1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Tổng hợp bài viết về Hoàng Sa

Chủ đề trong 'Giáo dục quốc phòng' bởi tricksy_bee, 02/08/2008.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Kỳ 3: Bản hùng ca bất tử
    Trước khi giong thuyền vượt biển Đông, nhiều người lính Hoàng Sa đã quấn vành tang trắng vì biết rằng khó có ngày về.
    Những người ở nhà cũng làm một lễ tế họ cho trời biển. Họ ngẩng cao đầu ra đi để khẳng định và bảo vệ chủ quyền tổ quốc.
    Lớp lớp người đi không về
    Buổi chiều, ông già ngồi lặng lẽ tưởng nhớ người xưa. Trước mặt ông, nấm mộ gió dài hơn 10m là nơi yên nghỉ của 10 vong hồn người lính Hoàng Sa đã gửi xác thân cho biển cả.
    Thắp nén nhang cắm lên đầu mộ, ông tâm sự mình là Phạm Quang Tĩnh, hậu duệ đời thứ sáu của Phạm Quang Ảnh đang yên nghỉ dưới nấm đất nhô cao ở đầu ngôi mộ gió tập thể. Ông là con cháu của Phạm Quang, người đã có công khai lập tộc họ này trên đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi).
    Khi mệnh nước cần người hùng dám xông pha đại dương ra quần đảo Hoàng Sa xác lập chủ quyền, Phạm Quang Ảnh được chọn phong làm cai đội lãnh quân ra đi. Rồi đến khi ra khơi, ông cùng hải đội đã đi mãi không về. Con cháu làm nấm mộ chiêu hồn tập thể cho ông cùng 10 người lính của mình.
    Đến nay, nấm mộ gió đó vẫn còn được thờ tự nguyên vẹn ở thôn Đông, xã Lý Vĩnh. Tương truyền ông được phong làm thượng đẳng thần để hộ vệ và ban phúc cho những người vượt sóng gió biển Đông. Một hòn đảo lớn trong nhóm đảo Lưỡi Liềm ở Hoàng Sa cũng được đặt tên Quang Ảnh của ông để ghi nhớ người xưa đã từng đặt chân lên đây khẳng định chủ quyền.
    Ông Tĩnh lần giở cho tôi xem các kỷ vật và tài liệu cổ nói về công đức tiền nhân. Trong đó có cả các gia phả, linh vị xưa vẫn còn rõ nét với thời gian. Sử liệu cũ trong Đại Nam thực lục chính biên, đời vua Gia Long, cũng ghi chép rằng: "Tháng giêng năm Ất Hợi (1815), vua Gia Long sai Phạm Quang Ảnh thuộc đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem xét, đo đạc thủy trình?".
    Ngoài cai đội Phạm Quang Ảnh, các tộc họ Phạm ở Lý Sơn còn có nhiều người lần lượt tham gia các hải đội này. Và đa số họ ra đi không về.
    Cuối thôn Tây, xã Lý Vĩnh, nấm mộ gió của cai đội Hoàng Sa Võ Văn Khiết cũng còn nguyên vẹn. Hậu duệ họ Võ dựng cả một nhà thờ người anh hùng xưa. Trong ký ức lưu truyền của các cụ già ở đảo, Võ Văn Khiết được người dân sánh ngang với Phạm Quang Ảnh.
    Ông phụng mệnh vua lãnh binh tiến ra Hoàng Sa, không có ngày về. Người đời sau đã thờ cúng ông như một vị thành hoàng đem lại phúc lành cho hòn đảo Lý Sơn. Những dịp ra đảo, ngoài những vị cai đội Hoàng Sa còn lưu đậm chứng tích, tôi được nghe người dân kể nhiều về các bậc anh hùng khác như Võ Văn Hùng, Phạm Văn Sanh, Phạm Văn Nhiên, Phạm Văn Nguyên...
    Trong đó, Phạm Văn Nguyên theo lệnh vua Minh Mạng, vào năm thứ 16 (1835) chở vật liệu ra xây dựng một ngôi miếu chủ quyền trên đảo Hoàng Sa. Quanh miếu, họ còn gieo hạt cây mang theo từ đất liền để đem lại sinh khí cho đảo và dấu hiệu cho tàu thuyền bị nạn biết chỗ vào tránh...
    Luật vua ban con trai trưởng được ở nhà thờ tự cha mẹ, các con trai thứ chưa có gia đình đều có thể vào hải đội, việc đó cứ kéo dài nhiều đời vua. Và tộc họ nào ở Lý Sơn cũng nhiều lần quấn vành tang trắng, hiến dâng con cái của mình cho quần đảo ngoài biển xa. Có người cùng chung một hải đội. Có người tiến ra Hoàng Sa trước, người vượt biển Đông sau. Nhưng hầu hết đều giống nhau vì tổ quốc ra đi không về!
    Trên đảo Lý Sơn bây giờ, một số trong họ vẫn còn mộ chiêu hồn, linh vị rõ ràng để hậu thế thờ tự, nhưng nhiều người đã phai nhòa dấu vết theo thời cuộc đổi thay. Cả một nghĩa trang mộ gió cũ của những người lính Hoàng Sa nay cũng không còn lại được bao nhiêu dấu vết.
    Ông Nguyễn Thanh Tùng, phó chủ tịch UBND huyện Lý Sơn, kể ngày xưa người Pháp đặt chân lên đây đã ra tay tàn phá rất nhiều, đặc biệt là chứng tích của những anh hùng vị quốc vong thân.
    Lưu dấu anh hùng
    "Hoàng Sa trời bể mênh mông. Người đi thì có mà không thấy về". Câu thơ tưởng nhớ người xưa vẫn còn truyền miệng ở Lý Sơn đã phần nào nói lên được cảnh tiễn biệt xúc động của những người lính Hoàng Sa thuở nào cũng như hiểm nguy mà họ phải đối mặt.
    Sử cũ chép rằng hầu hết hải đội Hoàng Sa đều vượt biển trên những chiếc thuyền câu nhỏ, để tiện luồn lách trong quần đảo có nhiều rạn san hô và bãi đá ngầm hiểm trở.
    Đến bây giờ, ngư dân già Võ Hiến Đạt đã gần bước sang tuổi 80 vẫn nhớ mãi lời tổ tiên kể đó là những chiếc ghe bầu được đóng bằng gỗ chò vùng cửa biển Sa Kỳ và ngay trên đảo Lý Sơn mà người xưa hay gọi là tiểu điếu thuyền.
    Ghe chỉ rộng khoảng 3m, dài hơn 10m, chở được 10 người. Nương theo chiều gió, ghe căng ba cánh buồm cùng với sức chèo đi khoảng ba ngày ba đêm thì thấy quần đảo Hoàng Sa. Ngoài lương thực, nước uống được mang theo tạm đủ dùng trong sáu tháng, những người lính này còn bắt cá, chim để ăn thêm.
    Đặc biệt, từng người lính còn mang theo mình một thẻ bài ghi rõ danh tính, phiên hiệu hải đội, bản quán. Nhưng xúc động nhất là họ chuẩn bị cả chuyện hậu sự cho mình trong chuyến hải trình dài hiểm nguy. Mỗi người một chiếc chiếu, bảy nẹp tre và dây mây để khi chết sẽ bó xác mình, thả xuống biển, mong có ngày trôi dạt về đất quê hương hoặc ghe thuyền nào đó vớt được cũng biết quê quán để chở về.
    Buổi chiều dưới bóng Âm Linh tự, nơi đang thờ tự vong hồn những người lính Hoàng Sa xưa, các cụ già trên đảo Lý Sơn đã rưng rưng đọc một đoạn văn tế những người anh hùng vì quốc vong thân: "...Ngoảnh sang đông, ngóng về tây... Tiếng sóng bể Đông trập trùng cuồn cuộn, tưởng niệm dấu thần phương nao mờ mịt. Hồn thiêng xa vời vợi mong được ngày trở về...".
    Để yên lòng những hùng binh ra đi khó có ngày về và cho con cháu đời sau không quên công đức tiền nhân, các tộc họ ở Lý Sơn vẫn làm lễ tang, đắp mộ tươm tất cho những người lính gửi xác thân cho biển cả. Dưới nấm mồ, một hình nhân bằng đất sét được chôn thay thi hài người lính. Tấm bia đá cũng được khắc ghi tên tuổi để lưu dấu anh hùng với non sông.
  2. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Kỳ 3: Đời đời không quên
    Thời gian đã trôi qua lâu với bao thế cuộc đổi thay, các hải đội Hoàng Sa cũng không còn nữa. Nhưng mỗi năm cứ đến ngày 20-2 âm lịch, người dân ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi) vẫn thành kính làm lễ cúng tế để con cháu đời sau mãi mãi không quên những vị hùng binh vị quốc vong thân.
    Hiến tế anh linh
    Âm Linh tự thờ vong hồn những liệt sĩ Hoàng Sa trầm mặc trong buổi hoàng hôn lộng gió. Tôi theo các cụ già thắp lên bàn thờ nén hương tưởng nhớ người xưa. Hàng trăm năm trước, tại chính ngôi cổ tự này đã từng diễn ra bao buổi lễ tế sống những người lính Hoàng Sa trước khi tiễn họ ra biển. Buổi lễ bi hùng dành cho những người sắp hi sinh vì Tổ quốc đó giờ vẫn đang được tiếp nối.Và hậu duệ đời sau vẫn gìn giữ trang nghiêm những kỷ vật, nghi thức thờ tự người xưa.
    Theo lời kể của tiền nhân còn lưu truyền trong ký ức các cụ già ở đảo Lý Sơn, Âm Linh tự được xây dựng vào thế kỷ 17 tại thôn Tây, xã Lý Vĩnh. Ngôi cổ tự được thiết kế theo hình chữ "công" với nguyên bản lợp bằng ngói âm dương, sau tấm bình phong ngay trước sân vẫn còn tháp thờ khắc bốn chữ "Chiến sĩ trận vong" để tưởng nhớ những người lính đã hi sinh vì Hoàng Sa. Về sau, nơi này còn được phối thờ thêm tiền hiền lục tộc Võ Văn, Võ Xuân, Phạm Văn, Phạm Quang, Lê, Nguyễn đã có công khai phá, gầy dựng tộc họ tại đảo và vong hồn những ngư dân bỏ mình trên biển sau này.
    Mỗi năm đến ngày lễ họ ở Âm Linh tự, các lớp hậu duệ ở Lý Sơn vẫn ngâm nga lại những dòng thơ bi hùng truyền miệng về họ:
    Hoàng Sa lắm đảo nhiều cồn
    Chiếc chiếu bó tròn mấy sợi dây mây...
    Hoàng Sa mây nước bốn bề
    Tháng hai khao lề thế lính Hoàng Sa...​
    Các cụ già ở Lý Sơn cho biết đó là buổi lễ lớn trang nghiêm và được đông người tham dự nhất ở đây, vì hầu như tộc họ nào trên đảo cũng có nhiều tiền nhân hi sinh vì Hoàng Sa. Thuở xưa, khi cha ông còn giong thuyền đi khẳng định chủ quyền Tổ quốc, buổi lễ này được gọi là khao lề thế lính Hoàng Sa để tế sống họ cho trời biển. Ngày nay, nghi thức lễ vẫn được kính cẩn thực hiện như xưa, nhưng nó đã chuyển sang ý nghĩa tưởng nhớ công đức tiền nhân.
    Bắt đầu từ ngày 17-2 âm lịch, nhưng lễ chính diễn ra vào cuối đêm 19 và kéo dài suốt ngày 20-2 âm lịch. Mỗi linh vị cao khoảng 20cm, rộng 7cm ghi tên tuổi những người lính trong tộc họ đã hi sinh. Khi kết lễ, tất cả linh vị này đều được đốt hết và thả tro tàn xuống biển như người lính năm xưa đã bỏ xác thân giữa đại dương.
    Đặc biệt, một con thuyền mã được làm bằng giấy hoặc phên tre, thân chuối cũng được thả xuống biển. Trên thuyền có các hình nhân làm bằng rơm tượng trưng cho người lính. Ngoài ra, trong lòng thuyền còn được đặt một số món như gạo, muối, xôi chè, rượu, nước, củi lửa... là những thứ mà người lính ngày xưa từng mang theo đi làm nhiệm vụ.
    Ông Võ Hiến Đạt, người đã tham dự biết bao lễ khao lề thế lính Hoàng Sa trong suốt cuộc đời gần 80 năm của mình, rưng rưng tâm sự rằng buổi lễ không chỉ có ý nghĩa tâm linh. Các hải đội Hoàng Sa đã kết thúc sứ mạng lịch sử của mình lâu lắm rồi, nhưng hằng năm dân đảo Lý Sơn vẫn thực hiện lại buổi lễ này vì muốn con cháu đời sau mãi mãi ghi nhớ hình ảnh tiền nhân đã ra đi và hi sinh vì nước như thế nào.
    Trường tồn cùng Tổ quốc
    Lần nào ra Lý Sơn, tôi cũng được người dân địa phương dẫn đi thăm các nơi từng in dấu hải đội Hoàng Sa xưa. Gần đây, nhiều di tích đã được Nhà nước và người dân chung tay sửa sang lại. Trên triền núi Hòn Vung, những người thợ xây đang gấp rút hoàn thành tượng đài liệt sĩ Hoàng Sa kiêm quản hải đội Bắc Hải. Đình làng An Vĩnh trông ra biển Đông tiêu điều trong thời cuộc loạn lạc cũng được trùng tu ngay trên nền đất đã từng in dấu chân bao hùng binh trước khi bước xuống thuyền. Các nhà thờ tộc họ có người đi lính, các nấm mộ chiêu hồn không hài cốt cũng đang được thành kính trùng tu.
    Ông Nguyễn Thanh Tùng, phó chủ tịch UBND huyện, tự hào kể rằng mọi người đều đang cố gắng hết sức để Lý Sơn trở thành đảo cho nhân dân cả nước có thể viếng thăm, ghi nhớ công đức của những người lính trong hải đội Hoàng Sa.
    Suốt hàng chục năm qua, ông Phạm Thoại Tuyền - hậu duệ của anh hùng Phạm Hữu Nhật - cứ lặng lẽ đi sưu tập những chứng tích còn lại của đội lính Hoàng Sa. Ông cặm cụi sao lại các gia phả cổ, cắt dán những bài báo cũ, nhặt nhạnh từng viên đá, vốc cát vun đắp lên nấm mộ người xưa. Mỗi khi các nhà nghiên cứu viếng thăm quê hương hải đội Hoàng Sa, ông cũng trở thành người dẫn đường tình nguyện bất kể nắng mưa. Ngồi trước linh vị tiền nhân, người đàn ông có gương mặt chai sạm nắng gió biển Đông nói với tôi rằng mong mỏi lớn nhất của ông là có ngày được đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa, thắp nén nhang ngay chính nơi tiền nhân đã hi sinh để khẳng định và bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc.
    Ông Phạm Thoại Tuyền nói: "Dù mai sau những di tích bằng đất đá này có mòn vỡ theo thời gian, những vị hùng binh năm xưa cùng quần đảo Hoàng Sa vẫn trường tồn trong mỗi trái tim người VN".
    Quốc Việt
    Báo Tuổi Trẻ
    Được tricksy_bee sửa chữa / chuyển vào 03:13 ngày 04/08/2008
  3. tricksy_bee

    tricksy_bee Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2006
    Bài viết:
    137
    Đã được thích:
    0
    Ký ức Hoàng Sa
    Trong Toàn tập Thiên Nam Tứ chí lộ đồ của Đỗ Bá (năm Chính Hòa thứ 7-1686, đời Lê Trung Hưng) có lời chú: ?oBãi cát vàng phỏng dài 400 dặm, rộng 200 dặm, ở giữa biển khoảng từ cửa Đại Chiêm kéo đến cửa biển Quyết Mông (cửa Sa Kỳ)... Hằng năm Chúa Nguyễn vào cuối đông đưa 18 chiếc thuyền đến nhặt vàng bạc...?
    Bãi cát vàng đó là Hoàng Sa ngày nay...
    Gần 400 năm sau vào tháng 1-1997, Hoàng Sa trở thành đơn vị hành chính của TP Đà Nẵng. Huyện đảo Hoàng Sa có diện tích 305 km2, chiếm 24,29% diện tích TP Đà Nẵng. Ở Đà Nẵng, những cư dân từng sống và làm việc ở Hoàng Sa một số người còn sống đến nay. Người nhiều, người ít họ đã để lại quãng đời thanh xuân đẹp nhất của mình ở đảo Hoàng Sa yêu dấu của Tổ quốc. Thỉnh thoảng họ vẫn gặp nhau ôn lại kỷ niệm đẹp ngày xưa.
    Thiên đường Hoàng Sa
    Hồi ấy, ông Võ Như Dân là nhân viên phục vụ Trạm Quan trắc đảo Hoàng Sa, thuộc Đài Khí tượng Sài Gòn trước năm 1975. Trạm quan trắc này được Pháp xây dựng từ năm 1932 mang số hiệu 48860. Nhóm 48 chỉ vùng Đông Nam Á; số 860 dùng cho trạm Hoàng Sa. Trạm chính thức hoạt động vào năm 1938 đến năm 1974.
    Ông Dân nhớ lại, cách nay hơn 54 năm, khi đứa con đầu lòng mới tròn 1 tuổi, ông Dân từ biệt gia đình ra đảo công tác. Trạm quan trắc trên đảo có 5 nhân viên, gồm 3 quan trắc viên, 1 vô tuyến điện và 1 phục vụ. Mỗi nhiệm kỳ công tác 3 tháng, nhưng tổ phục vụ ngày ấy chỉ có 3 người xoay vòng, nên có năm, ông Võ Như Dân ra đảo 2 lần. Ông Dân còn nhớ, mỗi chuyến tàu từ đất liền ra đảo chở cả tấn lương thực. Ông nghĩ kế dùng con vích (rùa biển) để kéo hàng từ tàu vào đài quan trắc.
    Mùa mưa bão của Hoàng Sa rất khắc nghiệt. Hoàng Sa chỉ có một bãi thông cao, chủ yếu là cây nhào thấp lúp xúp nên không thể ngăn gió bão. Nhiều tháng trời, phải đối diện với tình trạng thiếu lương thực khi tàu tiếp viện không đến kịp, không thể ra ngoài câu cá, ông Dân phải cùng đồng nghiệp bắt những con chim trú bão bay lạc vào trạm quan trắc để làm thịt.
    Còn trong ký ức ông Nguyễn Tấn Phát, cựu nhân viên quan trắc trạm Hoàng Sa, thì Hoàng Sa là thiên đường. Ông Phát ra đảo Hoàng Sa lần đầu tiên khi mới 25 tuổi, ông xin ở lại luôn hai nhiệm kỳ, 6 tháng tròn. Ba quan trắc viên, mỗi người được phân công trực một ngày, nghỉ 2 ngày. Nhiệm vụ của quan trắc viên hằng ngày, đều đặn 8 lần, mỗi lần cách nhau 3 giờ, đọc khí áp mặt đất, hướng gió, lớp mây, sau đó chuyển cho nhân viên vô tuyến điện thảo mã điện gửi về đất liền.
    Ngày ấy, Hoàng Sa có vị trí quan trọng trong công tác dự báo thời tiết, số liệu trên đảo gửi về thường rất chính xác trong công tác dự báo bão. Những ngày nghỉ, ông Phát lội khắp đảo. Đảo Hoàng Sa nằm trong nhóm Trăng Khuyết thuộc quần đảo Hoàng Sa. Đảo hình bầu dục, dài khoảng 950 m, rộng khoảng 650 m. Chỉ mất khoảng 45 phút là đã đi hết đảo. Đây là đảo chính của quần đảo nhưng không phải là đảo lớn nhất. Trên đảo có nhà của một trung đội địa phương quân.
    Ngọn hải đăng nằm ở phía Bắc đảo, chỉ dẫn cho tàu thuyền đi ngang qua vùng biển Hoàng Sa. Góc Tây Nam của đảo có miếu Bà, trong miếu có tượng Bà cao 1,5 m. Bia chủ quyền Việt Nam do nhà Nguyễn đặt vào năm 1816 nằm gần giữa đảo. Trên đảo còn có một nhà thờ Thiên Chúa... Ông Phát mô tả, chiều xuống đảo Hoàng Sa cực đẹp, nó như một miếng bánh mật, nước biển màu xanh ngọc chia thành từng lớp bao quanh đảo, vành đai ngoài màu xanh dương nhạt, xanh dương đậm dần ra phía khơi xa. San hô, ốc tai tượng, ốc gân là những đặc sản làm quà mỗi lần ông về đất liền...
    Ký ức tiền nhân
    Theo ông Tấn Phát, niềm say mê đảo Hoàng sa đã giúp ông có dịp tìm hiểu về lịch sử vùng đảo này. Ông cũng tự hào đã theo bước cha ông từ hàng trăm năm trước đến với vùng đảo xa xôi này. Hiện ở Hoàng Sa có nhiều hòn đảo được đặt tên các vị tiền nhân đã tới Hoàng Sa để bảo vệ bờ cõi Tổ quốc.
    Cách đảo Hoàng Sa về phía Nam chừng 3 hải lý có đảo Hữu Nhật. Đó là tên một suất đội thủy quân triều Nguyễn, ông Phạm Hữu Nhật. Ông Nhật là người Lý Sơn, Quảng Ngãi được vua Minh Mạng phái ra quần đảo Hoàng Sa để đo đạc thủy triều và vẽ bản đồ các đảo vào năm 1836. Xa hơn một chút có đảo Quang Ảnh, đảo mang tên ông Phạm Quang Ảnh, đồng hương với ông Phạm Hữu Nhật. Ông Quang Ảnh là đội trưởng đội Hoàng Sa thời vua Gia Long. Năm 1815, ông Ảnh theo lệnh vua dẫn một hải đội gồm 70 người quê Lý Sơn ra Hoàng Sa để thu hồi hải vật.
    Ở Lý Sơn, Quảng Ngãi hiện giờ vẫn còn nhiều di tích gắn liền với đội Hoàng Sa triều Nguyễn năm xưa. Đó là Âm linh tự - nơi có đài tưởng niệm chiến sĩ trận vong, cũng là nơi diễn ra lễ tế tự hằng năm lớn nhất đảo; miếu thờ và ngôi mộ của cai đội Hoàng Sa Phạm Quang Ảnh được vua ban sắc phong Thượng đẳng thần. Đặc biệt ở đây có khu mộ gió, nghĩa địa của những người lính Hoàng Sa đã bỏ mình trên biển. Những ngôi mộ chỉ có tên tuổi, không có hài cốt. Ở Lý Sơn còn lưu truyền câu ca: ?oHoàng Sa đi có về không/ Lệnh vua sai phải quyết lòng ra đi?. Tương truyền còn có hai câu đối ở đình Lý Vĩnh ghi nhận công trạng của đội Hoàng Sa: ?oÂn đức dựng xây miền đảo Lý/Nghĩa tình bồi dắp dải Hoàng Sa? .
    Chuyện những người lính thú Hoàng Sa.- Trong một dịp ra Lý Sơn, tôi đã được nghe những người già tại đây kể về số phận những người đi lính thú Hoàng Sa. Hằng năm vào tháng 3, đội Hoàng Sa gồm 70 người, thường là dân An Vĩnh (Lý Vĩnh, một xã của Lý Sơn) nhận lệnh vua chuẩn bị lương thực dùng trong 6 tháng, cùng với 5 chiếc thuyền ra khơi. Họ đi khoảng 3 ngày 3 đêm thì đến đảo để vừa canh giữ đảo vừa đánh cá, khai thác vật báu. Đến tháng 8 thì về Phú Xuân dâng nộp báu vật cho triều đình. 70 định suất đi Hoàng Sa được chia đều cho các tộc họ, theo nguyên tắc luân phiên nhau, con trưởng ở nhà lo tế tự, con thứ phải đăng lính. Vì thế hầu như toàn bộ các tộc họ thuộc làng An Vĩnh đều có người là lính Hoàng Sa.
    Thuyền nan mỏng mảnh, biển Đông bao la dập dồn sóng dữ, người đi lính Hoàng Sa đều chuẩn bị hậu sự cho mình trước khi xuống thuyền với đôi chiếu, đòn tre, dây mây bó xác và chiếc thẻ bài bằng tre ghi họ tên, quê quán. Họ hy vọng mong manh rằng nếu chết giữa biển, nếu qua được miệng cá dữ, còn có chút gì làm tin gửi tới người thân từ nơi mù tăm xa thẳm. Và cũng để có chút niềm hy vọng cho người ra đi, người dân làng An Vĩnh có tục làm lễ khao - lễ thế lính Hoàng Sa với ý nghĩa khao tế và khao quân. Lễ tục còn truyền đến ngày nay.
    Tháng 3 âm lịch, người lính xuống thuyền, ngày 20-2, dân làng làm một lễ lớn, vừa tế những người lính Hoàng Sa trong các tộc họ đã tử nạn vừa làm những hình nhân thế mạng để cầu xin sự an bình cho những người sắp bước xuống thuyền đi bảo vệ, giữ gìn giang san của Tổ quốc. Các hình nhân thế mạng không có đầu, trên đội nón gõ, áo kẹp nẹp. Tên tuổi, linh hồn những người lính được gửi vào các hình nhân, với mong muốn mọi sóng gió thử thách của khơi xa nhờ các hình nhân gánh đỡ cho những người sống... Song ?oHoàng Sa đi có về không ...?. Khu mộ gió ở Lý Sơn các buổi chiều cứ mênh mông gió, gió từ đại dương ào ạt thổi về như linh hồn những người lính thú Hoàng Sa tìm về chốn cũ...
    Theo thời gian, dòng chảy lịch sử cứ thăng trầm thiên biến, nhưng Hoàng Sa mãi còn đó, tươi mới trong ký ức những người đang sống, tươi mới trong ký ức từng dòng họ, gia đình đã dâng hiến những người con cho Hoàng Sa bao thế kỷ qua.
    Hoàng Sa mãi mãi là đảo tiên của Tổ quốc, là máu xương của cha ông, gắn liền với ký ức lịch sử dân tộc Việt Nam!
    Theo VÕ KIM NGÂN - NGUYỄN TÚ
    Người lao động
  4. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Phụ thêm với tricksy_bee tư liệu nha.
    SỰ THẬT VỀ TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
    Lê Văn Thự
    I
    Từ ngày trận hải chiến Hoàng Sa xảy ra đến nay, tôi vẫn giữ im lặng, không viết ra những điều mắt thấy tai nghe những gì xảy ra trong trận chiến, vì nghĩ rằng trận chiến Hoàng Sa là một thất bại vì đã không giữ được đảo Hoàng Sa. So với những chiến tích lẫy lừng cửa tiền nhân trong lịch sử thì chúng tôi đã không làm nên được tích sự gì, vì vậy tôi cảm thấy hổ thẹn khi phải viết ra.
    Nhưng nay đã có nhiều người viết về trận Hoàng Sa, trong đó có Hải quân Đại tá Hà Văn Ngạc là người chỉ huy trận chiến, và Trung úy Hải quân Đào Dân thuộc HQ-16. Nay lại có thêm Hải quân Trung tá Vũ Hữu San, Hạm trưởng HQ-4 viết một cuốn sách nói về trận chiến Hoàng Sa. Trong các bài viết cũng như cuốn sách đó, mỗi người nói một cách, không ai giống ai. Nếu ai chỉ đọc một bài thôi thì có thể tin đó là thật, nhưng nếu người đọc tinh ý thì vẫn có thể tìm thấy một vài chi tiết chứng tỏ người viết thiếu thành thật hay nói vu vơ phô trương nhiều hơn những gì cần nói. Còn nếu đọc hết tất cả các bài viết thì sẽ thấy người nói hươu kẻ nói vượn, chẳng biết tin ai. Người đọc sẽ đánh giá thấp Hải quân Việt Nam Cộng hòa và sẽ thắc mắc không biết trận chiến Hoàng Sa thật sự như thế nào.
    Chính vì lý do này mà tôi phải lên tiếng.Tôi biết trong Hải quân có một số người biết sự thật, nhưng ai nói sai họ vẫn mặc kệ, miễn người viết đề cao Hải quân, còn nói thật thì họ cho là mất mặt Hải quân.Vì vậy khi viết bài này, tôi biết trước là sẽ có nhiều người bất mãn vì bài viết của tôi, không những bất mãn mà tệ hơn, còn lên án tôi là kẻ bêu xấu Hải quân, nhưng tôi vẫn phải viết để nói lên sự thật và nói thay cho những người đã chết trong trận Hoàng Sa.
    Tôi cũng xin độc giả hiểu cho rằng trong các quân binh chủng, hàng tướng tá, úy, sĩ quan hay trong bất cứ tập thể nào cũng có người tốt kẻ xấu, người có trình độ cao, kẻ trình độ thấp, do đó xin quí vị không nên vơ đũa cả nắm. Hơn nữa bây giờ ra hải ngoại rồi, chúng ta phải nhìn nhận sự thật Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ chính vì cấp lãnh đạo và những người có trách nhiệm chứ đừng đổ lỗi cho đồng minh phản bội để chối tội.
    Trước khi vào bài, tôi xin nêu lên vài ý kiến về bài viết của Trung úy Đào Dân vì ông ta cùng ở trên HQ-16 với tôi. Những gì xảy ra trên HQ-16, Trung úy Dân viết có thể đúng nhưng chưa chắc đã thấy hết mọi chuyện xảy ra trên HQ-16 vì ông chỉ ở một vị trí nào đó trên chiến hạm chứ không thể có mặt ở trên khắp mọi nơi, ngoài ra ông còn phải lo làm phận sự của ông chứ không thể ngồi không mà quan sát trận chiến. Những gì ông viết về HQ-4, HQ-5 và HQ-10 là hoàn toàn không đúng sự thật. Chính tôi là người chỉ huy HQ-16 mà cũng không biết những hoạt động của HQ-4, HQ-5 làm sao ông Dân biết được ?
    Tôi nghĩ là ông Dân muốn viết về trận chiến Hoàng Sa mà ông có tham dự, nhưng khi muốn viết cho đầy đủ, ông phải nói đến các chiến hạm khác mà ông không biết hoạt động của các chiến hạm này nên phải tưởng tượng ra hoặc dựa vào phần nào bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc mà bài viết của Đại tá Hà Văn Ngạc thì hoàn toàn sai sự thật (tôi sẽ đề cập sau), điều này chắc chắn ông Dân cũng biết nên ông dễ dàng phóng bút theo mà không dám nói sự thật.
    Ông Dân nói Trung Cộng đặt đài quan sát trên đảo, xây dựng doanh trại, và toán người nhái đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra báo cáo là có cả một tiểu đoàn quân Trung Cộng trú đóng, là không đúng sự thật. Chỉ có một dãy nhà gỗ đang xây cất dở dang. Còn người nhái không đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra và cũng chưa bao giờ lên được đảo.
    Ông Dân viết: « Khi chúng tôi được lệnh tiến về phía đảo, HQ-10 hình như có vẻ chần chừ vì khoảng cánh giữa chúng tôi ngày càng xa và hạm trưởng HQ-16 đã nhiều lần thúc dục HQ-10 phải chạy sát nhau hơn » . Đây là chuyện không có. Sự thật, trong trận chiến HQ-16 tiến một hướng, HQ-10 tiến hướng khác để vào lòng chảo quần đảo Hoàng Sa chứ không tiến cùng một hướng. Từ đầu đến cuối trận chiến , HQ-10 đã làm đúng những gì tôi nói với Hạm trưởng HQ-10 tối hôm 18 tháng 1 năm 1974 trước ngày khai chiến 19 tháng 1 năm1974.
    Ông Dân nói việc các chiến hạm hải hành tập đội để phô trương lực lượng là hoàn toàn không có. Đã đi đánh trận mà còn phô trương lực lượng thì không còn gì ngớ ngẩn bằng.
    Ông Dân nói HQ-4 dùng mũi tàu để ủi tàu Trung Cộng ra xa đảo Hoàng Sa là chuyện không đúng sự thật và cũng không thể nào làm như vậy được. Cũng như phóng đồ kế hoạch điều quân của ông Dân cho thấy HQ-4 và HQ-5 tiến vào lòng chảo để tác chiến cũng là không thật nữa. Hướng tiến quân của HQ-4, HQ-5 vào lòng chảo chính là hướng tiến quân của HQ-10. Ông Dân đưa thêm HQ-4, HQ-5 vào cho đủ bộ thành trật lất. Sự thật là HQ-4 và HQ-5 chỉ ở vòng ngoài chứ không tham dự trận chiến trong lòng chảo.
    Nếu HQ-4 và HQ-5 có mặt trong lòng chảo thì khi HQ-16 và HQ-10 bị trúng đạn thì HQ-4 và HQ-5 làm gì không thấy ông Dân nói đến !
    Trên đây là các điểm tôi muốn đính chính về bài viết của Trung úy Đào Dân. Và sau đây là những gì xảy ra trong trận chiến mà tôi đã chứng kiến. Trước khi nói đến trận đánh, tôi xin sơ lược về quần đảo Hoàng Sa.
    Quần đảo Hoàng Sa (gọi chung là Paracels) cách bờ biển Đà Nẵng 180 hải lý về phía đông. Như quí vị thấy trong bản đồ, quần đảo Hoàng Sa gồm một số đảo ghi trong bản đồ quây quần nhau làm thành một lòng chảo, muốn vào bên trong lòng chảo đó phải theo hai lộ trình mà chúng tôi thường gọi là cái « pass ». Một cái ở giữa đảo Hoàng Sa và đảo Cam Tuyền. Cái kia ở giữa bãi đá ngầm Antelope và đảo Quang Hòa.
    Bản đồ này tỷ lệ xích quá nhỏ nên các đảo chỉ bằng lóng tay hay chỉ là những dấu chấm. Hoàng đảo Hoàng Sa không chỉ có bấy nhiêu đảo trong bản đồ mà còn một số đảo khác nữa nằm rải rác ở phía đông bắc. Những đảo trong bản đồ là những đảo tận cùng phía nam của quần đảo Hoàng Sa . Nhìn vào bản đồ, quí vị thấy các đảo rời nhau, có khoảng trống ở giữa, những tàu bè không chạy qua được vì đá ngầm và san hô ở dưới mặt nước, chỉ ra vào lòng chảo bằng hai cái « pass » tôi nói ở trên.
    Quần đảo Hoàng Sa có đảo lài, có đảo cao nhưng cũng chỉ cao hơn mặt biển chừng vài chục thước. Các đảo phần nhiều trơ trụi, hiếm có cây cao, toàn đá lởm chởm, chỗ cao chỗ thấp, ít có nơi bằng phẳng. Gần bờ thì có đá ngầm, san hô. Hết đá ngầm, san hô thì biển rất sâu. Đáy biển cũng có đá nên neo tàu không an toàn. Quần đảo Hoàng Sa cũng như Trường Sa không thể lập căn cứ hải quân được vì không có chổ ẩn núp cho tàu bè, chỉ có thể lập căn cứ trên đảo mà thôi.
    Tất cả các đảo đều không có nước ngọt, trừ đảo Hoàng Sa mà chúng tôi thường gọi là « đảo khí tượng » vì có đài khí tượng do người Pháp thiết lập và sau này luôn luôn có nhân viên khí tượng Việt Nam làm việc cho đến ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra. Người Pháp xây một hồ chứa nước bên trong nhà, có các máng xối hứng nước mưa chuyền vào bên trong hồ chứa để dùng cho cả năm.
    Trên đảo Hoàng Sa mấy năm đầu tiên có một trung đội Thủy Quân Lục Chiến trấn giữ. Về sau vì nhu cầu chiến trận, Thủy Quân Lục Chiến phải rời đảo và được thay thế bởi Địa Phương Quân của tiểu khu Quảng Nam. Họ phải ở trên đảo Hoàng Sa vì chỉ đảo này mới có nước ngọt. Thủy Quân Lục Chiến hay Địa Phương Quân đều được trang bị xuồng cao su để di chuyển quanh các đảo mà kiểm soát.
    Sau khi biết tổng quát vị trí các đảo, quí độc giả có thể theo dõi diễn tiến trận chiến Hoàng Sa sau đây. Tôi cũng xin thưa trước là những gì xảy ra tôi không nhớ chính xác giờ giấc, chỉ phỏng chừng. Nhưng những sự kiện thì xác thực. Ngày giờ và sự kiện xảy ra đều có ghi trong «nhật ký hải hành» và «nhật ký chiến hạm» nhưng nay không có thể tham khảo được.
    Ngày 15 tháng 1 năm 1974 tàu tôi, HQ-16, được lệnh ra công tác đảo Hoàng Sa, chở theo một cố vấn Mỹ và một Thiếu tá bộ binh thuộc Quân đoàn 1 (mà nay tôi không còn nhớ tên).
    Tàu khởi hành tối ngày 15 tháng 1 năm 1974 và đến Hoàng Sa sáng 16 tháng 1 năm 1974. Khi đến nơi, Địa Phương Quân trên đảo thấy tàu đã lái xuồng ra đón viên Thiếu tá Bộ binh lên đảo. Trong khi chờ đợi đưa Thiếu tá Bộ binh về lại Đà Nẵng, tôi vận chuyển tàu rời đảo Hoàng Sa ra biển, thả trôi tàu gần đảo Quang Hòa. Tôi lấy ống nhòm nhìn lên các đảo chung quanh để ngắm nhìn phong cảnh và tiêu khiển thì giờ.
    Khi nhìn lên đảo Quang Hòa thì thấy có một dãy nhà sườn gỗ còn đang xây cất dở dang, chỉ có sàn nhà, chưa có mái. Tôi thấy lạ, liền gọi máy về Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải (BTL/HQ/VIZH) hỏi thì nơi đây hỏi lại tôi là có biết người nào trên đó không? Tôi trả lời chỉ thấy bốn, năm người di chuyển tới lui nơi dãy nhà đang xây cất chứ không biết là ai. Họ ăn mặc thường dân, có người ở trần, nhưng có nhà xây cất thì chắc là người ngoại quốc mà không ai khác hơn là Trung Cộng, vì cách đảo Quang Hòa chừng 20 hải lý về phía đông bắc có căn cứ của Trung Cộng, cũng nằm trong quần đảo Hoàng Sa.
    HQ-16 vẫn thả trôi tàu để chờ Thiếu tá Bộ binh và chờ lệnh từ Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải.
    Trưa ngày 16 tháng 1 năm 1974 một chiến hạm Trung Cộng xuất hiện trong vùng.
    Tối ngày 17 tháng 1 năm 1974 Bộ Tư Lệnh Hải Quân gởi ra một toán người nhái do HQ-4 chở ra. Toán người nhái này rời HQ-4 bằng xuồng cao su để lên HQ-16.
    Sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 HQ-5 và HQ-10 có mặt ở khu vực Hoàng Sa. Đại tá Hải quân Hà Văn Ngạc ở trên HQ-5 là người chỉ huy cuộc chiến.
    HQ-5 do Trung tá Phạm Trọng Quỳnh (khoá 11) chỉ huy.
    HQ-16 do tôi, Trung tá Lê văn Thự (khoá 10) chỉ huy.
    HQ-4 do Trung tá Vũ Hữu San (khoá 11) chỉ huy.
    HQ-10 do Thiếu tá Ngụy Văn Thà (khoá 12) chỉ huy.
    Khoảng 10 giờ sáng ngày 18 tháng 1 năm 1974 Đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh cho tôi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, sau đó cho toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa và một toán của HQ-16 lên giữ đảo Vĩnh Lạc.
    Sau khi đưa viên cố vấn Mỹ lên đảo Hoàng Sa, tôi vận chuyển HQ-16 bên trong lòng chảo để đến gần đảo Quang Hòa đổ bộ toán người nhái lên đảo thì một tàu Trung Cộng xuất hiện, cản trước mũi, không cho tàu tôi tiến gần đến đảo.
    Tôi phải ngưng máy, vận chuyển để tránh đụng tàu. Nhưng cả hai tàu cũng cọ vào nhau làm dẹp một số trụ căng dây an toàn chung quanh tàu Trung Cộng và làm rách bè nổi của tàu Trung Cộng. Nhờ xáp lại gần, tôi thấy tàu Trung Cộng số hiệu 271, dài chừng 70 mét, có súng tương đương với súng 76.2 ly, 40 ly, 20 ly và đại liên 12.7 của tàu tôi. Tàu Trung Cộng nhỏ hơn tàu tôi nhưng vận chuyển nhanh nhẹn hơn.
    Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc những gì xảy ra. Sau đó tôi lái tàu ra khỏi lòng chảo và đổ bộ toán người nhái vào mặt ngoài biển (mặt nam) của đảo Quang Hòa vào chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974.
    HQ-16 chỉ ở cách xa bờ một, hai hải lý rồi người nhái thả xuồng cao su có trang bị máy mà chạy vào bờ chứ HQ-16 không thể vào sát bờ được vì đá ngầm và san hô. Toán người nhái rời tàu chừng non một tiếng thì gọi máy báo cáo là ở trong bờ bắn ra. Tôi hỏi người liên lạc máy là có thấy người ở trên bờ không và các anh đã lên được bờ chưa? Họ trả lời là đang lội nước ngang ống chân, còn vài chục thước nữa mới tới bờ. Họ cũng cho biết là không thấy người trên bờ.
    Vài phút sau thì nghe báo cáo là một Thiếu úy người nhái bị bắn chết. Họ xin rút lui vì không thể vào bờ an toàn được. Tôi báo cáo với Đại tá Ngạc và xin cho người nhái rút lui. Toán người nhái đã trở về lại HQ-16.
    Chiều ngày 18 tháng 1 năm 1974, khoảng 6 giờ, Đại tá Ngạc gọi máy cho tôi và ra lệnh cho tôi chỉ huy HQ-10, bằng mọi giá phải đổ bộ cho được toán người nhái lên đảo Quang Hòa. Sau khi đại tá Ngạc ra lệnh này xong, thì từ đó về sau tôi không còn nghe lệnh lạc gì thêm từ Đại tá Ngạc nữa.
    Đến tối ngày 18 tháng 1 năm 1974 máy liên lạc âm thoại giai tần đơn bị Trung Cộng phá rối tần số, không liên lạc được. Tôi không thể gọi Đại tá Ngạc, HQ-4 hay bộ tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải. Tôi chỉ liên lạc được với HQ-10 bằng máy PRC-45 là loại máy truyền tin xách tay, chỉ liên lạc được trong vòng 10 hải lý.
    Sau khi nhận lệnh, tôi nghĩ chỉ còn cách đổ bộ toán người nhái vào ban đêm mới may ra lên được đảo, nhưng chưa chắc toán người nhái đã vào trót lọt được vì có thể tàu Trung Cộng theo dõi và liên lạc chỉ điểm cho người của họ trên đảo canh chừng để bắn khi người nhái vào bờ. Ngoài ra thức ăn, nước uống không có, làm sao toán người nhái có thể hoạt động lâu hơn một ngày được, và ít nhất cũng phải có một tiểu đội hay trung đội Thủy Quân Lục Chiến đổ bộ gần bờ yểm trợ cho toán người nhái khi họ rút lui nếu bị phát hiện hay khi gặp lực lượng địch mạnh hơn. Vì thế, muốn thi hành lệnh của Đại tá Ngạc, tôi nghĩ chỉ còn cách là phải tiêu diệt tàu Trung Cộng trước rồi mới tính chuyện đổ bộ người nhái lên đảo sau.
    Lúc này phía Trung Cộng xuất hiện thêm hai chiếc tàu nữa cùng loại với chiếc đã có trước.
    Tôi gọi Thiếu tá Thà HQ-10 và nói ý định của tôi: Đêm nay HQ-16 và HQ-10 ra thật xa đảo, làm tối chiến hạm (không cho ánh sáng lọt ra ngoài) để tàu Trung Cộng không biết chúng tôi ở đâu. Sáng mai (19 tháng 1 năm 1974) sẽ tiến vào lòng chảo. HQ-16 vào cái ?opass? gần đảo Hoàng Sa, HQ-10 vào cái ?opass? gần đảo Quang Hòa.
    Tôi cũng nói với Thiếu tá Thà là anh cũng như tôi, phải cố gắng hết sức mình. Nếu một trong hai đứa mà loạng quạng, chỉ còn lại một, thì bọn chúng (ba chiếc tàu Trung Cộng) xúm lại, mình không thể nào chống nổi.
    Đêm hôm đó (18 tháng 1 năm 1974) khoảng nửa đêm, tôi tập họp thủy thủ đoàn HQ-16 để thông báo ngày mai sẽ tiến vào đánh tàu Trung Cộng. Tôi cũng nói với thủy thủ đoàn là tất cả mọi người phải can đảm, cố gắng hết sức mình, ai làm phần việc của mình cũng phải nhanh nhẹn, chính xác mới mong thắng và còn sống. Nhất là các ổ súng và toán phòng tai phải lo chuẩn bị trước, xem xét lại súng ống, đạn nước phải đem từ hầm đạn lên để sẵn ở các ụ súng, ống nước cứu hoả phải trải sẵn ra. Máy bơm nước phải sẵn sàng.
  5. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Sáng ngày 19 tháng 1 năm 1974 HQ-16 và HQ-10 tiến vào lòng chảo như dự định.
    Tôi gọi máy cho Thiếu tá Thà và nói là nếu chừng nào thấy tôi khai hỏa là phải khai hỏa theo liền.
    Khi HQ-16 và HQ-10 qua khỏi hai cái ?opass? và vừa tầm súng, tôi quay ngang tàu HQ-16 đưa phía hữu hạm của HQ-16 hướng về ba tàu Trung Cộng. Mục đính của tôi là để tận dụng tất cả súng từ mũi ra sau lái. Nếu hướng mũi tàu về phía tàu Trung Cộng thì chỉ sử dụng được hỏa lực ở phía trước mũi thôi.Với lợi thế sử dụng tối đa hỏa lực nhưng cũng có cái bất lợi là hứng đạn của địch nhiều hơn. Nhưng vì tôi đánh phủ đầu tàu Trung Cộng nên phải sử dụng tối đa hỏa lực. So với tàu Trung Cộng, tàu tôi có đủ loại súng tàu Trung Cộng có, ngoài ra còn có thêm khẩu 127 ly mà tàu Trung Cộng không có. HQ-10 chỉ có hỏa lực ngang bằng tàu Trung Cộng.
    Khi đang tiến vào lòng chảo, tôi đã mừng thầm khi thấy ba tàu Trung Cộng đều ở trong lòng chảo, tức là những mục tiêu tốt cho HQ-16 và HQ-10 tác xạ. Nếu chúng ở rải rác, chiếc trong chiếc ngoài lòng chảo thì tôi cũng chưa biết tính sao vì tàu Trung Cộng tuy nhỏ nhưng linh động hơn, nếu chúng ra ngoài biển thì khó bắn trúng hơn vì nó nhỏ và chạy nhanh, còn tàu tôi lại là mục tiêu tốt cho tàu Trung Cộng vì to con nên nặng nề, chậm chạp nên dễ lãnh đạn hơn. Nhưng nay thì cả ba tàu địch bị vây trong vòng chảo vì hai cái ?opass? đã bị HQ-16 và HQ-10 chặn rồi.
    Khi đã ở đúng vị trí và vị thế dự định, HQ-16 cách HQ-10 chừng một hải lý, hai tàu HQ-16 và HQ-10 cách ba tàu Trung Cộng từ 3 đến 4 hải lý, tôi ra lênh lần chót: các ổ súng phải luôn luôn theo dõi mục tiêu, mục tiêu nào thuận lợi thì bắn mục tiêu đó. Sau khi hỏi tất cả các ổ súng đã sẵn sàng chưa, tôi ra lệnh khai hỏa.
    HQ-16 và HQ-10 đứng yên một chỗ còn ba tàu Trung Cộng di chuyển loanh quanh sát vòng cung lòng chảo gần đảo Duy Mộng và bắn trả chúng tôi.
    Tôi hy vọng trong 5,10 phút là triệt hạ được tàu Trung Cộng vì khai hỏa trước và sử dụng tối đa hỏa lực trong khi tàu Trung Cộng bị tấn công bất ngờ vì ngày hôm trước, tàu tôi bị họ chặn, tôi bỏ đi mà không có gì xảy ra nên họ không ngờ rằng tôi sẽ tấn công họ.
    Mười phút trôi qua mà chưa thấy tàu Trung Cộng hề hấn gì, tôi bắt đầu sốt ruột, trong khi đó tôi nghe tiếng lách tách, lép bép trên trời như tiếng pháo bông, giữa tàu tôi và HQ-10 và về phía HQ-10 nhiều hơn. Tôi nghĩ chắc là đạn thời chỉnh tức là đạn tự động nổ mà không cần chạm mục tiêu. Trận chiến vẫn tiếp tục. Chừng khoảng phút thứ 20 hay 30, tôi thấy một tàu Trung Cộng bốc khói, một tàu khác có thể bị trúng đạn làm hư hệ thống tai lái nên tàu cứ xoay quanh như gà trống chạy lòng vòng trước khi đạp mái.
    Tiếp đến HQ-10 báo cáo Hạm trưởng bị thương. Tôi ra lệnh Hạm phó lên thay quyền chỉ huy, đồng thời đặt ống nhòm nhìn sang HQ-10 tôi thấy một ngọn lửa nhỏ cháy ở đài chỉ huy có thể dập tắt được bằng bình CO2 mà sao không ai làm. Quan sát phía sau lái HQ-10 tôi thấy 4, 5 cái đầu nhấp nhô trên mặt biển. Tôi không biết chuyện gì xảy ra trên HQ-10 vì không nghe báo cáo gì thêm. Tôi đoán chừng vì Hạm trưởng bị thương nặng nên HQ-10 như rắn mất đầu. Một số nhỏ nhát gan sợ tàu cháy hay trúng đạn nổ nên đã nhảy xuống biển. Nhưng HQ-10 vẫn nổi bình thường, thăng bằng, không nghiêng một chút nào cả.
    Sau đó hầm máy hữu HQ-16 báo cáo trúng đạn ở lườn tàu dưới mặt nước. Nước tràn vào tàu.Trung sĩ điện khí Xuân bị thương. Nhân viên cứu hỏa tìm cách bít lỗ thủng. Chừng vài phút sau, tàu bắt đầu nghiêng. Hầm máy báo cáo lỗ thủng bít không được vì nước vào quá mạnh, chỗ thủng nằm trong kẹt không có chỗ cho nhân viên cứu hỏa xử dụng đà chống để chặn tấm bố và tấm gỗ bít lỗ thủng. Nước ngập đến đầu gối. Tôi ra lệnh nếu không bít được lỗ thủng thì đóng nắp hầm máy lại đừng cho nước chảy ra khỏi hầm máy. (Tôi nhớ hầm máy hữu trúng đạn mà trong bài viết của ông Dân thì lại viết là hầm máy tả !).
    Tàu chỉ còn một máy tả và một máy điện, phòng vô tuyến liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy tình thế không thể tiếp tục chiến đấu được nữa, tôi vận chuyển tàu quay trở ra theo cái ?opass? đẻ rời lòng chảo.
    Tàu mỗi lúc một nghiêng thêm (trên 10°) và chỉ còn một máy nên vận chuyển rất khó khăn. Hầm máy hữu báo cáo nhân viên phải rời hầm máy vì tàu sắp chìm.
    Thấy độ nghiêng của tàu đến mức gần hết độ an toàn, có thể tàu sẽ lật, nên tôi ra lệnh: toàn thể nhân viên vào nhiệm sở đào thoát vì sợ họ không còn thì giờ đào thoát kịp. Ra lệnh xong, tôi nắm lấy tay lái tiếp tục lái thay cho nhân viên ra nhiệm sở.
    Trong khi tôi đang lái thì Đại úy Hiệp, cơ khí trưởng, chạy lên đài chỉ huy, nói với tôi: ?oVì sao hạm trưởng cho nhiệm sở đào thoát? Tôi đang ráng làm cân bằng tàu?. Tôi nói là tàu mỗi lúc một nghiêng thêm, không biết sẽ lật chìm lúc nào nên phải chuẩn bị đào thoát.
    Lúc này tàu nghiêng đã đến độ bão hòa (không nghiêng thêm nữa) vì nước đã vào đầy hầm máy. Tôi cho giải tán nhiệm sở đào thoát và vào lại nhiệm sở tác chiến. Lúc này ở đài chỉ huy có Trung úy Đoàn Viết Ất, tôi nói với Trung úy Ất: ?oTàu nghiêng như thế này, khó mà lái ra biển an toàn được, chắc tôi phải ủi tàu vào đảo khí tượng (đảo Hoàng Sa) để cố thủ và chờ HQ-4, HQ-5 tiếp viện?.
    Trung úy Ất nói với tôi: ?oXin Hạm trưởng đừng ủi tàu vào đảo khí tượng. Mình sẽ bị Trung Cộng bắt làm tù binh. Làm tù binh Trung Cộng thì kể như chết rục xương trong tù, không còn thấy cha mẹ, vợ con, quê hương xứ sở. Xin Hạm trưởng cứ lái ra biển. Tàu có chìm thì đào thoát vẫn còn cơ may sống sót. Nếu chết thì chết trên biển vẫn sướng hơn?.
    Bây giờ viết lại câu nói này của Trung úy Ất tôi vẫn còn xúc động đến chảy nước mắt. Nghe Trung úy Ất nói, tôi suy nghĩ thêm: Nếu tôi cứ ủi vào đảo khí tượng thì cũng không thể nào ủi sát vào bờ được vì gần bờ đá ngầm rất nhiều. Nếu ủi, tàu sẽ mắc cạn, lườn tàu sẽ bị đá ngầm rạch nát, nước sẽ vào thêm, tàu sẽ hoàn toàn tê liệt mà thủy thủ đoàn cũng không thể nào lên đảo được. Do đó tôi tiếp tục lái tàu ra khỏi ?opass? đồng thời ra lệnh nhân viên hướng súng về đằng sau và về phía quần đảo Hoàng Sa canh chừng tàu Trung Cộng truy kích theo.
    Khi rời Hoàng Sa, tôi hết sức ân hận đã bỏ lại trên đảo một toán nhân viên 8 người do Trung úy Liêm chỉ huy khi có lệnh đưa nhân viên lên giữ đảo. Trung uý Liêm và toán nhân viên sau đó đã mạo hiểm vượt biển bằng bè vì không muốn Trung Cộng bắt làm tù binh. Sau hơn mười ngày lênh đênh trên biển, bè trôi về tận ngoài khơi Qui Nhơn, được ngư phủ cứu và đưa vào bệnh viện Qui Nhơn cấp cứu. Họ vượt biển mà không chuẩn bị thức ăn nước uống nên Hạ sĩ quản kho Nguyễn Văn Duyên đã chết vì kiệt sức khi đưa vào Qui Nhơn.
    Ra khỏi ?opass? tôi hướng tàu về Đà Nẵng, lúc này khoảng 5 - 6 giờ chiều ngày 19 tháng 1 năm 1974. Tàu chỉ còn một máy và nghiêng nên chạy chậm. Khi trời bắt đầu tối, tàu cách Hoàng Sa chừng 15 hải lý. Lúc này tôi mới thở ra nhẹ nhõm vì chắc tàu Trung Cộng cũng bị thương tích cả người lẫn tàu nên không truy kích tàu tôi.
    Bây giờ mối lo khác lại đến với tôi là tàu có thể lật chìm bất cứ lúc nào nếu có sóng chếch xuôi rất dễ làm tàu lật. Tôi cho nhân viên chuẩn bị các bè nổi, xem xét lại cách xử dụng để khi hữu sự thì làm cho nhanh chứ khi tàu lật thì không có thì giờ mà mò mẫm.
    Lúc này hệ thống truyền tin vừa được sửa chữa xong. Nhân viên vô tuyến báo cáo tình trạng chiến hạm về Bộ Tư lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải, nhưng không thấy HQ-4 và HQ-5 lên tiếng.
    Một tin làm bàng hoàng mọi người trên chiến hạm là Trung sĩ Điện khí Xuân trút hơi thở cuối cùng vì vết thương quá nặng mà không được săn sóc đúng mức.
    Đại úy Hiệp mang họa đồ chiến hạm các khoang hầm trên tàu lên đài chỉ huy cho tôi biết đã làm cân bằng tàu bằng cách bơm nước và dầu từ hầm này sang hầm khác và dồn về phía tả hạm, nhưng tàu cũng không bớt nghiêng bao nhiêu. Đại úy Hiệp nói: ?oBây giờ chỉ còn cách bơm xả nước ngọt và dầu ra biển may ra mới làm tàu bớt nghiêng?. Xả nước ngọt và dầu ra biển thì tôi rất ngại mà cũng không chắc là khi xả xong tình trạng có khá hơn không hay lại tệ hơn vì phải biết trọng tâm con tàu trước và sau khi xả nằm ở đâu rồi mới dám làm.
    Học môn lý thuyết thuyền bè trong trường Hải Quân nhưng ra trường lâu ngày và gặp lúc hữu sự, lại không còn nhớ cách tính trọng tâm con tàu nên tôi không dám bảo Đại úy Hiệp làm và giữ nguyên tình trạng như vậy mà chạy về Đà Nẵng. Cũng may nhờ biển rất êm nên không có gì xảy ra.
    Sáng 20 tháng 1 năm 1974, khoảng 7 - 8 giờ, tàu vào vịnh Tiên Sa Đà Nẵng nhưng tôi không vận chuyển cặp cầu được. Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải phải xin tàu dòng từ Ty Thương Cảng Đà Nẵng, kẹp ngang hông HQ-16 mà cặp cầu quân cảng Đà Nẵng.
    Cặp cầu xong, Thủy xưởng Đà Nẵng sang bơm dầu, nước ngọt ra, làm nhẹ tàu cho tàu nổi lên rồi tìm cách bít tạm lỗ thủng dưới nước (do người nhái lặn xuống nước mà bít, tôi nhớ như vậy không biết có đúng không?). Sau đó bơm nước ngập hầm máy ra và hàn lại lỗ thủng ở hầm máy.
    Ngày hôm sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải xin toán tháo gỡ đạn dược từ Quân đoàn I sang để tháo gỡ viên đạn còn nằm lại trên tàu. Viên đạn được bắn vòng cầu, rơi xuống nước gần HQ-16, do tốc độ của viên đạn nên khi xuống nước gặp sức cản của nước, viên đạn không đi thẳng xuống nước mà bị lệch hướng rồi đâm vào lườn tàu HQ-16 dưới mặt nước. Viên đạn vẫn còn tốc độ di chuyển, xướt qua một góc máy điện, xuyên đứt tay Trung sĩ điện khí Xuân kế đó rồi chui vào kho điện khí ở một góc hầm máy và nằm ở đó. May là viên đạn không nổ, chứ nổ thì HQ-16 chìm tại chỗ!
    Lấy được viên đạn ra, toán tháo gỡ đạn dược ngạc nhiên cho biết rằng viên đạn ?omade in USA? và cỡ 127 ly. Sau này truy ra mới biết là đạn do HQ-5 bắn.
    Sau khi sửa chữa xong, sơn phết lại, làm sạch sẽ, chiến hạm HQ-16 được lệnh về Sài Gòn làm lễ tiếp đón chiến hạm trở về từ Hoàng Sa. Phần thượng tầng kiến trúc của chiến hạm bị lỗ chỗ các lỗ thủng do đạn 40 ly và 20 ly bắn vào vẫn để y nguyên, mục đích cho dân chúng Sài Gòn ai tò mò muốn xem chiến hạm dự trận Hoàng Sa về ra sao, khi lên tàu xem sẽ thấy dấu tích còn để lại trên tàu. Tàu cặp cầu B ở bến Bạch Đằng.
    Trong buổi lễ tiếp đón, tôi cùng 4 - 5 nhân viên được Tư Lệnh Hải quân gắn huy chương. Sau buổi lễ dân Sài Gòn được lên xem tàu.Và phóng viên BBC là ông Tôn Thất Kỳ phỏng vấn tôi. Ông hỏi tôi có thấy máy bay phản lực Trung Cộng dự chiến trong trận Hoàng Sa không? Tôi trả lời là tôi không thấy.
    Ngày hôm sau, Khối Chiến Tranh Chính Trị Bộ Tư Lệnh Hải Quân (lúc đó Đại tá Trần Văn Triết làm trưởng khối thì phải), phái một Thiếu úy hay Trung úy (mà tôi không nhớ tên hay cấp bậc), xuống HQ-16. Anh ta nói với tôi ?oTại sao Hạm trưởng trả lời phỏng vấn đài BBC là không thấy phản lực cơ Trung Cộng??
    Tôi trả lời vị sĩ quan đó: ?oAnh về nói lại trên Bộ Tư Lệnh là tôi không thấy nên tôi trả lời không có. Nếu Bộ Tư Lệnh muốn tôi nói có thì phải báo trước cho tôi biết?.
    Tôi nghĩ nguồn tin này do Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân nên Bộ Tư Lệnh Hải Quân muốn tôi trả lời phỏng vấn cho phù hợp với nguồn tin. Cũng như Đại tá Ngạc báo cáo về Bộ Tư Lệnh Hải Quân: HQ-10 và HQ-16 mất tích.
    Lúc HQ-16 về Sài Gòn, tôi nghe nói lại (không biết có đúng không) là khi nhận được tin HQ-16, HQ-10 mất tích, Đại tá Võ Sum, Trưởng khối Truyền tin Hải quân, đã dùng con lắc (một loại dụng cụ cảm ứng) để xem thử HQ-16 còn hay mất. Tôi không nghe nói kết quả của việc dùng con lắc này.
    Được fddinh sửa chữa / chuyển vào 21:27 ngày 04/08/2008
  6. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    II
    Sau khi trình bày chi tiết những gì xảy ra trong trận Hoàng Sa, tôi xin nêu lên những nhận xét của tôi về trận chiến này:
    1. Trong trận Hải chiến Hoàng Sa, Hải Quân Việt Nam không có loại tàu thích hợp cho trận chiến. HQ-5, HQ-16, HQ-10 là loại tàu cồng kềnh, vận chuyển chậm, súng quay bằng tay nên theo dõi mục tiêu khó khăn cũng như nhịp bắn chậm. Chỉ có HQ-4 là tối tân nhất, các súng đều sử dụng bằng điện, tốc độ bắn nhanh, radar có tầm xa, vận tốc chiến hạm cao. Nhưng HQ-4 lại không xung trận.
    Lúc trước sở phòng vệ Duyên Hải ở Đà Nẵng có loại tàu PT chuyên đi bắn phá phía bắc vĩ tuyến 17 là loại chiến hạm thích hợp với trận chiến Hoàng Sa. Nhưng tôi nghe nói Hoa Kỳ đã thu hồi lại loại tàu này khi họ rút quân khỏi Việt Nam, trước ngày trận chiến Hoàng Sa xảy ra.
    2. Không có kế hoạch hành quân. Kể từ khi có mặt ở Hoàng Sa, tôi chỉ có biết một lệnh duy nhất từ Đại tá Ngạc qua máy âm thoại, chỉ định tôi chỉ huy HQ-10 và có nhiệm vụ phải đổ bộ toán người nhái, mà trong bài viết của ông, ông gọi là Biệt Đội Hải Kích, lên đảo Quang Hòa bằng bất cứ giá nào. Ngoài ra tôi không biết gì về hoạt động của HQ-4 và HQ-5 cũng như nhiệm vụ của họ.
    Gần đây đọc bài ?oTường Thuật Trận Hải Chiến Lịch Sử Hoàng Sa? của Đại tá Ngạc, tôi mới biết là ông chia bốn chiến hạm thành hai phân đoàn:
    · Phân đoàn I gồm HQ-4 và HQ-5 (Đại tá Ngạc ở trên HQ-5), do Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy là nổ lực chính.
    · Phân đoàn II gồm HQ-10 và HQ-16 do Hạm trưởng HQ-16 chỉ huy là nổ lực phụ.
    Nội việc chỉ định Hạm trưởng HQ-4 chỉ huy Phân đoàn I là sai nguyên tắc chỉ huy, vì Đại tá Ngạc ở trên HQ-5, như vậy thì Hạm trưởng HQ-4 (Trung tá Vũ Hữu San) chỉ huy luôn cả Đại tá Ngạc sao? Đại tá Ngạc là người chỉ huy trận chiến thì phải kiêm luôn chỉ huy Phân đoàn I mới đúng. Suốt trận chiến, HQ-4 và HQ-5 làm gì tôi không được biết. Và cho đến lúc rời Hoàng Sa về Đà Nẵng, tôi chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 đâu.
    Sau trận chiến, tôi thấy phải đổi lại Phân đoàn I (gồm HQ-4 và HQ-5) là nỗ lực phụ. Phân đoàn II (gồm HQ-10 và HQ-16) mới đúng vì Phân đoàn II trực chiến với tàu Trung Cộng trong lòng chảo, trong khi Phân đoàn I chỉ ở bên ngoài ?owait and see?. Và vì quá lo sợ Trung Cộng nên tin chắc thế nào Phân đoàn II cũng bị đánh chìm, Đại tá Ngạc mới ra lệnh HQ-5 bắn vào lòng chảo 5-7 phát trước khi rút lui. Tôi không trách HQ-4 và HQ-5 vì họ chịu sự điều động của Đại tá Ngạc.
    Vì không có kế hoạch hành quân nên máy truyền tin bị Trung Cộng phá rối không liên lạc được mà không có tần số dự trù thay thế.
    3. Muốn thanh toán quân Trung Cộng trên đảo (tôi nghĩ không nhiều, chừng một tiểu đội) mà dự định đổ bộ một toán người nhái 9, 10 người thì khó mà thành công. Phải có 1, 2 tiểu đội Thủy Quân Lục Chiến tăng cường yểm trợ mới được. Cần thêm xuồng cao su để đổ bộ quân, tiếp tế lương thực, nước uống và vật dụng.
    4. Ra lệnh đưa quân lên giữ đảo mà không cung cấp lương thực, nước uống đầy đủ. Thủy thủ đoàn không có kinh nghiệm tác chiến trên bộ, chỉ có súng cá nhân và một ít đạn bắn chừng nửa tiếng là hết, làm sao giữ được đảo. Nếu chiến hạm bận tác chiến hay bị thiệt hại thì số quân nhân đưa lên đảo phải bị bỏ rơi như trường hợp HQ-16. Đúng là lệnh lạc kiểu mang con bỏ chợ. Phải có kế hoạch đưa Bộ binh hay Thủy Quân Lục Chiến giữ đảo và phải có kế hoạch tiếp tế.
    5. Không có bác sĩ trên chiến hạm, chỉ có y tá không kinh nghiệm cứu thương cũng như ngoài khả năng của họ nên ai bị thương thì khó mà sống sót.
    6. Trận chiến Hoàng Sa rất giản dị, chẳng có chiến thuật gì rắc rối, phức tạp cả. Tôi chỉ khai thác sơ hở của ba chiến hạm Trung Cộng tập trung một chỗ trong lòng chảo để tấn công. Nếu thủy thủ đoàn HQ-10 và HQ-16 có kinh nghiệm tác xạ, HQ-16 không bị trúng đạn của HQ-5 và Hạm trưởng HQ-10 không bị thương thì chắc chắn ba tàu Trung Cộng phải bị đánh chìm. Tôi còn nghi vấn về Hạm trưởng HQ-10 bị thương là do đạn thời chỉnh của Trung Cộng hay của HQ-4, HQ-5 ?
    7. Sau trận chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân hay ít nữa là Bộ Tư Lệnh Hạm Đội cần có một buổi hội gồm các cấp chỉ huy các đơn vị tham dự trận chiến để mỗi người trình bày những hoạt động của đơn vị mình, nói lên những nhận xét để rút kinh nghiệm học hỏi, cùng những đề nghị nếu được áp dụng thì trận chiến sẽ có kết quả tốt hơn để mọi người cùng thảo luận. Đằng này mọi chuyện đều cho trôi xuôi luôn.
  7. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Bài viết của tôi đến đây xem như đã trình bày xong trận chiến Hoàng Sa, nhưng cũng xin nối tiếp thêm bài viết ?oTường thuật trận hải chiến lịch sử? của Đại tá Hà Văn Ngạc.
    Toàn bài viết của Đại tá Ngạc từ đầu đến cuối là sai sự thật. Những điều ông nói khó mà kiểm chứng. Chỉ những người ở trên HQ-4, HQ-5, HQ-10 và HQ-16 mới thấy là hoàn toàn do óc tưởng tượng dàn dựng ra. Tôi chỉ nêu lên một số chi tiết mà tôi thấy vô lý hoặc có liên hệ đến tôi mà sai sự thật.
    Ông viết: ?oBất thần về phía đông vào khoảng 11 giờ 25 sáng, cách xa chừng 8 đến 10 hải lý, xuất hiện một chiến hạm của Trung Cộng loại có trang bị mỗi bên một giàn phóng kép hỏa tiễn loại hải - hải đang tiến vào vùng giao tranh?. Cách xa chừng 8 đến 10 hải lý khó mà thấy được mỗi bên một giàn phóng hỏa tiễn. Chỉ tưởng tượng thôi!
    Sau đó cũng chẳng thấy ông nói đến chiến hạm Trung Cộng này làm gì. Ngoài ra ông còn lo sợ cả phản lực cơ và tiềm thủy đỉnh Trung Cộng. Vì quá lo sợ nên không còn tinh thần để chiến đấu nữa. Ông Ngạc viết: ?oKhoảng 7:00 sáng ngày 20 tháng 1, 1974 thì hai chiến hạm Phân đoàn I về tới căn cứ an toàn. Tuần dương hạm HQ-16 cũng đã về bến trước đó ít lâu ??.
    Sự thực, sáng ngày 20 tháng 11 năm 1974, HQ-16 về đến quân cảng Đà Nẵng và sau đó chẳng thấy HQ-4 và HQ-5 ở Đà Nẵng. Chỉ một mình tôi lên trình diện Tư Lệnh Phó Hải Quân trong phòng hội của Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I Duyên Hải để trả lời những câu hỏi liên quan đến tổn thất giữa địch và ta trong trận chiến.
    Ông Ngạc viết: ?oSau khi di tản các chiến sĩ thương vong và tử vong lên căn cứ thì chỉ có ba vị Đô đốc cùng Hải Quân Đại tá Nguyễn Viết Tân, chỉ huy trưởng Sở Phòng Vệ Duyên Hải lên Tuần dương hạm HQ-5 và vào phòng Hạm trưởng để dự cuộc thuyết trình về trận đánh. Ba vị Hạm trưởng (HQ-5, HQ-16 và HQ-4 ?" ghi chú của người viết) đều có mặt để trình bày chi tiết về chiến hạm của mình .v.v??.
    Tôi (Hạm trưởng HQ-16) đâu có mặt trên HQ-5 như Đại tá Ngạc viết.
    Trong bài của ông có viết HQ-4, HQ-5 bị trúng đạn, thiệt hại khá nhiều, định chạy về Subic Bay Phi Luật Tân để xin Hoa Kỳ sửa chữa.
    Sự thật HQ-4 và HQ-5 chẳng bị trầy một mảnh sơn nào cả. Cả Hải quân đều biết. Vì thế cho nên chỉ một mình HQ-16 được tiếp đón ở Sài Gòn và gắn huy chương chứ không có Đại tá Ngạc hay HQ-4 và HQ-5.
    Trong bài viết ?oBiển Đông dậy sóng? của ông Trần Bình Nam, có câu: ?oĐại tá Ngạc biết có một cái gì đó sau lưng trận đánh nên đã dè dặt đôi lời trước khi viết rằng, ? vân vân ??. Cái gì sau lưng đó, nay được ông Trần Bình Nam nói ra: Đó là chuyến công du Trung Quốc ngày 10 tháng 11 năm 1973 của ông Henry Kissinger mà nội dung ghi lại trong cuốn hồi ký chính trị ?oYears of Upheaval? và được ông Trần Bình Nam trích ra trong bài viết của ông ta. Đại khái là Hoa Kỳ bắt tay với Trung Cộng để chống lại Nga Sô và qua một vài câu dẫn chứng, ông Trần Bình Nam kết luận có lẽ có sự thỏa thuận giữa Mao, Chu và Kissinger để Trung Quốc chiếm quần đảo Paracels của Việt Nam Cộng Hòa.
    Ông Trần Bình Nam viết: ?oMột tháng sau khi ông Kissinger rời Bắc Kinh, hải quân Trung Quốc lén lút đổ bộ quân lên chiếm một số đảo trong quần đảo Paracels và vân vân ?? Phần tiếp theo của đoạn này chỉ dựa vào những chi tiết sai sự thật trong bài viết ?oTường thuật trận hải chiến lịch sử Hoàng Sa? của Đại tá Ngạc. Như trước ngày trận chiến xảy ra, quân Trung Cộng đã chịu rời đảo mà họ đã chiếm khi có quân từ các chiến hạm Việt Nam đổ bộ chiếm lại đảo (Trung Cộng chỉ chiếm một đảo duy nhất là đảo Quang Hòa. Còn quân từ các chiến hạm chỉ đổ bộ lên các đảo không có quân Trung Cộng như đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc. Toán người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa nhưng bị bắn nên phải rút ra - lời người viết).
    Những điều ông Trần Bình Nam viết chỉ là những phỏng đoán, chẳng có gì chứng tỏ được Hoa Kỳ ngầm thỏa thuận cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa. Ngược lại, theo nhận xét của tôi, khi dự trận chiến Hoàng Sa, tôi thấy Trung Cộng rất dè dặt trong việc xâm chiếm Hoàng Sa. Trước sau họ chỉ đưa ra vỏn vẹn có ba chiến hạm không thuộc loại tối tân, có thể vì họ ngần ngại có sự can thiệp của Hoa Kỳ. Họ không đưa ra một lực lượng hùng hậu để đánh chiếm Hoàng Sa vì họ sợ nếu Hoa Kỳ phản ứng thì sẽ thành lớn chuyện khó xử. Ngoài ra họ còn sợ dư luận thế giới nữa.
    Ông Trần Bình Nam nói, nhờ Hoa Kỳ can thiệp nên Trung Cộng đã nhanh chóng trao trả (qua ngả Hồng Kông) số quân nhân và dân chính trên đảo Hoàng Sa cùng một số ít thủy thủ đoàn của HQ-10 còn sống sót. Tôi không chắc có phải do Hoa Kỳ can thiệp không. Theo tôi, Trung Cộng đã chiếm được đảo Hoàng Sa rồi thì sá gì mấy chục mạng người mà không trao trả. Giữ để làm gì? Không cần Hoa Kỳ can thiệp họ cũng tự động dàn xếp để trao trả, vừa được tiếng nhân đạo vừa xoa dịu sự công phẫn của dân chúng Miền Nam Việt Nam và có thể của cả dư luận thế giới nữa.
    Có sự bắt tay giữa Hao Kỳ và Trung Cộng để hai bên rảnh tay chống lại Nga Sô nhưng không chắc có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa. Có thể một trong những lý do Trung Cộng chiếm Hoàng Sa là để thăm dò mức độ hợp tác giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng sau khi đã ngầm bắt tay nhau. Trung Cộng chỉ cần đưa tới Hoàng Sa ba chiếm hạm để thăm dò vừa Hoa Kỳ vừa Việt Nam Cộng Hòa.
    Nếu Việt Nam Cộng Hòa sợ oai hùm của anh khổng lồ mà tháo lui thì họ không còn gì mong đợi hơn nữa. Còn nếu Việt Nam Cộng Hòa tận lực bảo vệ về đánh thắng họ thì họ sẽ chờ lúc khác, chắc cũng không lâu, nếu Hoa Kỳ không tỏ thái độ trong lần này. Còn giả sử nếu có sự thỏa thuận của Hoa Kỳ để Trung Cộng chiếm Hoàng Sa đi nữa thì dân nước Việt chúng ta có đánh hay không?
    Nếu có ai hỏi Đại tá Ngạc hay ông Trần Bình Nam là những người thức thời, nhìn xa hiểu rộng, thì tôi chắc hai người này sẽ dõng dạc công khai tuyên bố: ?ophải đánh?. Còn đánh như thế nào, đồng tâm hiệp lực mà đánh hay đánh chiếu lệ, nửa nạc nửa mỡ, xem đồng đội như vật hy sinh, thì cái đó không phải là chuyện công khai ?
    Lê Văn Thự
    March 2004
  8. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    HQ 16 Và Trận Hải Chiến Hoàng Sa
    LTS: Tác giả Ðào Dân, tốt nghiệp khóa 18 SQHQ/NT. Ðơn vị cuối cùng là Tuần Dương Hạm Lý Thường Kiệt HQ16. Ông đã hiện diện trên chiến hạm lúc xảy ra trận hải chiến Hoàng Sa giữa HQ/VNCH và kẻ thù truyền kiếp Trung Cộng ngày 19/1/74.
    Lời người viết: Bài viết này ghi lại những gì mà người viết có thể nhớ được qua 20 năm dâu biển. Trí nhớ, tầm nhìn đều bị giới hạn, nên chắc chắn có nhiều sơ sót, đặc biệt ở phần tài liệu. Xin quý bạn đọc tha thứ và nếu cần sửa sai cho. Cám ơn."

    Sáng 15-01-1974, tàu tách bếnTiên Sa. Những tia nắng yếu ớt của một ngày cuối đông đang cố gắng chọc thủng màn mây trắng dày để tỏa ánh sáng xuống mặt biển xanh rì trước mặt. Gió Ðông-Bắc cấp 2. Biển không động, nhưng khi bắt đầu quay mũi, tàu cũng lắc lư dữ dội. Bên phải, ngọn hải-đăng Sơn-Chà đã tắt, các tháp nhọn từ từ nhú lên sau dãy núi đen ngòm, trông như các đinh nhọn, chĩa mũi lên trời. Tại đây đáng lẽ tàu chuẩn bị quay phải, xuôi Nam kết thúc một chuyến công tác như lịch trình. Nhưng không, tàu tiếp tục Ðông-tiến, trực chỉ Hoàng-Sa. Vậy là niềm vui của thủy-thủ-đoàn chợt tắt, bỏ cái ước mơ của một chiều dạo phố Sài Gòn bên người yêu lại cho tuần sau. Hy vọng thế bởi vì chuyến hải hành phụ trội này dự trù kéo dài không quá 5 ngày. Và sau đó, tàu sẽ thảnh thơi nằm sửa chữa ở cầu B, để cho đám con có thì giờ thụ-thưởng cái đầm ấm và an-vui bên gia đình cho một cái tết hòa-bình đầu tiên.
    Chúng tôi nhận được lệnh đi Hoàng-Sa khi cả tàu đang nô-nức chuẩn bị lên đường về Saì Gòn. Hôm qua, ban ẩm Thực đã đi chợ xong, dầu nước đã nhận đầy đủ. Vậy mà, đùng một cái, buổi tối lại nhận lệnh mới. Sáng mai, HQ 16 phải chở ra Hoàng-Sa một phái đoàn của Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật, nhằm khảo sát để thiết lập một phi trường cho C130 có thể đáp. Có lẽ đây là một mục tiêu lớn và lâu dài của chính phủ. Chúng tôi không biết. Phái đoàn gồm 6 người: 1 thiếu tá trưởng đoàn, 1 cố vấn Mỹ mặc áo dân sự, 2 trung úy cùng 2 trng sĩ thuộc ngành công binh. Ðối với tôi chuyến đi nào cũng thú vị, nhất là đây là lần đầu tiên có dịp ghé thăm Hoàng Sa, những hải đảo xa xôi cuối cùng của Tổ Quốc, sau chuyến công tác Trường Sa cách đây 2 tháng. Vả chăng, cũng còn đến 20 ngày nữa mới đến Tết, thì dầu mất đi 1 tuần lễ trước đó cho một dịp lãng du cũng chẳng nhằm nhò gì. Những năm trước, khi còn phục vụ trên một Hộ Tống Hạm (PCE), chuyến công tác nào cũng trên 2 tháng, có chuyến đến 100 ngày. Hồi đó, những lần trở lại Sài Gòn, tàu đã què quặt, lê lết, rên rĩ dưới tấm thân tàn ta và một thủy thủ đoàn rã rời. Bây giờ với Tuần Duyên Hạm Lý Thường Kiệt QHQ 16 bề thế, vững chãi, trọng tải lớn, tầm hoạt động dài, mới được tân trang để nhận lãnh từ Guam về, số lượng sĩ quan và thủy thủ đoàn đông hơn, nhưng trái lại thời gian công tác lại ngắn hơn chỉ 30 ngày. Thế cho nên tôi vững tâm lên đường. Ra khơi, cho "biết mặt trùng dương", cho có dịp "ghé những bến bờ, có những xóm dừa, chiều nhuộm vàng làn tóc ngây thơ"
    Tàu chạy với vận tốc tối đa, hai máy tiến full, có thể đạt tới 16 knots. Nhưng gặp gió Ðông Bắc, dù không mạnh lắm, nhưng cũng có thể làm cho tàu chậm lại, và độ dạt cũng khá lớn. Chỉ ít giờ đầu sau khi rời vùng biển Ðà Nẵng, những ngọn núi cao chót vót của Tiên Sa, Hải Vân bắt đầu mờ dần. Sau khi khuất hẳn, chúng tôi chuyển từ hàng hải cận duyên qua hàng hải viễn duyên, từ mắt thường qua radar và cuối cùng là Loran để định vị trí con tàu. Sĩ quan trưởng phiên bắt đầu làm con thoi từ đài chỉ huy xuống phòng Loran để kiểm tra lại vị trí phỏng định và chỉnh lại hải trình. Cả ngày hôm đó trời nắng nhẹ, gió Ðông Bắc cũng nhẹ nhàng thổi mang theo vị mặn của nước biển thấm đầy áo quần, mặt mũi, tóc tai. Tàu vẫn nhẹ nhàng lướt sóng, miệt mài đi giữa những âm thanh ngọt ngào của biển cả. Trên boang tàu, các hạ sĩ quan và thủy thủ ngành trọng pháo, vận chuyển đang lăng xăng với công việc thừơng lệ, gõ sét, lau chùi, sơn và vô dầu mỡ. Chẳng mấy ai băn khoăn vì đã trễ hẹn cho một ngày về, và cũng chẳng ai buồn nhớ đến câu thơ muôn thở của kiếp hải hồ:
    Năm năm gõ sét đau lòng lính
    Gõ sét năm năm sét vẫn còn.
    Dưới hầm máy, nhân viên cơ điện khí cùng với Ðại Úy Hiệp và các sĩ quan phụ tá loay quay bên những cổ máy. Hai máy điện của hữu hạm đang trục trặc, tạm ngưng hoạt động.Máy ép gió nằm cùng bên cũng bị hư. Mọi hoạt động của tàu là nhờ vào phía tả hạm. Dầu sao tàu cũng đã qua hơn một tháng công tác ở cái vùng biển khốn khổ giá lạnh này. Quân số cũng chỉ còn lại khoảng hai phần ba, nghĩa là chỉ trên 100 mạng, sau khi đã thay phiên nhau đi phép mấy đợt mà chẳng ai trở lại trình diện vì tàu cũng sắp về. Hiện giờ có lẽ họ đã trình diện ở Bộ Tư Lệnh Hạm Ðội chờ "phương tiện", nhưng thực tế là chờ đón tàu về như những người khác. Bằng mọi giá, tàu vẫn phải hoàn thành công tác, và mọi công việc trên chiến hạm cứ tiếp tục chạy đều.
    Ða số sĩ quan trên chiến hạm đều còn trẻ, chưa quá 30, độc thân vui tính, kể cả sôi nổi nhiệt tình, một số ít thì rất to miệng, trong đó phải kể đến Trần Văn Bính khóa 19, Nguyễn Hữu Công khóa 20 cơ khí, và Ðoàn Viết Ất khoá 4/OCS. Trong giờ nghỉ trưa hoặc tối, phòng ăn sĩ quan lúc nào cũng trở thành một bãi chiến trường với nước bọt văng tung tóe; với Ra-my, xập xám, domino; với khói thuốc, hơi cà phê và hơi người. Giữa những tiếng nói, tiếng cười, tiếng cãi cọ, ồn ào như chợ vỡ là tiếng vo-vo, rè rè của bốn cái máy lạnh chạy hết tốc lực, được gắn 4 góc phòng. Hạm Trưởng, Trung tá Lê Văn Thự, khóa 10 là một người khắc khổ, khó tính nhưng không nạt đùa mà nói năng có phần hòa hoãn. Chuyến này, ông đang bận với hai ông khách (cố vấn và ông TT/BB), lại có phòng ăn riêng, nên cái giang sơn của đám sĩ quan trẻ trở thành tự do vô cùng. Nhất là trong đám đi phép lại có Hạm phó Thiếu Tá Trần Văn Hoa Em. Giang sơn chúng tôi hiện chỉ còn Ðại Úy Hiệp khóa 14 (cơ khí trưởng) là thâm niên hiện diện. Là một người trắng trẻo, cao ráo, đẹp trai, tính tình lại cởi mở, ôn tồn, Ðại Úy Hiệp còn là sĩ quan sẵn sàng hội nhập vào mọi cuộc vui của đám đàn em. Cũng xập xám, domino; cũng đấu đá bỡn cợt. Ngược lại, sĩ quan đệ tam, Ðại Úy Nam, khóa 15, nhỏ con và trầm lặng. Tuy vui vẻ dễ dãi nhưng ít khi nhập cuộc. Trước mọi bốc đồng năng nổ của chúng tôi, Ðại Úy Nam chỉ ngồi nhìn, mỉm cười. Thành ra, cái phòng ăn rộng thênh thang trên HQ 16 trở thành nơi tự do và thỏai mái cho đám sĩ quan lau nhau cỡ Trung Úy, Thiếu Úy sau mọi nhiệm sở và công việc. Từ sau hiệp định Paris, số sĩ quan được đào tạo từ lò Nha Trang và OCS được chuyển về rất đông, vượt xa bảng cấp số. Chả bù với thời gian lúc tôi mới được thuyên chuyển về Hộ Tống hạm Chí Linh HQ 11 vào khoảng tháng 10/1970, cả một chiếc PCE tối tân nhất thời đó, người Hạm Trưởng và cơ khí trưởng, kiếm cho đủ sĩ quan làm 3 trưởng phiên là đủ mệt. Hạm phó gần như do tôi xử lý thường vụ sau khi xuống tàu chưa được 1 tuần. Xuống tàu, làm phụ tá cho Hạm Phó Nguyễn Tường đúng 1 chuyến công tác 4 ngày trên biển cả là ông ta đi luôn, để lại cho tôi cả phiên, cả tàu trong khi tôi chỉ được coi như mới ra trường. Vì rằng sau khi đi thực tập đệ thất hạm đội về là làm cán bộ cho tiểu đoàn sinh viên OCS, một quân trường nối dài. Vậy đó, vậy mà giờ đây trên HQ 16, có đến 22 sĩ quan trên 14 ở bảng cấp số. Các thiếu úy và chuẩn uý được chuyển về ngủ ở phòng ngủ thượng sĩ. Hạm phó đương nhiên miễn đi quart, trưởng phiên lúc nào cũng có 2,3, sĩ quan phụ tá.
    Chúng tôi đến Hoàng Sa khi trời tối. Trăng thượng tuần mờ mờ ở phía Tây, sắp tắt. Len lỏi giữa những đảo nhỏ đầy những bãi san hô ngầm bao bọc chung quanh, với tầm nhìn hạn chế, chúng tôi phải rất thận trọng đưa tàu đến trước đảo Pattern (hay thừơng được gọi là Hoàng Sa), thả trôi cách đảo 1 hải lý về phía Nam. Trong bóng tối mờ mờ, giữa mặt biển mênh mông, chập chùng một màu xanh biếc đang chuyển dần sang một màu tối sẫm, nổi lên ba vành đai cát vàng ôm lấy ba chòm cây thấp tè ở giữa. Nếu chỉ nhìn lên một đảo ở trước mặt, hình ảnh đó trông cũng quen thuộc như khi tàu đi qua một vùng xóm làng ven biển nào đó của miền Nam với đất phù sa và rừng tràm, rừng đước. Không thấy gì rõ nét, nhưng chúng tôi cũng hình dung ra được những nét hân hoan của đoàn quân trú đóng trên đảo khi được chúng tôi báo tin là sẽ có một phái đoàn viếng thăm đảo vào ngày mai. Với những người mà đã mấy tháng trời như bị lưu đày giữa đảo hoang, làm bạn với chim cá, thì sự hiện diện của chiếc tàu và đoàn khảo sát là một biến cố trong đại trong thời gian ở đảo.
    Hoàng Sa là tên bằng tiếng Việt Nam để gọi chung một quần đảo gồm nhiều đảo rất nhỏ nằm ngoài khơi hai tỉnh Thừa Thiên - Quảng Nam, cách bờ biển nước ta khỏang chừng 350 km. Quần đảo có hai nhóm. Một nhóm nằm phía Ðông Bắc, có tên gọi là Amphibious đã bị Trung Cọng chiếm giữ đâu khoảng từ năm 1956-1957 gì đó. Nhóm hai nằm hướng Tây Nam Croissant, thuộc chu quyền trực tiếp của Việt Nam Cộng Hòa, có tên là Croissant, gồm 1 đảo lớn nhất tức đảo Pattern mà tàu chúng tôi đang đậu. Ðảo dài khoảng 1.5 mile, bề ngang khoảng 1 cây số. Phía Nam, hơi chếch về bên trái là 2 đảo Robert và Money, cách Pattern khoảng 3,4 hải lý. Xa hơn nữa, khoảng 7,8 hải lý và chếch về bên phải là 2 đảo Duy Mộng (Duymont) và Quang Hòa (Duncant). Nằm một mình lẻ loi giữa biển khơi bát ngát, phía Tây Nam của Pattern, cách đó chừng 15 hải lý là đảo Tri Tôn (Triton). Ngoài ra còn nhiều đảo nhỏ khác như những hòa đá khổng lồ nổi trên mặt nước, không tên, không tuổi, nằm rãi rắc đây đó; đặc biệt nhiều là bên cạnh nhóm Quang Hòa và Duy Mộng. Giữa vùng biển rộng mênh mông, những đảo nhỏ nhô lên như những dấu chấm trên hải đồ, và con người, một trung đội Ðịa phương quân, thuộc quân số tỉnh Quảng Nam, đóng lọt thỏm trên một đảo độc nhất, đảo Pattern, cùng 1 ông trưởng đài khí tượng, sẽ cảm thấy bé bỏng chừng nào trước cái bao la của biển cả, của trời xanh. Cặp mắt họ làm sao vượt ra khỏi khu vực đóng quân, doanh trại, nơi ăn chốn ở, và những lần câu cá nhặt trứng chim. Tâm hồn họ không thoát khỏi niềm ước mơ được có tầu tiếp tế, được có người đến thăm, nhận những lá thư, đọc câu chuyện tình hay chưởng. Còn trí óc thì mong chờ đến ngày hết hạn, có đơn vị khác thay thế, để cho họ qua khỏi giới hạn của 6 tháng lưu đày. Nhiệm vụ của họ cũng không phải là một hành động quân sự tích cực, mà như một thủ tục, sự hiện diện của họ như một cột mốc để tuyên bố chủ quyền. Thế cho nên khi chúng tôi phát hiện, thì quân đội Trung Cộng đã chiếm 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa không biết đã bao lâu rồi. Trên đó chúng đã đặt đài quan sát, xây dựng doanh trại, và theo báo cáo của nhóm người nhái đổ bộ trong ngày cuộc chiến xảy ra thì có cả một tiểu đoàn lính trú đóng. Có thể là sau khi hoàn tất chương trình trên hai hòn đảo phía Nam, chúng mới mon men lên phía Bắc, dự trù làm nốt đảo Money và Robert bên nách của Hoàng Sa. Nếu chúng không dùng chính sách tằm ăn dâu này, mà chỉ bằng lòng với khu vực phía Nam đó, thì có lẽ lịch sử đã đổi khác. Tàu chúng tôi sẽ lặng lẽ trở về Ðà Nẵng để về Sài Gòn, sẽ không có trận hải chiến Hoàng Sa, trận hải chiến độc nhất trong lịch sử của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa, và đảo Hoàng Sa (Pattern) có lẽ sẽ không rơi vào tay Trung Cộng.
  9. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Buổi sáng ngày 16/1/74, chúng tôi chuẩn bị một xuồng đổ bộ và 4 nhân viên, trong đó có một hạ sĩ quan vận chuyển, chở 6 ngừơi của phái đoàn lên đảo rồi sau đó đem xuống về tàu. Công tác hoàn tất tốt đẹp. Thế là những người khác của chúng tôi đã giã từ và theo dự trù sau vài ngày, chúng tôi sẽ vào đón họ để đưa trả họ lại cho Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật. Ngày hôm đó nắng đẹp và có vẻ chói chang hơn hôm trước. Trời trong xanh. Tàu chúng tôi vẫn trong tình trạng thả trôi trong vùng biển yên lặng. Không một ngọn gió nào, sóng vẫn lăn tăn, và vùng biển êm như mặt hồ. Tôi nhận quart trưa 1200 - 1500H. Không có việc gì làm, chỉ theo dõi tình trạng trôi của tàu, nếu cần điều chỉnh lại chút đỉnh. việc đổ bộ đã hoàn tất vào buổi sáng. Hạm trưởng xuống nghỉ trưa. Các sĩ quan phụ tá và nhân viên đi quart tụ lại nói chuyện phiếm. Tôi ngồi lên thành tàu, bên cạnh khảu đại liên 30 và ngay dưới chân phía sau lưng, ở tầng dưới có buồng lái, là một ỏ đại bác 20 ly đôi đang nằm trong bọc bạt. Buổi trưa hơi nóng, lại không có việc gì làm, chuyện trò rồi cũng hết hứng thú. Im lặng lại trở về sau khi mỗi người dãn ra một góc, lơ đãng nhìn trời. Tôi cũng im lặng thả từng hơi khói thuốc Bastos ra trước mặt, lơ lửng cuộn thành vòng tròn rồi tan vào khoảng hư không, trí óc bổng trở nên phiêu đảng bồng bềnh.
    Bỗng tôi chú ý ở trước mặt đảo Robert, ngang hông chiến hạm, một chiếc tàu đang lửng lơ bên cạnh đảo. Chiếc tàu nhỏ, cỡ bằng những chiếc tàu đánh cá Ðài Loan mà tôi thường gặp trong vùng biển cận duyên. Tôi cũng cho đây là tàu đánh cá, nhưng hơi lạ là nó vào sát bờ quá. Mà tàu đánh cá nào lại không biết đây là hải phận Việt Nam, trong khi chúng tôi, anh khổng lồ HQ 16 và cờ vàng ba sọc đỏ đang bay phất phới? Tôi nói thầm, đi đâu cũng gặp mấy người Ðài Loan cả. Nhưng khi đưa ống nhòm lên nhìn, nó không giống với những chiếc tàu đánh cá thường gặp. Thân nó hơi ngắn so với bề ngang to bề, đài chỉ huy lại có vẻ bề thế như một chiếc tàu đuân sự. Tàu lại sơn màu tối, như màu ô-liu, phía đuôi có treo cờ tuy không trông rõ màu sắc. Lúc đó, mọi người trên đài chỉ huy chẳng ai quan tâm về sự hiện diện của tàu đánh cá, nhưng vì ngạc nhiên, tôi cho lệnh giám lộ viên đánh đèn để hỏi và đồng thời cho nổ máy, quay mũi, trực chỉ phía Nam. Có lẽ vì trời nắng, mọi người nghỉ trưa nên ánh sáng đèn scott không đánh động được ai. Tàu địch vẫn im lặng, hình như không bắt được tín hiệu. Sau khi hội ý với Hạm Trưởng, tôi cho khai hỏa khẩu đại liên 30, vừa để gợi sự chú ý, vừa có ý đuổi nó ra xa khỏi đảo. Tiếng súng nổ đòn dã giữa buổi trưa yên tĩnh dường như làm cả tàu thức giấc nhưng đối tượng vẫn không nhúc nhích. Bao nhiêu ống nhòm đổ đồn vào nó, và khi tàu đến gần hơn, nền cờ đỏ và 5 ngôi sao vàng ở ngay góc làm cho tôi hơi khựng lại. Tàu Trung Cộng. Sự phát giác này là một điều gây ngạc nhiên cho nhiều người. Hầu hết đều cho là tàu đánh cá của Ðài Loan, hay nếu ai có trí tưởng tượng phong phú hơn, cho là tàu đánh cá Liên Sô để đi dò thám như chúng tôi thường gặp khi thực tập trên Ðệ Thất Hạm Ðội. Chưa ai nghĩ đây là tàu Trung Quốc, và càng không ai nghĩ xa hơn đến dã tâm xâm lược của Trung Cộng. Khi Hạm Trưởng lên đài chỉ huy thì chúng tôi đã gần nhau lắm rồi, chưa đầy 500m. Mọi người đã thấy rõ cờ Trung Cộng bằng mắt thường. Hạm Trưởng khẩn báo về Trung Tâm Hành Quân Hải Quân Ðà Nẵng và xin chĩ thị, đồng thời cho nhân viên dùng tay, dùng cờ, dùng máy phóng thanh phát bằng tiếng Tàu để yêu cầu nó ra khỏi hải phận Việt Nam. Mặc dù chúng tôi không nhận được sự trả lời nào, cũng không thực hiện lời yêu cầu của chúng tôi, nhưng sự xuất hiện của chúng tôi có lẽ cũng khuấy động sự yên lặng cố hữu lì lợm của tàu Trung Cộng. Hàng chục nhân viên lên boong tàu nhìn sang chúng tôi, kỳ lạ, xoi mói và ngạc nhiên. Phần đông mặc áo thun trắng quần cụt. Một số mặc áo quần bộ đội Trung Quốc, màu ô-liu nhạt hơn màu tàu.
    Cũng vậy, sự hiện diện của tàu Trung Cộng đảo lộn hết mọi công tác hàng ngày. Hạm Trưởng chú tâm đến tàu địch cùng liên lạc với Vùng 1 Duyên Hải, sĩ quan thì tụ tập từng nhóm bàn tán đủ mọi giả thuyết. Nhân viên đứng đầy một bên lan can tàu nhìn sang như đang nhìn một quái vật. Trong khi đó trên đài chỉ huy vẫn oang oang phát ra từng chập những lời lẽ bằng tiếng Trung Quốc yêu cầu ra khỏi hải phận Việt Nam. Luc đầu là cuộc đối thoại với người câm nhưng sau đó, họ cũng dùng loa phóng thanh cầm tay để yêu cầu ngược lại, chúng tôi phải rời khỏi hải phận Trung Quốc. Cứ như vậy mà tiếp tục suốt cả buổi chiều mà chẳng bên nào nhượng bộ. Ðêm đó chúng tôi đành bỏ dở chương trình phát thanh để chạy ra xa hơn đễ giữ an toàn cho chiến hạm. Và cũng từ đêm đó, nếp sinh hoạt trong phòng ăn cũng thay đổi tuy tiếng nói cười vẫn oang oang như lệnh vỡ. Những trò chơi cũ như xập xám, domino ế khách. Các sĩ quan quay quần quanh bàn ăn để tiếp nối những cuộc thảo luận "trời ơi đất hỡi" về việc xuất hiện của tàu Trung Cộng. Buổi sáng ngày 17/1/74, bổn cũ được soạn lại, Nghĩa là cũng máy phóng thanh, phát ra và trả lời, cũng mấy anh thủy thủ gốc Chợ Lớn làm xướng ngôn viên. Chỉ khác một điều là thêm một tàu đánh cá khác xuất hiện cạnh đảo Money. và trăm lá cờ Trung Cộng được cắm rãi rác dọc bờ biển trên vùng cát trắng. Chỉ có đảo Rorbert mà tàu tôi ở gần là còn trinh bạch, chưa bị hoen ố bởi cái rừng cờ màu máu đó. Chúng tôi cũng không hiểu là có phải cờ đó được cắm trong đêm hay đã nhiều ngày qua, nhưng dầu sao giả thuyết được cắm trong đêm cùng với sự xuất hiện của tàu thứ hai có vẻ đúng đắn. Khoảng 2 giờ chiều hôm đó, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ 4 nhập vùng cùng 1 trung đội người nhái. Hạm Trưởng là Hải Quân Trung Tá Vũ Hữu San, đã từng một thời là Hạm Trưởng HQ 11 khi tôi phục vụ trên đó. Có lẽ ông đã nhận được mật lệnh và kế hoạch từ Tư Lệnh Hải Quân Vùng I, nên vừa nhập vùng, ông đã hành động ngay. HQ 4 từ phía Nam đảo Money chạy lên, HQ 16 từ đảo Pattern xuống, chúng tôi như hai gọng kềm kẹp chặt hai chiếc tàu đánh cá nhỏ bé của Trung Cộng vào giữa. Có lẽ cũng ngán chúng tôi sẽ có thái độ khác với những ngày qua, chiếc thứ hai từ đảo Money chạy lên họp cùng chiếc thứ nhất và ra xa khỏi đảo Robert khoảng hơn 1 hải lý. Thế là gọng kềm lại siết chặt hơn. Cuộc chiến bằng nước bọt lại bùng nổ dữ dội. Mặc dù cỏ vẻ e dè, 2 chiếc tàu Trung Cộng vẫn ngoan cố bám vùng, và vẫn trả lời chúng tôi bằng giọng điệu cố hữu: "Hãy ra khỏi hải phận Trung Quốc". Bốn chiếc tàu, 2 lớn ở ngoài, 2 nhỏ ở giữa vẫn thả trôi bình yên để mặc cho con người đấu khẩu. Có lẽ không còn kiên nhẫn được nữa, HQ 4 nổ máy đâm thẳng ngang hông tàu địch, đẩy nó ra khơi. vì vận tốc chậm, có lẽ khoảng 2 máy tiến 1, nên không có thiệt hại nào cho bên địch, nếu có, có lẽ bát đũa nồi nêu cơm nước bị đổ bể tùm lum trong phòng ăn và nhà bếp. trước thái độ quyết liệt của HQ 4, tàu Trung Quốc đành nhượng bộ, mở máy, từ từ tăng tốc độ chạy về phía Nam của 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, để lại chiến trường một vùng nước bọt trắng xóa. Chúng tôi toàn thắng mà không tốn một viên đạn (chỉ tốn một cái húc của Trung Tá Vũ Hữu San).
    Ðến đây người viết cần phải ngừng lại một chút vừa để hoan nghênh Trung Ta San vừa để ghi lại cảm nghĩ và óc phán đoàn của chính mình về kết quả của trận hải chiến Hoàng Sa cùng thái độ của Trung Cộng, sau những mười mấy năm lăn lộn trong gôm cùm của xã hội chủ nghĩa. Theo tôi, sau ngày họp thượng đỉnh với Tổng Thống Nixon tại Bác Kinh. Trung Cộng bắt đầu có tham vọng bành trướng thế lực ở biển Ðông. Việc chiếm đóng hai đảo Duy Mộng và Quang Hòa đã chứng minh điều đó. Tuy nhiên Trung Cộng không muốn dùng võ lực để giải quyết tranh chấp vì e ngại Mỹ, nên dùng chính sách tầm ăn dâu, nghĩa là điền vào chỗ trống cho hợp nghĩa. Nghĩa là những đảo nào không có ai chiếm cứ, Trung Cọng sẽ đến thiết lập các căn cứ, và mọi chuyện sẽ trở thành chuyện đã rồi. Do đó, nếu sau khi đuổi 2 tàu đánh cá Trung Cộng đi khỏi 2 đảo Robert và Money, Việt Nam Cộng Hòa cứ cho quân đội ra xây dựng trên đó, giữ đảo, dùng ngoại giao để công kích, thì tuy không lấy lại được 2 đảo Duy Mộng và Quang Hòa, cũng không mất luôn 3 đảo lớn nhất vùng là Pattern, Robert, Money, và vĩnh viễn Hoàng Sa không bao giờ trở lại chủ quyền Việt Nam. Sau này Trung Cộng cũng dùng chính sách tương tự để xâm chiếm các đảo nhỏ ở Trường Sa, nghĩa là các nơi chưa có ai trấn đóng, và cũng vì tự ái như thời Việt Nam Cộng Hòa, Cọng Sản Việt Nam đã gây ra cuộc hải chiến với Trung Cộng, để từ đó Trung Cọng chiếm luôn một số đảo nữa.
    Trở lại chiều ngày 17/1/1974. Sau khi "đánh tan" 2 tàu Trung Cộng đi, HQ 4 cho đổ bộ khoảng 20 người nhái lên đảo Money, thu dọn cờ Trung Cộng, cắm cờ Việt Nam Cộng Hòa, và HQ 16 chuẩn bị 1 xuồng đổ bộ 15 nhân viên cơ hữu lên đảo Robert ngay tối hôm đó. 15 nhân viên này phần lớn được lựa chọn trong ngành trọng pháo, mang theo súng ống, đạn dựơc cá nhân đầy đủ, cùng thực phẩm khô dùng trong vài ba ngày. Toán đổ bộ do Hải Quân Trung Uý Lâm Trí Liêm Chí Huy. Liêm vốn là sĩ quan khóa 10 OCS, sau khivề nước, phục vụ phần lớn tại giang đoàn, do đó được Hạm Trưởng chọn lựa vì hy vọng rằng Liêm sẽ có kinh nghiệm trên đất liền nhiều hơn là trên chiến hạm. Kết quả cho thấy sự chọn lựa này rất đứng đắn, vì sau khi tàu 16 buộc phải rời vùng mà không thể bốc toán đổ bộ của Liêm, Liêm đã chỉ huy toán vượt biển trên xuồng đổ bộ và sau 15 ngày đói khát, đã được ngư dân Qui Nhơn cứu sống. Chỉ một người chết sau khi đã lên thuyền ngư dân. Súng ống, máy truyền tin được đem về đơn vị đầy đủ. Trong ngàyvượt thoát, toán đổ bộ chỉ còn 2 ngày lương khô và 1 can 18 lít nước đã dùng gần hết sau 2 ngày trên đảo. Toàn bộ 15 người - kể cả người đã chết - được thăng thưởng 1 cấp. Liêm được thăng đại uý nhiệm chức sau chưa đầy 1 năm mang lon trung uý.
    Khoảng 6 giờ chiều ngày 17/1/1974, lúc đó trời còn lại vài tia nắng yếu ớt chiếu rãi rác trên mặt biển xanh rờn, 2 chiến hạm thực thụ của hải quân Trung Quốc xuất hiện. Căn cứ theo sự quan sát lúc đó và trong ngày giao chiến, chúng thuộc loại Konstrat của Liên Sô chế tạo, dài khoảng gần 100 mét, nghĩa là gần bằng HQ 16, nhưng bề ngang hẹp hơn. Vận tốc tối đa khoảng gần 30 knots, nghĩa là gần gấp đôi HQ 16. Trang bị cũng không có gì tối tân lắm. 1 khẩu đại bác 100 ly trước mũi, 2 khẩu đại bác 37.6 ly hai bên về phía trước và hình như 1 khẩu phía sau. Còn ngoài ra là loại súng nhỏ. So sánh về hỏa lực thì bên ta có phần trội hơn. HQ 16 có 1 khẩu 5" (127) trước mũi. Sau đó là 2 khảu 40 ly đôi và 1 đại bác 40 ly đơn ở sau lái. Không kể 2 dàn đại bác 20 ly đôi bên hông phòng lái ngay dưới đài chỉ huy, 2 dàn 20 ly đơn ở sân thượng phía sau, cùng 5 khẩusúng cối 81 ly. Hai chiến hạm này sau khi nhập vùng, cũng chỉ về lẩn quẩn ở hai đảo Quang Hòa và Duy Mọng. Không thấy có hành động khiêu chiến, nhưng chúng chắc chắn giữ bằng được 2đảo đó mà hành động nghênh cản của chúng vào ngày hôm sau đã chứng tỏ điều đó.
    Bữa cơm tối ngày 17-01-1974, phòng ăn sĩ quan có vẻ trang nghiêm hơn lệ thường. Những tiếng nói cười cũng ít đi, tiếng hỏi đáp có vẻ cố hạ giọng chỉ vừa đủ cho người đối diện nghe. Không khí như ngưng lại dành chỗ cho loa phóng thanh phát đi bản tin hàng ngày. Cũng trái với lệ thường, bản tuyên cáo của chính phủ VNCH về vấn đề Hoàng Sa được đọc trước bản tin đầu giờ. Trong bản tuyên cáo đó, bộ Ngoại giao thay mặt chính phủ và nhân dân Việt Nam tuyên bố Hoàng Sa là vùng lãnh thổ không thể chuyển nhượng của mình, căn cứ trên thực tại và các chứng cứ trong lịch sử, đồng thời tố cáo trước dư luận quốc tế việc lấn chiếm hai đảo Quang Hòa và Duy Mộng của Trung Cộng - Sau cùng, để giải quyết vấn đề, chính phủ VNCH đề nghị cả hai cùng đưa vấn đề ra xét xử trước tòa án quốc tế La Haye. Mọi người cũng cố ý lắng nghe bản tin thời sự và chiến sự trong ngày. Như một sự tò mò cố hữu, ai cũng muốn biết đài phát thanh nói như thế nào về hoạt động của chính mình, những người đang đối diện với kẻ thù giữa đêm đông trong vùng biển xa khơi này. Tôi không nhớ rõ chi tiết bản tin, nhưng cái tên tuần dương hạm Lý Thường Kiệt được đài phát thanh nhắc nhở nhiều lần. Và chính sự nhắc nhở đó đã gợi cho một sĩ quan nào đó một sự so sánh tuy không chuẩn xác nhưng nghe đầy hào khí:
    - Ngày xưa vị anh hùng Lý Thường Kiệt đem quân đánh Tống, ngày nay lại tuần dương hạm Lý Thường Kiệt cũng sẽ sẵn sàng đuổi quân Trung Cộng ra khỏi Hoàng Sa.
    Câu nói vô tình bỗng nhiên phá vỡ cái vẻ trang nghiêm tạm thời và cái sinh hoạt sôi động của phòng ăn trở lại trạng thái nhộn nhịp như cũ. Mọi người thay nhau bàn luận về những việc hiện tại, cùng kể lại những bài học lịch sử đánh Tống bình Nguyên đuổi Minh của những vị anh hùng thời trước. Và nhờ đó, nhiệt tình của tuổi trẻ được dịp bốc cao như thử chúng tôi sắp sửa biến thành những anh hùng.
  10. fddinh

    fddinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/07/2006
    Bài viết:
    2.342
    Đã được thích:
    1
    Sáng ngày 18-01-1974, HQ5 hiện diện trong vùng như một sự tăng cường cần thiết. Ðây là một tuần dương hạm cùng loại với HQ16 (Whec) do một vị Trung Tá (Lê Văn Thự) chỉ huy. Cùng đi trên HQ5 là Hải quân Ðại Tá Hà Văn Ngạc, chỉ huy trưởng Hải đội 3 tuần dương trực thuộc Bộ Tư lệnh Hạm Ðội, được chỉ định làm Tư lệnh lực lượng đặc nhiệm Hoàng Sa. Như vậy, lực lượng hiện có 3 chiến hạm (HQ4 -HQ5-HQ16) và sẽ có thêm Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ10) đang trên đường đến nhập vùng. Sự hiện diện của một vị sĩ quan cao cấp đã từng tu nghiệp ở đại học hải chiến Hoa Kỳ làm cho chúng tôi thêm tin tưởng. Có lẽ để thực hiện cái sở học của mình, nên sau khi nhập vùng và nhận quyền chỉ huy, Ðại Tá Ngạc đã hội ý cùng các Hạm trưởng qua máy truyền tin và ngay buổi trưa hôm đó, hình thành một kế hoạch mà tôi tạm gọi là "phô diễn lực lượng" sẽ khởi sự vào buổi chiều. Có lẽ kế hoạch chỉ là để thăm dò khả năng của các chiến hạm hơn là một cuộc hành quân, bởi vì trong kế hoạch, mặc dù các chiến hạm đều ở trong nhiệm sở tác chiến nhưng mọi khẩu pháo đều được quay cao 45ậ. Chúng tôi thực hiện kế hoạch thao diễn với lòng hăm hở được một dịp thực tập vận chuyển chiến thuật mà từ lâu đã bỏ quên sau khi rời khỏi ghế nhà trường. Những ý niệm về đội hình hàng dọc, hàng ngang; những màu cờ của Golf, Code; những quay phải quay trái; những vận tốc cùng hướng đi biểu kiến; tất cả sẽ được tái tạo lại trong một buổi chiều đẹp trời. Với ba chiến hạm, lực lượng của chúng tôi trông ra có vẻ hùng dũng lắm rồi. Ði đầu là hai tuần dương hạm bệ vệ (HQ16 rồi đến HQ5), nước sơn còn mới với hai khẩu đại pháo 127 ly, rồi sau cùng HQ4 tuy nhỏ con nhưng cũng nhanh nhẹn và đặc biệt lại còn mang hơi hướm hiện đại của một khu trục hạm của Hải Quân Hoa Kỳ. Bắt đầu chiến dịch với ba rừng cờ phất phới trên ba cột buồm, ***g lộng trong gió chiều và trong nắng vàng cuối đông. Những dàn ra đa khổng lồ đang quay chầm chậm vừa làm nhiệm vụ trấn thủ vừa cung cấp dữ kiện để đo khoảng cách và vận tốc của tàu địch. Trên đài chỉ huy, các giám lộ viên có tay nghề cao nhất đang chờ lệnh và sẵn sàng thực hiện những khẩu lệnh của Hạm trưởng liên quan đến cờ đèn và giải thích cùng báo cáo những hiệu kỳ của soái hạm. Chúng tôi tiến theo đội hình hàng dọc, từ phía nam đảo Pattle và trực chỉ 160ậ về hai đảo Quang Hòa - Duy Mộng. Tất cả cùng hai máy tiến 2, cách khoảng 500 mét, đàng hoàng tiến về phía địch như những hiệp sĩ thời trung cổ. Khi vừa chạy được 1 hải lý, hai chiến hạm Trung Cộng mang số hiệu 300 đang nằm im trong vùng biển, cùng nổ máy tăng tốc và cũng theo đội hình hàng dọc tiến đến hướng chúng tôi. Chiến hạm của chúng chạy rất nhanh, có lẽ hai máy tiến full, nên để lại đằng sau những bọt nước trắng xóa và tạo ra những làn sóng bập bềnh. Tuy nhiên, cả đội hình chúng tôi vẫn bình thản tiến theo lộ trình. Khi đến cách chúng tôi chừng dưới một hải lý, chiếc đi đầu bỗng quay trái, được một đoạn ngắn là quay trở ngược chiều (180ậ) chạy băng ngang trước mũi HQ16. Chỉ vừa qua khỏi, chúng lại lộn ngược trở lại về phía phải để làm một đường ngang khác. Và chiếc sau cũng lặp lại những động tác y như vậy để rồi cuối cùng cái đường dăng ngang của chúng chỉ cách mủi tàu chúng tôi chưa tới 150 mét. Vì chúng chạy với vận tốc tối đa, mà chúng tôi đo được 28 gút, khoảng cách lại quá gần nên những lượn sóng do chúng tạo ra làm tàu chúng tôi bồng bềnh như có gió mạnh. Cái hàng rào tưởng tượng mà chúng dăng ngang làm chúng tôi thấy khó xử. Không thể xử dụng võ lực, cũng khó tiến thêm vì có thể đụng chạm. Cuối cùng, chúng tôi được lệnh quay mũi theo hàng dọc trở về hướng Bắc. Kế hoạch "phô diện lực lượng" thế là hoàn tất, và mặc dầu không rõ hết ý đồ của vị Tư lệnh lực lượng, chúng tôi đều cảm thấy hài lòng với một vài dữ kiện có thể nắm được, đó là sự quyết tâm của các chiến hạm ta trong việc bảo vệ lãnh-hải. Chúng tôi cũng thấy cái lợi thế vận tốc gần gấp đôi của các chiến hạm địch (28/16) để đề-phòng.
    Buổi tối, ngay vùng biển phía bắc, giữa vùng lòng chảo của các đảo bao bọc, chỉ có một mình HQ16 đơn độc trấn đóng với một quân số chỉ hơn trăm người, HQ4 và HQ5 cùng trở về phía nam của hai đảo Quang Hòa, Duy Mộng, để rồi khoảng 10 giờ tối, HQ10 tới nơi và nhập với HQ16 trở thành phân đội 1 do HQ Trung tá Lê Văn Thự (Hạm trưởng HQ16) chỉ huy. HQ4 và HQ5 là phân đội 2 do Hạm Trưởng HQ4 chỉ huy. Tất cả đều dưới quyền chỉ huy thống nhất của Ðại tá Ngạc, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm. HQ10 là một hộ tống hạm (PCE) dài khoảng 60 mét với một quân số trên 70 người theo bảng cấp số. Ðược trang bị một đại bác 76.2 ly ở trước mũi và 2 đại bác 40 ly đơn ở boong trên sau lái. Vận tốc tối đa là 13 gút. Hạm Trưởng là Hải quản Thiếu tá Nguỵ Văn Thà, hình như khoá 12 và Hạm phó là Hải quân Ðại uý Nguyễn Thành Trí khoá 17. Ðại uý Trí mới về làm hạm phó HQ10 chỉ trong vòng 3 tháng sau khi tốt nghiệp khóa 2/73 trung cấp chuyên nghiệp Hải quân tại Trung tâm Huấn luyện Hải quân Sài Gòn. HQ10 đến giữa lúc chúng tôi đang cảm thấy cô độc giữa các hòn đảo xung quanh và làm chúng tôi an tâm phần nào.
    Thực ra, sự phân chia thành phân đội cũng như lệnh bổ nhiệm các phân đội trưởng chỉ chính thức được ban hành cùng với lệnh hành quân do tư lệnh LLDN / Hoàng Sa gởi cho các chiến hạm vào khoảng 12 giờ đêm 18-01-1974. Mục đích của cuộc hành quân này là chúng tôi sẽ tái chiếm 2 đảo Quang Hòa và Duy Mộng vào ngày hôm sau (19-01-1974) và chúng tôi sẽ phải hoàn tất mọi sự chuẩn bị để sẵn sàng tác chiến trước 6 giờ sáng. Nhiệm vụ chính của phân đội 2 là đổ bộ khoảng một trung đội người nhái lên đảo và nhiệm vụ của phân đội 1 (HQ16 + HQ10) là yểm trợ hỏa lực. Tuy nhiên, ngoài việc phản công phân nhiệm, phần ghi chú cuối cùng trong lệnh hành quân có hai câu mang đầy mâu thuẫn : Tái chiếm hai đảo bằng bất cứ giá nào nhưng tránh tối đa việc xử dụng hỏa lực. Sự mâu thuẫn này đã gây ra một cuộc bàn cãi khá sôi nổi và mất không ít thời gian vào lúc một nhóm chúng tôi ngồi canh câu lạc bộ của chiến hạm để uống cà phê buổi sáng. Cuối cùng chúng tôi tạm đưa ra một kết luận rằng đây chỉ một đòn chiến tranh tâm lý để làm an lòng các sĩ quan và chiến sĩ thuộc quyền.
    Chúng tôi bị đánh thức dậy lúc khoảng 1 giờ sáng ngày 19-01-1974 và được lệnh tập họp tại phòng ăn đoàn viên. Hầu hết mọi người vẫn còn ngái ngủ hoặc đang mệt mỏi vì vừa giao ca xong lúc 12 giờ nên phòng ăn đông người mà vẫn yên lặng. Hơn nữa, lần tập họp bất thường giữa đêm khuya trong cái không khí căng thẳng và đầy thuốc súng này thì ai cũng hiểu là có chuyện. Và chuyện gì khác hơn là sự báo trước của một cuộc chiến sắp mở màn? Thời gian chờ đợi Hạm trưởng đến không dài và các cửa phòng đều đóng kín nhưng tôi tự nhiên thấy lạnh. Cơn lạnh cuồn cuộn bốc ra từ bao tử, lan dần đến ngực, bụng và toàn châu thân. Tôi ngần ngại nhìn mọi người vì cảm thấy không lẽ mình quá hèn nhát. Ðể trấn tĩnh, tôi vươn vai ngáp dài rồi đưa tay che miệng, sau đó lôi thuốc Bastos ra hút. Châm được điếu thuốc trên ngọn lửa của cái bật lửa zippo mà tôi cảm thấy khó khăn vì hình như ngọn lửa rung rinh trên bàn tay run rẩy. Hít được khói thuốc vào tận buồng phổi để thấy mình dễ chịu hơn đôi chút, tôi tập trung tư tưởng để tự mình thắng được nỗi sợ hãi và hèn nhát bằng niềm kiêu hãnh của một sĩ quan hải quân và nhờ đó giúp cho mình đứng vững.
    Hạm trưởng đến vừa đúng lúc cho tôi có dịp đứng dậy hô "vào hàng, phắc" dù là lúc nửa đêm. Tiếng hô làm cho mình thêm can đảm và cái lạnh không biết biến đi tự lúc nào. Với cái áo Jacket xanh khoác ngoài bộ quân phục màu nước biển, Hạm trưởng nom có vẻ mệt mỏi. Chính sự mệt mỏi này cùng với cái vẻ lè phè khi ông lê đôi dép Nhật tạo một sự gần gũi hơn so với thường ngày. Ông tóm tắt nội dung lệnh hành quân và ra lệnh cho toàn thể mọi người cố gắng vận chuyển hết đạn dược từ các kho lên đặt cạnh các ụ súng vì sự thiếu hụt quân số (đi phép và đổ bộ lên đảo) có thể cản trở rất nhiều trong việc tiếp tế đạn dược trong thời gian lâm chiến. Ông cũng yêu cầu Quản nội trưởng cùng tôi (SQ nội vụ) sắp xếp lại toàn bộ các nhiệm sở cho phù hợp với nhu cầu tình hình quân số lúc đó. Nhân viên trọng pháo bây giờ không còn được một nửa nên số này ưu tiên dành cho đại bác 127 ly ở trước mũi và Trung uý Ðoàn Viết Ất, sĩ quan trọng pháo làm trưởng khẩu. Ðích thân Hạm trưởng chỉ định tôi làm sĩ quan Hải hành và Ðại úy Nam,Trưởng khối hành quân phụ trách phòng CIC (Trung tâm hành quân thông báo).
    Phải mất hơn 2 giờ việc vận chuyển đạn dược mới hoàn tất. Mọi người, sĩ quan, hạ sĩ quan và đoàn viên, trừ những người đang đi "quart", đều lăn xả vào công việc. Khiêng, vác, bưng. Cả một chiến hạm rầm rập tiếng chân người chen lẫn tiếng vỏ đạn, thùng đạn chạm vào nhau hay vào thân tàu, sàn tàu, hợp thành một âm thanh hỗn độn. Ðèn đuốc được thắp sáng mọi nơi nhưng những ngọn đèn ở ngoài thì được che chắn cẩn thận để tránh sự nghi ngờ của địch. Chính nhờ những hoạt động năng nổ này làm mọi người quên đi nỗi lo âu cho số phận của mình vào ngày mai khi cuộc chiến bắt đầu, đẩy lùi lại phía sau nỗi sợ hãi, tính hèn nhát, cũng như những thắc mắc suy tưởng.
    Tôi trở lại phòng ăn đoàn viên sau khi xong việc, đến câu lạc bộ mua một ly cà phê rồi cùng một số sĩ quan khác ngồi ngay đó nói chuyện. Không ai trong nhóm này muốn trở về phòng để phải đối diện với thực tại đáng lo, rồi sinh ra bi quan chán nản để trở thành một tên hèn nhát. Chúng tôi nói mọi chuyện, từ nỗi thắc mắc về lệnh hành quân đến những câu chọc cười vô thưởng vô phạt. Nhưng đã không còn những tràng cười khoái trá mà chỉ còn là những nụ cười thật nhẹ, có chút gượng gạo nữa. Rồi lên phòng ăn sĩ quan, húp từng muỗng cháo nóng mà nhân viên nhà bếp mang lại. - đây, cũng lại cái không khí hơi thiếu tự nhiên dù ai cũng cố dấu kín tâm sự chính mình. Chỉ biết cố gắng hòa lẫn vào đám đông để khỏi đối diện với chính mình với bao bất trắc của sáng ngày. Rồi tôi lên tiếng, cố đùa:
    - Ðây có thể là tô cháo cuối cùng và vừa rồi có thể là ly cà phê cuối cùng.
    Nói xong câu này, không ai cười, nhưng trong tôi bỗng biến đổi. Một nỗi trống vắng, xa lạ xâm chiếm tâm hồn.Như không còn là tôi, không còn cần thiết gì nữa. Không còn ham muốn điều gì, kể cả sự sống. Không còn sợ hãi điều gì, kể cả cái chết. Không luyến thương vương vấn ai, kể cả mẹ già. Không thèm ăn, không thèm hút. Không thèm gì hết.
    Ðúng 7 giờ, còi nhiệm sở tác chiến vang lên dồn dập, đồng thời ở mọi góc phòng, tiếng loa phóng thanh liên tục phát ra từ đài chỉ huy: "Tất cả mọi người vào nhiệm sở tác chiến". Tôi chạy vội về phòng ngủ, lấy một gói thuốc Bastos bỏ túi, mang áo phao, đội nón sắt chạy lên đài chỉ huy. Hạm trưởng đứng đó, cũng áo phao nón sắt, và ống nhòm đeo trên cổ đang cầm lên để quan sát tàu địch. Sau đuôi HQ16 là HQ10 đang chạy theo đội hình hàng dọc với 2 máy tiến 1. Về phía nam, hai chiếc tàu Trung Cộng có số hiệu 300 đang ở mặt bắc của đảo Quang Hòa, Duy Mộng và ở phía tây nam là 2 chiếc số hiệu 200 có lẽ mới nhập vùng đêm qua. Cả bốn chiến hạm địch cùng chạy chậm gần hai đảo, làm thành một vòng bán nguyệt. Xa hơn về phía nam là HQ4 và HQ5 giờ này có lẽ cùng đang trong tình trạng chuẩn bị tác chiến. Trên HQ16, mọi người đang lục tục chạy vào vị trí của mình. Trước mũi, nắp đậy của lỗ quan sát của khẩu pháo 127 ly bật tung và ngoi lên cái đầu của Trung uý Ất trưởng khẩu. Ất đội một nón sắt rộng vành có trang bị ống nghe nội bộ úp vào lỗ tai. Trên đó một tầng là khẩu 40 ly đôi dang được mở bọc bạt, nòng bắt đầu quay phải trái, lên xuống để điều chỉnh. Trong hai nòng, 4 kẹp đạn sáng chói đang chồng thành 2 cặp song song nhau. Cùng tầng đó, ngay hai bên hông đài chỉ huy là 2 khẩu 20 ly đôi cũng đang được lắp đạn. Sau đó, tiếng báo cáo từ phòng CIC của Ðại uý Nam vang lên từng chặp. Vừa lên đài chỉ huy, tôi nhận định vị trí rồi làm cái "point" đầu tiên của một sĩ quan hải hành, sau đó kiểm tra lại sổ hải hành, đọc lướt qua những diễn biến được ghi lại trong đêm. Một hạ sĩ quan giám lộ đang cầm bút sẵn sàng ghi chép vào đó những mệnh lệnh của Hạm trưởng, những báo cáo của phòng CIC, phòng truyền tin cùng những diễn biến quan trọng xảy ra. Công việc bận rộn với những hoạt cảnh trước mắt đã hoàn toàn xóa tan trong tôi cái cảm giác trống không trong phòng ăn, nỗi lo sợ và cái lạnh trong phòng họp. Cũng như mọi người, tôi hòa nhập vào nhiệm vụ, vào đám đông, bỏ quên mình để trở thành một mắt xích của một guồng máy đang quay đều.
    Trong vòng hơn một tiếng rưỡi đồng hồ sau đó, hầu như không có gì xảy ra cho chiến hạm. Những báo cáo, chỉ thị cứ tiếp tục được truyền đến và đi. Tiếng rè rè của máy truyền tin PCR 25 đặt bên cạnh thỉnh thỏang lại phát ra tiếng nói của những giới chức thẩm quyền từ các chiến hạm bạn. Cả hai phân đội cũng đang chạy vòng vòng, chầm chậm quanh khu vực mà mình trấn thủ, trong khi hai phân đội của địch cũng như đang được chia ra để thành hình từng cặp đối diện. Riêng tôi, cứ 15 phút lại làm một "point", kiểm soát sơ qua về những gì mà hạ sĩ quan giám lộ đã ghi trong sổ hải hành.

Chia sẻ trang này