Kiệt" "độc lập tác chiến" thì tại sao phải để sự việc diễn ra 1 thời gian dài rồi mới "chỉ thị Đức TGM Ngô Quang Kiệt rút những giáo dân,tu sỹ gây áp lực trong việc đứng cầu nguyện tại Toà Khâm sứ". Rút về rồi cũng chẳng thấy khiển trách, kỷ luật gì. Ôi tòa thánh của người CGVN thánh thiện, công chính và đạo đức quá.
    Xin Mod đừng xóa bài của em, vì:
    - Những chuyện em đề cập ở trên đã thuộc lịch sử rồi, không còn là chuyện thời sự nữa.
    - Em cũng chẵng muốn đả kích cá nhân ai, em chỉ muốn cho mọi người thấy ai đó đã lươn lẹo thế nào thôi, em tuyệt đối không có tham vọng tranh luận với họ.
    Cuối cùng xin chúc các bạn ăn một cái tết dân tộc thật vui vẻ và ấm cúng.
    được mltr_sg sửa chữa / chuyển vào 13:04 ngày 12/02/2010
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Bộ Mặt Thật Của Lê Hữu Từ
    Quang Toản & Nguyễn Hoài
    (N.x.b Khoa học 1965)
    Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Lê Hữu Từ được Hồ Chủ tịch mời ra làm
    cố vấn Chính phủ. Trong suốt thời gian đảm nhận chức cố vấn, mọi
    hoạt động của Lê Hữu Từ không những không đem lại lợi ích nhỏ nhặt
    nào cho nhân dân, cho Tổ quốc, trái lại còn phá hoại sự nghiệp cách
    mạng, phá hoại công cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta. Lê
    Hữu Từ lợi dụng địa vị giám mục và chức cố vấn Chính phủ, đi kinh lý
    các nơi, tuyên truyền xuyên tạc mọi chính sách đứng đắn của Chính
    phủ. Một mặt Từ ngăn cấm giáo dân gia nhập các đoàn thể cứu nước
    (1), mặt khác y tổ chức các hội đoàn để tập hợp những lực lượng phản
    động. Ngòai mặt Từ tuyên bố : ?oCông giáo cứu quốc đứng trong mặt
    trận *********?, nhưng thực chất thì như báo Đời Sống, cơ quan ngôn
    luận chính thức của địa phận Phát Diệm, đã thú nhận: ?oMấy tiếng
    ?~đứng trong Mặt trận *********?T chỉ là một mánh khóe che đậy một mưu
    toan thầm kín. Có đứng trong mặt trận ********* mới có quyền lập tự
    vệ võ trang, mới có quyền tổ chức những hoạt động cứu quốc? (2).
    Những hoạt động cứu quốc của Từ và đồng bọn thực ra đều là những
    hoạt động phản quốc .
    Ngay từ đầu năm 1946, công việc đầu tiên của Từ là sắm sử vũ khí. Từ
    đã triệu tập hội nghị linh mục toàn địa phận, vạch ra đường lối,
    chính sách chống *********, bắt các xứ phải góp tiền mua sắm vũ khí.
    Linh mục Chu và già Thiện được Từ giao phụ trách công việc này. Từ
    rất quan tầm đến mọi việc. Từ giao cho linh mục Hàm chuyển 15 vạn
    đồng cho Vũ Hồng Khanh để mua súng đạn; giao cho bọn Trung , Tròn và
    già Thoại 23 vạn đồng đi mua sắm ở Móng Cái, cử Trần Hữu Phan liên
    lạc với giặc Pháp ở Hà Nội; ủy quyền cho bọn Thiện, Điện viết giấy
    cầm 300 mẫu ruộng của Nhà chung Phát Diệm cho Nhà chung Hải Phòng để
    lấy tiền mua súng; viết thư xin tiền Khâm mạng Đrapiê...
    Kết quả bọn già Thiện đã mua được bảy thuyền vũ khí của Pháp và được
    tàu Pháp hộ tống đưa về Cồn Thoi.
    Để có nhiều vũ khí hơn nữa, Từ cho lập công binh xưởng ngay trong
    Nhà chung Phát Diệm và cử Hoàng Quỳnh đi các xứ thuộc Nam Định,
    Thanh Hóa vận dộng giáo dân góp tiền. Từ còn ra lệnh cho bọn vệ sĩ
    tìm cách cướp giật vũ khí của bộ đội và cán bộ khi họ qua Kim Sơn
    (Ninh Bình).
    Cùng với việc sắm sửa vũ khí, Từ tập hợp và tổ chức các lực lượng
    *********.
    Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Từ ra thông tri cho các xứ phải
    chuyển ?oCông giáo cứu quốc? thành ?oTự vệ cứu quốc?. Những trung đội
    biệt lập, tổ chức từ trước, nay mở rộng thành các trung đội ?ovệ sĩ?
    (1946), ?ocựu chiến binh? (1947), các đoàn ?odũng sĩ? (1948) ... Khi
    đã có vũ khí, có lực lượng, y chia địa phận Phát Diệm ra làm ba khu
    quân sự. Chỉ huy khu Phát Diệm là linh mục Hoàng Quỳnh, khu Phúc
    Nhạc là linh mục Hiệp và Cai Khoan, Cao Thăng; khu Gia Khánh, Gia
    Viễn, Nho Quan do linh mục Nguyễn Gia Đệ phụ trách. Các khu chịu
    trách nhiệm tổ chức huấn luyện quân sự, tình báo cho tự vệ và thanh
    niên Thiên Chúa giáo. ?oTổng bộ Công giáo? phụ trách chung cả ba khu.
  7. picoodle

    picoodle Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    28/11/2006
    Bài viết:
    417
    Đã được thích:
    24
    Bên ttvn ít anti CG , Chứ bên này thì
    gửi các bác cái link
    http://lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=10249
  8. unknown01

    unknown01 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/08/2004
    Bài viết:
    599
    Đã được thích:
    55
    Topic này là Tôn giáo và Dân tộc, có 2 thành phần nên nghe rất gay gắt.
    Tranh luận thì không sao, nhưng ngoài đời thường mà cứ thể thì có lẽ chẳng bao giờ chấm dứt được xung đột.
    Cần 1 thành phần thứ 3. Bây giờ đất nước đã văn minh hiện đại và ổn định hơn, không còn ở thời kỳ khó khăn lúc nhập nhoạng như xưa nữa. Đứng cao hơn cả Tôn giáo và Dân tộc phải là Luật pháp, tức là những thoả thuận đã được số đông dân chúng chính thức đồng tình.
    Những chuyện tranh chấp vừa rồi chính ra chỉ là việc của các bên công tố và luật sư làm việc với toà án. Không nên để dây ra đủ thứ chuyện cảm tính và quá khứ. Ngay cả trong box này mod đã bảo chỉ bàn lịch sử, không bàn chuyện thời sự, thế nhưng ngoài đời thực thế nào mà lịch sử rồi văn hoá chẳng bị lôi vào
    Cứ đưa đơn kiện rồi đợi ra toà xử. Ai phạm luật thì bị phạt, thế thôi.
    Phải hiểu rằng việc của toà án không phải là cân đo chân lý, hay xét xem luật đúng hay sai. Việc của toà án là cân đo lý lẽ các bên so với luật.
    Tất cả phải tôn trọng phán quyết của toà án.
    Chuyện đơn giản vậy thôi, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật .
    Xin lỗi tôi không có ý định đi sâu vào chuyện thời sự nữa.
    [
    Được unknown01 sửa chữa / chuyển vào 07:25 ngày 16/02/2010
  9. aliosha1970

    aliosha1970 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/12/2003
    Bài viết:
    636
    Đã được thích:
    0
    Bạn thân mến!
    Rất tiếc bài viết của bạn có thể có nội dung chưa phù hợp hoặc vượt ra ngoài nội qui của TTVNOnline. Nếu không có sự vi phạm, bài viết của bạn sẽ được hiển thị trở lại trong một thời gian ngắn.
    Mong bạn thông cảm và tiếp tục đóng góp xây dựng và phát triển TTVNOnline.
    Ban Quản trị TTVNOnline!​
    Bác này viết tốt lắm. Tớ thích bài của bác này
    Vote bác 5*
  10. do_re_mi

    do_re_mi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    22/04/2006
    Bài viết:
    1.160
    Đã được thích:
    4
    Mấu chốt vẫn là mâu thuẫn ý thức hệ mà thôi. Khác biệt ý thức hệ đã đành, nhưng lợi dụng ý thức hệ để mưu cầu cho lợi ích cá nhân đáng sợ hơn nhiều. Bao giờ mà người ta ý thức được tự do ý thức của người khác thì tình trạng sẽ khác đi.
    Dân Hồi giáo trước chống cách mạng vô sản vô thần của Liên Xô du nhập vào Afganistan được Mẽo giúp đỡ hẳn hoi, sau thì lại quay sang chống Mỹ và Kito giáo.
    Mác hay Jesu, Phật tổ, Khổng Tử toàn là những nhà tư tưởng lớn đáng kính cả, cái đáng ngại là những người đi theo họ.
    Khổ thân cho dân đen mù quáng.
    Nói đi nói lại, thì ở Trung Quốc thời cách mạng văn hoá đình chùa miếu mạo, nhà thờ cho đến sách vở của tôn giáo, của Khổng tử đều bị đốt rụi.
    Tớ tin vào nhứng điều tốt đẹp những giá trị tôn giáo, nhưng hoài nghi về những người tuyên truyền

Chia sẻ trang này