1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tôn giáo và dân tộc (không bàn chuyện thời sự - xem thông báo của Mod trang 47)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi fddinh, 01/09/2008.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kakashivn200

    kakashivn200 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/06/2009
    Bài viết:
    555
    Đã được thích:
    0
    Hiện Vatican đang phải đối mặt với nhiều lời buộc tội các linh mục xâm hại ******** trẻ em, trong đó có cả trẻ khuyết tật.
    Có lẽ, chính họ đã tự phá huỷ lớp mặt nạ của mình, chứ không phải bất cứ ai khác.
  2. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Hàng ngày, qua phòng thông tin và tờ tuần báo Tiếng Kiêu (3), Lê Hữu
    Từ xúi giục giáo dân giết hại cán bộ, chống lại chính quyền và chia
    rẽ lương giáo. Từ xảo quyệt tự thảo ra ?omật lệnh cấm đạo? và nói là
    của Tổng bộ ********* do Từ lấy được, để ly gián giáo dân với chính
    phủ ta. Từ cho tự vệ bao vây, phá phách huyện bộ ********* Kim Sơn
    và chém giết cán bộ ở đó (1947). Từ còn là kẻ chỉ đạo vụ phiến động
    Phúc Nhạc cuối năm 1947. Chính Từ đã đồng ý để cho bọn côn đồphục
    kích giết hại đoàn đại biểu của Chính phủ ta về hội đàm với Từ tại
    Phúc Nhạc (4). Trước những hoạt động phản cách mạng và chống phá
    kháng chiến của Lê Hữu Từ, người dân bên đạo phần nào đã thấy bộ mặt
    giả dối, phản dân hại nước của y, Những lời đồn đại : ?oCha Từ mồm
    thì theo ***** mà bụng thì theo Tây? hay : ?oĐức Cha hai lòng?, mỗi
    ngày một nhiều và lan rộng trong nhân dân.
    Sau vụ phiến động Phúc Nhạc, một mặt ta kiên trì giải thích chính
    sách đòan kết lương giáo, một mặt trừng trị những tên đầu sỏ phản
    động. Lê Hữu Từ và đồng bọn thấy rõ điều đó, nên chúng hoạt động
    theo một hướng mới: bí mật, cẩn thận, thủ đoạn tinh vi hơn trước. Từ
    chú trọng nhiều hơn vào các phần tử bất mãn với ta, y luôn luôn đưa
    ra vấn đề ?ocộng sản vô thần? để dọa con chiên ngoan đạo. Tháng
    10-1947, Từ được chính phủ cho phép lập khu an toàn Phát Diệm. Khu
    an toàn gồm đất xã Phát Diệm, từ phố chạy dài tới nghĩa địa rộng nửa
    cây số, dài hai cây. Từ cho rào hết mọi cổng ngõ, dựng nhiều điếm
    canh ngày đêm có người túc trực, tình báo hoạt động ráo riết. Dần
    dần khu an toàn Phát Diệm trở thành sào huyệt của bọn *********, côn
    đồ tứ xứ.
    Năm 1948, Từ cho linh mục Hàm và già Thiệu đi Hải Phòng xin Pháp
    chóng mang quân vào Phát Diệm. Đáp lại sự cầu cứu của Từ, tháng
    6-1948, tên mật thám Malicô (Malico) của Pháp đã thảo kế hoạch chiếm
    đóng Phát Diệm và giao cho nữ gián điệp Trần Thị Mật mang đến cho
    Từ. Điều kiện để quân Pháp đánh Phát Diệm theo yêu cầu của Malicô là
    : Pháp có bao nhiêu vũ khí thì Từ phải có bấy nhiêu thanh niên, và
    khu Phát Diệm phải được dùng làm căn cứ quân sự để đánh ra các vùng
    lân cận (5).
    Tháng 3-1948, Từ ra lệng tuyển tự vệ cho Nhà chung (Phát Diệm), bắt
    Bùi Chu phải chuyển vũ khí về Phát Diệm. Y cho mở liên tiếp các lớp
    huấn luyện tự vệ ngắn ngày tại Nhà chung, rèn 10 ngàn thanh mã tấu,
    tổ chức tập trân trong khu Nhà chung. Y và đồn bọn không ngớt xuyên
    tạc ý nghĩa lớn lao của ngày 2-9. Chung nói: ?oNgày 2-9 không phải là
    ngày độc lập mà chỉ là ngày giành chính quyền? (!). Tháng 8-1948,
    trong một buổi mít tinh cổ động cho Bảo Đại, Từ nói với giáo dân:
    ?oCha sẽ tổ chức quân đội hùng mạnh để chống cộng sản *********? và
    không ngớt tuyên truyền cho Bảo Đại. Để lừa đối nhân dân, một mặt Từ
    ra thư luân lưu số 39, ngày 17-4-1949 tuyên bố : ?oTôi đã tuyên bố
    nhiều lần rõ rệt thái độ của tôi: tôi vẫn đứng bên ***** để chống
    thực dân Pháp đến cùng? (?!!). Mặt khác, ngày 30-8-1949, Lê Hữu Từ
    triệu tập một cuộc họp bí mật quyết định:
    1.Ủng hộ Bảo Đại
    2.Vận động giáo hữu rời bỏ hàng ngũ kháng chiến. Ngày 10-10-1949, Từ
    nhận được thư của Bảo Đại ủy nhiệm coi sóc ?ophần đời? hai địa phận
    Phát Diệm và Bùi Chu. Cùng ngày ấy, linh mục đại úy Giêglen
    (Géglen), theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu Pháp, bí mật tới Phát Diệm
    để bàn định với Từ về kế hoạch đón Pháp. Sau cuộc gặp gỡ này, Từ cho
    tổ chức chặt tre đóng hai hàng rào cọc bao vây lấy khu Phát Diệm:
    một từ Tam tổng qua Phát Diệm đến Đò Mười, một từ Sanh qua Phúc Nhạc
    đến Chợ Bút. Y còn cho sửa soạn nghĩa địa Lưu Phương, chặt cây, quét
    vôi làm hiệu cho quân nhảy dù. Đồng thời, y báo cho tu viện Châu Sơn
    tin Pháp sắp nhảy dù và ra lệnh cho linh mục bề trên của tu viện
    phải để Pháp đóng quân trong khu vực nhà dòng.
  3. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Xin tiếp tục với các trích đoạn THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM của Linh mục Trần Tam Tỉnh.
    Chương IV: GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
    4 - ***** CHÍ MINH ĐỐI VỚI GIÁO HỘI
    Để mô tả tình hình Giáo hội tại miền Bắc sau khi quân đội Pháp rút đi, báo Missi đã viết trong số tháng 2-1956 như sau: "Sự im lặng nặng nề của một bức màn vô hình. Trong cảnh im lặng nặng nề đó, được giăng ra giữa Công giáo và C ộng sản chủ nghĩa vô thần, cơ bản là chiến đấu ở bên này và đức tin tôn giáo ở bên kia. Bức màn này, chưa có một thiện chí nào thành công. Cái máy ép của C ộng sản không hề nghĩ ngơi, nó ép cho mọi người sa vào đó phải theo một tiêu chuẩn vô thần chung".
    Phan phát Huồn, linh mục Dòng Chúa Cứu thế, tác giả của một cuốn sách lớn về lịch sử Giáo hội Việt Nam, xuất bản tại Sài Gòn năm 1962, cả quyết rằng: "Kế hoạch của C ộng sản đã rõ, là sử dụng các tổ chức Công giáo cấp tiến để tiêu diệt Công giáo. Ngoài ông Ngô Tử Hạ, do C ộng sản đặt lên đứng đầu tổ chức, người ta thấy một ít người ngày xưa có lòng đạo và từng là thành phần của những hội từ thiện, nhưng ngày nay đã hoàn toàn theo C ộng sản. Họ vịn vào một vài nguyên tắc tự họ đặt ra để che đậy hành động của mình, họ tuyên bố rằng: «người công Giáo chỉ phải vâng lời các Giám mục và hàng Giáo phẩm trong lĩnh vực đức tin mà thôi». Một nguyên tắc bao gồm nhiều ý tưởng mâu thuẩn! Điều họ chủ tâm thật, là giới hạn các hoạt động của hàng Giáo phẩm lại trong bốn bức tường nhà thờ, không hơn không kém!?
    Nhà sử gia giáo hội đó còn quở trách những người Công giáo tiến bộ là đã theo đường lối chính trị chống Mỹ và chống Diệm của chính phủ Hồ Chí Minh(!). Tác giả cũng nhấn mạnh ý đồ «ma quỉ» của C ộng sản, là không để tạo ra những vị Thánh tử đạo, mà để cho Giáo hội chết mòn dần dần.
    Thực tế xảy ra như thế nào?
    Hôm lễ Giáng sinh 1954, ***** Chí Minh đã gởi một thư chúc mừng bà con Công giáo: «Trong 8 năm chiến tranh, máy bay và xe tăng của Pháp đã tàn phá nhiều ngôi nhà thờ, giết hại nhiều tín đồ. Năm nay là lần đầu tiên chúng ta được ăn mừng lễ Giáng sinh trong hòa bình... Lợi dụng dịp này, tôi muốn nói lại với đồng bào giáo hữu cho rõ, rằng chính phủ của tôi thành thật tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Còn những người Công giáo đã đi di cư vào Nam, chính phủ đã ra lệnh cho chính quyền địa phương, phải lo giữ gìn cẩn thận tài sản của họ và nếu họ trở về thì sẽ hoàn lại cho họ».
    Bức thư mừng Giáng sinh 1955 cũng có lời lẽ tương tự: «Miền Bắc chúng ta đã hoàn toàn được giải phóng. Nhân dân ta sống trong phần đất nước đó ngày nay được hưởng tự do thật sự. Họ được yên ổn lao động sản xuất. Người Công giáo, về phần mình, được tự do thờ phượng Chúa. Họ không phải khổ tâm nhìn thấy các nhà thờ bị chiếm đóng bởi kẻ địch tàn sát những người vô tội, gieo rắc khắp nhân dân những điều nhục nhã và đau khổ. Tiếng chuông hòa bình, tự do, hạnh phúc; tình cảm thân ái trong lòng của tất cả người Công giáo miền Bắc Việt Nam...
    Tôi yêu cầu đồng bào Công giáo miền Bắc, cũng như toàn thể nhân dân, hãy đem hết sức mình góp phần xây dựng một đất nước ngày càn phồn vinh và bền vững. Hãy tham gia tích cực vào các cố gắng của cả nước về sản xuất, trong các ngành sinh hoạt quốc dân. Tôi hết lòng gởi đến đồng bào Công giáo những lời chúc mừng nồng nhiệt. Tôi chúc cho năm tới sẽ là năm đầu phúc lành cho bà con tín đồ, cũng như toàn thể đất nước ta
    ».
    Để cụ thể hóa chính sách tôn giáo của chính phủ, quốc hội đã thông qua hồi tháng 3 năm 1955, bốn nghị quyết về sau được thể hiện qua Sắc lệnh ngày 14-6-1955 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Sắc lệnh đó gồm 3 chương và 15 điều.
    ĐIỀU 1 "? Chính phủ bảo đảm quyền tự do thờ cúng của nhân dân. Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy. Mọi người Việt Nam đều được quyền tự do theo một tôn giáo, hoặc không theo một tôn giáo nào. Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ sở tôn giáo (như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lý v.v...)
    Khi truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành có nhiệm vụ giáo dục cho các tín đồ lòng yêu nước, nghĩa vụ của người công dân, ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

    ĐIỀU 2 "? Các nhà tu hành và các tín đồ được hưởng mọi quyền lợi của công dân và phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân.
    ĐIỀU 4 "? Các tôn giáo được mở trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo của mình.
    ĐIỀU 5 "? Các tôn giáo được xuất bản và phổ biến các sách giáo lý, các sách và tạp chí mang tính chất tôn giáo, nhưng phải tuân giữ nghiêm chỉnh các pháp luật của chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về vấn đề xuất bản.
    ĐIỀU 6 "? Các nhà thờ, đền chùa, miếu, thánh thất và các đồ thờ, các trường giáo lý của tôn giáo được luật pháp bảo hộ.
    ĐIỀU 7 "? Pháp luật sẽ trừng trị những kẻ nào mượn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh phá hoại đoàn kết, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng của người khác, hoặc làm những việc trái pháp luật.
    ĐIỀU 10 "? Trong cải cách ruộng đất, khi chính phủ trưng thu hoặc trưng mua ruộng đất của các tôn giáo để chia cho nông dân, thì sẽ để lại cho nhà thờ, nhà chùa, thánh thất, một số ruộng đất đủ lo cho việc thờ cúng và nhà tu hành có điều kiện sinh sống để làm việc tôn giáo. Số ruộng đất là bao nhiêu, sẽ do nông dân tại địa phương (nơi có nhà thờ, nhà chùa, thánh thất) bình nghị và do chính quyền cấp tỉnh chuẩn y.
    ĐIỀU 13 "? Chính quyền không can thiệp vào nội bộ tôn giáo. Riêng về Công Giáo, quan hệ về tôn giáo giữa Giáo Hội Việt Nam với Tòa Thánh La Mã là vấn đề của nội bộ Công Giáo».
    Đó là những tuyên bố về ý hướng, hay là những biện pháp của chính sach rộng rãi?
    Một số phê bình, luôn luôn có thói quen chẻ sợi tóc làm tư khi đứng trước những sự việc không ăn khớp với tư tưởng thành kiến của họ, thì ngần ngại tìm thấy trong luật tôn giáo vừa kể những điều sơ hở. Chẳng hạn báo Missi (2-1956) viết: «Quyền tự do được qui định rộng rãi như thế, nhưng vẫn hàm chứa nhiều điều phài dè dặt như lưỡi gươm của Đamokles treo trên đầu «những kẻ nào lợi dụng danh nghĩa tôn giáo để... ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân». Những điểm hạn chế như vậy là xằng bậy, bởi vì nó giả thiết là có một loại tội ác về tôn giáo. Một hành vi phạm tội bị xét xử không phải tự nó thôi, mà trong quan hệ giữa hành vi đó với tôn giáo. Như thế, một pháp luật mang từ ngữ rất rộng rãi cởi mở, có thể thành vô hiệu bởi những hình thức hạn chế nhằm xét xử không phải chỉ các hành vi thôi, mà cả ý tứ bên trong nữa!?
  4. CoDep

    CoDep Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/09/2004
    Bài viết:
    9.559
    Đã được thích:
    11
    ***** đã mời linh mục Lê Hữu Từ làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh .
    Ngoài mặt ***** cho làm Hiến Pháp 1946, và các Hiến Pháp sau đó,
    nhưng thật sự dân ViệtNam cho đến nay đâu có được hưởng một
    Hiến Pháp thật?
    ***** và các chính phủ nối tiếp chưa bao giờ thật sự cho dân chủ và
    tự do, nhân quyền. Họ chỉ là lợi dụng dân để giành độc quyền cai trị .
    Chẳng thế, ai đã có một câu nói phổ biến: đừng nghe bọn họ nói, mà
    nên nhìn việc họ làm.
    Chỉ những người xấu mới nhắm mắt bưng tai theo voi hít bã mía
    chống lại nhân dân, tổ tiên và bà con chính họ mà thôi.
    Trong những việc làm táng tận lương tâm ấy, thì việc chống phá tôn
    giáo là việc họ có thể làm được, mặc dù loài người tiến bộ chẳng
    bao giờ làm . Kể từ khi ***** chưa lên nắm quyền, hiến pháp Mỹ, là
    hiến pháp ***** lợi dụng, cũng đã cho tự do tín ngưỡng rồi.
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Bác CoDep trở lại rất ấn tượng, chẳng hay bác có tài liệu để khẳng định phát biểu của bác, hay cũng chỉ nói chuyện ai cũng biết mà chẳng ai dám nói!
    Xin tiếp tục với các trích đoạn THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM của Linh mục Trần Tam Tỉnh.
    Chương IV: GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
    5 - NHỮNG CUỘC ĐỤNG ĐỘ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
    Cuộc đụng độ đầu tiên giữa chính phủ Hồ Chí Minh và Giáo hội đã xảy ra vào dịp có cuộc cải cách ruộng đất. Như đã thấy ở chương trên, dưới thời thực dân, Giáo hội là một nhà đại gia chủ. Hơn nữa, cuộc cải cách ruộng đất này hầu như chỉ đụng tới Giáo hội Công giáo, bởi vì từ thời thực dân cho tới năm 1954, Giáo hội Công giáo là tổ chức tôn giáo duy nhất có pháp nhân và được quyền sở hữu.
    Cần ghi nhận rằng Việt Nam là một nước chủ yếu nông nghiệp. Tám mươi phần trăm dân số là nông dân và chỉ sinh sống nhờ thu nhập từ nông nghiệp. Thế nhưng, có tới 61,5% nông dân không hề có được một tấc đất.
    Nhằm áp dụng chính sách «người cày có ruộng» và nhằm đảm bảo điều kiện sinh nhai tối thiểu cho mỗi người dân, chính phủ Hà Nội đã tiến hành phân bố lại đất đai nhờ việc trưng thu của thực dân, của Giáo hội (đồng thời vẫn để lại cho Giáo hội một phần đất đủ lo việc thờ tự và bảo đảm đời sống cho các giáo sĩ), các địa chủ và phú nông (nhà nước trả cho những người có tinh thần dân chủ, kháng chiến và không ********* những khoản bồi thường dưới dạng công trái, có tiền lời hằng năm là 1,5%).
    Cuộc cải cách ruộng đất đã được tiến hành một cách máy móc, do những cán bộ thiếu kinh nghiệm, với các tòa án đặt biệt về cải cách ruộng đất, gây ra nhiều điều sai phạm. Do đó mà nhiều người đã bị oan ức.
    Chính phủ đã sớm thấy các điều sai sót đó và đã nhận lỗi. Ngày 17-8-1946, ***** Chí Minh thừa nhận: «Trong việc thực hiện thống nhất lại các vùng nông thôn, đã xảy ra những điều sai sót... Đảng vá Chính phủ đã nghiêm túc sửa chữa những thiếu sót đó và đã vạch ra một chương trình chỉnh đốn lại.
    Những người bị qui thành phần địa chủ và phú nông không đúng, phải được phục hồi lại cho đúng qui cách. Các đảng viên, cán bộ và nhân dân đã là đối tượng của việc xét xử sai lầm, phải được phục hồi lại trong các chức vụ và quyền lợi của họ và danh dự của họ phải được công nhận lại...
    »
    Nhưng việc đó quá trể, nên không ngăn chặn kịp sự tức giận của dân chúng. Tháng 11 năm 1956, nông dân Nghệ Tĩnh đã nổi loạn. ***** Chí Minh đã phải bãi bỏ các tòa án đặc biệt, bãi miễn chức vụ của ông Trường Chinh và những người có trách nhiệm về sự thất bại nói trên. Tiếp đó, một «chiến dịch sửa sai» được phát động.
    Trước Cải cách, đất trồng trọt miền Bắc được phân phối như sau:
    THÀNH PHẦN - DIỆN TÍCH MẪU - TỈ LỆ % SO VỚI TOÀN DIỆN

    Thực dân Pháp - 15.952,05 - 1
    Giáo Hội - 23.928,07 - 1,5
    Đất công và bần công - 398.801,25 - 25
    Địa chủ - 390.825,22 - 24,5
    Phú nông - 113.259,22 - 7,1
    Trung nông - 462.520,50 - 29
    Bần nông - 169.520,50 - 10
    Bần cố nông - 17.447,25 - 1,1
    Những lao động khác - 12.461,64 - 0,8

    Theo báo Nhân Dân ngày 13-8-1967, thì 30% nông dân kết án địa chủ không đúng. Theo G. Chaliand (Nông dân Bắc Việt và chiến tranh) thì «những sai lầm có thể do hai vi phạm về chính sách:
    "? Những tiêu chuẩn qui định thành phần đã không được tuân thủ. Cho nên phú nông bị cho là địa chủ, trung nông bị liệt là phú nông và cả người bần nông cũng bị đánh. Có những địa chủ yêu nước đã bị ngược đãi như địa chủ phản quốc.
    "? Đã có những vi phạm do tín ngưỡng trong các vùng có đông Công giáo và khẩu lệnh về cải cách ruộng đất đã được áp dụng máy móc tại những vùng dân tộc thiểu số.
    Trong số những nạn nhân của sai lầm về về cải cách ruộng đất như Bác đã nói rõ, có đảng viên, có người gần gũi với chế độ và khỏi phải nói là có những người Công giáo, các Linh mục và cả Giám mục.
    Trong vụ nổi loạn của nông dân tại Nghệ An xảy ra ngay sau đợt «sửa sai», giáo dân Quỳnh Lưu, địa phận Vinh, đã đòi tự do cho những giáo sĩ đã bị bắt giữ, phục hồi danh dự cho các linh mục và giáo dân đã bị hành hạ phỉ báng trong cải cách, hoàn lại của cải cho địa phận và các xứ đạo đã bị chính phủ tước đoạt hoặc tịch thu.
    Trước những sự kiện đó, Ủy ban Liên lạc Công giáo đã họp tại Hà Nộ từ 14 đến 16-11-1956 và trong bản tuyên bố bế mạc, đã không ngần ngại phê phán những sai lầm của các cán bộ thực hiện cải cách ruộng đất: «Những sai phạm trong cải cách ruộng đất đã vi phạm chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng Lao Động và của Chính phủ và chà đạp lên các quyền linh thiêng của tín hữu».
    Phái đoàn của Ủy ban đã được ***** Chí Minh tiếp và Người đã biểu lộ sự chân thành buồn tiếc về những sai trái xảy ra, và để sửa chửa, Người quyết định cấp cho những khoản tiền quan trọng sửa chửa các nhà thờ và chủng viện lại.
    Sau khi đã sửa chửa những sai sót rồi, chính phủ không vì thế mà hủy bỏ nền tảng của chính sách xã hội của mình để hoàn trả lại Giáo hội các đất đai - phương tiện sản xuất - tương đương với 1,5% diện tích trồng trọt của toàn miền Bắc. Làm thế tức là lại tỏ ra bất công đối với đa số dân chúng chưa từng có được tất đất nào.
    Trong việc áp dụng có sửa đổi cuộc cải cách ruộng đất, theo tinh thần sắc lệnh về tôn giáo (Điều 10) mỗi xứ đạo có linh mục được phân bổ cho trung bình một héc-ta, và mỗi xứ không có linh mục được trung bình từ 4 đến 5 sào. Cũng nên biết rằng, với tất cả thiện chí trên, chính phủ cũng chỉ có thể cấp cho mỗi đầu người bình quân 1 sào đất thôi, bởi vậy dân số miền Bắc là 13 triệu vào năm 1954, và 23 triệu vào năm 1973, còn diện tích đất có thể trồng trọt chỉ có 1605,305 héc-ta. (Nhờ nỗ lực phục hóa đất bỏ hoang, năm 1973 diện tích đất lên tới 2 triệu héc-ta).
    Cuộc cải cách ruộng đất, dầu có sửa chửa cho hết các điều sai sót đáng tiếc, thì cũng không làm vui lòng Giáo hội được, bởi vì Giáo hội coi của cải mình là «của thánh, bất khả xâm phạm». Người ta đồn rằng có giám mục đã công khai tuyên bố «giáo dân nào đã canh tác trên đất ruộng trước kia thuộc về Giáo hội, thì sẽ phải sa hỏa ngục đời đời», có linh mục từ chối không làm các phép «cho những ai ăn cướp trực tiếp hoặc gian tiếp đất đai thuộc về Giáo hội!»
    Năm 1958, thủ tướng Phạm văn Đồng đã mời các Giám mục họp lại, để thảo luận với ông về vấn đề liên quan giữa Giáo hội và Nhà nước. Đức cha Trịnh như Khuê, giám mục Hà Nội, đã trả lời rằng, không có thể có đối thoại, bao lâu chính phủ chưa hoàn trả cho Giáo hội của cải đã tịch thu.
    Sau cuộc cải cách, bà con nông dân đã được kêu gọi xây dựng hợp tác xã. Việc hợp tác xã hóa, một cách cần thiết trong một nước, mà năm 1954 đất đai bị chia nhỏ ra tột độ - 14 triệu mảnh ruộng có bờ ngăn - không sao đem cơ giới vào được, thì đối với lãnh đạo Giáo hội lại là một hình thức C ộng sản, bị Rôma lên án. «Với các hợp tác xã, của tư hữu sẽ không còn, đó là điều ngược với nguyên tắc quyền sở hữu mà thần học vẫn dạy». Thế là không sao tránh khỏi đụng độ giữa Giáo hội và Nhà nước. Có vị giám mục ra vạ tuyệt thông những giáo dân nào tham gia hợp tác xã, hay ít là từ chối không cho họ chịu các phép. Có linh mục dạy cho giáo dân rằng, hợp tác xã là hình thức canh tác ngược với luật của Giáo hội. Do vậy, người ta thấy giáo dân tham gia hợp tác xã chậm hơn người bên Lương.
    Chính quyền địa phương cũng có ở đó một phần trách nhiệm, như Tạp chí Học Tập, tạp chí chính thức của Đảng Lao Động, đã đang tải một bài tự phê liên quan đến vấn đề đó.
    «Tại một số nơi, tư tưởng giai cấp phong kiến, luật lệ khắt khe của một vài tôn giáo, cũng như những việc làm ********* tinh vi của một số kẻ đội lốt thầy tu, đã ngăn cản nhiều việc gây ý thức công và về việc làm chủ tập thể nơi nhiều giáo dân. Đàng khác, chính quyền và cán bộ có trách nhiệm bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, cũng có những sai phạm. Chẳng hạn nhiều đơn vị cơ sở chưa biết quan tâm nâng cao ý thức quyền làm chủ tập thể cho giáo dân, chưa biết giúp đở họ một cách cụ thể trong việc chống lại các lực lượng ********* trong Giáo hội, nhiều cán bộ có thái độ quan liêu hách dịch đối với dân chúng, có những thành kiến hẹp hòi và tỏ ra phân biệt đối xử những công dân thuôc một tôn giáo nào đó... Vì thế, muốn phát triển mạnh mẽ các quyền dân chủ của tín đồ, cần phải rõ ràng, phần đông dân có đạo đã tham gia các hợp tác xã nông nghiệp và chẳng qua họ là những xã viên hợp tác nông nghiệp có niềm tin tôn giáo. Do đó, ngoài các tự do dân chủ bình thường, một đàng phải bảo đảm quyền làm chủ tập thể của họ trong kinh tế, chính trị và xã hội như mọi xã viên nông nghiệp khác, và đàng khác, cần hiểu rõ các đặc tính riêng của những xã viên có đức tin và bảo vệ sự tự do tín ngưỡng của họ.?
    Thoạt nhìn, người ta khó thấy tại sao lại có vấn để xảy ra giữa các hợp tác xã và tự do tín ngưỡng. Và cũng có người lấy làm lạ khi nghe ***** Chí Minh tuyên bố năm 1962 rằng «các sinh hoạt tôn giáo không được gây hại cho sản xuất».
    Muốn hiễu điều này, cần phải sống, hoặc quan sát sinh hoạt thường nhật của người Công giáo Việt Nam. Dân chúng Công giáo Việt Nam thiết tưởng là quần chúng mộ đạo nhất thế giới. Hàng ngày họ đi dự kinh lễ sớm chiều rất đông và thích rước kiệu, làm tuần tam nhật và làm nhiều việc đạo đức sùng kính khác, không những vào ngày chủ nhật, mà cả các ngày trong tuần. Tại các họ đạo nông thôn, kinh lễ buổi mai kéo dài hai ba giờ, cuộc rước dài cả buổi, cũng như các tuần Tam Nhật, thường cản trở việc sản xuất của hợp tác xã, vốn theo một lịch trình khoa học hơn.
    Vì thế, trong các báo chí Hà Nội, những linh mục quản xứ nào mà rút vắn giờ lễ, hoặc đổi giờ làm lễ và chầu Thánh Thể, để giáo dân tiện việc lo sản xuất, thì bị tiếng là yêu nước và cấp tiến. Có những linh mục bảo thủ còn chỉ trích các hợp tác xã vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của xã viên, vì bắt buộc họ phải đi lao động vào các giờ, lẽ ra họ phải đi lễ hay đi đọc kinh.
  6. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Bộ Mặt Thật Của Lê Hữu Từ
    Quang Toản & Nguyễn Hoài
    (N.x.b Khoa học 1965)
    Ngày 16-10-1949, giặc pháp nhảy dù Phát Diệm và đổ bộ lên cửa biển Ba Lạt (Nam Định). Giặc đi đến đâu, bọn tay chân của Từ đứng ra dẫn đường chỉ lối đến đấy. Sau khi Pháp nhảy dù, Từ huyênh hoang tuyên bố trước giáo dân: ?oTôi nghiêng bên nào bên ấy thắng?(!) [Tài liệu do Ban mặt trận Thái Bình cung cấp.] và ?oChỉ trong một tháng, Pháp sẽ lấy xong Ninh Bình? ! (Tạp chí Học Tập số 1-1962, tr.73) Nhưng trước những tai họa do giặc Pháp gây ra quá nhiều, ngày 20-10-1949, Từ vội vã ra thư luân lưu an ủi: ?oTôi hết sức đau đớn trước những nguy hiểm về tinh thần và vật chất mà anh em hoặc đã phải chịu hoặc có thể chịu
    từ ngày bắt đầu có cuộc hành quân trong xứ sở yêu quý, việc đã xảy ra bất ngờ quá?! (Tài liệu do ban Mặt trận Thái Bình cung cấp.) và chối cãi quanh co : ?oTôi không bao giờ có ý
    tưởng cầu cứu quân đội Pháp, không hề có cuộc tiếp xúc nào với Bảo Đại?! (Thư luân lưu số 47, ngày 20-10-1949.). Xảo quyệt hơn, để lừa bịp giáo dân Bùi Chu, Phát Diệm,
    ngày 13-11-1949, Từ gửi thư lên Hồ chủ tịch nói:
    ?oChúng tôi bị mắc nghẽn trong vòng vây của địch trong gần một tháng nay mới tìm dịp gửi thư lên Cụ... Tôi đau đớn vô cùng về việc này và sau gần một tháng trời, tôi vẫn còn buồn rầu và không ngủ được? (?!) [Báo Đời Sống số đặc biệt, số 37, 22-12-1953, cho hay là sau những cuộc tiếp xúc giữa Lê Hữu Từ và đại sứ Mỹ, đại sứ Mỹ đã khen ngợi Từ là người có ?obộ óc trông rộng xét xa?.].
    Nhưng ngày 17-10-1949, đài phát thanh A.F.P của Pháp đã loan tin xác nhận: ?oQuân đội Pháp đã nhảy dù xuống Phát Diệm theo lời yêu cầu của Đức Cha Lê Hữu Từ? (Báo cáo của linh mục Nguyễn Thế Vịnh trong Đại hội Tôn giáo
    toàn quốc năm 1953. (tài liệu của Ban Tôn giáo trung ương)).
    Giặc Pháp chiếm đóng Phát Diệm - Bùi Chu, Lê Hữu Từ cố sức vận động với quan thầy Mỹ (Xem chú thích ở phần III (chưa đăng trên web)) và mặc cả với thực dân Pháp để lập ?oKhu tự trị?. Để việc chiếm đóng khu Phát Diệm ?" Bùi Chu được nhanh chóng, Pháp tạm thời đồng ý. Từ vội vàng tổ chức cơ quan hành chánh, công an, tự vệ.... Y dung túng cho tay chân mặc sức cướp bóc vơ vét của cải, lùng bắt cán bộ trong khu, gây nên những cuộc xung đột đổ máu giữa lương và giáo. Từ cho lập lại phòng Thông tin và ra tờ tuần báo Lượm Tin thay cho tờ Tiếng Kêu (sau đổi thành nguyệt san Đời Sống), không ngớt xuyên tạc chính sách của ta và tán tụng bọn bù nhìn bán nước. Từ nêu ra nào ?oPhúc tử vì đạo?, nào ?oBảo vệ Chúa?, ?oBảo vệ thánh đường?, để dụ dỗ thanh niên vào ngụy binh. Từ bắt các xứ vùng tự do phải tuyển thanh niên đưa về Phát Diệm. Tổng bộ Phát Diệm, khu bộ Phúc Nhạc và nhiều xứ bộ đã công khai lập bàn giấy ngụy quyền ngay trong nhà thờ, nhà xứ. Tất cả chánh tổng, lý trưởng, trương tuần, ủy ban quân sự (có nơi gọi là ban bảo an, xã ủy....) đều do các linh mục chỉ huy và đặt dưới sự kiểm sóat của giặc Pháp. Lực
    lượng vũ trang của Từ lúc này mang một tên chung là ?otự vệ?. Những đội quân ?otự vệ? này được tung ra mặt trận phối hợp cùng giặc Pháp càn quét, cướp bóc khắp nơi. Để tăng cường lực lượng quân sự, Từ tổ chức ra quân ?oTự lực đòan?, Từ tự tay trao lá cờ danh dự (!) và làm
    lễ rửa tội, rồi đặt tên cho đoàn quân. Từ đấy trong các trận càn, người dân vùng biển khó mà phân biệt được tội ác nào là của Pháp, tội ác nào là của lính cha Từ. Lính cha Từ, lính Quốc trưởng, lính Pháp chỉ là một khối thống nhất. Ít lâu sau, tiểu đòan ?oTự lực? Bùi Chu cũng ra đời. Để đề cao mình và ca ngợi bọn đế quốc xâm lược, Lê Hữu Từ cho tay chân tung ra bài hát:
    ?oLê Hữu Từ
    Lệnh truyền vệ sĩ ra đi
    Trước là giữ lấy phần hồn
    Sau là phần xác chúng con được nhờ.
    Ơn lòng nước Phú-lang-sa,
    Lại còn Anh, Mỹ tay ba liệt cường,
    Các ngài vốn có lòng thương,
    Giúp cho trăm họ mọi đường hẳn hoi? (Mai Anh, Vấn đề xã hội, 1950, tr.73)
    Tay chân ngày một nhiều, tham ô ngày một lắm, ngòai số tiền hàng tháng hai triệu đồng của chính quyền bù nhìn gửi cho, năm 1950, Từ bắt đầu nhận viện trợ Mỹ (Báo Đời Sống, số 33, tháng 9-1953.). Để tạ ơn quan thầy Mỹ, Từ cử người sang Mỹ học và lập ra đoàn ?oPhụng sự quốc gia? để tuyên truyền ca tụng Mỹ. Nhưng trái với ý muốn của Từ, dư luận trong nhân dân về những hành động của y ngày càng nhiều. Y vội vàng tuyên bố:
    ?oTôi không thiên về Anh, về Mỹ hay nước nào cả! Tôi không thiên về Bảo Đại, cũng không thiên *****, không thiên về ai hết! Tôi chỉ thiên về Tổ quốc Việt Nam? (báo Đời Sống, số 36, tháng 12-1953.).
    Đó chỉ là những lời lừa bịp quần chúng của Lê Hữu Từ. Từ ?okhông thiên về *****?, việc đó đã rõ ràng, đúng như vậy. Còn Từ nói ?okhông thiên về Bảo Đại?, ?okhông thiên về Anh, về Mỹ? thì sự thật đã ngược lại: từ lâu Lê Hữu Từ đã ?othiên? về Bảo Đại và bọn đế quốc xâm lược.
    Trong cuộc mít tinh trọng thể tại khu Phương Đình Phát Diệm (6-9-1953), dưới khẩu hiệu? ?oủng hộ Đức Quốc trưởng Bảo Đại?, Từ đã say sưa nói: ?oTôi còn nhớ năm xưa thời ********* tôi có gặp quốc trưởng lúc đó đang là cố vấn Vĩnh Thụy. Hai ?~đồng chí?T chúng tôi (vì khi ấy cũng là cố vấn), đi sát nhau. Tôi ghé nhỏ nói với cố vấn Vĩnh
    Thụy rằng: Ngài không hành động gì cả?.... Cố vấn Vĩnh Thụy chỉ lắc đầu: Tôi chán lắm. Nhưng già giệt hơn tôi lại nói: cứ làm đi tôi giúp? (Mai Anh, Vấn đề xã hội, 1950, tr.73
    )
    Từ lại đã từng tuyên bố với Bảo Đại: ?oTôi hứa sẽ luôn luôn bên cạnh quốc trưởng? (Báo Đời Sống, số 33, tháng 9-1953.)
    Từ khi giặc Pháp chiếm đóng Phát Diệm - Bùi Chu, nhiều lần Từ đã tổ chức đón tiếp sĩ quan Pháp, đại sứ Mỹ và các nhà báo Anh , Mỹ tại Nhà chung Phát Diệm. Y còn tổ chức nhiều cuộc mít tinh lớn để tuyên truyền, đề cao Mỹ và chính phủ bù nhìn, đồng thời mạt sát chính phủ ta và mọi chính sách kháng chiến của ta; y hô hào giáo dân chống lại ********* c ộng sản và kháng chiến.
    Nhà hát lớn Phát Diệm, nhà trường Phúc Nhạc... đã biến thành những nơi giam cầm tra tấn những người yêu nước kháng chiến. Tội ác của Lê Hữu Từ và bè lũ ngày càng chồng chất. Nhân dân trong ?okhu tự trị? vô cùng căm phẩn. Nhiều đội du kích bí mật được thành lập và hoạt động
    ngay trong ?okhu tự trị?. Phong trào đấu tranh trong quần chúng nhân dân ngày càng sâu rộng.
    Vì hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của nhân dân ?okhu tự trị?, vì thiếu quỹ để nuôi bọn tay sai, vì áp lực của thực dân Pháp, nên năm 1951 Lê Hữu Từ buộc phải giải tán ?okhu tự trị?. Y ra thư luân lưu số 59, ngày 26-12-1951, tuyên bố với giáo dân:
    ?oNgày nay tình thế đã biến chuyển nhiều, tình trạng đặc biệt ấy (báo Đời Sống, số 36, tháng 12-1953.) xét ra không cần nữa nên tôi đã thảo luận với các nhà cầm quyền để
    thực hành tại đây chính quyền như ở các nơi khác trong toàn quốc. Nguyên tắc đã thỏa thuận xong, chỉ còn các chi tiết thực hành?.
    Nhưng Từ còn cố giữ lại 5.000 vệ sĩ để làm lực lượng riêng của y. Y còn ra lệnh: ?oBáo Sự Thật và số sách cấm (Có ?okhu tự trị?), cấm ngặt không được đọc? (Tất cả những sách báo tiến bộ.).
  7. litxit

    litxit Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/05/2010
    Bài viết:
    1
    Đã được thích:
    0
    tMột câu rất hay. Nó làm tôi nhớ đến câu "Thiên Chúa là tình yêu" và số người bị giết vì tình yêu đó.
  8. dinhphdc

    dinhphdc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/09/2008
    Bài viết:
    2.086
    Đã được thích:
    7
    Bộ Mặt Thật Của Lê Hữu Từ
    Quang Toản & Nguyễn Hoài
    (N.x.b Khoa học 1965)
    Tháng 1-1952, Đại hội đại biểu của những người Thiên Chúa giáo yêu nước kháng chiến tòan địa phận Phát Diệm đã họp. Sau khi thông qua chương trình kế hoạch tham gia kháng chiến, Đại hội đã vạch mặt và lên án tên ********* đội lốt thầy tu Lê Hữu Từ. Được tin ấy, Lê Hữu
    Từ vội vã ra thư luân lưu số 80, ngày 16-3-1952, tuyên bố: ?oCuộc hội nghị ấy là bất hợp pháp?. Y cho việc hội nghị lên án y là do ?omưu mô bày đặt? của ********* c ộng sản, là ?ođả phá tôn giáo?, là bắt đầu thực hành ?ocấm đạo?, là muốn ?ođả phá đến tận nền tảng của giáo hội?.
    Y nói: ?oC ộng sản hoàn toàn trái nghịch với gia đình, tổ quốc và tôn giáo?. Rồi y kêu gọi linh mục, giáo dân hãy chống lại c ộng sản Việt Minh và lên tiếng khuyên răn:
    ?oCác cha và anh em phải khôn ngoan dè dặt, đừng vội tin những bản tin tức, những tờ bá cáo, những bài tường thuật dù có vẻ ngây ngô thành thực đến đâu do những người ghét đạo, phản đạo trao cho, gửi cho, thông cho? (Thư luân lưu số 67)
    Để nhấn mạnh việc các linh mục phải nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị do y ban ra. Y nói:
    ?oNếu có luật nào vô ý hay mưu mô muốn cho các cha không vân lời tôi thì xin họ hãy biết rằng: bao lâu tôi còn đại diện cho Vatican thì không ai có thể cấm các cha vâng lời tôi được, trừ ra là họ bắt đạo rõ ràng thì không kể? (Thư luân lưu số 80, ngày 16-3-1952).
    Chưa hết lo sợ trước sự đấu tranh của giáo dân và các linh mục tiến bộ, Từ lại ra thư luân lưu số 81, ngày 1-4-1952, chỉ ra 10 điều đối phó với *********.
    Cuối năm 1952, ta lại tấn công Phát Diệm. Nhiều đơn vị vệ sĩ của Từ đào ngũ hoặc ra hàng. Lê Hữu Từ càng điên cuồng chống lại kháng chiến hơn trước. Y dùng thần quyền để đàn áp những người tiến bộ, thúc đẩy xúi giục những kẻ lạc hậu, nhẹ dạ đi sâu vào con đường tội lỗi. Từ bắt các nơi rào làng, lập bốt; kêu gào các con chiên ?ođoàn
    kết chống lại *********? trong nhiều cuộc mít-tinh.
    Ngày 1-12-1953, Từ ra thư luân lưu số 88 kêu gọi những người theo đạo Thiên Chúa phải ?osống sạch tội?, phải ?ohoán cải tâm hồn?. Theo Lê Hữu Từ muốn sống ?osạch tội? và ?ohoán cải? được ?otâm hồn?, thì phải rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, chống lại nhân dân, phản lại Tổ
    quốc. Từ đề cao cái gọi là ?olề luật Chúa? để khống chế giáo dân. Y nói:
    ?oCả tâm tư ngôn ngữ và hành vi trong gia thất cũng như ngoài xã hội, trong các việc đạo cũng như việc đời phải đi sát với lề luật Chúa? (Thư luân lưu số 76, ngày 24-2-1952).
    Tuy vậy, lực lượng của Từ ngày càng suy yếu nhanh chónh hơn lúc nào hết, y ra sức tuyên truyền xuyên tạc và tung ra những lời vu khống bỉ ổi, nhằm mê hoặc giáo dân. Y kêu than thống thiết:
    ?oTa nhận thấy chiến tranh làm tan nát từ 13 năm nay, nhất là mấy năm gần đây và chưa biết rõ sẽ còn nguy ngập đến đâu, không khéo thì mạng sống và tài sản của chính ta, của các người thân mến ta, của dòng giống Việt Nam sắp đến ngày tiêu diệt khốn đốn hơn nữa chăng?? (Thư luân lưu số 89, ngày 18-2-1954).
    ?oTrên lãnh thổ Việt Nam, tiếng bom đạn còn đang đùng đùng vang dội, để rồi tàn phá, để rồi gieo thêm tang tóc trong gia đình...!? (Thư luân lưu số 89).
    Rồi y đổ tội và vu khống cho những người c ộng sản. Y nói: lại căn cớ chiến tranh là c ộng sản? (Thư luân lưu số 91, ngày 26-4-1954), và :
    ?oNó (chỉ c ộng sản) đang hòanh hành trên đất nước ta như con sư tử chực nuốt sống ta, chực buộc cổ dân tộc ta vào dưới ách nô lệ thảm khốc, như toàn thể các dân tộc hiện đang rên dưới nanh vuốt c ộng sản. Liếc mắt rộng ra thế giới, ta cũng thấy đại chiến tranh cũng chỉ chực bùng nổ gớm ghê, cũng thấy tai nạn c ộng sản đang tung hòanh, hoặc đang lan tràn khắp mọi nơi, như muốn đổi địa cầu ra địa ngục? (Thư luân lưu số 89).
    Nhưng rồi y lại huyênh hoang khác lác: ?o500 triệu c ộng sản mang đầy đủ vũ khí tối tân cũng chỉ là con kiến?! (Thư luân lưu số 89).
    Song thực ra Lê Hữu Từ chưa hết kinh hoàng trước những thắng lợi liên tiếp của ta trên khắp các mặt trận. Y đã phải than vãn (vì lời kêu gọi của y bấy lâu nay ít được giáo dân hưởng ứng):
    ?oĂn năn, sửa mình, cầu nguyện, ấy là điều nhắc đi nhắc lại từ 8 năm nay, song tinh thần thống hối đây vẫn còn hiếm quá? (Thư luân lưu số 89).
    Từ còn trắng trợn xuyên tạc sự thật của công cuộc cải cách ruộng đất:
    ?oKhông nói đâu xa, ngay bên mình chúng ta, ai mà không ghê tởm những thói tố khổ, những cách ?ođấu? dã man: trong ấy người ta vùi dập mọi nhân đạo tình nghĩa và phẩm giá con người? (Thư luân lưu số 91)
    Y khua môi múa mép khích lệ con chiên rằng:
    ?oGiữa trong cơn nguy khốn, lúc mà bao nhiêu dân tộc đã bị xích hóa, lúc mà c ộng sản vô thần ra mắt xâm lấn giang sơn của cha ông chúng ta? (Thư luân lưu số 67); ?ocác con hãy sẵn sàng hiến dâng mạng sống?; ?onếu ta được phúc chịu khó, chịu đổ máu ta... thì đấy là dịp cho ta chịu khó, chịu chết vì đạo? (Thư luân lưu số 67).
    Cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiến triển không ngừng. Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ đã đưa lại đình chiến ở Đông Dương. Hòa bình trở lại. Lê Hữu Từ đã bám theo gót giày của bọn xâm lược vào Nam.
    Trước khi rời khỏi miền Bắc, y còn cưỡng ép nhiều giáo dân vùng Phát Diệm, Bùi Chu, từ bỏ quê hương theo bọn ********* vào Nam.
    Bằng việc cấu kết và làm tay sai cho thực dân đế quốc xâm lược, bằng những hành động chống phá cách mạng và kháng chiến, phản lại nhân dân, bộ mặt thật xấu xa ghê tởm của Lê Hữu Từ đã bị phơi trần trước quần chúng. y đã lộ rõ nguyên hình một tên ********* đội lốt Thiên
    Chúa giáo.
    Hết
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Xin tiếp tục với các trích đoạn THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM của Linh mục Trần Tam Tỉnh.
    Chương IV: GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
    6 - TÀI SẢN CỦA GIÁO HỘI
    Trong lãnh vực tài sản của Giáo hội, còn có một đụng độ khác đào rộng theo cái hố ngăn cách giữa Giáo hội và Nhà nước. Trong cuộc cải cách ruộng đất, chính phủ chỉ trưng thu các tư liệu sản xuất, còn các loạt bất động sản và động sản khác, như nhà thờ, chủng viện, tòa giám mục, nhà xứ, nhà hội, bàn ghế, đồ thờ, áo lễ thì không bị đụng tới. Nhiều Giám mục và Linh mục căn cứ vào pháp luật bảo vệ các cơ sở tôn giáo, nên ra sức bám giữ các của đó một cách quá sốt sắng. Về vấn đề này, chúng tôi ghi lại đây những gì đã biết trong chuyến về thăm miền Bắc Việt Nam:
    Khi về thăm Nam Định, một thành phố bị tàn phá đến 80% do bom đạn Mỹ, tôi trông thấy hàng ngàn cháu phải học hành trong những mái nhà tranh dược dựng sơ sài, bên cạnh tòa nhà hay lầu lớn bỏ không. Mấy nhà này là Đại chủng viện Thánh Anbé trước kia, trường Thánh Tôma và nhà xứ Khoái Đồng. Cảnh đối chọi càng nổi rõ hơn, và cả nhà trường bằng tranh kia (mái tranh vách đất) đang bị đe dọa vào mùa mưa, còn học sinh thì phải đi học ba ca vì thiếu chỗ, ca sớm, ca chiều và ca tối. Tôi hỏi ông chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh tại sao không sử dụng các tòa nhà lớn bỏ không đó làm trường học. Ông trả lời tôi với cái mỉm cười lịch sự: «Các tòa nhà đó là của Giáo hội. Chúng tôi không dám đụng tới. Mặc dầu có tôn trọng các cơ sở như thế, mà chúng tôi vẫn bị mang tiếng là phá đạo. Nếu chúng tôi đem các cháu vào học trong đó, thì sẽ càng bị tố cáo hơn». Rồi ông thêm: «các ngôi nhà đó bắt đấu hư hỏng rồi. Tuy vậy, Giáo hội vẫn từ chối không cho mượn, dầu là làm bệnh xá, chưa nói đến chuyện cho những người không có nhà vào ở».
    Trong giáo xứ G.L địa phận Bùi Chu, bên cạnh nhà thờ, có một nhà hội lớn xây bằng gạch bỏ không hoài đấy. Năm 1972, Ủy ban xã quyết định mở thêm các lớp trung cấp cho hết hệ 10 và đã đến xin mượn nhà hội đó cho các em học đỡ, đang lúc chờ xây nhà mới. «Nhà hội, nhà xứ chỉ được phép cho sinh hoạt thuần túy tôn giáo thôi». Và điều trớ trêu là 75% các em học sinh là con nhà Công giáo».
    Về việc sử dụng các cơ sở tôn giáo - nhà thờ, nhà nguyện, nhà hội, sân nhà thờ - trong một thư mục vụ đề ngày Lễ Thánh năm 1961, Giám mục Thái Bình đã ra vạ tuyệt thông tức khắc cho các linh mục, giáo dân nào sử dụng, hoặc cho phép sử dụng, hoặc cho mượn các cơ sở đó và những sinh hoạt không trực tiếp liên hệ tới việc thờ phụng. Giám mục đó đã phạt vạ nhiều người chức việc giáo xứ, vì đã cho hợp tác xã phơi lúa trên sân nhà thờ. Trong một thư chung ngày 1-1-1973, giám mục ấy còn lặp lại lệnh cấm đoán đó và cả vạ tuyệt thông.
    Trong các vụ ném bom tàn bạo nhất của Mỹ, người ta mong được các giám mục cho nhờ các tòa Giám mục rộng lớn, các nhà chủng viện, để chứa những nạn nhân bị bom, hoặc những người đã cháy mất nhà cửa hay là bị thương.
    7 "? CÁC CỐ THỪA SAI
    Ngoài việc trưng thu đất ruộng nhà chung, còn một số dữ kiện góp phần cho các vị lãnh đạo Giáo hội tin rằng chính phủ không chịu tôn trọng tự do tín ngưỡng và thờ cúng, như Sắc lệnh 14-6-1955 đã đảm bảo. Chẳng nói gì những sai phạm hồi cải cách ruộng đất, mà nạn nhân không những là các địa chủ, mà cả nhiều cán bộ của Đảng và ủy viên các Ủy ban hành chánh, cần nhắc lại việc từ chối không gia hạn cư trú cho hai Giám mục thừa sai và một tá linh mục thừa sai Pháp và Canada.
    Chính sách «bài thừa sai» đó xảy ra 30 năm sau mối lo lắng của đức Piô XII, đã tiên đoán rằng có ngày những kẽ bị trị «sẽ trục xuất khỏi nước họ binh lính và thừa sai, để xác lập chủ quyền của họ trên đất nước mình (Rerum Eeclesiae)?. Đàng khác, quá khứ không mấy vinh dự của hoạt động truyền giáo tại Việt Nam, nhưng trong tư tưởng các thừa sai thì lại nằm trong quĩ đạo của lịch sử.
    8 "? SỰ ĐÁP TRẢ CỦA GIÁO HỘI TRƯỚC BÀN TAY ĐƯA RA
    Khỏi cần nhắc lại rằng, những người kháng chiến bị hành hạ tại nhiều nơi do người Công Giáo, nhân danh tôn giáo, nhân danh cuộc thánh chiến chống C ộng. Cử chỉ hòa giải đầu tiên của ***** Chí Minh là đã phải khóc khi có dịp dựa vào vai của Giám mục Trịnh Như Khuê. Sau đó, Cụ đã ra lệnh ân xá cho tất cả những người Công giáo đã từng cầm súng đánh *********. Nhằm tránh các vụ trả thù cá nhân hoặc tập thể những làng lương đối với các làng giáo đã từng được Pháp vũ trang để tiêu diệt C ộng sản, Bác đã phái tới các vùng Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình những toán cán bộ chuyên môn, để giải thích cho bà con bên lương chính sách khoan hồng và hòa giải của Chính Phủ.
    Tại những làng mà cha xứ quá hung hăng đã hạ tượng Phật xuống và đặt tượng Chúa và Đức Mẹ lên thay thế, cán bộ ********* đã thuyết phục được người lương đừng phá các tượng của bên giáo, nhưng kêu giáo dân tới hạ tượng xuống và rước về nhà thờ mình. Các Linh mục, từng là cụ xứ - đại úy, vẫn được đứng đầu giáo xứ và tiếp tục được thi hành chức vụ, chỉ trừ một số ông đã phạm những tội ác quá nặng nề - như chôn sống du kích, bắn giết bừa bãi nam nữ và trẻ em - đã bị giam trong trại cải tạo. Nhờ một đường lối hết sức khôn ngoan, nhờ sự áp dụng rộng rãi ân xá, khá đông các Linh mục từng thề nguyền không đội trời chung với C ông sản đã trở thành những người yêu nước. Việc mục vụ của các Linh mục ấy lại rất cần cho Giáo hội vì vụ băng hoại di cư 1954-1955.
    (bỏ 1 đoạn về tình hình Giáo hội miền Bắc)
    Để vá các lỗ trống và tái thiết Giáo hội và đáp trả bàn tay đưa ra của ***** Chí Minh, lẽ ra Giáo hội phải có một đường hướng hòa dịu hơn. Tiếc thay, năm 1955, người ta vẫn sống trong bầu không khí chống C ộng của Piô XII, còn được hâm nóng lên bởi cuộc chiến «thế giới tự do» chống lại «thế giới C ộng sản». Theo đề xuất của khâm sứ Đu-lây, Rôma đã thay thế các mục tử bỏ chạy bằng các Giám mục có thể nói là không thân thiện gì với chế độ, cũng không cởi mở gì trong các vấn đề của Giáo hội sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa: Giám mục Phạm Năng Tĩnh, cựu thư ký và cánh tay phải của Giám mục Phạm Ngọc Chi, lãnh tụ của Đạo quân Công giáo Bùi Chu trước kia, hai vị cựu đại úy và hai nhân vật chủ chốt tổ chức di cư hồi 1954.
    Trong một nước bị chia cắt, mà đế quốc Mỹ chi phối mạnh mẽ cả miền Nam, cử chỉ nói trên của Vatican là vụng về, nếu không muốn nói là thù địch, khiến Hà Nội phải cảnh giác, đối với Hàng Giáo phẩm, nhất là từ 1961. CIA tăng cường các hoạt động bí mật chống phá miền Bắc bằng cách gởi ra Bắc các toán biệt kích, gồm hầu như toàn người Công giáo gốc miền Bắc di cư vào Nam. Kế hoạch thả truyền đơn nhằm tuyên truyền chống C ộng, thả dù những toán phá hoại và dò thám, đã được Ken-nơ-di (Kennedy) phê chuẩn ngày 23-4-1961, như tài liệu mật Lầu năm góc đã tiết lộ. Tài liệu này còn trình bày chi tiết hơn các «hoạt động dưới nước, các hoạt động tâm lý chiến và các hoạt động thả dù» thực hiện năm 1964, sử dụng ưu tiên người Công giáo, các cựu chủng sinh, để dể tiếp xúc được với các cha xứ và giáo dân miền Bắc. Theo nguồn tin Bắc Việt, các hoạt động đã bị thất bại, vì người dân Công giáo ở miền Bắc đã ý thức hơn và không để mắc bẫy đế quốc như hồi 1940 nữa. Phần lớn các toán biệt kích nhảy dù hoặc đổ bộ đã bị bắt, chính bà con Công giáo đã giao nộp lại cho công an. Tuy nhiên, thái độ của hàng Giáo phẩm và một phần giáo sĩ vẫn không được rõ ràng.
    Bài báo Học Tập được nhắc tới trên kia ghi nhận lại tình hình như sau:
    «Nói chung, các Giáo hội Phật giáo, Cao đài và Tin lành đều thống nhất về quan điểm chính trị với đa số tín đồ của họ, phát triển ngày càng tốt lòng yêu nước và ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Tại nhiều tỉnh, huyện hoặc giáo xứ, bà con Công giáo cùng với những người phụ trách và các linh mục yêu nước đã xây dựng giáo hội địa phương của họ phù hợp với luật pháp Nhà nước, và đã có những sinh hoạt yêu nước. Nhưng, tại một vài nơi, Giáo hội Công giáo chưa cùng đứng về một phía với giáo dân trong con đường cách mạng, một số phần tử xấu trong Giáo hội vẫn còn lợi dụng cách sinh hoạt tôn giáo, để ngăn cản giáo dân tham gia các phong trào và tổ chức cách mạng».
    Từ 20 năm nay, Giáo hội miền Bắc giống như một tấm vải, trên đó sợi ngang thì mới mà sợi dọc thì cũ. Nhiều vị lãnh đạo Giáo hội đã thưởng thức quá lâu thứ rượu cũ dành riêng cho giai cấp ưu đãi, nên khó mà vui lòng với thứ rượu mới chung với toàn dân. Các vị lãnh đạo Nhà nước, tại nhiều cấp, là những người đã từng chịu cơ cực qua nhiều trong quá khứ, đã từng nếm mùi cay đắng ghê gớm của chủ nghĩa chống C ộng, nên khó mà quên nhanh được. Hơn nữa, nguy cơ của thực dân, không phải là chuyện quá khứ có thể bỏ qua luôn, nhưng nó còn là chuyên trước mắt, chính phủ nào cũng lo ngăn ngừa.
    Việc từ chối gia hạn cư trú cho thừa sai nước ngoài - tuy có thể bàn cãi về cách xử sự riêng với ca này ca nọ - việc giới hạn tự do đi lại của các Giám mục và một số Linh mục, đều là hậu quả của một bối cảnh lịch sử.
    Một nhân chứng từng trải các vấn đề miền Bắc nói với tôi: «Việc thành lập tại miền Nam các toán biệt kích Công giáo theo hướng «Bắc tiến», những cuộc viếng thăm qua lại của Hồng y Xpenman, việc Vatican công nhận Ngô đình Diệm, tất cả những điều đó lộ ra một thái độ hàm hồ dị nghĩa, hay đúng hơn, thiên vị của Giáo hội. Tại miền Bắc, hồi còn khâm sứ Dulây và sau đó, hàng Giáo phẩm vẫn tiếp tục áp dụng nghiêm nhặt thư chung 1951, tuyệt thông với C ộng sản, từ chối bí tích cho người kháng chiến chống Pháp và những người Công giáo tham gia hợp tác xã, hoặc hợp tác với chế độ. Tệ hơn nữa, tại một số địa phận, các Giám mục còn từ chối không làm các phép cho cha mẹ nào gửi con đi học trường công».
    Từ lúc Mỹ bắt đầu các cuộc ném bom ào ạt năm 1965 cho tới khi chấm dứt và cuối tháng chạp 1972, Giáo hội chính thức đã giữ im lặng một cách kỳ lạ, mặc dầu nhiều thành phố làng mạc bị tận diệt, mặc dầu nhiều nhà thờ, chùa chiền, nhà thương, bệnh viện bị tàn phá, hàng ngàn người vô tội bị giết. Một số Giám mục còn nói rằng nếu Mỹ có ném nom nhà thờ (575 nhà thờ bị phá hủy hoặc hư hại) thì đó là do chiến thuật của C ộng sản dùng bom Mỹ để phá tôn giáo.
    Phải chăng họ hy vọng rằng, những «toán Công giáo Mỹ» đến dùng vũ lực để giải thoát họ khỏi ách C ộng sản như Giám mục Puginê và Pelơranh thế kỷ 19?
    Phải chăng họ đã quá tin vào các buổi phát thanh của các đài «Tiếng nói tự do» và nhiều đài «đen» khác do CIA thiết lập để loan báo mỗi ngày cho họ rằng giờ giải thoát đã gần?
    Chẳng biết nói rằng đúng hay nói rằng không?
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Xin tiếp tục với các trích đoạn THẬP GIÁ VÀ LƯỠI GƯƠM của Linh mục Trần Tam Tỉnh.
    Chương IV: GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
    6 - TÀI SẢN CỦA GIÁO HỘI
    Trong lãnh vực tài sản của Giáo hội, còn có một đụng độ khác đào rộng theo cái hố ngăn cách giữa Giáo hội và Nhà nước. Trong cuộc cải cách ruộng đất, chính phủ chỉ trưng thu các tư liệu sản xuất, còn các loạt bất động sản và động sản khác, như nhà thờ, chủng viện, tòa giám mục, nhà xứ, nhà hội, bàn ghế, đồ thờ, áo lễ thì không bị đụng tới. Nhiều Giám mục và Linh mục căn cứ vào pháp luật bảo vệ các cơ sở tôn giáo, nên ra sức bám giữ các của đó một cách quá sốt sắng. Về vấn đề này, chúng tôi ghi lại đây những gì đã biết trong chuyến về thăm miền Bắc Việt Nam:
    Khi về thăm Nam Định, một thành phố bị tàn phá đến 80% do bom đạn Mỹ, tôi trông thấy hàng ngàn cháu phải học hành trong những mái nhà tranh dược dựng sơ sài, bên cạnh tòa nhà hay lầu lớn bỏ không. Mấy nhà này là Đại chủng viện Thánh Anbé trước kia, trường Thánh Tôma và nhà xứ Khoái Đồng. Cảnh đối chọi càng nổi rõ hơn, và cả nhà trường bằng tranh kia (mái tranh vách đất) đang bị đe dọa vào mùa mưa, còn học sinh thì phải đi học ba ca vì thiếu chỗ, ca sớm, ca chiều và ca tối. Tôi hỏi ông chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh tại sao không sử dụng các tòa nhà lớn bỏ không đó làm trường học. Ông trả lời tôi với cái mỉm cười lịch sự: «Các tòa nhà đó là của Giáo hội. Chúng tôi không dám đụng tới. Mặc dầu có tôn trọng các cơ sở như thế, mà chúng tôi vẫn bị mang tiếng là phá đạo. Nếu chúng tôi đem các cháu vào học trong đó, thì sẽ càng bị tố cáo hơn». Rồi ông thêm: «các ngôi nhà đó bắt đấu hư hỏng rồi. Tuy vậy, Giáo hội vẫn từ chối không cho mượn, dầu là làm bệnh xá, chưa nói đến chuyện cho những người không có nhà vào ở».
    Trong giáo xứ G.L địa phận Bùi Chu, bên cạnh nhà thờ, có một nhà hội lớn xây bằng gạch bỏ không hoài đấy. Năm 1972, Ủy ban xã quyết định mở thêm các lớp trung cấp cho hết hệ 10 và đã đến xin mượn nhà hội đó cho các em học đỡ, đang lúc chờ xây nhà mới. «Nhà hội, nhà xứ chỉ được phép cho sinh hoạt thuần túy tôn giáo thôi». Và điều trớ trêu là 75% các em học sinh là con nhà Công giáo».
    Về việc sử dụng các cơ sở tôn giáo - nhà thờ, nhà nguyện, nhà hội, sân nhà thờ - trong một thư mục vụ đề ngày Lễ Thánh năm 1961, Giám mục Thái Bình đã ra vạ tuyệt thông tức khắc cho các linh mục, giáo dân nào sử dụng, hoặc cho phép sử dụng, hoặc cho mượn các cơ sở đó và những sinh hoạt không trực tiếp liên hệ tới việc thờ phụng. Giám mục đó đã phạt vạ nhiều người chức việc giáo xứ, vì đã cho hợp tác xã phơi lúa trên sân nhà thờ. Trong một thư chung ngày 1-1-1973, giám mục ấy còn lặp lại lệnh cấm đoán đó và cả vạ tuyệt thông.
    Trong các vụ ném bom tàn bạo nhất của Mỹ, người ta mong được các giám mục cho nhờ các tòa Giám mục rộng lớn, các nhà chủng viện, để chứa những nạn nhân bị bom, hoặc những người đã cháy mất nhà cửa hay là bị thương.
    7 "? CÁC CỐ THỪA SAI
    Ngoài việc trưng thu đất ruộng nhà chung, còn một số dữ kiện góp phần cho các vị lãnh đạo Giáo hội tin rằng chính phủ không chịu tôn trọng tự do tín ngưỡng và thờ cúng, như Sắc lệnh 14-6-1955 đã đảm bảo. Chẳng nói gì những sai phạm hồi cải cách ruộng đất, mà nạn nhân không những là các địa chủ, mà cả nhiều cán bộ của Đảng và ủy viên các Ủy ban hành chánh, cần nhắc lại việc từ chối không gia hạn cư trú cho hai Giám mục thừa sai và một tá linh mục thừa sai Pháp và Canada.
    Chính sách «bài thừa sai» đó xảy ra 30 năm sau mối lo lắng của đức Piô XII, đã tiên đoán rằng có ngày những kẽ bị trị «sẽ trục xuất khỏi nước họ binh lính và thừa sai, để xác lập chủ quyền của họ trên đất nước mình (Rerum Eeclesiae)?. Đàng khác, quá khứ không mấy vinh dự của hoạt động truyền giáo tại Việt Nam, nhưng trong tư tưởng các thừa sai thì lại nằm trong quĩ đạo của lịch sử.
    8 "? SỰ ĐÁP TRẢ CỦA GIÁO HỘI TRƯỚC BÀN TAY ĐƯA RA
    Khỏi cần nhắc lại rằng, những người kháng chiến bị hành hạ tại nhiều nơi do người Công Giáo, nhân danh tôn giáo, nhân danh cuộc thánh chiến chống C ộng. Cử chỉ hòa giải đầu tiên của ***** Chí Minh là đã phải khóc khi có dịp dựa vào vai của Giám mục Trịnh Như Khuê. Sau đó, Cụ đã ra lệnh ân xá cho tất cả những người Công giáo đã từng cầm súng đánh *********. Nhằm tránh các vụ trả thù cá nhân hoặc tập thể những làng lương đối với các làng giáo đã từng được Pháp vũ trang để tiêu diệt C ộng sản, Bác đã phái tới các vùng Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình những toán cán bộ chuyên môn, để giải thích cho bà con bên lương chính sách khoan hồng và hòa giải của Chính Phủ.
    Tại những làng mà cha xứ quá hung hăng đã hạ tượng Phật xuống và đặt tượng Chúa và Đức Mẹ lên thay thế, cán bộ ********* đã thuyết phục được người lương đừng phá các tượng của bên giáo, nhưng kêu giáo dân tới hạ tượng xuống và rước về nhà thờ mình. Các Linh mục, từng là cụ xứ - đại úy, vẫn được đứng đầu giáo xứ và tiếp tục được thi hành chức vụ, chỉ trừ một số ông đã phạm những tội ác quá nặng nề - như chôn sống du kích, bắn giết bừa bãi nam nữ và trẻ em - đã bị giam trong trại cải tạo. Nhờ một đường lối hết sức khôn ngoan, nhờ sự áp dụng rộng rãi ân xá, khá đông các Linh mục từng thề nguyền không đội trời chung với C ông sản đã trở thành những người yêu nước. Việc mục vụ của các Linh mục ấy lại rất cần cho Giáo hội vì vụ băng hoại di cư 1954-1955.
    (bỏ 1 đoạn về tình hình Giáo hội miền Bắc)
    Để vá các lỗ trống và tái thiết Giáo hội và đáp trả bàn tay đưa ra của ***** Chí Minh, lẽ ra Giáo hội phải có một đường hướng hòa dịu hơn. Tiếc thay, năm 1955, người ta vẫn sống trong bầu không khí chống C ộng của Piô XII, còn được hâm nóng lên bởi cuộc chiến «thế giới tự do» chống lại «thế giới C ộng sản». Theo đề xuất của khâm sứ Đu-lây, Rôma đã thay thế các mục tử bỏ chạy bằng các Giám mục có thể nói là không thân thiện gì với chế độ, cũng không cởi mở gì trong các vấn đề của Giáo hội sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa: Giám mục Phạm Năng Tĩnh, cựu thư ký và cánh tay phải của Giám mục Phạm Ngọc Chi, lãnh tụ của Đạo quân Công giáo Bùi Chu trước kia, hai vị cựu đại úy và hai nhân vật chủ chốt tổ chức di cư hồi 1954.
    Trong một nước bị chia cắt, mà đế quốc Mỹ chi phối mạnh mẽ cả miền Nam, cử chỉ nói trên của Vatican là vụng về, nếu không muốn nói là thù địch, khiến Hà Nội phải cảnh giác, đối với Hàng Giáo phẩm, nhất là từ 1961. CIA tăng cường các hoạt động bí mật chống phá miền Bắc bằng cách gởi ra Bắc các toán biệt kích, gồm hầu như toàn người Công giáo gốc miền Bắc di cư vào Nam. Kế hoạch thả truyền đơn nhằm tuyên truyền chống C ộng, thả dù những toán phá hoại và dò thám, đã được Ken-nơ-di (Kennedy) phê chuẩn ngày 23-4-1961, như tài liệu mật Lầu năm góc đã tiết lộ. Tài liệu này còn trình bày chi tiết hơn các «hoạt động dưới nước, các hoạt động tâm lý chiến và các hoạt động thả dù» thực hiện năm 1964, sử dụng ưu tiên người Công giáo, các cựu chủng sinh, để dể tiếp xúc được với các cha xứ và giáo dân miền Bắc. Theo nguồn tin Bắc Việt, các hoạt động đã bị thất bại, vì người dân Công giáo ở miền Bắc đã ý thức hơn và không để mắc bẫy đế quốc như hồi 1940 nữa. Phần lớn các toán biệt kích nhảy dù hoặc đổ bộ đã bị bắt, chính bà con Công giáo đã giao nộp lại cho công an. Tuy nhiên, thái độ của hàng Giáo phẩm và một phần giáo sĩ vẫn không được rõ ràng.
    Bài báo Học Tập được nhắc tới trên kia ghi nhận lại tình hình như sau:
    «Nói chung, các Giáo hội Phật giáo, Cao đài và Tin lành đều thống nhất về quan điểm chính trị với đa số tín đồ của họ, phát triển ngày càng tốt lòng yêu nước và ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Tại nhiều tỉnh, huyện hoặc giáo xứ, bà con Công giáo cùng với những người phụ trách và các linh mục yêu nước đã xây dựng giáo hội địa phương của họ phù hợp với luật pháp Nhà nước, và đã có những sinh hoạt yêu nước. Nhưng, tại một vài nơi, Giáo hội Công giáo chưa cùng đứng về một phía với giáo dân trong con đường cách mạng, một số phần tử xấu trong Giáo hội vẫn còn lợi dụng cách sinh hoạt tôn giáo, để ngăn cản giáo dân tham gia các phong trào và tổ chức cách mạng».
    Từ 20 năm nay, Giáo hội miền Bắc giống như một tấm vải, trên đó sợi ngang thì mới mà sợi dọc thì cũ. Nhiều vị lãnh đạo Giáo hội đã thưởng thức quá lâu thứ rượu cũ dành riêng cho giai cấp ưu đãi, nên khó mà vui lòng với thứ rượu mới chung với toàn dân. Các vị lãnh đạo Nhà nước, tại nhiều cấp, là những người đã từng chịu cơ cực qua nhiều trong quá khứ, đã từng nếm mùi cay đắng ghê gớm của chủ nghĩa chống C ộng, nên khó mà quên nhanh được. Hơn nữa, nguy cơ của thực dân, không phải là chuyện quá khứ có thể bỏ qua luôn, nhưng nó còn là chuyên trước mắt, chính phủ nào cũng lo ngăn ngừa.
    Việc từ chối gia hạn cư trú cho thừa sai nước ngoài - tuy có thể bàn cãi về cách xử sự riêng với ca này ca nọ - việc giới hạn tự do đi lại của các Giám mục và một số Linh mục, đều là hậu quả của một bối cảnh lịch sử.
    Một nhân chứng từng trải các vấn đề miền Bắc nói với tôi: «Việc thành lập tại miền Nam các toán biệt kích Công giáo theo hướng «Bắc tiến», những cuộc viếng thăm qua lại của Hồng y Xpenman, việc Vatican công nhận Ngô đình Diệm, tất cả những điều đó lộ ra một thái độ hàm hồ dị nghĩa, hay đúng hơn, thiên vị của Giáo hội. Tại miền Bắc, hồi còn khâm sứ Dulây và sau đó, hàng Giáo phẩm vẫn tiếp tục áp dụng nghiêm nhặt thư chung 1951, tuyệt thông với C ộng sản, từ chối bí tích cho người kháng chiến chống Pháp và những người Công giáo tham gia hợp tác xã, hoặc hợp tác với chế độ. Tệ hơn nữa, tại một số địa phận, các Giám mục còn từ chối không làm các phép cho cha mẹ nào gửi con đi học trường công».
    Từ lúc Mỹ bắt đầu các cuộc ném bom ào ạt năm 1965 cho tới khi chấm dứt và cuối tháng chạp 1972, Giáo hội chính thức đã giữ im lặng một cách kỳ lạ, mặc dầu nhiều thành phố làng mạc bị tận diệt, mặc dầu nhiều nhà thờ, chùa chiền, nhà thương, bệnh viện bị tàn phá, hàng ngàn người vô tội bị giết. Một số Giám mục còn nói rằng nếu Mỹ có ném nom nhà thờ (575 nhà thờ bị phá hủy hoặc hư hại) thì đó là do chiến thuật của C ộng sản dùng bom Mỹ để phá tôn giáo.
    Phải chăng họ hy vọng rằng, những «toán Công giáo Mỹ» đến dùng vũ lực để giải thoát họ khỏi ách C ộng sản như Giám mục Puginê và Pelơranh thế kỷ 19?
    Phải chăng họ đã quá tin vào các buổi phát thanh của các đài «Tiếng nói tự do» và nhiều đài «đen» khác do CIA thiết lập để loan báo mỗi ngày cho họ rằng giờ giải thoát đã gần?
    Chẳng biết nói rằng đúng hay nói rằng không?

Chia sẻ trang này